LUẬN THỦ NHÂN GIẢ THIẾT
Bồ-tát Trần-na tạo luận
Tam tạng pháp sư Nghĩa Tịnh dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

Luận nói: Để ngăn chận tính một, tính khác, chẳng phải có biên giới, nên Đại sư chỉ căn cứ vào các việc giả thi thiết mà tuyên nói pháp yếu. Muốn khiến hữu tình có phương tiện vào tác ý như lý, xa lìa tà tông, vĩnh viễn dứt phiền não, 3 bên như vậy đều có lỗi nên tôi phải khai diễn giải thích. Trong đây lấy nhân làm giả thiết, lược có 3 thứ: 1. Tổng tụ. 2. Tương tục. 3. Phần vị sai biệt.

Nói tổng tụ, nghĩa là trong một lúc có nhiều pháp tụ lại, tùy thuận thế gian dùng một tính mà nói, như nói thân thể, rừng cây v.v… Nói tương tục, nghĩa là ở vào thời khác nhân quả không tuyệt mất, dùng một tính mà nói, như Yết-la-la vị v.v… gọi đó là người, mầm v.v… chuyển đổi thành khác gọi đó là cây lúa. Nói phần vị sai biệt, nghĩa là trong một việc có nhiều tính khi khác không khác mà kiến lập, như sắc sinh vị khác tính vô thường, hữu kiến hữu đối, nghiệp đủ tính v.v… do 3 nghĩa này, mật ý nói có Bổ-ốt-yết-la và chứng viên tịch. Nhưng 3 nghĩa này chỉ là giả thiết, không thể nói là một tính hay tính khác và hoàn toàn vô tính, vì có lỗi.

Trong đây hãy nói tổng tụ có tụ không tính khác. Nói sự có 2 thứ là phải chấp nhận có. Hai tự tính này ngăn chận biệt tính, nghĩa là trong có tụ. Tổng tụ gọi là không khác hay chỉ là vô dư? Nói không khác, đây có lỗi gì?

Tụng nói:

Nếu tính không khác, thể không khác,

Có tụ thành ra cùng không khác.

Hoặc nơi tổng tụ, riêng sự khác,

Đây lại trở thành thể nhiều thứ.

Luận nói: Nếu chấp nhận tự tính của cái tay v.v…vởi thân là một, nói là không khác, tức là tay với thân không có biệt tính, cho nên tay v.v… trở thành không sai biệt, tay cũng thành chân. Thế là trái với thế gian, cho nên hoặc lại nói các chi phần khác biệt kia chẳng phải tự tính của thân, khi tụ tập gọi là thân. Thế tức hoàn toàn không có tự thể của tổng tụ, một phần ít có thể khác nghĩa trước. Cho nên nếu nơi biệt sự chẳng phải tự tính của tổng tụ, tức là tự tính sai biệt là do biệt tính. Cho nên khi tụ tập sao thành được tự tính không khác với kia? Vì không do tổng tụ xả bỏ tự tính. Hoặc biệt hoặc tổng là tính không khác, vì không phải do tổng biệt xả bỏ tự tính. Hoặc nhanh hoặc chậm đều thành nhiều tính, vì trong các sự kia tính không khác. Như vậy nên nói 2 lỗi.

Tụng nói:

Nếu nói chỉ ngăn các tính có,

Hai thứ chẳng có, ông thành lỗi.

Nếu một tính có là bị ngăn,

Chẳng phải không khác, 2 tương tự.

Luận nói: Nếu nói chỉ ngăn các tính có, 2 thứ chẳng có, ông thành lỗi, nghĩa là nếu nơi có tụ mà không có biệt. Tổng tụ gọi là không khác, tức là đây đợi nhau mà thành tính không khác. Nếu ở một chỗ có nghĩa không khác thì thứ hai cũng vậy. Làm sao ông khỏi được lỗi này? Nếu không tổng tụ thì có tụ cũng không. Nếu khác đây thì nói không khác cũng trở thành vô dụng. Nếu một tính có là bị ngăn, nghĩa là dẫu chấp nhận như vậy thì đối với người khác chấp có phần thật sự. Chỉ ngăn cái này thôi, gọi là không khác, thì đây cũng không phải vậy. Vì sự không khác biệt, nên 2 chỗ tương tự. Do nói không khác, thì một chỗ đã vậy các chỗ khác cũng thế. Như vì ban đầu nói không khác nên ông không nên chỉ ngăn một chỗ. Nếu nói ý chấp nhận chỉ ngăn kia, thì nên chỉ nói không có hữu phần, chớ nên nói không khác. Vì tính có của kia là không thích hợp, cho nên nếu chấp nhận thể tính của kia là có mà không chấp nhận là khác, thì nói không khác mới hợp lý. Lại có nghĩa có khác, vì chẳng phải không riêng biệt. Hai tương tự, nghĩa là như tách rời tay v.v…không có thân riêng khác, vì là hữu phần. Như vậy tay v.v…cũng phải đợi ngón v.v… mới thành, vì nó là hữu phần của tay. Như thân cũng thành chẳng phải có như vậy. Cho đến cực vi đợi nơi tiếng v.v…, tiếng v.v… lại đợi tát-đỏa v.v…, tát-đỏa v.v… lại đợi hỷ v.v… đợi công năng khác. Đây tức mỗi phần cùng với hữu phần đồng tính hữu phần, cho nên cái chấp của ông trở thành phi hữu. Như vậy chỉ nên nói chấp nhận tính không khác. Có 2 thứ lỗi.

Tụng nói:

Tính khác cũng vậy, lấy một bên,

Nơi chỗ chi phần riêng biệt chuyển,

Một bên thì có lỗi vô cùng,

Hoặc chẳng phải một, và toàn không.

Luận nói: Tính khác cũng vậy, là có 2 lỗi. Nói lưu chuyển đến đây do khi nơi tự chi phần kia chuyển, hoặc chuyển riêng biệt, hoặc chuyển khắp cả. Trong đây nên nói nghĩa chuyển riêng biệt. Nếu lấy một bên, nơi tay v.v… các chỗ, khi hữu phần chuyển, kia cũng một bên, cũng như tay v.v… lại phải có một bên tùy khởi. Như vậy lần lần có lỗi vô cùng. Hoặc chẳng phải một là khác. Lỗi vô cùng nên nói là hoặc nói. Nếu nói một bên thân phần lại không chuyển, tức phải là không có nghĩa một hữu phần trở lại thành hữu phần mà chỉ có một bên. Nếu vậy phải chấp nhận chỉ có cái tay v.v… cần gì chỉ chấp nơi chi phần của mình hữu phần chuyển ư? Và toàn không, nghĩa là một bên vô cùng, và lại có lỗi nên nói khi lấy một bên này nơi phần chuyển, tức hoàn toàn không có phần nào có thể được, do chẳng phải hữu phần. Như tay, chân v.v…có một bên. Nếu nói hữu phần khi tách rời tay v.v… không có chi phần khác, vì thể của hữu phần là một, nên nếu như vậy thì trở thành nơi ấy, nơi chi phần riêng biệt đều khắp chuyển. Chỉ có 2 chấp này vì không có cái chấp phân biệt thứ 3.

Tụng nói:

Nếu biến khắp, kia thành nhiều tính,

Và nơi tay … không có khác nhau.

Hoặc đây chẳng phải kia nên thành,

Các sự đều thành tính nhất vi.

Luận nói: Nếu nói biến khắp, tức là chấp nhận hữu phần với chi phần đồng lượng. Nơi mỗi mỗi chỗ đều châu biến, cho nên kia tức thành nhiều thứ thể tính. Lại có nghĩa khác, nên nói do nơi một chỗ biến khắp đều có, do không chấp nhận tính riêng biệt kia, và các chi phần lại không sai nhau, do kia hòa hợp nên khi đồng một chỗ sự không riêng biệt. Thế thì nơi tay phải chấp nhận có chân. Như vậy lại trái với đạo lý mà thế gian đều chấp nhận. Hoặc đây chẳng phải kia, tức là có chấp khác, nên nói là hoặc, để tránh lỗi trước nói thể của hữu phần. Khi nơi chân chuyển chẳng phải nơi tay v.v… hữu phần biệt chuyển thì đây không có. Lỗi các chi phần khác đồng một chỗ, là đây giống như đè ép cái bướu ở cổ lại lòi tròng mắt ra. Nếu như vậy thì tất cả hữu phần thành một sự thật. Cho nên các sự thành một cực vi do hữu phần kia khi lần lần khởi ở tự chi phần cho đến chỉ có một thật cực vi là có chỗ trụ. Một chi phần này lại cùng với hữu phần đồng một cực vi, hữu phần này chấp lý thành vô dụng và trái với tôn của mình. Nếu nói tách rời sắc riêng có cực vi, tức không có lỗi như trước đã nói. Do kia không ở nơi sắc chuyển, cho nên không có lỗi này. Lý cũng không phải vậy. Vì ở đây cũng có lỗi 2 chấp.

Tụng nói:

Tính có phương phần chẳng cực vi,

Để ngăn một tính và khác tính.

Hoặc không phương phần nhiều không tụ,

Hoặc là chúng đồng một cực vi.

Luận nói: Do chẳng phải chấp cực vi như vậy mà lý được thành tựu. Vì có phương phần, do phương phần này lại chuyển thành vi tế. Lại nữa kia ngăn tính một tính khác cho nên do đây đối với kia nơi tự chi phần hoặc đồng hoặc khác chỉ 2 thứ này không có cái chấp thứ 3. Đã bác bỏ lỗi kia chẳng phải các cực vi vì có phương phần. Đã không phương phần giả khiến cùng tụ không không hòa lẫn, giả sử chấp nhận đồng một chỗ đều đồng một cực vi nhưng cực vi đây không hòa tụ được. Một cùng với các cực vi chướng ngại nhau, nên tức thể các cực vi chung thành một do đồng một chỗ. Như vậy đã nói tổng tụ có lỗi tụ một và khác.

Tụng nói:

Tương tục nếu một bỏ ấu nhi,

Lần lượt cho đến tuổi đồng niên.

Phải mất tự thân chẳng không khác,

Nếu nói không mất là lẫn lộn.

Luận nói: Nếu chấp nhận tương tục, đối với sự có tương tục, tính không khác phải chấp nhận tự tính. Có 2 thứ, do đó nói là tính tương tục. Hoặc chỉ ngăn những cái khác. Hai thứ này giống như tổng tụ ở trước. Đã bác bỏ lỗi kia rồi, trong đó cái riêng biệt nay lại phải quyết định lựa chọn. Nếu khi lãnh thụ mỗi vị riêng biệt thì bỏ vị trước mà nhận vị sau hay là sẽ không bỏ? Đây có lỗi gì? Nếu xả bỏ ấu nhi đến địa vị tuổi đồng niên phải mất tự thân. Nếu ông chấp nhận như vậy, ở địa vị tuổi ấu nhi là không khác, tức kia khi di dịch tự thể phải mất. Ở trong địa vị này vì tính không khác cho nên tôn của ông nói rằng tất cả các sự thật có pháp khởi riêng biệt, có pháp riêng biệt sinh, là chuyển biến thì không phải lý như vậy. Nhưng chẳng phải không khác, địa vị di chuyển riêng biệt, an nguy khác. Nói không khác, thì đây tức là kia. Như vậy nên luận cái lỗi chuyển bỏ. Nếu không mất thì pháp sẽ lẫn lộn nhau, không bỏ tuổi ấu nhi mà thành địa vị tuổi đồng niên. Tuổi ấu nhi và tuổi đồng niên, thể hòa lẫn nhau nên thành không riêng khác, nhưng không thấy có những việc như vậy. Đã nói xong lỗi về tính không khác.

Tụng nói:

Nếu là tính khác thân không yên,

Vì muốn cầu yên nên vọng lập.

Chuyển không tương ưng và sinh diệt,

Nếu nói thể riêng thành sự thật.

Luận nói: Tương tục có tiếp nối, thể nếu khác thì như trước có bệnh, sau cầu lành bệnh, tốn công nhọc sức đều thành vô ích, vì lý lưu chuyển không tương ưng. Từng chưa thấy vật có thể riêng khác như bò ngựa v.v…được tương ưng. Cho nên nếu nói không thể nói sự, cũng không thấy thì câu hỏi này phi lý. Đó là vì thành lập nên do lìa nhị biên, trong các sự việc thế gian chỗ nhân quả thấy việc nơi đây nhưng chẳng phải ở nơi khác. Lại nữa như rượu chua muốn chuyển thành ngon. Người tâm tán loạn tu tập khiến định tâm vắng lặng, bao nhiêu công lao cực nhọc đều phải vô ích. Vì do thể khác nhau, nếu khác tính thì lý sinh diệt cũng không tương ưng. Các sinh diệt tương tục khởi thì phải ở hiện tại nơi chi phần chuyển quá khứ vị lai hiện tại. Chuyển thế nào? Một phần toàn khắp đều như trước đã phá. Lại nữa tính khác thì thể tương tục khác không được sinh diệt. Đây lại có lỗi gì? Nếu nói riêng biệt, tức là có khác nhau. Đã chấp nhận tương tục thành thật sự có, thì đây là không đúng lý. Tiếp sau đây sẽ nói về tương tục một và khác.

Đã làm rõ lỗi ấy rồi.Tiếp về phần vị sai biệt trong quả tính v.v… việc ấy như thế nào?

Tụng nói:

Nơi phần vị ở trong quả tính,

Lấy việc kia đã nói ra rồi.

Nếu khác kia thì sự vô thể,

Không khác: 2 lỗi như trước nói.

Luận nói: Nơi phần vị ở trong quả tính lấy việc kia mà nói. Khác kia thì vô thể, nghĩa là ở trong sắc v.v… nói là nhân quả tính một khác, tính tự tha, tính hữu kiến hữu đối v.v… Nếu nói việc kia khác với đây, tức liền thành phi nhân quả v.v…, cũng không tự thể do không một việc, không đợi nơi đức, ở nơi tự thể có thể thành ngôn thuyết. Cái tính không khác này có 2 lỗi như trước đã làm rõ cái lỗi đó nơi phần nói về tổng tụ. Tùy chỗ có thể tư duy, tùy pháp mà nói tính không khác. Tính bỏ không bỏ cũng như trước nói. Hoặc đây nơi thân khi tương tục chuyển có tính sai biệt. Ví như ngưu vị, tên một vị thuốc, có thể chận dứt bệnh sốt, lại có thể nơi đây làm nhân phát động.

Đã nói xong 3 thứ việc giả thiết. Tiếp sẽ giải thích về tính khác không khác, và các lỗi đều bác bỏ không có.

Tụng nói:

Nếu không chấp nhận thân thật có,

Vô đảo thuyết pháp nên vô ích.

Lại phải là người không tà kiến,

Cũng không sai biệt việc tác dụng.

Luận nói: Như ở nơi thân điên đảo nói là thường lạc ngã tịnh. Vô đảo là nói pháp 4 niệm trụ. Nếu không thân thì thành vô dụng. Lại nếu không chấp nhận có tương tục thì năng trị sở trị trở thành sai biệt. Như ở các thân khác chấp cho là thường, để đối trị kia liền ở nơi các thân khác nói vô thường, đây thành vô dụng. Lại nữa, nếu không phần vị sai biệt, thì nói pháp vô thường v.v… cũng là vô dụng. Lại nữa người tà kiến nói không thí không thụ nhận v.v… và các tổng tụ có các việc phúc phải là chẳng phải tà kiến. Nhưng y thực v.v… có các thí vật đều là tổng tụ, nếu như có nói gió không thể thổi, sông không chảy v.v…nói không tương tục, cũng chẳng phải tà kiến nhưng chẳng phải Phật dạy. Chấp nhận gió kia v.v… có thật nghiệp dụng tuy có cái dụng gió thổi v.v… nhưng không chấp nhận nó không thể hướng đến các phương khác tương tục sinh khởi. Nếu không tương tục thì đều không có việc tà kiến như vậy. Nếu không phần vị sai biệt, thì khi ở nơi một sắc, bác bỏ không có 2 tướng khổ tập, thì tà kiến sai biệt phải thành ra phi hữu, vì sắc không khác biệt, cũng không có việc tác nghiệp sai biệt. Lại nữa nếu không chấp nhận có tổng tụ, thì ở nơi Tì-ha-la, Tốt-đổ-ba v.v… phúc đức sai biệt đều là phi hữu. Lại nữa vì tương tục khác biệt nên phúc ấy cũng khác. Như Thế Tôn bảo trưởng giả Dũng Kiện rằng: “Nếu có Bí-sô thụ thực xong rồi, nhập định Vô lượng ý, chính niệm mà trụ, ở đó phúc đức sai biệt.” Điều đó cũng phải thành phi hữu. Nếu không chấp nhận có phần vị sai biệt, thì vì sai biệt này mà nghiệp dụng sai biệt cũng thành phi hữu. Sự việc tuy không khác mà thế lực có khác.Cái dụng của nó cũng khác biệt là vì cùng chấp nhận. Giống như thuốc độc khi hòa chung với các vật khác liền làm hại mạng. Vì dùng trị bệnh nên những loại như vậy mà bác bỏ không có việc ấy thì đều có lỗi.

Nếu có các lỗi như vậy, sao không chấp nhận chúng có thật vật? Điều này không đúng lý vì có lỗi. Đó là gì?

Tụng nói:

Vì do ngăn tính một tính khác,

Chẳng phải lần lượt mượn nhân thành.

Tự thể cũng là có thể nói,

Tựa cảnh chỉ từ nơi thức khởi.

Luận nói: Do nơi sắc v.v… là thật hữu cho nên lại trông đợi nhau tính một khác là có thể nói, còn tổng tụ v.v… là không thể nói. Nếu như vậy thì thân trông đợi các thân khác sao gọi là khác? Đó là do chẳng phải là nhân hỗ tương với nhau. Tất cả sự vật nếu bỏ kia mà tâm lấy đây thì đó không gọi là thủ nhân giả thiết, vì không lấy đây để làm nhân. Nhưng đối với thân v.v… lại trông đợi nhau. Nếu khi bỏ kia mà ý không lấy đây, thế mới gọi là thủ nhân giả thiết. Nếu bỏ sắc v.v… mà không có tổng tụ đó cho nên phải biết chỉ ở nơi tính một khác của tự sự là không thể nói, chẳng phải nơi tất cả. Nhưng phần vị sai biệt trong tính khác v.v… lại gọi nhau là khác, nói đó là giả. Nếu như vậy thì ở nơi sắc v.v…cũng không lấy, cho nên nói là tính khác, phải chẳng phải là thật hữu. Lý không phải vậy do tự thể kia là có thể nói, cho nên cũng là có thể được thể riêng biệt, cho nên chẳng phải đối với các việc khác không bỏ. Nhưng cái tựa như cảnh này cũng từ thức khởi, nơi đó có tất cả cảnh tướng. Nếu tách rời thức thì không thể biết có tự tính, cũng là giả thiết cho nên không có lỗi. Như có tụng nói:

Quỷ, bàng sinh, người, trời

Đều tùy chỗ thích ứng,

Vì đều nơi tâm khác,

Nhận cảnh phi thật hữu.

Lại tổng tụ v.v… chẳng phải thật vật hữu, chẳng phải tính hữu vi vô vi cho nên tất cả các pháp đều gồm tính hữu vi vô vi. Đây hãy coi như chẳng phải tướng hữu vi.

Tụng nói:

Tướng không tương ưng chẳng hữu vi,

Nếu nói hữu vi là mật ý.

Nơi số thủ thú cũng thấy nói,

Nếu là vô vi phải không hoại.

Luận nói: Nếu là hữu vi phải như thức v.v… có các tướng hữu vi như sinh trụ v.v… . Đây không như vậy. Nơi tổng tụ v.v… khi 2 vi tụ, tướng là vô biên, có lỗi vô cùng, cũng chẳng phải việc giả. Có tướng như vậy một việc liền có vì tướng vô biên. Nhưng ở nơi việc hiện hữu giả thi thiết, khi tụ tập v.v… liền có sinh diệt. Vì có thể biết rõ nên nếu nói có nói, tức thật có lời nói này: Nói tướng hữu vi của tổng tụ v.v… như có tụng nói:

Tích tụ đều tiêu tan,

Chuộng cao ắt rơi xuống,

Hội họp rồi chia lìa,

Có sống đều sẽ chết.

Đây gọi là Tam-mô-ha v.v… nói có tướng diệt. Nơi Tì-ha-la v.v… nói có tướng sinh. Tuy có nói thế đều là mật ý, không phải nơi thắng nghĩa có những tướng như vậy. Các tướng sinh v.v… này người đời đều biết nơi chỗ giả thì có, tức như việc đó mà vì nói pháp. Đó là vì việc tùy thuận lìa dục nên tuy chẳng phải thắng nghĩa mà vì thuận thanh tịnh, vì muốn lợi ích các hữu tình nên nói như vậy. Phật bảo các Bí-sô: Nếu thấy người nữ trạc như mẹ thì nên tưởng như mẹ mình. Những lời như vậy đều là giả thuyết. Biết đâu sinh v.v… là mật ý nói chẳng phải thắng nghĩa chăng? Vì trong Bổ-ốt-yết-la nói có sinh v.v… Như có một người xuất hiện nơi thế gian có thể nhiều lợi ích v.v… Lại nói tất cả hữu tình đều dựa vào sự ăn uống mà sống. Lại nói ta nay già yếu phải cung cấp người hầu hạ. Tất cả hữu tính đều quy về cái chết v.v… nhưng chẳng phải nơi người có việc sinh v.v… Như vậy nên nói trong tổng tụ v.v… chẳng phải tính hữu vi. Nếu vậy phải nhận là tính vô vi. Nếu là vô vi thì phải không hoại diệt, vì pháp vô vi không hoại diệt. Các tổng tụ v.v… phải là thường trụ như hư không v.v…, chẳng phải tổng tụ v.v…có thể thành sự thật. Hữu vi vô vi đều không đúng lý. Lẽ nào trong hiện sự ở thế gian lại không thể nói tính một khác hay sao? Có thuyết nói như vậy. Hiện thấy người đời đối với áo mặc, vải sợi v.v… không hề suy nghĩ nó là tính một tính khác mà đều mua bán tiêu dùng. Thế Tôn vì muốn lợi ích thế gian phương tiện tuyên thuyết cũng không nói tính nó là một là khác.

Tụng nói:

Thế Tôn muốn khiến dứt phiền não,

Đồng với thế gian việc tư duy.

Không nói một tính và khác tính,

Phương tiện thuyết pháp độ chúng sinh.

Luận nói: Chư Phật Thế Tôn không hoại thế gian những gì thế gian sở hữu, lìa những việc khó tư duy, đối với chúng sinh tùy tính chất ý muốn khác nhau, ở trong các trói buộc tùy miên để dứt trừ các phiền não của chúng sinh nên nói rõ chỗ cốt yếu của giáo pháp. Phật bảo các Bí-sô: Các ông chớ nên đồng với thế gian làm những việc tư duy vô ích. Ta nói năng tri năng kiến thì hết các hữu lậu chứ chẳng phải không tri kiến, cho đến tác ý như lý chứ chẳng phải không như lý. Như vậy phải biết tác ý như lý là chính nhân dứt trừ phiền não. Tư duy không như lý có thể sinh các khổ, phải khiển trừ tà tư duy, thuận chính niệm.

Tụng nói:

Tất cả nghĩa thành do gốc đây,

Dễ làm, phương tiện rất khó gặp.

Sắc mạng giây phút không dừng nghỉ,

Người trí nên phải mau tu tập.

HẾT