LUẬN LỤC MÔN GIÁO THỤ TẬP ĐỊNH
Vô Trước Bồ-tát tạo luận
Thế Thân Bồ-tát giải thích
Tam tạng pháp sư Nghĩa Tịnh dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

Nay muốn lợi ích tất cả hữu tình nên dạy tu tập thế định và xuất thế định để mau xả ly các phiền não. Vì vậy thuật phương tiện này.

Tụng nói:

Người cầu thoát, tích tập,

Trụ nơi siêng tu tập,

Được 3 viên mãn rồi,

Hữu y người tu định.

Giải thích: Bài tụng đầu tiên nêu tổng quát 6 môn. Nói người cầu thoát, nghĩa là người cầu giải thoát. Tích tập, là có thể chứa nhóm các tư lương thắng hạnh. Trụ nơi siêng tu tập, là khiến tâm khéo trụ nơi sở duyên, gọi đó là định, vì không tán loạn không dao động.

Hỏi: Tu tập như thế nào? Nghĩa là được 3 viên mãn rồi, nương vào người tu định. Có 3 thứ viên mãn: 1. Sư tư viên mãn. 2. Sở duyên viên mãn. 3. Tác ý viên mãn. Hữu y, nghĩa là 3 định: 1. Định có tầm có tứ. 2. Định chỉ có tứ không có tầm. 3. Định không tầm không tứ. Người tu đinh, là người có khả năng tu tập Xa-ma-tha, Tì-bát-xá-na.

Nếu người có thể khởi tâm nguyện lạc đối với giải thoát, lại từng chứa nhóm tư lương giải thoát, tâm y nơi định có sư tư v.v… 3 thứ, lại y chỉ hữu y tu tập, do tập định nên có thể thu hoạch được các phúc thế gian và quả viên mãn thù thắng. Trước an lập thứ tự như vậy, gọi là nêu tổng quát.

Tụng nói:

Nơi 3 thừa lạc thoát,

Là người cầu giải thoát.

Hai thứ chướng trừ hết,

Đó gọi là giải thoát.

Phải biết thức chấp thụ,

Là thể tính 2 chướng.

Hoặc chủng, nhất thiết chủng,

Bởi trói được 2 người.

Đã trừ phiền não chướng,

Tập khí chưa trừ hết.

Đây là Thanh Văn thừa.

Chỉ Phật là trừ hết.

Nếu hoặc kia tuy không,

Tác nghi như có hoặc.

Là tập khí đời trước,

Nếu trừ liền khác đây.

Giải thích: Bốn tụng này giải thích người cầu giải thoát. Nghĩa là đối với Thanh Văn thừa vì có sai biệt nên trong 3 thừa tâm ưa thích giải thoát, gọi là cầu giải thoát. Thế nào là giải thoát? Hoàn toàn trừ hết 2 thứ chướng, đây gọi là giải thoát. Thứ gì là 2 chướng, trừ nó gọi là thoát? Phải biết chấp thụ thức là thể tính của 2 chướng. Thức, tức là thức A-lại-da. Chấp thụ, là nghĩa y chỉ. Nghĩa là thể tính của 2 chướng phiền não và sở tri. Đây là thế nào? Hoặc chủng, tức tự tính của phiền não chướng. Nhất thiết chủng, tức tự tính của sở tri chướng. Lại, nhất thiết chủng, tức chủng tử 2 chướng có thể trói buộc 2 người: Chủng tử phiền não chướng có thể trói buộc Thanh Văn. Nhất thiết chủng tử có thể trói buộc Bồ-tát. Do với Thanh Văn, Bồ-tát là trói buộc, hai hạng người này giải thoát khác nhau thế nào? Nghĩa là người Thanh Văn chưa trừ tập khí, đoạn phiền não chướng mà chứng giải thoát. Chỉ Phật Thế Tôn có thể trừ hết tất cả. Thế nào là tập khí? Hoặc kia tuy không tạo tác hình nghi như có hoặc, đó là tập khí. Trong này nên nói nếu hoặc tuy không làm ra tướng có hoặc, đây nói tạo tác hình nghi như có hoặc, tức là ở trong nhân nói tên quả, cho nên kia nói Thanh Văn, Độc Giác chưa biết đây là tập khí của ai. Nghĩa là việc quen tập của đời trước còn dư khí. Nay tuy hoặc đã hết mà tướng trạng hình nghi tựa nhiễm, gọi là tập khí. Nếu có thể trừ dứt thì với đây không đồng, nên nói nếu tập khí kia đều không thì không làm hình nghi như hoặc.

Tụng nói:

Vun trồng các thiện căn,

Không nghi trừ nhiệt não,

Với pháp lưu thanh tịnh,

Đó gọi là chứa nhóm.

Hay giữ, ưa nghe pháp,

Khéo trừ 2 kiến kia,

Chỉ nghe tâm mừng đủ,

Là 4 việc nên biết.

Giải thích: Tụng thứ hai này giải thích nghĩa của chứa nhóm. Như trong kinh nói người này trước nên tu tập đa văn, lại nghe chính pháp. Các kiến nhiệt não đã trừ bỏ. Sự che chắn trói buộc trong tâm có thể hàng phục, y theo văn nghĩa này nên nói bài tụng đầu. Thế nào là chứa nhóm các thiện căn? Nghĩa là có khả năng duy trì chính pháp. Lấy đó làm trước tiên khiến tín v.v… các thiện pháp kia tăng trưởng. Sao gọi là không nghi? Nghĩa là ưa thích nghe pháp. Do hiểu biết pháp nên các nghi hoặc đã sinh chưa sinh đều có thể trừ diệt. Sao gọi là trừ nhiệt não? Nghĩa là trừ 2 kiến. Hai kiến gì? Một là muốn cho người khác hay biết. Hai là tự đề cao mình. Nghĩa là có ý nghĩ như thế này: Làm sao khiến người khác được biết ta là người đủ đức. Đó là gọi là kiến chấp khiến người khác biết. Dựa vào kiến chấp này nên tự muốn đề cao, gọi là kiến chấp tự cao. Hai thứ này có thể khiến tâm bị nung đốt nên gọi là nhiệt não. Sao gọi là pháp lưu thanh tịnh? Nghĩa là khiển trừ cái tâm lý chỉ khi nghe pháp tâm đã sinh vui mừng cho là đủ. Chữ trừ ở trên lưu nhập nơi đây. Nơi pháp lưu thanh tịnh, nghĩa là khi nghe pháp tâm không tán loạn mà liên tục lưu chuyển. Tâm thanh tịnh cho nên chấm dứt sự che chắn trói buộc. Nếu nghe pháp không chán, lại có thể tiến đến tư duy siêng tu không nghỉ mới được gọi là pháp lưu thanh tịnh. Phải biết đây là căn cứ nơi văn tư tu vị. Nên biết như sau đây.

Tiếp đến có 16 bài tụng, giải thích về trụ siêng năng tu tập. Bài tụng đầu nêu tổng quát, còn lại là giải thích riêng biệt.

Tụng nói:

Sở duyên và tự thể,

Sai biệt và tác ý.

Tâm loạn trụ tư lương,

Tu định xuất ly quả.

Nói sở duyên có 3 thứ:

Ngoài, trên với lại trong,

Ba đây sở duyên sinh.

Phải biết trụ có 3,

Tự thể tâm không loạn.

Giải thích: Nói 3 thứ là: Một là ngoại duyên, hai là thượng duyên, ba là nội duyên. Ngoại duyên, là quán xương trắng v.v… sở hiện ảnh tượng là cảnh giới sơ học. Thượng duyên, là các tướng chưa đến định, duyên tĩnh v.v… Nội duyên, là các tướng hiện tùy theo ý ngôn làm cảnh sở duyên. Tự thể, là tướng tâm không loạn , gọi đó là trụ. Tâm không loạn, là nơi ngoại v.v… các xứ khi 3 thứ duyên tùy chỗ sở duyên tâm không loạn động.

Tụng nói:

Thứ nhất trụ tương ưng,

Định tâm thì thấy được.

Với cảnh không dời niệm,

Tương tục là minh nhân.

Thứ hai trụ tương ưng,

Chán lìa tâm tịch tĩnh,

Chuyên ý không dời niệm,

Tương tục là minh nhân.

Thứ ba trụ tương ưng,

Nơi tiền cảnh ngưng trụ,

Định ý không dời niệm,

Tương tục là minh nhân.

Giải thích: Ba bài tụng này theo thứ tự phối hợp ngoại, thượng và nội. Với cảnh không dời niệm, nghĩa là đối với các cảnh, tâm không tán loạn, nên gọi là không dời. Tương tục, là giữ tâm kiên cố, không đoạn tuyệt. Nói minh nhân, nghĩa là hoặc nhân tự tư duy, hoặc được từ người khác dạy, trong pháp tĩnh lự mà khởi gia hành, gọi là minh nhân. Phải biết như thứ lớp là tùy pháp hành và tùy tín hành chủng tính. Nói chán lìa tâm tịch tĩnh, chuyên ý không dời niệm, nghĩa là trong cảnh ấy sinh tâm chán lìa. Trước chỉ quán cảnh chưa thể sinh chán. Nay thì chuyên chú tâm sinh chán lìa mà không tán động. Nơi tiền cảnh ngưng trụ, nghĩa là cảnh do ý ngôn hiện ra, khi duyên cảnh này tâm ngưng định. Cho nên nói định ý không dời niệm, tương tục là minh nhân.

Tụng nói:

Kiên chấp và chính lưu,

Với phú thẩm ý kia,

Chuyển được tâm hoan hỷ,

Khi đối trị phẩm sinh.

Hoặc sinh, năng dứt trừ,

Gia hành thường vô gián,

Năng hành đạo tự nhiên,

Phải biết 9 không tán.

Giải thích: Trong trụ kia, có 9 thứ sai biệt. Là tối sơ trụ, chính niệm trụ, phú thẩm trụ, hậu biệt trụ, điều nhu trụ, tịch tĩnh trụ, hàng phục trụ, công dụng trụ, và nhiệm vận trụ.

Những trụ này và y cứ vào Kinh A Cấp Ma, tùy thứ tự câu mà tu tập. Nếu là người mới học đầu tiên khi duyên cảnh, giữ tâm kiên cố, gọi là tối sơ trụ. Sau đó khiến chính niệm rót chảy không dứt, gọi là chính niệm trụ. Nếu nương gá vào đây mà có loạn tâm sinh, thì trở lại thẩm xét quán sát cảnh duyên mà trụ, gọi là phú thẩm trụ. Sau đó chuyển được sai biệt, gọi là hậu biệt trụ. Sau đó đối trị sinh khởi, tâm được tự tại, khi sinh hoan hỷ gọi là điều nhu trụ. Hỷ ái này khi sinh tâm vô ái đối trị thì được vô sở ái lạc, tâm trở nên an tĩnh, gọi là tịch tĩnh trụ. Sau đó các phiền não chướng nặng đã sinh chưa sinh được hàng phục, nên gọi hàng phục trụ. Sau đó dùng tâm gia hành đối với các cảnh sở duyên, vô gián tùy chuyển một duyên mà trụ, gọi là công dụng trụ. Sau đó đối với cảnh sở duyên, tâm không gia hành, tự nhiên lưu chuyển không gián đoạn, nhập vào định duyên thường tập đạo, gọi là nhiệm vận trụ. Chín tâm này không lưu tán, nên gọi là trụ. Nên biết dùng tính không lưu tán này tất cả phối hợp với tính chấp trì kiên cố.

Tụng nói:

Gắng sức và xen hở,

Hữu dụng và vô dụng,

Trong đây 1, 6, 2,

Bốn tác ý nên biết.

Là nội ngoại tà duyên,

Thô trọng và tác ý.

Loạn tâm này có 5,

Là trái nhau với định.

Duyên nơi trụ tâm kia,

Bất tĩnh, ngoài tán loạn,

Trạo, trầm, tâm vị đắm,

Trong tán loạn phải biết.

Phải biết tướng tà duyên,

Là bà con của tư v.v…

Sinh 2 thứ ngã chấp,

Đó là loạn thô trọng.

Thấy tiền cảnh rõ ràng,

Phân biệt quán tướng ấy,

Là tác ý tán loạn,

Khác đây chỉ niệm tâm.

Ở trong loạn tác ý,

Lại có loạn tướng ấy.

Nơi thừa và tĩnh lự,

Hai trước tiên trừ khử.

Giải thích: Tác ý có 4 thứ: 1. Gắng sức đảm nhiệm tác ý. 2. Có gián đoạn đảm nhiệm tác ý. 3. Có dụng công đảm nhiệm tác ý. 4. Không dụng công đảm nhiệm tác ý. Kiên cố chấp trì không tán loạn đây là gắng sức đảm nhiệm tác ý, vì mới lần đầu dùng công sức mà đảm nhiệm. Tiếp đến chính lưu v.v… 6 thứ không tán loạn đảm nhiệm tác ý có gián đoạn, vì giữa chừng thường có khởi loạn tâm. Gia hành không gián đoạn, là đảm nhiệm tác ý có dụng công. Nhập vào thường quen tập, là đảm nhiệm tác ý không dụng công. Nhiếp giữ được như vậy gọi là 1,6,2. Phải biết đó là 4 thứ tác ý. Lại tâm tán loạn có 5 thứ: 1. Ngoại tâm tán loạn. 2. Nội tâm tán loạn. 3. Tà duyên tâm tán loạn. 4. Thô trọng tâm tán loạn. 5. Tác ý tâm tán loạn. Ngoại tâm tán loạn, là khi nơi trụ tâm khởi duyên cảnh, tâm liền lưu tán duyên các việc. Nội tâm tán loạn, là trạo cử v.v… 3 thứ trong cảnh sở duyên xen tạp loạn khởi. Tà duyên tán loạn, là trong lúc tu định có các tìm cầu thân thức các việc mà sinh lưu luyến. Thô trọng tâm tán loạn, là có 2 ngã chấp khiến tâm tán loạn. Khi trong tu định có 2 việc này gọi là ích và tổn. Nếu thân an ổn gọi là ích. Thân thể suy yếu là tổn. Hoặc nói ta nay được vui, hoặc nói ta nay có khổ, hoặc nói là cái vui của ta, hoặc nói cái khổ của ta, trong đó “ta” là nghĩa của của chấp thủ. Nói tác ý tâm tán loạn, có 3 thứ. Trụ phân minh nơi tướng sở duyên, là tính tư duy quán sát. Hoặc từ thừa này lại hướng đến các thừa khác, hoặc từ định này lại hướng đến các định khác. Nghĩa là khi định cực kỳ phân biệt tư duy quán sát liền khiến tâm loạn, gọi là tâm tán loạn. Khác đây, chỉ niệm tâm, thì đây có thể đối trị tác ý tán loạn ban đầu, do không phân biệt mà duyên nơi cảnh. Chỉ có niệm tâm. Đây là nói rõ thành tựu tâm không quên niệm. Ba tán loạn này cái đầu và thứ hai nên xả. Cái thứ ba do từ định hướng đến định, mong hướng thượng nên không phải lỗi.

Tụng nói:

Trụ giới, giới thanh tịnh,

Là trụ xứ tư lương.

Khéo hộ các thiện căn,

Bốn tịnh nhân phải biết.

Chính hành nơi cảnh giới,

Cùng sở y giúp nhau,

Đầu tiên được tác ý,

Tiếp được thế gian tịnh.

Lại thêm xuất thế trụ,

Ba định chiêu 3 cõi.

Giải thích: Trụ tư lương, nghĩa là giới tức là chỗ y chỉ của vô biên công đức nên trước phải trụ giới, giới hạnh thanh tịnh không khuyết phạm. Nếu cầu giới thanh tịnh thì có 4 nhân: 1. Khéo hộ các căn. 2. Ăn uống đúng lượng. 3. Đầu hôm sáng sớm luôn tự cảnh giác tương ưng với định. 4. Chính niệm trụ trong các oai nghi. Vì sao khéo hộ các căn v.v… khiến giới thanh tịnh? Do chính hành nơi cảnh và tương trợ với sở y, siêng tu việc thiện có thể trừ các lỗi, vì nhân ban đầu là hành thanh tịnh nơi cảnh sở hành. Hai là nơi sở y thuận trợ giúp cho thân, vì đối với sự ăn uống bỏ ý nghĩ nhiều ít. Ba là vì đối với việc thiện khởi siêng năng tinh tiến. Bốn là có thể trừ lỗi lầm, vì khéo dụng tâm trong oai nghi đi đứng. Do 4 nhân này giới được thanh tịnh. Như vậy nên biết do 3 thứ định được 3 xuất ly. Khi duyên ngoại cảnh được tác ý trụ. Khi duyên thượng cảnh được thế thanh tịnh. Khi duyên nội tâm được xuất thế tịnh. Trụ, tức là được vĩnh viễn xuất ly, chắc chắn hướng đến Niết-bàn không thoái chuyển nữa. Đã giải thích xong trụ cần tu tập.

Tụng nói:

Đa văn và kiến đế,

Thiện thuyết có từ bi.

Thường sinh tâm hoan hỷ,

Người này dạy định được.

Hết các việc sở hữu,

Như sở hữu mà nói,

Hiểu rõ cảnh sở tri,

Gọi là giỏi dạy người.

Do nghe, sinh ý ngôn,

Nói là nhân tịch diệt.

Là tịch nhân tác ý,

Gọi là khéo viên mãn.

Giải thích: Có 3 viên mãn: 1. Sư tư viên mãn. 2. Sở duyên viên mãn. 3. Tác ý viên mãn. Trong đây bài tụng đầu nói sư tư viên mãn.

Ý nói người này giỏi dạy dỗ viên mãn, chứng ngộ viên mãn, nói năng tốt viên mãn, không nhiễm tâm viên mãn, liên tục nói pháp gia hành viên mãn. Đây hiển thị các đức viên mãn của giáo thụ sư. Do thầy này nên được nghe chính pháp được chứng ngộ. Tiếp bài tụng thứ hai nói rõ sở duyên viên mãn. Hết tất cả việc, như việc mà nói. Giỏi cảnh sở tri, là thuyết giỏi. Đây là nói vị thầy có thể thuyết giảng các việc thấu đáo không lẫn tiếc, nên gọi là sở duyên viên mãn. Tiếp bài tụng thứ ba nói tác ý viên mãn. Đây là nói lấy cái nghe làm nhân khởi ý ngôn, vì có thể làm chính nhân với thánh đạo Niết-bàn. Duyên ý ngôn đây, có tác ý đều được viên mãn. Trong đây nhân lời nói mà rõ điều được nghe, tức là nhân của ý ngôn. Nói tịch diệt, tức Niết-bàn và thánh đế. Tự thể tịch diệt và có thể hướng đến diệt, nên nói chung là tịch nhân tác ý, tức nói tác ý này duyên nhân tịch diệt. Sao gọi là sở duyên liễu pháp vô tính? Khi duyên như vậy thì cái nhân đó cũng là tịch diệt, cho nên tác ý này gọi là tịch nhân, là giải thích một thể. Lại duyên tác ý này cũng gọi là tịch nhân. Đây là giải thích câu khác.

Tụng nói: ( Theo giải thích như vậy, thì nên nói là tịch nhân tác ý. Trước đây nói như lý tác ý, là phiên dịch không đúng )

Là tìm cầu ý ngôn,

Sau phải quan sát kỹ.

Ý ngôn không, tức định,

Tướng tĩnh lự có ba.

Vô dị duyên vô tướng,

Tâm duyên chữ mà trụ.

Đây là nơi tâm tịch,

Gọi là Xa-ma-tha.

Quán các thứ cảnh kia,

Là Tì-bát-xá-na.

Sau là một Du-già,

Là một hai phần định.

Thô trọng chướng kiến chướng,

Phải biết hai thứ định,

Có thể đối trị đây,

Làm phương tiện trưởng thiện.

Giải thích: Tiếp nói hữu y. Những người tu định chắc chắn phải có y thác, nghĩa là y cứ vào 3 định nói tìm cầu v.v… Nói tìm cầu, là hiển thị có tầm. Đã nói có tầm thì theo đó biết có tứ. Nói quán sát kỹ lưỡng, là hiển thị không có tầm chỉ có tứ. Ý ngôn không, là muốn hiển thị không tầm không tứ. Tầm tứ đều lấy ý ngôn làm tính. Đây căn cứ vào pháp Xa-ma-tha làm rõ định nghĩa ấy. Nói vô dị duyên v.v… là nói nghĩa không sai khác. Chỉ duyên chữ ấy mà tâm được trụ, gọi là vô dị duyên, cũng gọi vô tướng. Chỉ duyên chữ ấy thì đối với quán nghĩa tướng, có tác ý không phải là tướng của nó. Trụ này là Xa-ma-tha. Xa-ma là nghĩa của tịch chỉ, tha là nghĩa của xứ. Chẳng phải một mình Xa-ma mà hết các việc, nghĩa là y cứ vào chỗ tịch chỉ của tâm ấy. Tâm được ngưng trụ y chỉ nơi định. Định này tức trụ xứ của ngưng tâm, cho nên gọi là Xa-ma-tha. Khác đây tức là không. Tiếp đến một tụng căn cứ vào Tì-bát-xá-na pháp nói rõ định nghĩa ấy. Nghĩa là dựa vào nhiều cảnh, gọi là chúng quán. Nói “kia”, nghĩa là cùng với hai kia đều thuộc chấp trước. Tức Xa-ma-tha và chữ sở duyên, là dựa vào Xa-ma-tha được Tì-bát-xá-na, vì căn cứ nơi chữ có các nghĩa mà khởi các quán. Trong “tịch chỉ” có các nghĩa, nương dựa vào chữ, nghĩa là duyên các nghĩa, mà khởi quán sát, gọi là chúng quán. Nói một, hai phần định, là hoặc có khi chỉ có tịch xứ mà không có chúng quán, có khi có chúng quán mà không phải tịch xứ, có khi đều có cả hai, tức là chỉ quán song vận. Lại Xa-ma-tha Tìbát-xá-na có 2 chướng, là thô trọng chướng và kiến chướng. Phải biết 2 định là đối trị đó, theo thứ tự mà phối hợp. Vì sao hai cái này gọi là trưởng thiện phương tiện? Vì là phương tiện có thể trưởng dưỡng thiện pháp. Làm sao khiến pháp phương tiện được thiện thanh tịnh?

Tụng nói:

Phải biết thanh tịnh này,

Là tu 3 thứ tướng:

Tịch chỉ, sách cử, xả,

Theo thứ tự phải biết.

Nếu tâm trầm, khủng, một,

Nơi diệu sự khởi duyên

Hoặc trạo khủng cử sinh,

Chán nghịch khiến trừ diệt.

Xa lìa nơi trầm trạo,

Trụ tâm ở nơi xả.

Vô công nhiệm vận lưu,

Hằng tu 3 thứ tướng.

Tu định tu 3 tướng,

Không chỉ riêng tu một.

Để ngăn trầm, các lỗi,

Lại phải tịnh cái tâm.

Giải thích: Để đáp câu hỏi trước là người cầu định thanh tịnh phải tu 3 thứ tướng. Ba tướng là gì? Là chỉ, cử, xả. Tu như thế nào? Phải biết theo thứ tự. Tùy khi hoặc chướng sinh khởi phải theo thứ tự tu tập, thời nào phải tu tướng gì. Vả lại phân biệt sách cử tướng. Nếu người tu định, tâm trầm khủng một, phải tu 3 tướng như dưới sẽ biết. Nếu tâm trầm một có thể tu sách cử tướng. Đó là những gì? Đối với việc tốt, khởi duyên khiến tâm hoan hỷ làm tướng. Lại tịch chỉ tướng là nếu tâm trạo cử, hoặc khủng trạo cử phải tu tịch xứ. Đây làm sao tu chán nghịch khiến trừ diệt? Đối với cảnh sở duyên sinh tâm cực kỳ chán ghét, đối với tự nội tâm thì khiến chấm dứt. Xả tướng, nghĩa là lìa trầm trạo. Trong tâm gì gọi là tâm trụ xả? Gọi tâm trụ xả, cái xả tướng này tức vô công, nhiệm vận, lưu, hằng tu 3 thứ tướng. Như vậy khi tu theo thứ tự 3 tướng, người tu tập định được tướng thanh tịnh.

Lại Xa-ma-tha v.v..tức là người tu định đối với 3 tướng này không chỉ riêng tu một. Bởi vì sao? Để ngăn trầm v.v… các lỗi, lại phải tịnh tâm, nếu chỉ tu chỉ sự trầm một nội tâm, khi đã trầm một liền phải sách cử. Nếu nhân sách cử tâm trạo loạn thì quán cảnh bất tịnh khiến sinh chán lìa. Trong khi chính tu tập xả tướng này, gọi là chính định có thể hết hữu lậu. Do đó liền khiến tâm cực kỳ thanh tịnh. Nên biết rằng trong đây đều là thuận theo văn cú của chính kinh, như lý cần phải suy nghĩ.

Tụng nói:

Xuất ly và ái lạc,

Chính trụ có kham năng,

Chướng hoặc này đều trừ,

Người tu định thanh tịnh.

Giải thích: Đây nói lợi ích của thanh tịnh. Kinh Khử Trần nói: Phật bảo các Bí-sô: Nếu người khi muốn cầu nội tâm tịnh, có hoặc chướng hiện tiền không thể trừ diệt. Muốn đoạn trừ thì trước tiên đối với nghiệp đạo bất thiện chớ tạo lỗi lớn dứt tội ác kiến mà cầu xuất gia mong cầu xuất ly. Nếu ở trong phiền não dục sân hại ý khởi ác tầm tư, chướng thắng ái vị, nói lời ái lạc có thể trừ chướng này. Nếu có vi tế quyến thuộc tầm tư, thế gian tầm tư, bất tử tầm tư chướng ngại chính trụ, thì nói lời chính trụ để đối trị đó. Nếu người có dụng công mới nhập định thì định này chẳng phải tính phi kham nhiệm. Nếu có thể trừ được đây hiển thị hữu kham nhiệm, có thể trừ hoặc nói kham năng. Đây hiển thị người tịnh định được 4 thứ thắng ích. Thế nào là quả của người tu định?

Tụng nói:

Ở trong định môn này,

Nói về chính tu tập,

Tục định đều rõ ràng,

Cũng biết xuất thế định.

Tụng này ý nói người tu tập Xa-ma-tha Tì-bát-xá-na đạt được hiện quả. Nếu người có thể y vào định tướng được nói mà tu tập, sẽ được viên mãn các thắng quả thế gian và quả xuất thế, như trước đã nói.

Hỏi: Như trên nói, là muốn nói rõ điều gì?

Đáp:

Hiển ý lạc y xứ,

Bản y và chính y.

Thế gian định viên mãn,

Và hiểu rõ xuất thế.

Giải thích: Lược nói nghĩa đã khắp. Để hợp với việc trước nên nói bài tụng này. Như đầu tiên nói cầu thoát là hiển thị ý lạc viên mãn, tích tập là y xứ viên mãn. Đây nói hữu tâm tu định ắt phải nương cậy vào tích tập tư lưong. Trong trụ cần tu tập, là hiển thị bản y viên mãn. Như trong kinh nói: Phật bảo các Bí-sô: Các ông trước phải y vào định có thể hết hữu lậu. Đó là điều ta đã nói. Nếu muốn cầu ra khỏi biển sinh tử mà lìa chính định sẽ không có phương tiện nào khác. Được 3 viên mãn, là hiển thị tu tập viên mãn. Như trước đã nói, những người có trí khi chính tu hành xa lìa phóng dật thì đều viên mãn các định thế gian và xuất thế gian đều có thể chứng ngộ, đó là hiển thị được quả viên mãn./.

TRỌN BỘ 1 QUYỂN HẾT