Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

II. PHÁT ĐẠI THỆ NGUYỆN ĐỆ LỤC
(TT)

KINH VĂN:

Ngã tác Phật thời, sinh ngã quốc giả, thiện căn vô lượng, giai đắc kim cang Na-la-diên thân, kiên cố chi lực. Thân đảnh giai hữu quang minh chiếu diệu, thành tựu nhất thiết trí tuệ, hoạch đắc vô biên biện tài, thiện đàm chư pháp bí yếu, thuyết kinh, hành đạo, ngữ như chung thanh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.

VIỆT DỊCH:

Lúc tôi thành Phật, (người) sinh trong nước tôi, thiện căn vô lượng, đều được thân kim cang Na-la-diên, sức kiên cố, thân và đảnh đều có quang minh chiếu rực, thành tựu hết thảy trí-tuệ, đạt được vô biên biện tài, khéo bàn các pháp bí yếu, nói kinh hành đạo tiếng vang như chuông. Nếu chẳng được như vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

GIẢNG:

Sinh ngã quốc giả, thiện căn vô lượng (sinh trong nước tôi, thiện căn vô lượng) là tổng thuyết (câu nói chung).

Đại Sư La Thập bảo: “Thiện tâm kiên cố, sâu chẳng thể nhổ trốc được, nên gọi là Căn”. Lại vì “thiện” có thể sinh ra diệu quả và sinh ra các điều thiện khác nên gọi là Căn.

Giai đắc kim cang Na-la-diên thân kiên cố chi lực (Đều có thân kim cang Na-la-diên, sức kiên cố) là nguyện thứ ba mươi hai “Na-la-diên thân”. “Kim Cang” tiếng Phạn là Bạt-triết-ra (Vajra) hoặc phiên âm là Phạt-triết-ra, dịch là Kim Cang.

Sách Tam Tạng Pháp Số, quyển năm giảng:

“Là chất cứng rắn nhất trong các loại vàng nên gọi là Kim Cang”. Sách Đại Tạng Pháp số, quyển bốn mươi mốt lại giảng: “Tiếng Phạn là Bạt-triết-ra, Hán dịch là Kim Cang. Thứ vật báu này từ vàng sinh ra, màu như tử anh, đem nung trăm lần cũng chẳng tiêu hủy, cứng nhất, bén nhất, cắt được cả ngọc, rất hiếm trong đời nên được coi là quí” (tức là đá kim cương, tục gọi là cô thạch, độ cứng rất cao). Tuy nhiên, theo cụ Hoàng Niệm Tổ: “Kim Cang” ở đây không phải là đá kim cương (diamond) như tác giả suy luận, vì nhiều lẽ: Kim cương cháy được, kim cương không sinh từ vàng. Ngoài ra, các đặc tính của “kim cang” như được miêu tả trong Kinh Hoa Nghiêm cho thấy “kim cang” có những đặc điểm không hề thấy nơi kim cương”.

“Kim cang” còn là cách gọi tắt của “kim cang xử” (chày kim cang), nguyên là binh khí của Ấn Độ. Mật tông dùng nó để biểu thị trí cứng chắc, sắc bén.

Đại Nhật Kinh Sớ, quyển một còn giảng thêm “Phạt-triết-ra là kim cang trí ấn của Như Lai”.

Nhân Vương Kinh Niệm Tụng Nghi Quỹ, quyển một lại bảo: “Thủ trì kim cang xử giả, biểu khởi chánh trí, do như kim cang” (Tay cầm kim cang xử để biểu thị phát khởi chánh trí giống như kim cang). “Xử” có vô lượng thứ khác nhau: vàng, bạc, đồng, sắt, đá, thủy tinh, gỗ pháp-đà-la v.v“Xử” của Đế Thích làm bằng kim cang. Vị lực sĩ cầm kim cang xử được gọi là Chấp Kim Cang (vajrapani) hay gọi tắt là Kim Cang. “Na-la-diên” (narayana), dịch là Thắng Lực hoặc Kiên Lao, có bốn nghĩa:

– Một là tên khác của Phạm Thiên Vương

– Hai là lực sĩ cõi trời, như La Thập Đại Sư bảo:

Lực sĩ cõi trời gọi là Na-la-diên đoan chánh hùng mạnh

– Ba là như Đại Nhật Kinh Sớ quyển mười nói:

Na-la-diên là một trong nhiều biệt danh của Tỳ-Nữu-Thiên (Vishnu), tức là biệt danh của Na-la-diên thiên, vị trời này do Phật hóa ra”. Sách Bí Tạng Ký lại bảo:

Na-la-diên thiên có ba mặt, thân sắc xanh pha vàng, tay phải cầm bánh xe, cỡi chim Ca-lâu-la”.

– Bốn là như Niết Bàn Kinh Sớ, quyển bảy giảng “Na-la- diên: Hán dịch là Kim Cang là một trong mười chín vị Chấp Kim Cang”, Kinh Duy Ma Cật ghi là Na La Diên Bồ Tát.

Trong Mật giáo, Chấp Kim Cang, Kim Cang Thủ, Kim Cang Tát Đỏa v.vchỉ là những cách dịch khác nhau của cùng một tên.

Nhân Vương Kinh Niệm Tụng Nghi Quỹ, quyển thượng ghi: “Vị Kim Cang Thủ ấy chính là Phổ Hiền Bồ Tát. Tay cầm kim cang xử tiêu biểu phát khởi chánh trí giống như kim cang đoạn được chướng ngã pháp vi tế”.

Với lời nguyện “Kim cang Na-la-diên thân” này, theo cụ Hoàng Niệm Tổ: Nếu hiểu theo quan điểm Hiển giáo, có thể hiểu theo các cách giải thích ở phần trước: Thân kiên cố đại lực như thân của Na-la-diên lực sĩ hay thân của thần Na-la-diên. Nếu hiểu theo Mật nghĩa thì Kim Cang và Na-la-diên đều là Chấp Kim Cang. Xét về ý nghĩa gốc trong Mật giáo: Kim Cang Na-la-diên là Kim Cang Tát Đỏa, tức là Phổ Hiền, là bậc Pháp Thân Đại Sĩ. Hơn nữa, Mật giáo gọi Kim Cang là tướng oai mãnh do Phật thị hiện. Cho nên, câu “giai đắc kim cang Na-la-diên thân” có thể hiểu là được thân kim cang hoặc “kim cang thể” giống hệt như Phật.

Kinh Niết Bàn nói: “Như Lai thân giả, thị thường trụ thân, bất khả hoại thân, kim cang chi thân” (Thân của Như Lai là thân thường trụ, thân chẳng thể hoại, là thân kim cang) và “chư Phật Thế Tôn tinh cần tu tập, hoạch Kim Cang thân” (chư Phật Thế Tôn siêng năng tu tập, chứng được thân Kim Cang). Do đây có thể biết, loại thân cùng lực này từ vô lượng thiện căn mà thành tựu. Hai nguyện theo sau là quả đức của thiện căn vô lượng

Hòa Thượng Tịnh Không nói: Thần Kim Cang là trong Bà- la-môn giáo, Ấn Độ xưa sùng bái. Trong Phật kinh có đề cập rất nhiều chúng thần tiên, đều là thần minh trong tôn giáo cổ xưa của Ấn Độ thờ cúng. Đức Phật rất cao minh, thâu nạp họ đến nơi cửa Phật làm thần hộ pháp. Trong đạo tràng Phật giáo cũng cúng dường họ, dùng họ làm biểu pháp; danh hiệu, hình tướng tràn đầy nghĩa thú của giáo dục. Thần Kim Cang đoan chánh, diện mạo trang nghiêm, thân tướng oai dũng. Nghe đến danh xưng hoặc thấy hình tượng này, chúng ta liền nghĩ đến phải tu nhân, làm thế nào để được thân kim cang bất hoại. Đây là từ “Bố Thí vô uý” mà được.

Thân đảnh giai hữu quang minh chiếu diệu, thành tựu nhất thiết trí tuệ, hoạch đắc vô biên biện tài” (Thân đảnh đều có quang minh chói rực, thành tựu hết thảy trí tuệ, đạt được vô biên biện tài): là nguyện thứ ba mươi ba “quang minh tuệ biện” (quang minh, trí tuệ, biện tài) nguyện. Theo cụ Hoàng Niệm Tổ: Đức Phật ấy thọ mạng vô lượng; trời người trong nước cũng thọ mạng vô lượng. Đức Phật ấy quang minh cũng vô lượng nên nhân dân cõi ấy thân và đảnh đều có quang minh chiếu rực. Chủ (Phật) và bạn (hết thảy Hiền thánh, nhân dân trong nước) đều như một. Hơn nữa, tự chiếu sáng gọi là Quang, chiếu sáng vật khác là minh. “Quang minh” có hai công dụng: Một là trừ tối, hai là hiện pháp. Quang minh của Phật là tướng trí tuệ.

Kinh Siêu Nhật Minh Tam-muội, quyển hạ cũng dạy: “Thị tri đại trí phát ngoại, năng chiếu pháp giới, danh vi quang minh” (Cho nên biết rằng: Đại trí phát ra ngoài chiếu soi pháp giới thì gọi là quang minh).

Kinh Niết Bàn cũng nói: “Quang minh danh vi trí tuệ” (Quang minh là trí tuệ).

Đại Tuệ Thiền sư còn bảo: “Chỉ dùng ánh sáng này để tuyên thuyết diệu pháp, pháp này chính là quang minh ấy, chẳng lìa khỏi quang minh này mà thuyết pháp ấy”.

Thân và đảnh của trời và người cõi kia đều có thường quang, chính là do trí tuệ thành tựu. Do được Phật lực gia hộ, nên trí tuệ thù thắng. Đối với những trí: Phật trí, bất tư nghị trí, bất khả xưng trí, Đại Thừa quảng trí; trí thù thắng tối thượng không ai bằng, không ai sánh nổi, đều hiểu rõ cả nên bảo “thành tựu nhất thiết trí tuệ” (thành tựu hết thảy trí tuệ) và “hoạch đắc vô biên biện tài” (đạt được vô biên biện tài). Đây là nói trên Như Lai quả địa. “Biện tài” là một loại kỷ xảo diễn thuyết, là khả năng diễn thuyết pháp nghĩa một cách hay khéo.

Tịnh Ảnh Sớ giảng chữ “biện tài” như sau: “Nói năng biện luận rành rẽ, chữ dùng tài tình nên gọi là biện tài”. Ngoài ra, các trí biện tài thuyết pháp của Bồ Tát được gọi chung là Tứ Vô Ngại Trí, Tứ Vô Ngại Giải hoặc Tứ Vô Ngại Biện.

Tứ Vô Ngại là:

1. Pháp Vô Ngại

Pháp là Pháp tướng bao hàm vạn pháp thế và xuất thế gian, tất cả những danh từ, thuật ngữ đều thông đạt vô ngại. Việc này phải học rộng nghe nhiều. Cái gọi là “đọc vạn quyển sách đi vạn dặm đường”; ngày nay, chúng ta phải “một môn thâm nhập, trường thời huân tu”, với phương pháp này có bị ngăn ngại không? Việc này rất quan trọng! Thực tế mà nói, người xưa đã cung cấp rất nhiều tư liệu tham khảo.

– Tư liệu tham khảo là gì?

– “Chú Sớ”!

Trước nhất, Tịnh Tông chúng ta có năm Kinh, một Luận. Mỗi bộ kinh luận đều có rất nhiều Chú Sớ. Chúng ta đọc những Chú Sớ này. Trong Chú Sớ gần như tuyệt đại đa số những danh từ, thuật ngữ trong nhà Phật và thế pháp đều dùng đến. Hơn nữa, chúng ta nghiên giáo, chắc chắn không thể rời khỏi công cụ “sách”. Công cụ “sách” là tự điển. Đại tự điển trong thế pháp như “Trung Văn Đại Tự Điển”, đây cũng là cận đại điển, nội dung rất phong phú, gần mười quyển lớn. Trong Phật giáo có Phật giáo Đại Tự Điển, cũng gồm rất nhiều loại. Những thứ này giúp chúng ta hấp thụ thường thức của thế và xuất thế gian pháp, rộng hiểu danh tướng, giúp chúng ta diễn giảng không có chướng ngại.

Nếu chúng ta lại đọc qua rất nhiều sách, thật sự mà nói: Thời gian, tinh lực của chúng ta không đủ! Chỉ có chuyên hoằng, chọn lấy tinh hoa, lại không trái với một môn thâm nhập của chúng ta hiện tại. Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đã vận dụng khoảng một trăm chín mươi ba loại tư liệu tham khảo. Nói cách khác, xem chú giải này của ông chính là bạn đã xem khoảng một trăm chín mươi ba loại kinh luận. Khi ông viết quyển sách này, tôi (tức Hòa Thượng Tịnh Không) cũng cảm thấy rất kỳ lạ! Sao ông có thể nhớ được nhiều thứ đến như vậy? Bởi sau cách mạng văn hóa, gần như tất cả những kinh giáo ở Đại Lục đều bị hủy diệt hết! Những điều mà ông tham khảo từ đâu mà có? Nếu nhờ vào sức nhớ, vậy thì quá cừ khôi, không thể không bội phục!

Tôi đến thăm ông, trong nhà ông chất rất nhiều sách, quả nhiên ông đều dùng đến. Ông không có sách, bạn bè có hàng khối kinh sách gửi ở nhà ông. Sau khi nhìn thấy, tôi nói cũng muốn tặng ông một bộ Đại Tạng Kinh. Ông nói: Không cần đâu! Đủ dùng rồi! Cảm ứng thật không thể nghĩ bàn! Làm gì có cơ may được nhiều sách đến như vậy? Tất cả đều hữu dụng. Thật là Bồ Tát gia trì! Bạn có đi thu thập cũng không thể thu thập nhiều đến như vậy. Nên biết: Nhà Phật hoằng truyền không nói đến cảm ứng, thần thông; nhưng cảm ứng, thần thông chắc chắn là có.

– Đây là gì vậy?

– Là thành tích tu học của bạn! Thế nhưng, nhất định không nên chấp trước. Nếu chấp trước thì hỏng rồi! Liền biến thành ma chướng, điều này phải ghi nhớ.

2. Nghĩa Vô Ngại

Lý luận, đạo lý hàm chứa trong văn tự kinh điển rất sâu, không cùng tận, đều thông đạt vô ngại. Việc này đòi hỏi phải có công phu. Nếu không có công phu, “Pháp vô ngại” bạn có thể làm đến được, từng câu từng chữ đều có thể tra cứu, giảng giải không chướng ngại; nhưng nghĩa lý hàm chứa trong đó thì tra không đến! Cho dù bạn có tra tự điển, tra sách vở tham khảo thế mấy cũng vậy!

Trong bốn loại vô ngại, “Nghĩa Vô Ngại” là quan trọng nhất. Việc này đòi hỏi bạn phải thật tu, thật làm, thật có thể hội. Nếu bạn thật tu, thật dụng công thì cảnh giới của bạn mỗi ngày sẽ nâng cao, có thể trực nhận ra nghĩa lý hàm chứa trong kinh rất dễ dàng, nhất là khi bạn giảng kinh. Kinh Vô Lượng Thọ, tôi giảng lần này nữa là lần thứ mười một. Ngày trước, mỗi lần giảng đều có ghi âm, lúc đó chưa có băng ghi hình. Bạn có thể nghe qua và so sánh, đích thật là không như nhau, cảnh giới không như nhau, ngộ nhập không như nhau.

– Làm thế nào mới ngộ nhập?

– Buông xả mới ngộ nhập! Buông xả ít thì ngộ nhập ít; buông xả nhiều thì ngộ nhập nhiều. Buông xả danh vọng lợi dưỡng; buông xả tham, sân, si, mạn; buông xả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì trí tuệ bạn liền khai. Trí tuệ càng lớn, ý nghĩa trong kinh bạn thấy được càng sâu. Cho nên, mỗi câu, mỗi chữ đều là vô lượng nghĩa, sâu rộng vô cùng! Ngày nay, chúng ta chỉ mới là đọc qua mà thôi!

3. Từ Vô Ngại

“Từ” là ngôn từ; việc này có thể học tập. “Từ Vô Ngại” là thông đạt rành rẻ các ngôn ngữ của từng địa phương. Ngày nay, chúng ta “từ” có chướng ngại! Vì sao? Trong thính chúng nếu có người nước ngoài, chúng ta phải cần người thông dịch, vậy thì có chướng ngại! Cho nên, người có thiên tài ngôn ngữ, hoằng pháp lợi sinh sẽ không có chướng ngại về ngôn ngữ, đây là được “Từ Vô Ngại”.

4. Nhạo Thuyết Vô Ngại

Còn gọi là Biện Vô Ngại. Thuận theo chánh lý, phát ra lời nói vô ngại nên gọi là Biện Vô Ngại Theo Hòa Thượng Tịnh Không:

Nhạo Thuyết Vô Ngại, ý nói bạn phải có tâm hoan hỉ, nhiệt thành trong việc giảng dạy kinh pháp. Tâm hoan hỉ này phát xuất từ nguyện lực, từ tâm đại bi: “Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ”, nên họ rất chăm chỉ, nỗ lực thuyết giảng kinh pháp mà không nhàm chán.

Chư Phật, Bồ Tát giáo hóa tất cả chúng sinh đều đầy đủ “Tứ Vô Ngại Biện”.

Tóm lại, nhân dân trong cõi ấy do thành tựu hết thảy trí tuệ nên được Vô Ngại Biện Tài. Dùng Tứ Vô Ngại Biện Tài để hoằng diễn pháp yếu. Câu “thiện đàm chư pháp bí yếu” (khéo bàn các pháp bí yếu) là nguyện thứ ba mươi bốn “Thiện đàm pháp yếu”.

Theo chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ: “Bí” là bí áo, tức là điểm sâu xa, ẩn mật, huyền diệu của pháp môn chẳng dễ chỉ bày cho người khác.

Sách Pháp Hoa Văn Cú, quyển năm giảng chữ “bí yếu” như sau: “Điều Phật canh cánh trong tâm hơn bốn mươi năm, người khác chẳng hề biết là “bí”. Đạo dẫn thẳng đến Nhất Thừa nhiếp trọn muôn đường khác gọi là “yếu”.

Phẩm Pháp Sư của Kinh Pháp Hoa có câu:

Thử kinh thị chư Phật bí yếu chi tạng, bất khả phân bố, vọng thọ dữ nhân” (Kinh này là tạng bí yếu của chư Phật, chẳng thể lưu truyền, dạy dỗ bừa bãi cho người khác).

Theo cụ Hoàng Niệm Tổ: Mật Tông còn gọi là Bí Mật Tông, vì Mật pháp chính là tạng bí yếu của chư Phật, chẳng thể đem dạy cho người khác một cách khinh suất được. Nay các vị Bồ Tát cõi Cực Lạc “thiện đàm chư pháp bí yếu” (khéo bàn các pháp bí yếu) nghĩa là các vị khéo khai diễn hết thảy pháp bí yếu rất sâu dù Hiển hay Mật.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: chữ “Bí” ở đây không có nghĩa là bí mật. Trong Phật pháp chắc chắn không có bí mật.  Phàm có bí mật thì đó không phải là Phật pháp, cũng không phải là việc tốt. Chánh đại quang minh, có chi là bí mật mà không nói chứ?! “Bí mật” trong Phật pháp gọi là “thâm mật”, là lý quá sâu rất khó diễn đạt, có diễn đạt, người khác nghe rồi cũng không dễ gì thể hội được! Thế nhưng, đối với người lợi căn, phiền não nhẹ, thành kiến mỏng, từ bi lớn cũng có thể dễ dàng thể hội. Người có phiền não chướng nặng, chỉ biết tự tư tự lợi, không có tâm từ bi, đối với dạng người này, loại pháp này thì “thâm mật”. Chữ “yếu” là trọng yếu, tinh yếu. “Bí yếu” là thâm mật tinh yếu, phần nhiều là chỉ kinh giáo Đại thừa, cũng gọi là Nhất thừa pháp.

Các đại đức thời Tùy, Đường nói rất hay: “Hoa Nghiêm, Pháp Hoa đều là dẫn đạo của Kinh Vô Lượng Thọ”, cũng có thể nói:

– Hoa Nghiêm, Pháp Hoa là phần “Tựa” dẫn đạo bổn kinh.

– Kinh Vô Lượng Thọ là phần “Chánh tông”.

– Kinh A Di Đà là phần “Lưu thông”.

Mới biết được tính quan trọng của Kinh Vô Lượng Thọ, là pháp môn một đời thành Phật, giúp tất cả chúng sinh đều bình đẳng thành Phật. Đây chẳng những là “bí yếu” của Thế Tôn ; cũng có thể nói là “bí yếu” của mười phương chư Phật tất cả ba đời.

Thiện đàm chư pháp bí yếu” chính là thiện đàm “bí yếu” của Kinh Vô Lượng Thọ. Khéo nói Kinh Vô Lượng Thọ cũng chính là khéo nói tất cả kinh luận khác.

Thuyết kinh hành đạo, ngữ như chung thinh (Nói kinh hành đạo, lời nói như chuông). Chữ “chung” là chuông, một trong những loại được gọi là “kiền chùy” trong tiếng Phạn. Chuông là pháp khí; “minh chung” (tiếng chuông) là hiệu lệnh để nhóm chúng. Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm dạy: “Nhược đả chung thời, nhất thiết ác đạo chư khổ, tịnh đắc đình chỉ”. (Khi đánh chuông, hết thảy các nỗi khổ trong ác đạo đều được ngưng nghỉ). Công đức của “minh chung” rất lớn! Ở đây nói ác đạo là chỉ ba đường ác.

–  Vì sao công đức “minh chung” lớn như vậy?

–  Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Trong đạo tràng mỗi khi Phật, Bồ Tát hoặc Thánh Hiền Tăng giảng kinh thuyết pháp, nhờ tiếng chuông này mà vân tập được tất cả đại chúng; lúc này còn có quỉ vương, thánh thần đều dùng tâm chân thành, cung kính để tiếp thu giáo huấn của Phật. Không những thế, từng vật chất nhỏ nhiệm ở chung quanh như: vi trần, hạt nguyên tử, hạt điện tử, hạt tiểu quang tử đều đang nghe pháp.

Đây là điều chúng ta không thể tưởng tượng! Quả thật không thể nghĩ bàn! Hiệu quả ra sao? Như trong Hoàn Nguyên Quán nói: Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác đều “chu biến pháp giới, xuất sanh vô tận, hàm dung không hữu”. Thật không sai tí nào! Chúng ta liên tưởng đến chúng sinh trong ba đường ác nghe được tiếng chuông, nỗi thống khổ trong họ đều tạm dừng. Cho nên ở chùa, buổi sáng và tối đều có thỉnh chuông u-minh một trăm lẻ tám tiếng, đạo lý là như vậy! Nếu đạo tràng này tu đạo chân chính, ngày ngày tu học, công đức sẽ rất lớn, dù không có tiếng chuông cũng có thể khiến quỉ thần tạm dừng sự đau khổ, lìa khổ được vui.

Sách Phật Tổ Thống Kỷ, quyển sáu, cũng chép: “Người lúc sắp chết, nghe tiếng chuông, tiếng khánh thì chánh niệm được tăng thêm”.

Câu “ngữ như chung thanh” (tiếng vang như chuông”: Cụ Hoàng Niệm Tổ giải thích rất rõ ràng: ý nói thanh âm của người thuyết pháp như tiếng hồng chung trong trẻo, thánh thót, hùng hồn, liên tục vang xa, chấn tĩnh đêm dài (đêm dài ở đây là nói đến lục đạo luân hồi), đánh thức những kẻ đang mê muội, khiến họ phát sinh thiện tâm, ngưng ngớt các khổ. Âm thanh thuyết pháp có công  đức như tiếng chuông. Ngoài ra trên thân chuông còn có khắc những chân ngôn, những chữ chủng tử, kinh kệ Đại thừa. Một tiếng minh chung tức như chuyển tụng, khi gióng một tiếng chuông, khác nào như đọc lên hết thảy kinh pháp Hiển, Mật được ghi trên thân chuông. Dùng những điều đó để sánh ví người thuyết pháp trong mỗi một âm thanh đều hàm chứa vô biên diệu nghĩa”. Ý này rất hay!

“Chủng tử” (Bija) là những chữ Phạn được coi là tâm tủy của những bài chân ngôn do chư Phật, Bồ Tát nói, hoặc được coi là ngữ mật thân của Phật, Bồ Tát, thường được quán tưởng khi hành nhân trì tụng chân ngôn. Gọi là “chủng tử” vì từ một chữ có thể sinh ra nhiều chữ; nhiều chữ lại có thể thâu gọn trong một chữ. Chẳng hạn “chủng tử” của Đại Nhật Như Lai là “A”, “chủng tử” của A Di Đà Phật là “Hrih”.

Chỗ này, Hòa Thượng Tịnh Không dẫn chứng trên hội Lăng Nghiêm, đức Phật bảo ngài Bồ Tát Văn Thù chọn pháp môn thích hợp với căn cơ của chúng sinh cõi Ta Bà và ngài đã chọn “nhĩ căn viên thông” của đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Trong sáu căn, nhĩ căn là sắc bén nhất. Phật, Bồ Tát giáo hóa chúng sinh phải dùng âm thanh dạy học, lấy âm thanh làm Phật sự, khế hợp với chúng sinh ở thế gian này.

Chúng ta biết có rất nhiều tinh cầu trong hư không, mỗi tinh cầu đều có chúng sinh cư trú. Ngày nay, chúng ta cho rằng con người là sinh vật cao cấp, thật ra không hẳn vậy! Trong kinh, chúng ta thấy ở nước Hương Tích, chúng sinh nơi đó mắt, tai không nhạy bén bằng lưỡi; vừa nếm vị họ liền khai ngộ.

– Bồ Tát ở nước Hương Tích giáo hóa chúng sinh bằng cách nào?

– Bằng cách mời họ ăn cơm! Họ ăn cơm liền khai ngộ! Chúng ta ăn cơm không khai ngộ! Khi ăn chỉ nếm được mùi vị chua, ngọt, đắng, cay, mặn, lạt mà không biết được nó thông được tự tánh!

Các nhà khoa học hiện đại nói với chúng ta về một tiểu quang tử; trong tiểu quang tử đó bao hàm cả toàn thể vũ trụ. Trong kinh điển nói: “Giới tử nạp Tu Di; Tu Di nạp giới tử”. Núi Tu Di có thể đặt vào trong hạt cải. Đây là thí dụ.

– Thực tế thì sao?

– Mỗi hạt vi trần nhỏ hơn nhiều so với hạt cải, mắt thịt chúng ta không thể tiếp xúc được, thậm chí nếu dùng kính hiển vi thông thường cũng không thể thấy được. Trong hạt vi trần đó dung nạp toàn thể vũ trụ: Xuất sanh vô tận; một là tất cả, tất cả là một. Đây là tự tánh; tự tánh không phải là vật chất, không phải tinh thần cũng không phải hiện tượng tự nhiên.

– Tự tánh ở đâu?

– Khắp biến pháp giới, hư không giới! Nếu thấy được tự tánh tức là người đã “kiến tánh”, là đạt được tất cả. Quả thật như vậy! Nói một cách đại viên mãn: Tự tánh khởi tác dụng là đại tự tại, đại trí tuệ, cho nên “chấn tĩnh đêm dài, cảnh giác hôn mê, dẫn sanh thiện tâm, dừng các điều khổ”; mỗi câu đều là sự thật; tiếng chuông, tiếng khánh đều có tác dụng này.

Một tiếng minh chung, tức như chuyển tụng, chung thân đầy đủ tất cả kinh pháp Hiển, Mật”. Chung này tôi chưa thấy! Khi mới xuất gia, Hòa Thượng nói với chúng tôi: Ngày xưa, các Tòng lâm bảo sát ở Đại lục, chuông lớn ở chùa có đúc kinh văn. Là kinh gì? Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm! Khắc rất hoàn chỉnh tất cả kinh văn của Kinh Hoa Nghiêm đều khắc lên trên quả chuông, cả mặt trong lẫn mặt ngoài. Đánh một tiếng chuông, bộ Kinh Hoa Nghiêm này lập tức chu biến pháp giới, chính là nói ý này.

Trong Mật Tông dùng thần chú, dùng chú ngữ là sáu chữ “Đại Minh Chú” của Bồ Tát Quán Thế Âm: “Án Ma Hê Pa mê Hum”. Đánh một tiếng, chuyển kinh luân cũng là ý này. Đây là biểu pháp, vấn đề là chúng ta có rõ biết hay không? Nếu biết mới thật sự được lợi ích, từ đây mà kiến tánh; bằng không chỉ là xem biểu pháp thôi!

Trong nhà Phật, thờ phụng các hình tượng Bồ Tát, quỉ thần đều là công cụ của giáo dục. Ví như nhìn thấy tượng Phật, ta liền hiểu ngay đây là biểu trưng cho tự tánh, cho tánh bổn thiện. Tất cả tượng Phật đều tượng trưng cho “tánh đức”; tượng Bồ Tát tượng trưng cho “tu đức”. Tu nhân chứng quả: Bồ Tát tu nhân, Phật là chứng quả.

– Nhìn đến Bồ Tát Quán Thế Âm, ta liền nghĩ đến tâm Đại từ bi của ngài muốn cứu vớt tất cả chúng sinh; cũng nhắc nhở ta phải noi theo tâm lượng ngài mà đối đãi với tất cả chúng sinh.

– Nhìn Bồ Tát Địa Tạng, ta nghĩ ngay đến phải hiếu thuận cha mẹ, tôn sư trọng đạo.v.v

Nếu không có được những cảm nhận này, cho dù có lễ lạy cũng là vô ích! Vì sao? Vì những gì ta làm chỉ là mê tín! Nếu thật sự hiểu được, chúng ta vào chùa đi tham quan một vòng, sẽ học hỏi được rất nhiều điều lợi ích. Chẳng hạn như nhà Phật thắp đèn, nhất định phải thắp đèn sáp hay đèn dầu mới là biểu pháp, không được thắp đèn điện. Bây giờ đa phần dùng đèn điện, vậy là sai rồi! Thắp đèn dầu, đèn sáp là biểu trưng đốt chính mình để soi sáng cho người; hy sinh phụng hiến, quên mình vì người.

– Thắp một nén hương: “hương” tượng trưng cho “Tín hương”, cho sự thành tín.

Nói rõ hơn một chút: Con người đối với tất cả chúng sinh phải giữ chữ “Tín”, không được gạt người! Ý nghĩa sâu sắc của “hương” là tượng trưng cho “Giới-Định-Tuệ”, gọi là “Giới-Định chân hương”. Nhìn thấy “hương”, ngửi mùi “hương” phải biết tu “Giới-Định-Tuệ”, đây là cương lĩnh, nguyên tắc chung trong tu học Phật pháp, không thể không biết điều này.

Thậm chí đến tên gọi “Đại Hùng Bửu Điện” là nơi thờ phụng đức Thích Ca Mâu Ni Phật; “Đại hùng” là đại anh hùng; đây là tán thán, khen ngợi Phật Thích Ca Mâu Ni là đại anh hùng. Định nghĩa của “anh hùng” là những gì người khác không thể nào làm được, Phật đều làm được. Người thế gian tranh danh đoạt lợi, ngũ dục lục trần, “tham-sân-si-mạn”, đức Phật thì đã buông xả tất cả mới gọi là “đại anh hùng”.

KINH VĂN:

Ngã tác Phật thời, sở hữu chúng sinh, sinh ngã quốc giả, cứu cánh tất chí, Nhất Sanh Bổ Xứ, trừ kỳ bổn nguyện vị chúng sinh cố, bị hoằng thệ khải, giáo hóa nhất thiết hữu tình, giai phát tín tâm, tu Bồ Đề hạnh, hành Phổ Hiền đạo. Tuy sinh tha phương thế giới, vĩnh ly ác thú, hoặc nhạo thuyết pháp, hoặc nhạo thính pháp, hoặc hiện Thần Túc, tùy ý tu tập, vô bất viên mãn. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.

VIỆT DỊCH:

Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sinh sinh trong nước tôi, rốt ráo ắt đạt bậc Nhất Sanh Bổ Xứ, ngoại trừ (những người có) bổn nguyện vì chúng sinh mà mặc giáp hoằng thệ, giáo hóa   hết thảy hữu tình khiến cho họ đều phát tín tâm, tu Bồ Đề hạnh, hành Phổ Hiền đạo. Tuy sinh trong thế giới phương khác, nhưng vĩnh viễn thoát khỏi đường ác, hoặc thích thuyết pháp, hoặc thích nghe pháp, hoặc hiện Thần Túc, tùy ý tu tập không gì chẳng viên mãn. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

GIẢNG:

Trong chương này, câu “Sở hữu chúng sinh, sinh ngã quốc giả, cứu cánh tất chí Nhất Sanh Bổ Xứ” (Tất cả chúng sinh, sinh trong nước tôi, rốt ráo ắt đạt bậc Nhất Sanh Bổ Xứ) là nguyện thứ ba mươi lăm “Nhất Sanh Bổ Xứ”. “Nhất Sanh Bổ Xứ” là Đẳng Giác Bồ Tát, là Hậu Bổ Phật. Bồ Tát Di-Lặc là Hậu Bổ Phật, tương lai sẽ đến thế gian này thành Phật. Ngài là vị Phật tiếp sau Phật Thích Ca Mâu Ni.

–  Khi nào ngài hạ sinh?

– Thời gian còn rất dài! Hiện ngài đang ở Nội Viện trên cung trời Đâu Suất, tầng trời thứ tư của Dục giới. Khi hết tuổi thọ ở trời Đâu Suất, ngài sẽ hạ sinh xuống thế gian này thị hiện thành Phật.

Một ngày ở cõi trời Đâu Suất bằng bốn trăm năm ở thế gian ta. Chắc hẳn người ở cõi trời Đâu Suất nhìn xuống nhân gian thấy thật đáng thương! Nếu dùng thời gian là hai mươi bốn tiếng đồng hồ để tính thì một trăm năm ở nhân gian chỉ bằng sáu tiếng đồng hồ ở trời Đâu Suất. Thọ mạng ở trời Đâu Suất là bốn ngàn tuổi. Hiện tượng tận thế là người phương Tây nói; trong Phật pháp xưa nay chưa từng nói như vậy.

Sách Hội Sớ bảo: “Nhất Sanh Bổ Xứ là địa vị Đẳng Giác . Do vẫn còn một phần vô minh (nói đủ là một phần “Sanh Tướng Vô Minh”) chưa phá nên bảo là Nhất Sanh. Thế lực của phẩm vô minh ấy lớn nhất. Dùng kim cang trí phá được cái tâm duy nhất còn lại sau cùng ấy thì liền đạt địa vị Diệu Giác nên gọi là Bổ Xứ”.

Sách Đại Sớ, quyển sáu chép: “Tông của kinh này là nhất sanh, nghĩa là từ nhất mà sanh”. Nếu xét theo Mật Giáo thì “nhất” là lý “Nhất Thật”. Lý “Nhất Thật” đối với Mật Tông là Sơ Địa Bồ Tát, trước hết chứng đắc tịnh Bồ Đề tâm, từ đây nhất quán xuất sanh vô lượng tam-muội tổng trì môn, dần dần đạt đến địa vị Thập Địa (Mật Thập Địa khác với Thập Địa trong Hiển giáo), nhưng chưa đạt đến địa vị thứ mười một là Phật Địa. Khi ấy từ trong cảnh giới “Nhất Thật” bèn phát sinh trọn vẹn hết thảy trang nghiêm, phải một phen “Chuyển pháp tánh sanh” mới thành Phật, nên gọi là “Nhất Sanh Bổ Xứ”. “Chuyển pháp tánh sanh”, lần sanh cuối cùng này không phải là chết đây sinh kia mà chỉ là ẩn nơi thiên cung thị hiện sinh trong thai mẹ nên gọi là “Chuyển pháp tánh sanh”.

Trên đây là giải thích của Niệm lão (Hoàng Niệm Tổ là Kim Cang Thượng Sư) dựa theo Mật tông. Khi tôi ở Mỹ, lúc ấy ông truyền pháp Mật ở Mỹ, nhưng đều khuyên người niệm Phật, ông nói với họ: Mật rất khó thành tựu; niệm Phật vẫn là quan trọng hơn. Trước khi vãng sinh, ông nói với tôi, mỗi ngày ông niệm bốn mươi vạn câu Phật hiệu, niệm Phật rốt ráo ngày đêm không gián đoạn, rất ít ngủ nghỉ, ông là niệm Phật vãng sinh Tịnh Độ. Thầy ông là Cư Sĩ Hạ Liên Cư cũng là niệm Phật vãng sinh Tịnh Độ. Ở đây, Hòa Thượng Tịnh Không giải thích chữ “Nhất Thật” là bản tánh Chân Như, là tự tánh, là lý thể của tất cả pháp. Trong Mật Tông chứng được quả vị Sơ Địa Bồ Tát (là kiến tánh) tương ưng với Sơ Trụ Bồ Tát trong Kinh Hoa Nghiêm (cũng là kiến tánh).

Vô lượng tam-muội”, theo Hòa Thượng Tịnh Không: Ý nói trong vô lượng vô biên cảnh giới, sau khi họ tiếp xúc tâm đều bất động, “Nhất Thật” chính là họ đã đạt đến cảnh giới này. Trong tất cả mọi cảnh duyên dù tốt hay xấu họ đều dùng tâm thanh tịnh, bình đẳng, giác mà đối đãi.

Tổng Trì” là tổng tất cả pháp, trì tất cả nghĩa; có nghĩa là đã nắm bắt được cương lĩnh chung của tất cả pháp, đây chính là môn tổng trì. Cương lĩnh chung rất nhiều; trong cương lĩnh còn có cương lĩnh. Chúng ta lấy bộ kinh này mà nói:

–  Môn tổng trì của kinh này ở đâu?

– Chính là trong phẩm thứ sáu này! Bốn mươi tám nguyện là môn tổng trì của Kinh Vô Lượng Thọ.

– Vì sao?

–  Vì triễn khai bốn mươi tám nguyện chính là Kinh Vô Lượng Thọ; qui nạp Kinh Vô Lượng Thọ chính là bốn mươi tám nguyện, vì thế bốn mươi tám nguyện là môn tổng trì của Kinh Vô Lượng Thọ.

– Trong bốn mươi tám nguyện, nguyện nào có thể tổng trì?

– Cổ nhân nói có ba nguyện là: nguyện thứ mười tám, nguyện thứ mười chín và nguyện thứ hai mươi.

Nguyện thứ mười tám là “Thập niệm tất sanh”, nguyện thứ mười chín là “Văn danh phát tâm”, nguyện hai mươi là “Lâm chung tiếp dẫn”. Đây là nòng cốt của bốn mươi tám nguyện. Trong ba nguyện này, nguyện thứ mười tám là nguyện tổng trì, chính là câu “Nam mô A Di Đà Phật”. Sáu chữ này là tổng trì cao nhất của Kinh Vô Lượng Thọ, cũng là pháp môn tổng trì của tất cả kinh điển mà Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng suốt bốn mươi chín năm.

Đại Sư Thiện Đạo nói: “Chư Phật sở dĩ hưng xuất thế” nghĩa là sở dĩ tất cả chư Phật Như Lai ứng hóa đến thế gian, giáo hóa chúng sinh, giảng kinh dạy học chỉ vì mục đích cứu cánh là “duy thuyết Di Đà bổn nguyện hải”. Do vì có số người nghiệp chướng sâu nặng, mê hoặc quá sâu, không thể tiếp thu được pháp môn Tịnh Độ nên Phật mới phương tiện chỉ bày các pháp khác để độ họ. Đối với người có thể tin, có thể hiểu, Phật không cần phải vòng vo mà trực tiếp nói với họ về pháp môn Tịnh Độ, chỉ trong một đời là có thể thành tựu.

– Pháp môn này phải tu bao lâu mới có thể thành tựu?

–  Theo lý, trong Kinh Di Đà nói: “Nhược nhất nhật, nhược nhị nhật”v.vChỉ trong một, hai ngày là có thể thành tựu. Thật quá dễ dàng! Thực tế, giờ thì chúng ta đã hiểu phàm phu thành Phật, then chốt chỉ trong một niệm: Một niệm giác, phàm phu liền thành Phật, một niệm mê, đó chính là phàm phu lục đạo,

– Làm sao để “giác”?

– Buông bỏ là “giác”.

– Vì sao mê?

– Không buông bỏ được là “mê”!

Vấn đề là như vậy! Đại đa số các đồng tu Tịnh Độ, có thể nói trên một nửa thật sự niệm Phật, chí thành cầu sinh Tịnh Độ, đa phần đều có thể từ ba đến năm năm là họ thành công.

Đại sư Đàm Loan lại nghĩ rất có thể là Bồ Tát cõi Cực Lạc chẳng lần lượt đạt từng địa vị mà chứng ngay địa vị Nhất Sanh Bổ Xứ: “Cứ theo kinh này mà suy thì rất có thể Bồ Tát cõi ấy chẳng từ địa vị này đạt đến địa vị kia. Thứ tự thập địa của Bồ Tát chỉ là do Thích Ca Như Lai ứng theo căn cơ cõi Diêm Phù Đề mà dạy như vậy thôi. Tịnh Độ phương khác không bắt buộc phải giống vậy”.

Hòa Thượng Tịnh Không giải thích câu “chẳng từ địa vị này đạt đến địa vị kia” là “Đốn Đăng Bổ Xứ”, điều này không thể nghĩ bàn! Như lên cầu thang, họ không cần đi lên từng bậc mà từ dưới họ trực tiếp đến tầng cao nhất như đi thang máy, vậy thì càng nhanh chóng! Chúng ta tin lời của Đại Sư Đàm Loan nói không phải là không có căn cứ. Chư vị Tổ sư đại đức của Tịnh Tông, lời nói của họ đáng để chúng ta tin tưởng.

Thuyết của ngài Đàm Loan đã thể hiện sâu xa Bồ Tát ở thế giới Cực Lạc: Hiển, Mật viên giải, viên tu, “nhất địa nhất thiết địa” (một địa vị chính là hết thảy địa vị). Cho nên, người đến thế giới Cực Lạc đều không thoái chuyển, đốn siêu thứ tự (vượt khỏi các địa vị), không có giai cấp, không có thứ tự, viên chứng Bổ Xứ (chứng trọn vẹn địa vị Bổ Xứ), hiển rõ diệu đức sâu sắc khó nghĩ bàn của đại nguyện Phật A Di Đà. Đoạn này nói rất hay!

– Có kinh luận nào chứng minh lời nói của Đại Sư Đàm Loan chăng?

–  Có! Kinh Hoa Nghiêm! Trong Kinh Hoa Nghiêm có nói như thế! Trong Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán nói càng rõ ràng minh bạch. Kinh Đại thừa cũng thường nói: “Một là tất cả, tất cả là một”.

Thật tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp không có pháp nào không phải từ tự tánh biến hiện ra. Tự tánh là bản thể của tất cả pháp. Tương ưng với tự tánh, tất cả thứ tự giai cấp đều không còn. Đại Sư Huệ Năng đã hiển thị cho chúng ta thấy; đó là trường hợp điển hình nhất, không cần trải qua thứ lớp. Khác hẳn lúc Thế Tôn còn tại thế giảng kinh thuyết pháp phải trải qua mười hai năm giảng kinh A Hàm; tám năm Phương Đẳng; hai mươi hai năm Bát Nhã; mới đến Pháp Hoa, Niết Bàn. Đây là có thứ tự, có giai cấp. Ngài Huệ Năng vừa khai ngộ liền kiến tánh.

– Kiến tánh là cảnh giới gì?

– Trong kinh này gọi là A Duy Việt Trí Bồ Tát.

Ngài Huệ Năng không phải được Phật A Di Đà gia trì mà tự mình “đốn ngộ”: Trước tiên ngài “đốn xả”, lập tức liền buông bỏ tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Đây gọi là đốn xả, đốn ngộ, đốn siêu, đốn chứng; những gì chứng được là quả đức viên mãn. Về lý có thể nói như thế, về sự đương nhiên cũng không có vấn đề; vấn đề là ở chính bản thân chúng ta chưa hiểu rõ về chân tướng sự thật, còn hoài nghi đối với đại đức, đại năng, đại trí tuệ của Phật, Bồ Tát. Cho nên, Phật dạy chúng ta buông xả: Nếu buông xả từ từ, đây là “tiệm tu”; nếu lập tức buông xả, đó là “đốn tu”.

Trừ kỳ bổn nguyện, vị chúng sinh cố … vô bất viên mãn” (Ngoại trừ (những người có) bổn nguyện vì chúng sinh …không gì chẳng viên mãn): Đây là nguyện thứ ba mươi sáu: “Giáo hóa tùy ý”. Như lời nguyện thứ ba mươi lăm đã nói: Người vãng sinh về thế giới Cực Lạc đều đạt địa vị Bổ Xứ, thành Đẳng Chánh Giác. Nhưng, mỗi vị Bồ Tát thành Phật đều có nguyện lực không giống nhau. Nếu có thệ nguyện mặc giáp hoằng thệ, trở lại uế độ phổ độ quần sinh, giáo hóa hữu tình, họ sẽ được nguyện lực của Phật A Di Đà gia trì để “tùy ý giáo hóa”, tất cả đều viên mãn. Đây là ý nghĩa của nguyện ba mươi sáu.

“Bị hoằng thệ khải” (Mặc giáp hoằng thệ). Chữ “khải” là áo giáp, tức vật dụng được các chiến sĩ thời cổ khoác vào khi giao chiến để bảo vệ thân thể chống lại tên, đá v.vChiến tranh cận đại cũng có áo giáp chống đạn, lại thêm xe tăng, thiết giáp v.vxung phong ra trận, đây đều thuộc tính chất của loại này. Bồ Tát nhập sinh tử, nghĩa là trở lại trong luân hồi sinh tử, hàng phục ma quân, lấy thệ nguyện rộng sâu, tâm hoằng thệ cứng hơn sắt đá làm giáp trụ.

– Ma là gì?

– Tất cả chướng nạn đều là ma quân!

Phàm những gì có thể khiến ý chí ta dao động, khiến tâm ta thoái thất, làm chướng ngại tín tâm ta, dẫn dụ ta sinh khởi “tham- sân-si-mạn-nghi”, cám dỗ khiến ta tham luyến “tài-sắc-danh-thực- thùy”; tất cả đều là ma quân. Sở dĩ chúng sinh tu đạo không dễ thành tựu đều do những chướng duyên này.

Ở đây nói lấy thệ nguyện hoằng thâm của mình làm áo giáp. “Hoằng” là lớn; “hoằng thệ” là thệ nguyện rộng lớn. Thông thường nói theo cương lĩnh chung là “Tứ Hoằng Thệ Nguyện”. Có số người phát nguyện, nhưng tín tâm không đủ, còn quá nhiều hoài nghi, chưa hiểu thấu triệt chân tướng sự thật nên khi vừa tiếp xúc với cảnh giới liền bị cảnh giới xoay chuyển! Vậy là đọa lạc! Có khác nào như đánh trận đã bị bại trận, thậm chí còn bị người giết chết!

Giai phát tín tâm” (Đều phát tín tâm): Đối với những người được giáo hóa, trước tiên phải giúp họ kiến lập tín tâm. Ngày nay, muốn giúp người khác kiến lập tín tâm, điều cần thiết bản thân chúng ta phải làm gương cho họ thấy. Nếu không thể thực hiện cho họ thấy, họ sẽ không tin!

Trong Hội nghị Hòa Bình của Liên Hiệp Quốc, chúng tôi đem phương pháp trị lý quốc gia và những lý niệm phương pháp về xã hội hòa bình của các bậc Thánh Hiền giới thiệu cho hội viên. Họ nghe xong rất hoan hỉ và khen ngợi. Sau khi hội nghị kết thúc, họ nói với tôi: – Pháp sư! Ông nói rất hay, chúng tôi nghe qua cảm thấy rất thích nhưng xét nghĩ đó chỉ là lý tưởng không thể thực hiện!

Đó là họ thiếu niềm tin! Tôi nói cũng vô dụng! Do nguyên nhân này, chúng tôi mới tìm đến một trấn nhỏ để làm thí nghiệm. Vốn nghĩ rằng lần thí nghiệm này ít nhất phải đến hai, ba năm mới thấy được hiệu quả, không ngờ chưa đến bốn tháng, hiệu quả đã vượt ngoài dự định.

– Đây có phải do năng lực của chúng ta chăng?

– Không phải! Tuyệt đối không phải do năng lực của chúng ta mà nhờ Phật lực gia trì; nguyện lực của Tổ Tông, các bậc Thánh Hiền gia trì mới thành công.

Chúng tôi đem thành công này báo cáo với Tổng Bộ Tổ Chức Giáo Khoa Văn ở Paris, mọi người đều tin. Tổ Chức Giáo Khoa Văn có một trăm chín mươi hai đại biểu các quốc gia khu vực, đều muốn đến khảo sát xem thử. Đây là thật không phải giả! Ngày nay, thiên hạ trên toàn thế giới này đã đánh mất niềm tin đối với các bậc Thánh Hiền! Thế nên, muốn kiến lập niềm tin cho họ, trước hết chúng ta phải thực tiễn cho họ thấy, chỉ nói suông thì chưa đủ!

Đồ Văn Ba (Toowoomba), thị trấn nơi đây, nếu vào thời cổ đại cũng là một nước lớn, cư dân có mười vạn người. Hiện nay, nếu kết hợp các xóm làng lại, thị trưởng nói với tôi có thể lên đến hai mươi vạn dân; diện tích đất đai khoảng bằng với Brisbane. Ông rất hy vọng có thể trị lý khiến Đồ Văn Ba này trở nên thành thị mô phạm của Úc Châu. Điều cần yếu không nên đặt tiêu chuẩn kinh tế lên hàng đầu mà phải đặt giáo dục của Thánh Hiền và giáo dục của tôn giáo lên hàng vị trí ưu tiên thì họ sẽ thành công.

– Như vậy đối với sự phát triễn kinh tế có gì tổn hại chăng?

–  Không những không tổn hại mà chắc chắn còn vượt xa ngoài dự tính của họ. Đây là dùng dạy học của tôn giáo và văn hóa Thánh Hiền để lôi kéo nền kinh tế. Sự phát triễn này rất tốt đẹp, không có hậu di chứng.

– Bạn muốn hỏi vì sao tôi biết được?

– Bởi tôi đã từng làm thí nghiệm ba năm ở tiểu trấn Thang Trì mới nhận ra điều này. Kinh tế nơi thị trấn này không suy yếu mà lợi nhuận còn tăng lên gấp bội, đây là tín tâm sinh khởi.

Trong kinh giáo Đại thừa: Tín là chiếc nôi của mọi công đức; là nền tảng vững chắc của chứng đạo, hành đạo và truyền đạo; cũng có thể sinh cảm ứng đối với chư Phật, Bồ Tát.