Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

VI. ĐỨC TUÂN PHỔ HIỀN ĐỆ NHỊ
(TT)

Trữ công đức, thị phước điền”: “Trữ công đức” chính là tích công bồi đức.

– Làm thế nào trữ được công đức?

– Chữ “trữ” này rất quan trọng! “Trữ” là tồn trữ, lưu kho, tích chứa. Trong nhà Phật có câu: “Lửa thiêu rừng công đức”, công đức rất khó lưu giữ, chỉ một đóm lửa nhỏ cũng đủ thiêu rụi cả rừng công đức! Người hiện tại nói “công đức” chỉ trên đầu môi, hữu danh vô thực! Trong tâm có niệm không vui thì công đức hết rồi! Phải biết: Thế gian yêu ma, quỷ quái rất nhiều, chúng sợ bạn tích công bồi đức nên thị hiện ra vô số cảnh giới, vô số nhân duyên hầu phá hoại công đức của bạn! Thế nhưng, bản thân chúng không có năng lực phá hoại bạn; bất cứ người nào cũng không cách gì phá hoại được công đức của bạn, chỉ có bạn chính mình khởi lên một niệm sân là tự hủy diệt đi công đức của mình. Cho nên, chúng ta nhất định phải đề cao cảnh giác: Tất cả thuận cảnh không sinh tâm hoan hỉ; tất cả nghịch  cảnh không sinh tâm sân hận, công đức của bạn mới có thể giữ được; con người này chân thật là có trí tuệ.

Phía trước, “hàng ma”, Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện cho chúng ta xem “Dĩ Định Tuệ lực, hàng phục ma oán”; nếu không có Định-Tuệ, công đức của bạn không thể giữ được, đó là đạo lý nhất định! “Tâm tùy cảnh chuyển” là tâm luân hồi, tạo nghiệp luân hồi, tương lai chịu quả báo luân hồi. Lúc chưa học Phật, sáu căn tiếp xúc với sáu trần dễ bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển: Xem thấy việc ưa thích, khởi tâm hoan hỉ; xem thấy việc không ưa thích, khởi tâm ghét bỏ. Vậy thì sai rồi! Sai thì phải sửa lại, đó là tu hành.

Cho nên, tu hành không phải chỉ mỗi ngày tụng kinh niệm Phật, lạy Phật; đó chỉ là hình thức tu hành! “Tu hành” phải chân thật có chỗ hữu dụng, có thể thực tiễn ngay trong đời sống mới thật là có công phu. Công phu nhất định phải trải qua được sự khảo nghiệm; giao lưu với mọi người, chúng ta cũng phải có đôi chút biểu lộ. Đến được cảnh giới này, nếu sắc diện ta lúc nào cũng như tượng thần điêu khắc, người như vậy, trong xã hội này cũng có thể hù chết người!

Cho nên, tiếp xúc với tất cả chúng sinh, biểu lộ cũng có hỉ, nộ, ái, lạc v.v…nhưng chỉ là hình thức, trong tâm chân thật là thanh tịnh vô nhiễm, như Vĩnh Gia nói: “Phân biệt diệc phi ý”. Từng li từng tí đích thực là không có ô nhiễm, chân thật là có Định, có Tuệ, đây gọi là có công phu, cũng chính là “công đức”.

Thị phước điền”: “Thị” là chỉ thị; chỉ thị ra những gì là phước điền. Cơ duyên tu phước thật quá nhiều, quá rộng. Trong nhà Phật đem vô lượng phước điền qui nạp thành ba loại lớn: Bi điền, Ân điền và Đức điền.

1. Bi Điền

Bi điền là từ bi, lân mẫn cứu giúp tất cả chúng sinh bần cùng khổ nạn.

– Ai là chúng sinh bần cùng khổ nạn?

– Chúng sinh trong mười pháp giới đều là bần cùng khổ nạn! Chớ nên cho rằng chỉ những người đói rách, thiếu ăn, thiếu mặc mới là bần cùng. Người hiện tại, cho dù họ có phước báo nhà cửa sang trọng, vật chất đủ đầy nhưng đời sống tinh thần của họ rất khổ sở, rất thiếu thốn, đây cũng gọi là người bần cùng.

Cho nên, phạm vi nghèo cùng có rất nhiều: Nghèo cùng trên vật chất, nghèo cùng trên tinh thần, nghèo cùng trên đạo nghiệp, nghèo cùng trên trí tuệ v.v…, phạm vi nghèo cùng thật quá rộng. Ngày nay, chúng ta nói: Năng lực kỹ thuật của quốc gia này kém xa không thể so sánh với quốc gia khác, đây cũng là nghèo cùng, cũng là lạc hậu. Bồ Tát thấy được cội căn của sự nghèo cùng, mà khởi tâm đại bi thương xót, cứu giúp họ vượt khỏi cơn bần cùng, khổ nạn; đây là trồng phước điền cũng gọi là “Bi điền”.

2. Ân Điền

Ân điền là báo đáp công ân cha mẹ và sư trưởng, bậc thầy của chúng ta. Thân này có được là nhờ ở cha mẹ; trí tuệ trong nhà Phật gọi là “Pháp thân tuệ mạng” có được là nhờ ở nơi thầy. Ân đức của thầy cùng ân đức của cha mẹ không hề khác nhau. Người hiện tại không có “hiếu đạo”, cho nên “Sư đạo” cũng không có! “Sư đạo” là xây dựng trên nền tảng của “hiếu đạo”. Phật pháp là “Sư đạo”. Chúng ta gọi Thích ca mâu ni Phật là đức “Bổn sư”. “Bổn sư” chính là thầy giáo căn bản, người sáng lập ra “giáo dục Phật Đà” đầu tiên. Mỗi niệm chúng ta không quên ân đức của ngài. Nơi giảng đường, chúng ta muốn cúng dường ngài, cúng dường tôn tượng đức Bổn sư, không gì hơn; chúng ta phải nỗ lực làm công tác giảng dạy, cùng với các đồng tu gắng công học tập kinh điển, cũng như đối trước mặt Phật chúng ta biểu đạt tấm lòng thành kính, đó cũng là báo ân Phật, cũng chính là “trồng phước điền”.

Ngoài cha mẹ, thầy giáo ra; chư Phật, Bồ Tát, Tổ sư, Đại đức, tất cả thiện tri thức cũng đều có “Ân điền” đối với chúng ta. Lại mở rộng hơn; quốc gia có ân đức bảo hộ hoàn cảnh, đời sống chúng ta được an ninh; tất cả chúng sinh cũng có ân đức hỗ trợ đời sống thường ngày cho chúng ta. Đây chính là trong “kệ hồi hướng” chúng ta thường đọc: “Trên đền bốn ân nặng”, đó là “Ân điền”.

3. Đức Điền

Phần này chuyên chỉ cho Tam Bảo, các bậc đắc đạo như: A la hán, Bồ Tát, Phật là “Đức điền”. Tam Bảo có đại trí tuệ, đại đức, đại năng giáo hóa chúng sinh; chúng ta cúng dường các ngài là gieo trồng phước điền.

Hiện tại ở Đại Lục, mọi người xem thấy trên báo chí, nạn nước rất nghiêm trọng! Năm xưa, mỗi lần có nạn nước, chúng ta luôn tận tâm tận lực quyên góp tiền bạc giúp đỡ những cư dân khu vực tai nạn. Năm nay, khu vực tai nạn mở rộng, đồng thời lại bị ảnh hưởng kinh tế, khiến chúng ta xem thấy, chân thật là không biết phải làm thế nào?!

– Tai nạn có phương pháp gì hóa giải chăng?

– Khẳng định là có! Trị gốc là phải giáo hóa chúng

– Làm thế nào giáo hóa chúng sinh?

– Khuyên lơn, dạy bảo họ: “Diệt trừ tham-sân-si”; “cần tu Giới-Định-Tuệ”!

– Việc này có lợi ích, liên quan gì đến thực tế chứ?!

Người thế gian không tường tận! Rất nhiều tai biến có quan hệ rất mật thiết với tâm con người. Trên kinh Phật thường nói: “y báo tùy theo chánh báo chuyển”.

Nạn nước là từ tâm “tham” biến hiện ra. Tâm “tham” con người mỗi ngày một lớn thì nạn nước mỗi ngày cũng sẽ càng nhiều! Nạn lửa là từ tâm sân hận; địa chấn là từ tâm bất bình; tâm ngu si là nạn gió bão. Ngày nay, nói những lời này, người thông thường đều không tin tưởng! Họ nói: Không có chứng cớ khoa học, không thể tiếp nhận! Khoa học ngày nay, thực tế mà nói, còn rất non nớt, vẫn chưa đạt đến cảnh giới này!

Ngoài phương pháp giáo hóa chúng sinh, “phương pháp trị phần nổi” cũng có. Tài nguyên, sức người của Trung Quốc là hàng đầu thế giới. Người đông, sức lao động nhiều, nhưng không hề được tận dụng tốt, khiến những tiềm năng, sức lực này lãng phí thật vô cùng đáng tiếc! Cho nên, trên “công tác trị phần nổi”, mỗi năm chúng ta có nạn nước; nạn nước phải nên xếp ở hàng đầu. Phải học “Đại vũ trị thủy”, phải hiểu rõ địa hình, vị thế của đất cao thấp; phải dẫn đạo dòng nước từ phương hướng nào để có thể dẫn nước vào trong biển cả.

Ngày nay, dùng công cụ khoa học hiện đại, tiến bộ hơn rất nhiều so với ngày trước, có thể khai mương dẫn nước, mở rộng ao hồ. Trong lịch sử ghi chép “Động Đình hồ” trước đây là tám trăm dặm, nghe nói hiện tại chưa đến ba trăm dặm. Nên biết: Công dụng của hồ lớn chính là để chứa nước khi nước lụt tràn đến. Cho nên, dọc theo sông dài; hồ lớn, hồ bạt nhất định phải nhiều. Hồ bạt của thiên nhiên chúng ta nhất định phải giữ gìn, phải dùng máy móc hiện đại có thể vét được đáy hồ sâu hơn, rộng hơn, tạo sức chứa của nó được nhiều hơn. Đồng thời, bên cạnh khu vực sông có thể tạo nhân công giữ đê, giảm thiểu nạn nước. Đây là những việc có thể làm được.

Công trình thủy lợi vô cùng quan trọng. Phần kiến thiết cơ bản của quốc gia đó là: Đường giao thông, đường sắt, đường quốc lộ.

– Hoa Kỳ vì sao duy trì được cường thịnh như thế?

– Họ xây dựng cơ sở quá tốt! Thế nhưng, công trình thủy lợi của Hoa Kỳ vẫn có chỗ chưa đủ. Thủy lợi là công trình lớn, bình thường khi khô hạn, tưới tiêu ruộng vườn, không chướng ngại nhà nông thu hoạch nông sản; đến khi nước lớn thì có thể chứa nước, không đến nỗi tạo thành nạn lụt. Đây đều là sức người có thể làm được, vì sao không làm?!

Cơ bản hiện tại là công trình phát điện. Có thể nói, phát điện cũng có liên quan với công trình thủy lợi. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều nơi lợi dụng thủy lợi để phát điện; Trung Quốc có sông dài, hồ lớn, vì sao không làm?! Phải từ nơi bề nổi mà làm, chỉ mất khoảng từ năm đến mười năm thì Trung Quốc vĩnh viễn sẽ không có nạn lụt. Đó là đại công đức, đại bố thí. Nền tảng này được xây dựng kiên cố thì toàn quốc đều phát triễn, không chỉ ở khu vực duyên hải, ngay đến trong đất liền thảy đều có thể phát triễn. Do đây có thể biết, chúng ta phải nghĩ đến vì chúng sinh mà tạo phước.

Trở về với đại chúng hiện tiền, đối với bốn câu kinh: “Điều chúng sinh, tuyên diệu lý, trữ công đức, thị phước điền”, phải thực tiễn ngay trong đời sống hiện tại của chúng ta. Cư Sĩ Lâm, đạo tràng này là một đạo tràng rất trang nghiêm đúng pháp. Đó là mọi người đều công nhận, không phải riêng tôi tùy tiện nói. Chúng ta phát tâm đến đây để nghe kinh, để niệm Phật, cũng chính là thực tiễn bốn câu kinh văn này. Nếu bạn muốn hỏi:

– Chúng ta đến đây nghe kinh hai giờ đồng hồ, niệm Phật vài tiếng đồng hồ, so với “Điều chúng sinh, tuyên diệu lý” có liên quan gì?

– Giảng đường của Cư Sĩ Lâm hiện tại là mỗi ngày giảng kinh hai giờ đồng hồ. Chúng ta phát tâm duy trì giờ giảng kinh mãi mãi không gián đoạn, đó là “tuyên diệu lý”. Chúng ta đến nghe kinh là làm “chúng ảnh hưởng” đến mọi người, khiến người sơ học Phật, người chưa học Phật dần dần nghe được, thấy được chỗ tốt của việc học Phật, tự nhiên họ liền đến. Nếu thấy ở nhà niệm Phật cũng được, cần chi phải đến “Niệm Phật Đường”, thì nơi đây giảng kinh trống vắng, thưa thớt, chỉ vài ba người đến, khiến người sơ học vừa nhìn thấy quang cảnh như vậy, tự nhiên tín tâm của họ sẽ không có! Họ có thể nghĩ: Chắc pháp sư này giảng không hay họ sẽ không đến!

Cho nên, đến nghe kinh, bạn chính là Bồ Tát, là “chúng ảnh hưởng”, là gieo trồng phước. Cho dù ở nhà nghe kinh rất thuận tiện, đường truyền “internet” có thể liên thông, phát sóng trực tiếp, chỉ cần nhà bạn có vi tính thì có thể nghe. Nhưng, ở nhà nghe chỉ có tự lợi, không thể lợi tha, không gây được sức ảnh hưởng cho người khác. Bạn đến đây nghe kinh là được lợi cả hai bên.

Tóm lại, phải trồng phước điền, phải làm “chúng ảnh hưởng”. Sức ảnh hưởng lớn hay nhỏ không cần biết, nhất định là có ảnh hưởng. Bạn làm “chúng ảnh hưởng” cũng chính là trang nghiêm đạo tràng. Cho nên, đạo tràng này, “Niệm Phật Đường” này có rất nhiều Bồ Tát đang niệm Phật, có Phật đang niệm, có thiên long quỷ thần đang niệm Phật. Có thể thấy được: Tu công đức, tu phước đức không nhất định phải tốn tiền, chỉ cần bạn có thời gian đến đây chính là trồng phước rồi. Thậm chí bạn đến đây dùng một bữa cơm cũng là trồng phước, cũng vì đạo tràng này tuyên dương Phật pháp.

– Bạn đến nơi nào, không cần tốn tiền mà có thể dùng cơm?

– Chỉ Cư Sĩ Lâm, thế giới đệ nhất gia!

Nơi đây mỗi ngày cúng dường ba bữa cơm miễn phí.

Tương lai còn có thôn Di Đà, đến ở cũng không phải tốn tiền, chỉ cần bạn tha thiết thành tâm niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ. Nơi đây là đạo tràng thành tựu cho người vãng sinh bất thoái thành Phật. Bạn ở nơi đây tu phước thì đặc biệt dễ dàng, chi tiền ra không cần nhiều: một đồng, hai đồng v.v… đều có công đức hi hữu, trồng được phước điền chân thật, không phải giả.

Dĩ chư pháp dược, cứu liệu tam khổ (Dùng các pháp dược, cứu chữa ba khổ): Chư Phật độ sanh là theo bệnh mà cho thuốc. Thuốc ví cho Diệu pháp của Như Lai; bệnh ví cho chúng sinh tật khổ. “Tam khổ” là: Khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.

– Khổ khổ: Là rất nhiều sự khổ xảy đến dồn dập không ngừng.

– Hoại khổ: Là đối với tất cả sắc tướng, nó luôn luôn  biến hoại mà gây ra sự khổ.

– Hành khổ: “Hành” là dời chuyển, các pháp đều vô thường, dời chuyển trong từng Sát-na nên sinh khổ não. Theo Gia Tường Sớ: “Sự khổ trong tam Hữu (tức là sinh tử trong ba cõi) gọi là tam khổ”.

Sách Bình Giải cho rằng lời giải thích của Sư Gia Tường là thỏa đáng vì trừ diệt cái khổ sinh tử trong ba cõi (Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới) cũng chính là nói cái khổ trong lục đạo luân hồi, rất phù hợp với Tông chỉ của Tịnh tông.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Phật nói với chúng ta trong dục giới có đủ ba loại khổ: Khổ khổ, hoại khổ và hành khổ. Trời sắc giới không có “khổ khổ”, vì họ khống chế được dục nên gọi là “thiểu dục tri túc”. Họ có trí tuệ, có sức định, có thể đem tham ái hưởng thụ trong năm dục, sáu trần xả bỏ, do vậy mà họ không có “khổ khổ”. Người trời Sắc giới là “hóa sanh” nên họ không có “sinh, lão, bệnh, tử” khổ. Cõi Dục giới là: Thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh đều có. Thai sanh, noãn sanh và thấp sanh chiếm đại đa số.

Người thế gian không rời năm dục: Tài, sắc, danh, thực, thùy (Tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ). Chúng ta xả tài còn có thể được; đối với sắc tình nam nữ cũng có thể xả được; đối với danh cũng có thể không cần. Tuy nhiên, không ăn, không ngủ thì không thể được!

Nên biết, người trời Sắc giới họ có Thiền định rất sâu, nên lúc nào họ cũng tỉnh táo, không cần phải ngủ nghỉ. Hiểu được đạo lý này, chúng ta nên tận khả năng hạ thấp lòng tham dục xuống. Người có sức định càng sâu, họ biết được thân thể này là một việc phiền phức. Người trời Sắc giới cũng có thân thể. Tuy không có “khổ khổ” nhưng họ vẫn có “hoại khổ”. Hoàn cảnh, lầu các, cung điện và ngay chính thân họ cũng có ngày hủy diệt, cho nên họ có “hoại khổ”.

Người thông minh biết được “hoại khổ” có từ nơi thân, vì hữu hình thì hữu hoại, có sắc ướng thì có “hoại khổ”, cho nên họ tiến thêm một mức nữa là không cần sắc thân, tiến vào “Vô Sắc giới”. Trời “Vô Sắc giới” là tầng trời cao nhất trong các tầng trời. Họ không có “khổ khổ” cũng không có “hoại khổ”, nhưng họ vẫn có “hành khổ”. Cảnh giới của họ tuy tốt, nhưng không thể vĩnh viễn gìn giữ! Đến một lúc, họ hoàn toàn bất lực, phải hướng xuống đọa lạc, đây là “hành khổ”.

Do vậy, mà trên Kinh Pháp Hoa, Phật nói với chúng ta: “Tam giới vô an, do như hỏa trạch”, hình dung ba cõi như nhà lửa, bên trong đã bị cháy, không còn có chỗ nơi an toàn! Nên biết: Trong sáu cõi chỉ có khổ không có vui. Cái vui mà bạn cảm thấy, đó là cái khổ tạm thời dừng lại, kỳ thật đó là cái thấy sai lầm của bạn!

Trong Phật pháp Đại thừa, thông thường lấy Bồ Tát Văn Thù đại biểu cho trí tuệ “học rộng nghe nhiều”. Trí tuệ mà Bồ Tát Đại Thế Chí đại biểu là “một môn thâm nhập”. Trí tuệ của Bồ Tát Văn Thù phải là bậc thượng căn lợi trí mới có thể học, người hạ hạ căn thì không được. Trí tuệ của Đại Thế Chí Bồ Tát đại biểu trùm cả ba căn, ngu khôn đều thâu, người hạ hạ căn cũng có thể học. “Một môn thâm nhập”, đích thật là dễ dàng, tiện lợi. Một môn thông thì tất cả môn khác đều thông. Thành tựu của họ cũng không khác với Bồ Tát Văn Thù, chỉ có thủ pháp thì không giống.

Đại sư Ấn Quang biết thế gian này sẽ có tai nạn.

– Dùng phương pháp gì để cứu?

– Nếu dùng Phật pháp thì không được! Vì mọi người không tin, cho rằng Phật pháp là mê tín! Hơn nữa, văn tự trong kinh rất khó hiểu, người thông thường không dễ gì tiếp thu được! Nếu dùng đạo lý của nhà Nho để cứu vãn thế gian này cũng không còn kịp! Nhà Nho gọi “mười năm trồng cây, trăm năm trồng người”. Nho, Phật tuy tốt nhưng không có cách gì cứu kịp! Cho nên, Đại sư ngài chọn lấy “Thái thượng cảm ứng thiên”, “Liễu phàm tứ huấn”, “An sĩ toàn thư”. Dùng ba loại sách này để cứu vãn xã hội hiện tại, rất là có đạo lý!

– Ba loại sách này, nguyên lý của nó là gì?

– Nguyên lý chính của nó là nhân quả! Trong kiếp nạn sắp đến, mọi người không tin Phật, không tin Nho, không tin Thánh hiền, tùy tiện làm càng, chỉ duy nhất còn có thể bảo họ nghe lọt vào tai là nhân quả báo ứng, đó là chân tướng sự thật! Cho nên, Đại sư cả đời cực lực đề xướng nhân quả. Ngài chọn ba quyển sách trên cũng là “pháp dược” giúp mọi người vượt qua ải quan trước mắt.

Ngày nay, toàn thế giới tai biến xảy đến khắp nơi, muốn tiêu diệt nó cũng không phải dễ dàng. Muốn nó chậm lại giảm nhẹ đi một chút, hoặc lùi về sau một chút, thành thật mà nói, vẫn còn có thể làm được. Chuyển biến này tùy thuộc ở tâm con người: Con người phải giác ngộ, phải hồi đầu, phải đoạn ác tu thiện, phải chân thật xả kỷ vị tha, gạt bỏ lợi ích cá nhân mà quan tâm đến lợi ích của xã hội đại chúng. Sau đó, giảm nhẹ “tham, sân, si, mạn” của chính mình, chú trọng đến luân lý đạo đức, kiếp nạn này mới có thể kéo chậm lại hoặc giảm nhẹ.

Trong cuộc sống thường ngày phải nuôi dưỡng thiện tâm, thiện nguyện của chính mình. Trong tâm nhất định không có mười ác: Sát, đạo, dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ỷ ngữ, ác khẩu, tham, sân, si. Ý niệm chí thiện chính là một câu Phật hiệu. Ngoài câu Phật hiệu ra, ý niệm gì cũng đều xả bỏ. Mục tiêu, phương hướng đời sống của chúng ta phải rất chính xác, rất kiên định, quyết cầu sinh Tịnh Độ, vãng sinh bất thoái thành Phật. Chúng ta đi con đường này, con đường mà tất cả chư Phật đã đi, làm sao có thể sai lầm chứ! Tai không nghe lời ác, thị phi. Miệng không nói lời ác. Khi tiếp xúc qua lại với người, ít nói lời thừa, nên khuyên người niệm Phật. Việc thế gian không nghe, không hiểu thì bạn đã rời khỏi cái thế gian này rồi! Việc thế gian càng hiểu, phiền não càng thêm lớn! Còn ưa thích tò mò chuyện thế gian, chính là bạn vẫn chưa muốn rời khỏi khổ não của luân hồi! Phải hạ quyết tâm không làm những việc này!

Thân không tà hạnh, tốt nhất nên lợi dụng lúc cơ thể khỏe mạnh lạy Phật càng nhiều, công đức lạy Phật rất lớn, hiệu quả lạy Phật rất thù thắng. Nếu mỗi ngày bạn có thể lạy một trăm lạy, vĩnh viễn không gián đoạn, thân thể bạn nhất định khỏe mạnh, sống lâu không hề bệnh tật. Dùng tâm thanh tịnh, tâm cung kính lạy Phật; lạy Phật dứt khoát không hề có vọng tưởng xen tạp, cảm ứng tương thông sẽ tự nhiên đến với bạn. Có cầu ắt có ứng, vì sao chúng ta không làm?!

Thăng quán đảnh giai, thọ Bồ Đề Ký, vị giáo Bồ Tát, tác A Xà Lê”: “Thăng quán đảnh giai” (Lên địa vị quán đảnh – câu này trích từ bản Đường dịch). Theo chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ: “Giai” là địa vị. “Quán đảnh” là ở Ấn Độ vào thời cổ, khi quốc vương lên ngôi, lấy nước bốn biển rưới lên đảnh đầu vua. Mật giáo cũng giống như thế, có pháp Quán Đảnh. “Quán” có nghĩa là rưới, xối, dội. Quán Đảnh nghĩa đen là tưới lên đỉnh đầu.

Mật giáo đặt nặng vấn đề truyền thừa: Chưa qua Quán Đảnh chẳng được tự tiện tu tập; các nghi quỹ, kinh điển cũng chẳng được tự tiện đọc.

Ngoài ra Quán Đảnh còn phân biệt giữa sơ vị và hậu vị, như quyển thứ mười lăm Đại Nhật Kinh Sớ giảng: “Ví như dòng Sát-lợi trong thế gian muốn kế tục ngôi vị để dòng vua chẳng dứt, phải quán đảnh cho đích tử: Lấy nước bốn biển đựng vào bốn cái bình báu… giội lên đầu Thái Tử. Giội nước ấy xong, lớn tiếng xướng ba lần: ‘Mọi người nên biết: Thái tử đã nhận lãnh địa vị xong. Từ nay trở đi, với tất cả mệnh lệnh của ngài đều phải phụng hành’. Nay đấng Như Lai Pháp Vương cũng giống như vậy, muốn cho dòng Phật chẳng đoạn, nên dùng cam lộ pháp thủy rưới lên đảnh Phật tử… Từ đây trở đi, hết thảy thánh chúng đều phải kính ngưỡng, cũng phải biết rằng người này rốt ráo chẳng thoái thất vô thượng Bồ Đề, quyết định kế tục địa vị Pháp Vương của Như Lai”.

Cách giải thích trong đoạn sớ văn trên đây là xét theo hành nhân thuộc “Sơ Vị”. Còn với hạng “Hậu Vị” thì như Sách Bí Mật Ký giảng: “Bồ Tát từ Sơ Địa đến Đẳng Giác lúc gần đạt quả Phật cứu cánh, chư Phật dùng nước đại bi quán đảnh, tự hạnh liền viên mãn, chứng đắc Phật quả là nghĩa của chữ Đảnh”. Nay kinh này chép “Thăng Quán Đảnh giai” (Lên địa vị Quán Đảnh), nếu xét về các bậc Đại sĩ trong hội thì là Hậu Vị, còn về phía chúng sinh được dạy dỗ thì người được Quán Đảnh là Sơ Vị.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Đoạn kinh văn trên rất giống khẩu khí của Mật Tông. Đích thật là Mật pháp! Đoạn này cũng nằm trong phần “Chuyển pháp luân”. Trong phần “Chuyển pháp luân” có thể nói: Hiển, Mật, Tông, Giáo đều nói đến cả. Văn tự không nhiều nhưng giảng rất viên mãn, khiến chúng ta xem đến thật sự là sinh tâm hoan hỉ, thật sự tin bộ kinh này là cô đọng của tất cả kinh điển, pháp môn này là tổng cương lĩnh của tất cả pháp môn “nhất tu, nhất thiết tu”, đích thật là đại viên mãn giáo. “Quán Đảnh” là nghi thức của Mật Tông thọ ký. Thế nhưng “Mật Tông Quán Đảnh” phân ra rất nhiều giai đoạn.

Khi tôi ban đầu học Phật, thọ “Tam qui” là nhờ Đại sư Chương Gia truyền thụ, cũng nhận qua “nghi thức Quán Đảnh”, đó chỉ là hình thức mà thôi. Rốt cuộc ý nghĩa chân thật của “Quán Đảnh”, chúng ta không hiểu. Đại sư cũng không giảng tường tận. Phần nghi thức cũng tuyệt nhiên không có giải thích rõ ràng. Đồng thời, người nhận qui y có đến mấy trăm người, thời gian lại quá thúc bách. Cũng may, tôi được thân cận với Đại sư rất nhiều thời gian. Lúc thân cận có những nghi vấn gì thì thỉnh giáo với Đại sư. Nhờ sự khai đạo của ngài, tôi hiểu được “nghi thức Quán Đảnh” quan trọng nhất là phải hiểu rõ nội dung của nó.

Trong Mật Tông Ký Sao của Đại Tạng Kinh có giải thích tỉ mỉ về “Quán Đảnh”. “Quán” là đại bi hộ niệm, ngày nay chúng ta gọi là hộ trì, gia trì, Đại từ bi gia trì, Đại từ bi hộ niệm, Đại từ bi bảo hộ, đều có thể nói được thông. “Đảnh” là cao nhất. Đầu là bộ phận cao nhất trong thân thể con người. “Đảnh” đại biểu cho tất cả pháp môn, là pháp môn cao nhất. Pháp môn thù thắng nhất là “Đảnh pháp”. “Đảnh pháp” là đỉnh điểm chí cao vô thượng. Do đây có thể biết

Quán Đảnh” là Phật dùng đại từ đại bi đem “Đảnh pháp” viên mãn nhất, thù thắng nhất truyền thụ cho bạn; không phải chỉ dùng một ít nước, rải vài giọt lên đầu bạn mà gọi là “Quán Đảnh”; “Quán Đảnh” như vậy không ích gì, đó chỉ là hình thức biểu pháp!

Cũng thế, tu học pháp môn Tịnh Độ, nhất định được tất cả chư Phật hộ niệm gia trì, khiến bạn khế nhập “Đảnh pháp”, quả vị cứu cánh Như Lai, đó mới gọi là “Quán Đảnh”. Do vậy có thể biết “Quán Đảnh” trên hình thức chính là trong Hiển giáo gọi là “Qui y” trên hình thức, “Thọ giới” trên hình thức, đều không đủ để tin cậy! Phật pháp phải nói đến thực chất, phải nói đến chân thật chịu làm. Chỗ này nói “Quán đảnh giai”, thực tế mà nói đó chính là chỉ bổn kinh này.

– Sao biết được bổn kinh này là “Đảnh pháp”?

– Lão cư sĩ Mai Quang Hy, phía trước bổn hội tập Kinh Vô Lượng Thọ, có một thiên lời tựa rất hay, rất dài. Trong lời tựa, ông đã vận dụng ghi chép của Đại đức xưa vào thời Tùy, Đường, thời đại hoàng kim của Phật pháp, cũng là thời đại hưng thịnh nhất của Phật pháp. Vào thời này, Đại Thừa, Tiểu Thừa, mười tông phái của Phật giáo gần như đồng thời xuất hiện. Nước ngoài có một số người xuất gia ưu tú đến Trung Quốc du học, trong đó có thành tựu đặc biệt như Nhật Bản, Hàn Quốc. Lúc đó Hàn Quốc chưa thống nhất, gọi là Tam Hàn, phân ra ba quốc Phía Nam Việt Nam cũng có rất nhiều cao tăng, đại đức đến Trung Quốc để du học.

Những đại đức này đã từng nghiên cứu thảo luận rất tỉ mỉ: Đức Phật năm xưa ở đời giảng kinh hơn ba trăm hội, nói pháp suốt bốn mươi chín năm. Những gì Phật giảng dạy đều được ghi chép trong tất cả kinh điển. Vậy bộ kinh nào có thể biểu trưng, gồm thâu tất cả Phật pháp? Họ gần như đều khẳng định, công nhận “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh” là “Pháp luân căn bản”; nếu dùng thí dụ để nói, tất cả kinh đều là quyến thuộc của Hoa Nghiêm.

Phật pháp như một cây đại thọ, Hoa Nghiêm là gốc của thân cây lớn. Những điều Thế Tôn giảng dạy trong suốt bốn mươi chín năm, không ngoài cành lá trên thân cây đó; cành lá không rời khỏi cội gốc. Cho nên, gọi Hoa Nghiêm là “Pháp luân căn bản”. Nói cách khác, Hoa Nghiêm chính là “Đảnh pháp”. Lại tỉ mỉ tìm hiểu “Đại phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh”:

– Kinh Hoa Nghiêm đến sau cùng, làm thế nào mới có thể viên mãn thành tựu, đạt đến “Đảnh pháp” chân thật?

– Pháp sau cùng đó chính là Bồ Tát Phổ Hiền, mười đại nguyện vương cầu sinh Cực Lạc, vậy mới có thể đạt đến “Đảnh pháp”! Thế là họ đi đến kết luận: Khẳng định Kinh Vô Lượng Thọ là “Đảnh pháp”. Vì sao? Kinh Vô Lượng Thọ là rút gọn, là tinh yếu của Kinh Hoa Nghiêm. Cho nên, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa trên thực tế là dẫn đạo chúng ta quay về Tịnh Độ; trong đó: “Hoa Nghiêm” là phần “tựa”, Kinh Vô Lượng Thọ là phần “Chánh Tông”, Kinh A Di Đà là phần “lưu thông”.

Vì vậy, trước thời nhà Thanh, cư sĩ Bành Tế Thanh mới nói: “Kinh Vô Lượng Thọ chính là quyển trung của Hoa Nghiêm; Kinh A Di Đà là tiểu bổn của Kinh Hoa Nghiêm, ba bộ kinh này kỳ thật là một bộ”. Bành Tế Thanh có thể nói ra lời này, thật không đơn giản! Nếu ông không vào được cảnh giới này, làm sao có thể nói ra câu ấy! Chân thật là người tái sinh mới nói ra được lời này! Chúng ta liền khẳng định: Kinh Vô Lượng Thọ là “Đảnh pháp”. Cũng có thể nói: Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh A Di Đà, cả ba kinh này đều là “Đảnh pháp”.

Nguyên bản dịch của Bổn Kinh này rất nhiều. Kinh Phật từ Ấn Độ truyền đến Trung Quốc, số lần phiên dịch nhiều nhất chính là Kinh Vô Lượng Thọ mà hiện tại trong Đại Tạng Kinh còn lưu lại năm loại nguyên bản dịch. Ngoài ra còn bảy loại nguyên bản dịch bị thất truyền. Năm loại nguyên bản dịch này các Tổ sư, đại đức ngày trước đã tỉ mỉ nghiên cứu, phát hiện văn tự bản dịch vào ra rất nhiều. Rõ ràng nhất là “Nguyện văn”: Bản dịch nhà Hán có hai mươi bốn nguyện. Đến thời Nam Bắc triều, chúng ta xem thấy bản dịch của Khang Tăng Khải là bốn mươi tám nguyện. Lại xem bản dịch của triều nhà Tống có ba mươi sáu nguyện. Sự khác biệt này quá lớn. Nếu nguyên bản là bốn mươi tám nguyện thì không thể nào biến thành hai mươi bốn nguyện; cũng không thể nào biến thành ba mươi sáu nguyện.

Cho nên, đại đức xưa tiên đoán: Nhất định trước đây là họ căn cứ vào nguyên bản dịch không giống nhau; liền nghĩ ngay đến Thế Tôn năm xưa đã dốc hết sức, nhiều lần tuyên giảng Kinh Vô Lượng Thọ, giới thiệu Di Đà Tịnh Độ, khẳng định không chỉ một lần mà giảng qua ít nhất cũng phải ba lần; không như các kinh khác, đức Phật cả đời chỉ giảng một lần, không giảng đến lần thứ hai. Nếu bảy nguyên bản dịch kia không bị thất lạc, số lần Phật giảng kinh này có thể còn nhiều hơn.

Do nhiều lần tuyên giảng, nên trong mỗi quyển có nhiều, ít không đồng, mới cần có bổn hội tập. Bổn hội tập rất cần thiết mang lại cho sơ học chúng ta nhiều thuận tiện. Bổn hội tập sớm nhất là của cư sĩ Vương Long Thư. Hội tập lần thứ hai của cư sĩ Ngụy Mặc Thâm; lão cư sĩ Hạ Liên Cư là hội tập lần thứ ba. Càng về sau thì hội tập càng thù thắng hơn.

Trên đây chúng ta đã nhận biết được cái gì là “Đảnh pháp”. Sau khi nhận biết được “Đảnh pháp”, chúng ta liền đem kinh này đọc qua một lượt từ đầu đến cuối, đó chẳng phải là mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai “Quán Đảnh” cho chúng ta một lần hay sao?

Đó là chân thật “Quán Đảnh”, không phải “Quán Đảnh” giả, còn thù thắng hơn nhiều so với thượng sư rải nước “Quán Đảnh”.

Chúng ta phải tường tận: Đọc qua một lần là tiếp nhận một lần “Quán Đảnh” của chư Phật Như Lai; đọc hai lần là tiếp nhận “Quán Đảnh” hai lần. Một ngày đọc ba lần thì một ngày bạn được chư Phật Như Lai “Quán Đảnh” ba lần. Phước báo này của bạn còn có ai sánh được? Nếu nói Kinh Vô Lượng Thọ quá dài, thì niệm Kinh A Di Đà cũng được. Bạn tụng một lần, chư Phật “Quán Đảnh” cho bạn một lần. Mỗi ngày bạn tụng mười biến thì Phật “Quán Đảnh” cho bạn mười lần. Bạn còn có thể không khai ngộ sao?

Cho nên, “thăng quán đảnh giai”, thực tế mà nói chính là thọ trì một bộ kinh này. Y theo phương pháp lý luận của bộ kinh này mà tu học liền đưa bạn lên đến “Quán Đảnh giai”. Nếu xả bỏ pháp môn Tịnh Độ, cái “Quán Đảnh giai” đó là “khả vọng” mà “bất khả cập”, chúng ta nghe rồi chỉ ngưỡng vọng mà thôi! Vì mấy ai có thể chỉ trong một đời mà có thể thành tựu, là việc không thể nào!

Ngày nay, thật may mắn gặp được Pháp môn Tịnh Độ, ngay trong đời này liền có thể “thăng Quán đảnh giai”. Đạo tràng của chúng ta có thể nói là một đạo tràng thù thắng nhất trong hiện tại. Đây không phải chính mình đang khoa trương, chính mình đang tán thán, không phải vậy! Chúng ta suốt năm giảng Đệ Nhất Kinh Tịnh Độ không gián đoạn. Các đạo tràng khác trên thế giới không có. Nếu có, cũng không phải giảng mỗi ngày, giảng suốt năm không gián đoạn. Không chỉ là “giải môn”, chúng ta còn đặc biệt chú trọng “hành môn”.

Đại sư Thanh Lương nói với chúng ta: “Tín-Giải-Hành- Chứng”. Bốn chữ này chúng ta đều xem trọng và làm được; chúng ta làm là “giải hành tương ưng”. Đạo tràng như vậy, ở thế gian này có lẽ cũng có nhưng tôi chưa thấy, cũng chưa nghe nói qua. Ngày nay, chính mắt chúng ta thấy được là đạo tràng này. Sau đó mới biết được phước báo của chúng sinh khu vực này lớn biết dường nào! Thật không thể nghĩ bàn! Đạo tràng này nhất định được chư Phật hộ niệm, được long thiên thiện thần bảo hộ.

Phải nhận biết rõ ràng, “Đảnh pháp” của chư Phật Như Lai là “Pháp môn Tịnh Độ”. Không riêng chỉ đức Phật Thích Ca hoằng truyền Pháp môn chí cao vô thượng này, mà mười phương tất cả chư Phật Như Lai cũng đồng truyền thọ “Đảnh pháp” này. Làm sao biết được? Trong bổn kinh, Thế Tôn tán thán A Di Đà Phật là “Quang trung cực tôn, Phật trung chi Vương”. Nên biết: Tán thán của Thích Ca Mâu Ni Phật là đại biểu tán thán của mười phương tất cả chư Phật.

Chúng ta phải là đệ tử Di Đà chân chính, không nên làm đệ tử giả hiệu, mạo nhận đệ tử Di Đà, vấn đề đó liền nghiêm trọng! Nếu mạo nhận đệ tử Di Đà, thần hộ pháp sẽ không tha thứ bạn!

– Đệ tử chân thật của Di Đà phải làm thế nào?

– Mỗi ngày phải nhận “Quán đảnh” của A Di Đà Phật, mỗi ngày phải đọc kinh; đọc kinh chính là “Quán đảnh”, ngày ngày phải đọc câu Phật hiệu. Nếu có thời gian, tôi khuyên các đồng tu nên đến Niệm Phật Đường này niệm Phật.

– Vì sao vậy? Ở nhà niệm Phật không phải như nhau sao?

Xin nói với bạn: Ở nhà niệm Phật cùng đến “Niệm Phật Đường” niệm Phật, hoàn toàn không như nhau! Ở nhà, bạn không có chư Phật đang ở đó niệm Phật. Ở Niệm Phật Đường này có Phật đang ở đây niệm Phật. Bạn đến đây, nhờ môi trường, sức ảnh hưởng của Phật, Bồ Tát làm sao như nhau được! Từ trường nơi đây là thế gian đệ nhất! Thù thắng đệ nhất! Nơi đây đích thật là không khí của Chánh pháp Như Lai, có đến đây niệm Phật, đích thân bạn mới cảm   nhận được. Bước vào Niệm Phật Đường này chính là “thăng Quán Đảnh giai” thì “thọ Bồ Đề ký”, cũng chính là “thọ ký thành Phật”. Thế nên, đến giảng đường này, đến Niệm Phật Đường này, nhất định bạn sẽ vãng sinh bất thoái thành Phật. Đạo tràng này là đạo tràng thành tựu chư Phật Như Lai, ắt được chư Như Lai gia trì.