PHẬT ĐIỂN PHỔ THÔNG
DẪN VÀO TUỆ GIÁC PHẬT

Nhiều tác giả
Chủ biên bản dịch Việt: LÊ MẠNH THÁT – TUỆ SỸ
Phiên dịch: Thích Hạnh Viên, Thích Nữ Khánh Năng, Thích Thanh Hòa, Pháp Hiền, Nguyễn Quốc Bình
Sản xuất & Ấn hành: Tạng Thư Phật Học
Diễn đọc: Huệ Tâm, Thùy Duyên

 

PHẦN II
PHÁP

CHƯƠNG 3
CÁC PHẨM TÍNH CỦA PHÁP

ĐẠI THỪA

Những phẩm tính của Pháp

M.14 Tôn Kính Pháp

Trong chương này, Pháp chủ yếu là những giáo thuyết uyên áo của Phật.

‘Bạch Thế Tôn, con nghe nói, trong tất cả cúng dường, cúng dường pháp là tối thượng. Vậy, bạch Thế Tôn, thế nào là cúng dường pháp?

Thế Tôn dạy, ‘Thiện nam tử! Cúng dường Pháp là cúng dường những gì được Như Lai (Tathāgata) thuyết giảng. Đó là cúng dường các Kinh điển thậm thâm vi diệu và tương tợ thậm thâm vi diệu, đối trị tất cả thế gian, khó tín thọ, khó dò, khó thấy, khó hiểu, cực kỳ vi tế, cực kỳ vi diệu, khó lý giải. Pháp ấy bao gồm cả Bồ-tát tạng, được ấn trì bởi dấu ấn của các tổng trì và các kinh, khai thị Pháp luân không thối chuyển, là nguồn cội phát xuất sáu ba-la-mật, [1] nhiếp trì những ai cần được nhiếp trì, tùy hành cùng ba mươi bảy đạo phẩm[2] dẫn đến giác ngộ[3] và dẫn đạo bảy giác chi, hướng chúng sinh vào đại bi và thuyết giáo đại từ, dẫn tránh xa Ma thuyết (Māra) 199 và diễn giải pháp duyên khởi [4] , tuyên thuyết vô ngã, vô chúng sinh, vô mạng giả và vô nhân xưng, tuyên thuyết không, vô tướng, vô nguyện, vô tác hành[5], dẫn đến bồ-đề đạo tràng và chuyển Pháp luân, được chư thiên, long, dạ-xoa, càn-thát-bà[6] lễ bái tán dương, duy trì mạng mạch chánh pháp không đứt đoạn, nhiếp trì kho báu của chánh pháp, dẫn chúng sanh thú nhập tối thượng cúng dường pháp, được tất cả Hiền Thánh nhiếp thọ, khai phát tất cả sở hành của Bồ-tát, dẫn vào chỗ quy thú của thật tướng các pháp, xuất sanh tổng yếu các pháp vô thường, khổ, vô ngã, tịch tĩnh, chỉ ra uy lực tác hại của ác giới, cứu hộ tất cả thoát khỏi kinh sợ bởi chấp trước tà kiến, ác luận của ngoại đạo, được nhất thiết chư Phật tán dương, là đối trị phần của luân hồi, khai thị Niết-bàn an lạc. Tuyên thuyết, khai thị, thọ trì, quán sát những kinh giáo với các hình thức như vậy, nhiếp thọ chánh pháp, đây gọi là cúng dường pháp.

Vimalakīrti-nirdeśa Sūtra, ch. 12, sections 10–11, dịch Anh from Sanskrit by D.S.

M.15 Hưởng thọ Pháp lạc

Đoạn này giảng luận sở hành của đạo giác ngộ.

‘Thế nào là hoan hỷ pháp lạc nghĩa?’

Trưởng giả Duy-ma-cật (Licchavi Vimalakīrti) đáp: ‘Đó là hoan hỷ với tín bất hoại đối với Phật; hoan hỷ nghe Pháp; hoan hỷ thân cận Tăng-già; hoan hỷ thờ kính tôn sư; hoan hỷ xuất ly tam giới[7]; hoan hỷ thoát ly các cảnh giới dục lạc; hoan hỷ quán sát các uẩn[8] như kẻ giết người[9]; hoan hỷ quán sát các giới[10] như rắn độc, quán sát các nội xứ như là xóm hoang; hoan hỷ hộ trì tâm bồ-đề; hoan hỷ làm ích lợi cho chúng sinh; hoan hỷ chia phần khi bố thí; hoan hỷ không giải đãi nghiêm trì tịnh giới; hoan hỷ nhu hòa nhẫn nhục; hoan hỷ tinh tấn tu tập thiện căn; hoan hỷ thành biện các thiền; hoan hỷ tu hành bát-nhã diệt trừ phiền não; hoan hỷ phát huy quảng đại tâm bồ-đề; hoan hỷ chiến thắng Ác Ma; hoan hỷ đoạn trừ phiền não; hoan hỷ thanh tịnh Phật quốc; hoan hỷ tích lũy thiện căn để viên mãn các tướng hảo và tùy hình; hoan hỷ vô úy nghe pháp thâm diệu; hoan hỷ tu tập ba giải thoát môn[11]; hoan hỷ vươn đến Niết-bàn; hoan hỷ trang nghiêm bồ-đề đạo tràng, và không chứng bồ-đề phi thời;  hoan hỷ phụng sự đồng học đồng phần; hoan hỷ không sân hận thù nghịch với phi đồng phần đồng học; hoan hỷ phụng sự thiện tri thức; hoan hỷ rời xa ác hữu. Đó là hoan hỷ trong pháp hỷ và pháp lạc; hoan hỷ nhiếp thọ phương tiện thiện xảo; hoan hỷ tu tập không buông lung các pháp bồ-đề phần208. Đấy là hoan hỷ pháp lạc của Bồ-tát.

Vimalakīrti-nirdeśa Sūtra, ch. 3, section 64, dịch Anh from  Sanskrit by D.S.

M.16 Pháp siêu việt ngôn ngữ

Đoạn này chủ yếu đồng nhất Pháp với Niết-bàn và thực tại cứu cánh vượt ngoài ngôn ngữ.

[Ch.5] Pháp không hý luận, không văn tự. Ở đây ai lập thành hý luận rằng, ‘Tôi sẽ biến tri khổ, đoạn trừ khổ, tác chứng diệt và tu tập đạo’[12], người ấy không phải cầu pháp, mà là cầu hý luận.

[Ch.3] Pháp sung mãn tất cả mọi nơi, như hư không. Pháp không hình tướng, viễn ly tất cả hiện hành. Nó không có ‘ngã’, viễn ly ‘ngã sở’. Pháp không liễu biệt, viễn ly tâm-ý- thức. Pháp không tương tợ, vì không có đối phần. Pháp không lệ thuộc nhân vì không ở trong duyên. Pháp đồng pháp giới, vì nhập hết thảy pháp. Pháp tùy hành Như, vì không có gì tương ứng tùy hành. Pháp trụ thất tế, vì tuyệt đối bất động.

Pháp không dao động, vì không y chỉ sáu xứ[13]. Pháp không đến, không đi, vì không sở trụ. Pháp thuận hợp Không, tùy hiện Vô tướng, ứng hợp Vô nguyện, vì viễn ly tăng giảm. Pháp không thủ xả vì viễn ly sanh diệt. Pháp không chấp tàng, vì vượt ngoài đạo lộ của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Pháp không cao thấp, vì thường trụ, bất động, viễn  ly hết thảy phân biệt sở hành.

Vimalakīrti-nirdeśa Sūtra, ch.5, section 3, and ch.3, section 6, dịch Anh from Sanskrit by D.S.

Lý do quyết định tu Phật

M.17 Đức Phật vị Đạo Sư xử lý tính bạc nhược của con người

Đoạn này phác họa tình cảnh chúng sinh vô minh và thỉnh Phật cứu hộ.

2. Bị tham dục bao quanh, bị tường thành của ngã mạn kiên cố vây hãm, cấu thành tam hữu, pháo đài to lớn này chính là ba cõi.[14]

3. Chính vì bị ném vào trong vọng tưởng và vô minh, bị tam độc thiêu đốt, cho nên (ở đây) luôn bị quyền lực của Ma vương sai sử. Đây là nơi cư ngụ của những trẻ dại ngu si.

4. Họ bị xích xiềng tham dục trói buộc, gian dối diệt chánh hành. Họ bị lưu chuyển trong ác đạo, nghi hoặc và do dự làm mắt mù lòa.

5. Do tật đố và keo kiệt trói buộc, họ bị dẫn vào những cõi bất hạnh, như ngạ quỷ, súc sinh hoặc địa ngục. Vì bị sanh, già, bệnh, chết bức bách, nên họ bị nghiệp kéo lôi vào chốn luân hồi mông muội.

6. Đại bi vô thượng như ánh trăng rằm, tuệ quang như mặt trời rực rỡ hiện ra diệt đại dương phiền não nhiễm ô, chiếu xuống con.212

7. Ánh trăng rằm đại từ, tuệ quang an chúng sinh, bình đẳng chiếu khắp nơi. Con nguyện được nguyệt vương chiếu soi.

8. Là vua của tất cả Pháp giới, binh đoàn là tịnh Pháp, thường chuyển chánh pháp luân. Con nguyện được diệu Pháp này chuyển hóa.

9. Con nguyện đắc bồ-đề. Con tích tập thiện nghiệp hạnh, và làm lợi ích mọi chúng sinh. Nguyện đấng Đại Đạo Sư che chở cho con.

10. (Được) trang nghiêm thân bằng áo giáp nhẫn nhục, nắm chặt thanh kiếm trí, và nhờ thế, trong ác đạo Ma vương, nguyện giúp con được cứu thoát.

Gaṇḍavyūha Sūtra, Taishō vol.9, text 278, p.688b14–c02, dịch Anh T.T.S. and D.S.

Tranh chấp và bao dung

M.18 Bồ-tát không dự phần tranh chấp

Đoạn này xem Bồ-tát như là người cảm động nhân tâm bằng tính bao dung dù khi những tranh chấp ác liệt bao vây.

Bồ-tát Vô Biên Trang Nghiêm (Anantavyūha) hướng Phật bạch rằng, ‘Bạch Thế Tôn, vào thời vị lai, khi mà những tranh luận khởi lên, bấy giờ con người đầy bám chấp sẽ đấu tranh khốc liệt lẫn nhau, ba độc hưng phát và chánh pháp bị rối loạn. Lúc bấy giờ, chư Bồ-tát, dốc hết đại bi, hiện thân nhẫn nại ở giữa những thảm cảnh này, để lưu bố pháp này mà không tranh luận. Vì không tham gia tranh luận, nên họ nhiếp thụ đại từ đại bi và tích tập tất cả sức mạnh của thiện căn.’ Ananta-mukha-pariśodhana-nirdeśa, section 2 of the Mahā- ratnakūṭa Sūtra, Taishō vol.11, text 310, p.21a11–15, dịch Anh T.T.S. & D.S.

M.19 Chân như vô tránh

Đoạn này xem ‘sự vật nó như là nó’ – bản tính như thực của thực tại, thường được dịch là ‘như’ hay ‘chân như’– vì vượt 1  trên ngôn từ và tranh luận, cho nên những ai tùy thuận chân như sẽ không tranh luận với chúng sinh (cf. *Th.17).

Này Xá-lợi-phất (Śāriputra), chân như tức là thật tánh, là như tính, là tự tính của những gì không phải là không như, là tự tính của những gì không bất viễn ly tính, không phát động, không loạn động tính, là tự tính của những gì không trái nghịch, tự tính của những gì không tranh chấp chống trái.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất, chân như là không tranh luận đối nghịch bất cứ sự gì. Vì không đối nghịch tranh luận, nên nó được gọi là chân như, nhưng chư Như Lai gọi nó là đối nghịch tranh luận. Này Xá-lợi-phất, chân như được nói là tùy thuận nhiếp thụ, vậy, nhân duyên gì mà Như Lai nói nó như là đối nghịch tranh luận? Này Xá-lợi-phất, vì Như Lai đối nghịch mọi tranh luận. Vì nhân duyên đó, Bồ-tát thường hiện đối nghịch tranh luận. Lại nữa, Như Lai không bao giờ đối nghịch tranh luận, và cũng chưa từng phát khởi đối nghịch tranh luận. Tại sao vậy? Vì Như Lai không đối nghịch cũng không tranh luận, nhưng thường hiện các sắc tướng tương tợ đối nghịch tranh luận.

Bodhisattva-piṭaka, section 12 of the Mahā-ratnakūṭa Sūtra, Taishō vol.11, text 310, p.283a13–21, dịch Anh T.T.S. and D.S.

Pháp là phương tiện đưa tới cứu cánh

M.20 Pháp không phải là để bám chấp

Đoạn này lặp lại từ đoạn *Th.23, ví dụ pháp như chiếc bè đưa hành giả vượt sông mê sang bờ giác (Niết-bàn); Pháp dụ cho phương tiện, một khi tới đích thì nên buông bỏ.

Này Tu-bồ-đề (Subhūti), Bồ-tát ma-ha-tát, không bám chấp pháp, cũng không bám chấp những gì là phi pháp. Đây là điều mà Như Lai có ý nói, ‘Ông nên biết rằng, pháp được tuyên thuyết, như chiếc bè. Chánh pháp còn phải buông xả, hà huống phi pháp.’

Vajracchedikā Prajñāpāramitā Sūtra, section 6, dịch Anh from Sanskrit by D.S.

M.21 Con đường dẫn đến trí tuệ

Bồ-tát cần phải tu tập các công đức dẫn đến giác ngộ, mà không xem các công này là có thực tính để có thể bám nắm. Bấy giờ, trưởng lão Tu-bồ-đề (Subhūti) bạch Phật: “Thế Tôn, như vậy thì, bát-nhã ba-la-mật-đa này quả thật tối uyên thâm. Không có người tu, không có pháp được tu, không có chỗ để tu xứ, và cũng không do đây mà được tu tập. Tại sao vậy? Đó là vì trong nghĩa thậm thâm của bát-nhã ba-la-mật-đa này, chí thiểu không có phần nào pháp có thực để có thể gọi là người tu, pháp được tu, chỗ để tu, hoặc do đây mà tu.

Bạch Thế Tôn, nếu tu hư không, đó là tu bát-nhã ba-la-mật- đa. Tu chứng tất cả pháp là tu bát-nhã ba-la-mật-đa. Tu pháp không có thực là tu bát-nhã ba-la-mật-đa. Tu cái không có gì là tu bát-nhã ba-la-mật-đa. Tu cái không nhiếp thọ là tu bát- nhã ba-la-mật-đa. Tu trừ diệt pháp là tu bát-nhã ba-la-mật-đa. Mahā-prajñāpāramitā Sūtra, Taishō vol. 7, text 220, pp.617c03– c12, dịch Anh T.T.S. and D.S.

Giáo pháp phân định tùy căn cơ, thu nhiếp tất cả

M.22 Đức Phật thuyết pháp tùy thuận căn cơ của thính chúng

Đoạn này trích dịch từ Kinh Pháp Hoa, trong đó đức Phật chỉ rõ rằng, Ngài đã dùng phương tiện thiện xảo để dẫn dắt chúng sinh, vì biết rằng có nhiều ý hướng khác nhau. Với những người hạ căn, thì Phật dạy, cứu cánh là Niết-bàn, hàm nghĩa giải thoát cá nhân khỏi sinh tử luân hồi. Giáo  pháp này chỉ là một trong ba thừa (yāna: cỗ xe) mà thôi (xem *M.64-7). Thừa (cỗ xe) thứ hai là thừa dẫn đến chứng quả Độc Giác – tuy trí tuệ kiên cố, nhưng vẫn không đủ tâm bi để giáo hóa thuần thục chúng sinh. Thứ ba là thừa (cỗ xe) dẫn đến chứng đắc Phật quả viên mãn, đức Phật viên mãn đại trí và đại bi. Thực tế, tất cả chúng sanh đều có thể đạt được cứu cánh này, là mục đích mà Phật chỉ rõ trong Kinh Pháp Hoa. Hai thừa đầu tiên chỉ là hai thừa phương tiện, mà mục đích chưa phải là cứu cánh đích thực tối thượng.

42. Hãy lắng nghe, này Xá-lợi-phất! Chư Phật, Đại Đạo Sư, bằng vô số trăm nghìn phương tiện thiện xảo mà tuyên thuyết Phật Pháp, các Vô thượng Đại trượng phu.

43. Ta vốn biết những ý hướng, phẩm hạnh, những xu hướng sai biệt và những nghiệp thù thắng của vô lượng chúng sinh, cũng như các thiện nghiệp trong quá khứ được tạo tác thành tựu.

44. Và Ta đã dẫn những chúng sinh này đến với Pháp bằng vô số sai biệt ngôn từ, diễn giải; bằng vô số nhân duyên, thí dụ khiến cho vô lượng chúng sinh hoan hỷ.

45. Ta đã tuyên thuyết các khế kinh (sūtra) và kệ tụng

(gāthā), bản sanh (jātaka)[15], bản sự (itivṛttaka), vị tằng hữu (adbhuta), nhân duyên (nidāna), và trăm nghìn thí dụ (aupamya). Ta đã thuyết bằng vi diệu ứng tụng (geya), và luận nghị (upadeśa).

46. Có những hạng xu hướng thấp kém, thiếu trí tuệ, những hạng không tu tập theo vô lượng chư Phật, những hạng bị chìm ngập trong sanh tử và những hạng thọ lãnh kỳ cùng khổ. Ta khai thị Niết-bàn cho những hạng ấy.

47. Đấng Tự Hữu (svayaṃbhū) bằng vô số phương tiện thiện xảo thức tỉnh chúng thấu hiểu Phật trí, thế nhưng (Ta) chưa bao giờ tuyên bố, ‘Ngươi sẽ thành Phật trong thế giới này.’…

62. Này Xá-lợi-phất, nếu như Ta nói với những chúng sinh là hãy phát tâm cầu giác ngộ2, thì những chúng sinh vô tri này sẽ mê hoặc lạc lối và không bao giờ hiểu được ý nghĩa những lời vi diệu Ta đã nói.

63. Ta vốn biết chúng sở thích những gì, những chúng sinh ấy chưa từng tu tập lâu dài trong những đời quá khứ. Chúng bị dính mắc trong các dục lạc bởi khát ái, tâm bị co rút bởi si mê.

64. Do tham ái các dục, chúng đọa trong các ác đạo, tâm bị quẫn bức trong sáu nẻo. Những bãi tha ma chôn thây càng lúc càng rộng lớn. Chúng bị bức khổ và quá ít phước.

65. Chúng bị vây khổn trong rừng tà kiến, tư duy, ‘nó tồn tại, nó không tồn tại; nó tồn tại như vậy, nó không tồn tại như vậy’, như thế y chỉ sáu mươi hai kiến chấp[16], rồi chấp chặt pháp hư vọng, chúng kiên trì trong đó.

66. Chúng rất khó tịnh trị, kiêu mạn, lừa dối, gian trá, không trung thực, ngu si, kém học hỏi. Thậm chí, qua vô lượng kiếp đời, chúng chưa bao giờ nghe được âm thanh vi diệu của Phật.

67. Này Xá-lợi-phất, Ta dùng phương tiện thiện xảo chỉ dạy chúng, ‘Hãy diệt tận khổ.’ Ta thấy chúng sinh bị khổ bức bách, do vậy, Ta khai thị Niết-bàn.

68. Ta nói như vầy, rằng, các pháp từ khởi thủy vốn tịch tĩnh, thường trụ tịch diệt, Phật tử hành đạo đã tròn đầy, đời sau sẽ thành Phật.

69. Bằng phương tiện thiện xảo, Ta khai thị ba thừa, nhưng duy nhất chỉ một thừa. Chư vị Đại Đạo Sư duy nhất chỉ một thuyết.

Saddharma-puṇḍarīka Sūtra, ch.2 vv.42–47, vv.62–69, dịch Anh from Sanskrit by D.S.


KIM CANG THỪA

Phẩm tính của Pháp

V.7 Thử nghiệm pháp

Đoạn này cho rằng Phật Pháp nên được tiếp nhận một cách có phê phán, hơn là chỉ tin tưởng mù quáng; được trích dịch từ tác phẩm của một luận sư Trung luận (Mādhyamika) Ấn- độ là Tịch Hộ (Śāntarakṣita) (khoảng 680–740), người đầu tiên hỗ trợ thiết lập Phật giáo tại Tây Tạng.

Này các tỳ-kheo, những ai đa văn chỉ nên tiếp nhận những gì Ta nói sau khi đã thẩm sát, chứ không phải chỉ vì tôn kính – cũng như người thử vàng, bằng cách nung, cắt, và mài giũa.

Tattvasaṅgraha v. 3588, dịch Anh from Sanskrit by D.S.

V.8 Chân hạnh phúc chỉ có thể đạt được bằng thực chứng Pháp

Milarepa (Mi la ras pa, c. 1052–c.1135) là một trong những du-già sư và thi nhân nổi tiếng nhất của Tây Tạng. Ngài là  đệ tử của đại dịch sư Marpa (1012-1097), và một nhân vật chính trong lịch sử phái Kagyupa của Phật giáo Tây Tạng. Ngài được mọi người biết đến nhiều nhất qua các bài thơ tự sáng tác của mình, được sưu tập vài thế kỷ sau khi Ngài qua đời ở Mila Gurbum, gọi là “Một trăm ngàn bài ca của Milarepa”.[17] Đoạn dưới đây, so sánh an lạc của hành giả du-già mật tục chân chánh với sự không an lạc của ‘những  kẻ hành Pháp’ giả dối và tự phụ, là một trong những bài ca nổi tiếng nhất của Ngài. Chủ điểm của bài ca là an lạc chân thật chỉ có thể đạt được do thực chứng Pháp.

Thấy rõ tự tánh của chính mình, thấu rõ các pháp bản lai như thật, như vậy du-già sĩ, mọi thời đều an lạc. Tâm đuổi theo vọng tưởng, tự khốn tự bức khổ, như vậy người học pháp, mọi thời đều khổ não.

Trụ tự tâm an nhiên, bản tánh tịnh bất động,[18] như vậy du- già sĩ, mọi thời đều an lạc. Tâm đuổi theo vọng cảnh, chế ngự bởi tham sân, như vậy người học pháp, mọi thời hằng ưu khổ. Tỏ ngộ tất cả pháp, thảy đều là Pháp thân3 không sợ, mong, nghi hoặc, như vậy du-già sĩ, mọi thời đều an lạc. Ba hoa nói vô nghĩa, bị tám gió[19] xoay vần, như vậy người học pháp, mọi thời đều khổ não.

Hiểu nhất thiết duy tâm, gặp ai cũng là bạn, như vậy du-già sĩ, mọi thời đều an lạc. Sống sa đà uổng phí, ôm hối hận xuống mồ, như vậy người học pháp, mọi thời đều ưu khổ.

Thực chứng ngộ nội tâm, trụ bản địa như nhiên,[20] như vậy du-già sĩ, mọi thời đều an lạc. Bị tham dục chế ngự, khát khao và ham muốn, như vậy người học pháp, mọi thời đều ưu khổ.

Tự giải thoát các tướng, luôn rõ cảm thọ khởi, như vậy du-già sĩ, mọi thời đều an lạc. Chấp chặt theo văn tự, không tỏ tự tánh tâm, như vậy người học pháp, mọi thời luôn sầu khổ. Xả bỏ pháp thế gian, thong dong không quái ngại, như vậy du-già sĩ, mọi thời đều an lạc. Cân đong tích tụ của, yêu thân thuộc, vợ con, như vậy người học pháp, mọi thời đều khổ não.

Cắt đứt mọi hệ lụy, thấy tất cả như huyễn, như vậy du-già sĩ, mọi thời đều an lạc. Tâm loạn theo buông lung, thân tâm nô lệ dục, như vậy người học pháp, mọi thời luôn sầu khổ.

Cầm cương ngựa tinh tấn, du hành Bồ-tát địa, như vậy du-già sĩ, mọi thời đều an lạc. Gông cùm bởi lười biếng, neo chìm biển sanh tử, như vậy người học pháp, mọi thời luôn sầu khổ. Dứt phân biệt nghe, nghĩ, vui quán chiếu tự tâm,[21] như vậy du-già sĩ, mọi thời đều an lạc. Miệng nói tu chánh pháp, thân làm các ác hành, như vậy người học pháp, mọi thời luôn sầu khổ.

Dứt mong, sợ, nghi hoặc, hằng an trụ bản giác, như vậy du- già sĩ, mọi thời đều an lạc. Bị xỏ mũi lôi đi, ngoan ngoãn  theo thói đời, như vậy người học pháp, mọi thời luôn sầu  khổ.

Bỏ lại sau “này, nọ”, thường hành trì tịnh pháp, như vậy du- già sĩ, mọi thời đều an lạc.

‘One Hundred Thousand Songs of Milarepa’, pp.224–25, dịch Anh T.A.

 

V.9 Nghịch cảnh ẩn tàng phước duyên hướng Chánh Pháp

Đoạn này là một thi kệ nổi tiếng, trích từ ‘Đại viên mãn tiền hành dẫn đạo văn’ (The Words of My Perfect Teacher) của Longchenpa (1308–1364), vị đạo sư và tác gia lỗi lạc nhất của phái Nyingmapa,

Áp bức bởi thù địch, ta qui hướng chánh pháp, tìm thấy lối giải thoát; xin tri ân kẻ hại.

Khổ bức bởi khốn cùng, ta qui hướng chánh pháp, tìm thấy lạc thường hằng; xin tri ân khổ đau.

Tác hại bởi phi nhân, ta qui hướng chánh pháp, tìm thấy vô sở úy; xin tri ân quỷ thần.

Sân hận bởi tha nhân, ta qui hướng chánh pháp, tìm thấy chân khoái lạc; xin tri ân kẻ thù.

Buồn khổ bởi ác duyên, ta qui hướng chánh pháp, tìm thấy lối bất biến; xin tri ân tai họa.

Khiêu khích bởi tha nhân, ta qui hướng chánh pháp, tìm thấy nghĩa tinh hoa; tri ân kẻ khiêu khích.

Để đền đáp thiện ân, xin hồi hướng tất cả.

The Words of My Perfect Teacher, pp.289–90, dịch Anh T.A.

Lược giải về Pháp

V.10 Đèn soi Nẻo Giác

‘Bồ-đề đạo đăng luận’ (Skt. Bodhi-patha-pradīpa) là một tác phẩm có tầm quan trọng cực kỳ trong lịch sử Phật giáo Tây Tạng. Nó được viết bởi Đại đạo sư Atiśa (982-1054), hay còn gọi là Dīpaṃkara Śrījñāna (Nhiên Đăng Cát Tường Trí), vị tiền phong phục hưng Phật giáo ở Tây Tạng, được gọi là ‘hậu truyền’ của Chánh Pháp. Vốn là một vị tôn trưởng và tu sĩ học giả được tôn kính ở đại học tu viện Siêu Giới (Vikramaśīla), Ngài được thỉnh đến Tây Tạng vào những  năm cuối đời. Các hoạt động hoằng pháp của Ngài đã dẫn đến sự hình thành một trật tự tôn giáo mới, của phái Kadampa. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Ngài, được dịch toàn bộ, là một bản tóm tắt ngắn gọn về quan niệm hậu kỳ Đại thừa và Kim cang thừa về đạo lộ Phật giáo khi nó được truyền sang Tây Tạng vào thời đó.[22]

[Dẫn nhập]

Kính lễ Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử[23]

1. Kính lễ tam thế Tối Thắng Tôn, cùng với giáo pháp và Tăng-già. Do đệ tử Bồ-đề Quang,[24] con thắp ngọn đèn soi nẻo giác.

2. Do căn có ba hạng: hạ, trung và thượng sĩ. Tôi kể từng hạng một, và giải thích sai biệt.

3. Hạng sĩ phu hạ căn, luôn tìm mọi phương tiện, chỉ lợi ích mình, chỉ theo vui sanh tử.

4. Quay lưng lạc ba hữu, tránh xa các nghiệp ác, chỉ mong ta tịch tĩnh, đây là hạng trung sĩ.

5. Chỉ muốn diệt tận khổ, cho tất cả chúng sanh, như chính khổ của mình, ấy là thượng sĩ phu.

[Phát bồ-đề tâm]

6. Xin thuyết chánh phương tiện, do các sư trưởng dạy, cho các thắng hữu tình, tìm cầu đại bồ-đề.[25]

7. Trước họa tượng của Phật, trước linh tháp[26], kinh điển, cúng dường bằng hương hoa, hay bất kỳ phẩm vật.

8. Với bảy chi cúng dường, thuyết trong ‘Phổ Hiền Hành’,[27] cho đến bồ-đề tạng, tâm không hề thoái chuyển.

9. Chí tín Tam bảo tôn, hai gối quỳ trên đất, cung kính chắp hai tay, nói quy y[28] ba lần!

10. Rồi, trước vận tâm từ, rải khắp mọi hữu tình trước nhất, quán chúng khổ sanh tử, đọa trong ba ác đạo.[29]

11. Rồi, muốn độ chúng sanh, thoát khổ cùng khổ tập, nên phát tâm bồ-đề,[30] thệ quyết không thoái chuyển.

12. Những công đức có được, do phát tịnh tâm nguyện, như Di-lặc giảng rõ, ở trong kinh Hoa Nghiêm.

13. Đọc kinh, nghe thầy giảng, nghĩ vô lượng công đức, chánh đẳng bồ-đề tâm, thường xuyên phát tâm ấy.

14. Phước ấy được giảng rõ, trong kinh Dũng Thí Vấn, tóm lược thành ba tụng, tôi sẽ dẫn ra đây:

15. ‘Bồ-đề tâm phước đức, giả sử có sắc tướng, sẽ tràn đầy không giới, và còn dư hơn nữa.

16. Nếu ai đem trân bảo, chất đầy khắp cõi Phật thế giới, nhiều như cát sông Hằng, cúng dường Cứu Thế Tôn,

17. Thì cũng không sánh bằng, người chỉ có chắp tay, hướng tâm đến bồ-đề, phước ấy vô biên tế.

[Thọ Bồ-tát giới, hành bồ-đề nguyện]

18. Đã phát tịnh tâm bồ-đề nguyện, hãy nên nỗ lực luôn tăng trưởng, hộ trì học xứ đã thọ, ghi nhớ điều này suốt nhiều đời.

19.Tâm nguyện bồ-đề không luật nghi, không thể tăng trưởng tâm chánh nguyện. Do vậy, muốn trưởng bồ-đề nguyện, phải quyết nỗ lực trì luật nghi.

20. Ai hằng giữ phần nào, bảy biệt giải luật nghi,[31] mới thọ Bồ-tát giới, nếu không, không thể thọ.

21. Bảy biệt giải luật nghi, Như Lai đã thi thiết, trì phạm hạnh tối thắng, là luật nghi bí-sô.

22. Nghi quỹ y Du-già, Bồ-tát địa Giới phẩm, thọ luật nghi Bồ-tát, từ giới sư đủ đức.

23. Thông suốt nghi quỹ thọ, tự thân trụ luật nghi, giới sư đủ đức ấy, tâm bi truyền luật nghi.

24. Nếu nỗ lực tầm cầu, không giới sư như vậy; nghi quỹ thọ giới khác tôi nay sẽ chỉ rõ.

25. Như vậy, tôi thuật lại, quá khứ Diệu Cát Tường (Mañjuśrī: Văn-thù-sư-lợi), khi là Hư Không Vương (Abharāja), khởi phát bồ-đề tâm, như được thuyết trong Kinh ‘Văn-thù nghiêm Phật độ’.

26. Trước các đấng Cứu Thế, con phát bồ-đề tâm, mời gọi thảy chúng sanh, nguyện cứu thoát sanh tử.

27. Từ nay đến thành Phật, con trọn không phát khởi, tâm gây hại, phẫn nộ, xan lẫn và tật đố.

28. Con sẽ tu phạm hạnh, ly dục, ác bất thiện, thường theo Phật tu học, yêu chuộng giới luật nghi.

29. Chóng đắc đại bồ-đề, trụ thế cùng vị lai, không vì tự lợi lạc, mà vì thảy chúng sanh.

30. Con sẽ tịnh vô lượng, bất tư nghì cõi Phật,[32] trụ khắp mười phương giới, cứu người gọi đến con.

31. Thân, ngữ nghiệp của con, tất cả khiến thanh tịnh, ý nghiệp cũng thanh tịnh, không tạo nghiệp bất thiện.’

32. Trụ luật nghi với tâm bồ-đề, nhân thanh tịnh tự thân, ngữ, ý, học tập thiện xảo ba tụ giới,4  ái kỉnh ba học càng tăng trưởng.

33. Như vậy siêng tịnh tu, các luật nghi Bồ-tát, hành trang đại bồ-đề, do vậy được viên tịnh.

[Tu chỉ (śamatha) và đắc thần thông]

34. Hết thảy Phật đều nói, hành trang phước và trí,[33] sẽ không thể tròn đầy, nếu không tu thắng trí.[34]

35. Như chim chưa đủ cánh, không thể bay trong không, nếu thiếu lực thần thông, chẳng thể lợi hữu tình.

36. Phước đức tu một ngày, của người có thần thông, mà người thiếu thần thông, tu trăm kiếp không bằng.

37. Nếu muốn chóng tròn đủ, hành trang đại bồ-đề, phải siêng tu thần thông; giải đãi không thể thành.

38. Nếu chưa thành tựu chỉ,[35] không thể khởi thần thông. Vậy phải luôn nỗ lực, để tu thành thiền chỉ.

39. Nếu xao lãng thiền chỉ, dù tinh cần tu tập, trải qua một ngàn năm, cũng không thể đắc định.

40. Giữ các chi được nói, trong phẩm Định Tư Lương,[36] đặt ý trụ vững thiện, trên đề mục được chọn.

[Trí tuệ ba-la-mật]

41. Hành giả tu chỉ thành, thần thông cũng sẽ thành. Nhưng không hành trí độ, không thể diệt chướng ngại.

42. Để tận trừ các chướng, phiền não và sở tri,5 cần có đủ phương tiện, hành giả tu trí độ.

43. Trí tuệ không phương tiện, phương tiện không trí tuệ, cả hai đều hệ phược (trói buộc trong sanh tử), nên đủ hai, không thiếu.

44. Để trừ chư nghi hoặc: tuệ gì? phương tiện gì? Tôi sẽ chỉ sai biệt, giữa phương tiện và tuệ.

45. Ngoại trừ trí tuệ độ, hết thảy tư lương thiện, như thí độ vân vân, chư Phật giả gọi phương tiện.

46. Ai tu trí tuệ độ, trợ lực bởi phương tiện, nhanh chóng chứng bồ-đề, phi tu riêng vô ngã.[37]

47. Thông đạt uẩn[38] xứ, giới,[39] hết thảy đều vô sanh, liễu tri tự tánh không, ấy là trí tuệ độ.

48. Cái (hữu / tồn tại) thì không sanh; không (phi hữu / không tồn tại), thì như hoa đốm, có-lẫn-không: sai lầm; nên vừa-hai: không sanh.[40]

49. Pháp không sanh từ nó, cũng không từ cái khác, không hai cộng, vô nhân, nên tự tánh vô thể.

50. Lại quán sát các pháp, theo lý ‘một hay khác’ 6, tự tánh bất khả đắc, biết chắc không tự tánh.

51. Tự tánh của chư pháp, chứng minh là không tánh, trong Thất thập không tánh, và Căn bản Trung Luận.

52. Tôi không diễn rộng thêm, bởi ngại văn quá dài, mà chỉ nêu yếu lý, vì chỉ thuyết để tu.

53. Nên tự tánh các pháp, hoàn tòa bất khả đắc, cho nên tu vô ngã, cũng là tu trí tuệ.

[Đoạn phân biệt]

54. Như tuệ quán các pháp, không thấy có tự tánh, cũng rõ tánh tuệ ấy, tu tuệ vô phân biệt.

55. Luân hồi phát sanh từ phân biệt, tự thể luân hồi: tưởng phân biệt. Vậy nên đoạn trừ mọi phân biệt, đó chính là tối thắng Niết-bàn.7

56. Như Thế Tôn đã từng tuyên thuyết, ‘Phân biệt chính là đại vô minh, khiến đọa biển luân hồi sanh tử. Khi an trụ định vô phân biệt, vô phân biệt sáng như hư không.’8

57. Kinh ‘Nhập Vô phân biệt đà-la-ni’ cũng nói, ‘Bồ-tát với pháp ấy, nếu tu vô phân biệt, vượt phân biệt hiểm trở, dần được vô phân biệt.’

58. Thánh giáo và chánh lý, chứng rõ hết thảy pháp, không sanh, không tự tánh, nên tu vô phân biệt.

[Những sắc thái mật tục của đạo]

59. Tu chân tánh (vô phân biệt) như vậy, rồi đạt noãn vân vân,9 sẽ nhập địa Cực hỷ10, Chánh đẳng giác không xa.

60. Nếu mong dễ viên mãn, tư lương đại bồ-đề, tu tám lực tất-địa, tu bảo bình các thứ,[41]

61. Tĩnh, tăng, các sự nghiệp, thành tựu do chú lực;[42] nếu muốn tu mật chú, thuyết trong sự, hành mật.[43]

62. Để được Thầy quán đảnh,11 hãy làm Thầy hài lòng, bằng phụng sự cúng dường, tuân lời sư trưởng dạy.

63. [44] Khi Thầy đã hài lòng, sẽ truyền đủ quán đảnh, tịnh trị quá khứ tội, sẵn sàng tu tất-địa.

64. Quán đảnh mật và tuệ,[45] không truyền cho xuất gia, bởi điều ấy bị cấm, trong (bản) Sơ Phật Đại Tục.

65. Nếu trì quán đảnh ấy, người an trụ phạm hạnh, sẽ vi phạm cấm giới, luật nghi tất bị hủy.

66. Vi phạm cấm giới này, tất phạm tha thắng tội,[46] nhất định đọa ác thú, chẳng thành tựu được gì.

67. Nếu nghe học các tục, và tế tự hộ-ma,12 được Thầy quán đảnh, rõ tội tánh vốn không (không mất giới).

[Bạt]

68. Do Bồ-đề Quang thỉnh, Nhiên Đăng Trí Thượng tọa, y theo kinh pháp thuyết, tóm tắt bồ-đề đạo,.

The Lamp for the Path to Awakening’, dịch Anh T.A.

V.11 Milarepa khai thị

Milarepa (c.1052-c.1135) nhà thơ du-già sĩ nổi tiếng của Tây Tạng (xem * V.8), để giải thoát một trong những đệ tử chính của mình khỏi một mối quan hệ nặng nề, ông biến mình  thành một người ăn xin khờ khạo và khăng khăng cầu xin vị ấy một viên đá quý giá mà ông sẽ tặng cho một cô nương. Khi vị ấy nhận ra ai là người ăn xin, Milarepa đã hát bài ca sau để mừng dịp này.[47]

Từ bi cứu giúp người yếu đuối, tức cúng dường chư Phật ba đời. Thí cho hành khất viên lục ngọc, như cho ta, Mi-la-re- pa.

Hết thảy chúng sanh là cha mẹ,[48] nếu ôm lòng phân biệt kỳ thị, như uống thuốc độc của ngu si, của ngu xuẩn vô minh. Tăng đồ có học cùng hòa thuận, chấp riêng tông môn, chê tông khác, sở học vô ích cuốn theo nước.

Phật Pháp há có đen hay trắng; đấu tranh, đấu khẩu vì giáo nghĩa, là cắt mối dây lên giải thoát.

Lợi ích cho người là lợi mình, giúp người là suối nguồn tự lợi, tổn hại kẻ khác chính tự hại.

One Hundred Thousand Songs of Milarepa’, p.311, dịch Anh T.A.

***

[1] Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và trí tuệ (xem *M.100- 106).

[2] Xem chú thích *M.10.

[3] Giải thích ở phần cước chú *M.158. 199 Xem *LI.7.

[4] Xem *Th.156ff.

[5] Tức là tác ý vô tự tính và định tâm trên các tướng trạng của những gì được tri nhận, và được ước nguyện.

[6] nāga, yakṣka, gandharva, các hạng chư thiên và quỷ thần.

[7] Tức là toàn bộ pháp hữu vi, xem ‘ba cõi’ ở phần Bảng chú giải thuật ngữ và tên riêng.

[8] Chuỗi tương tục danh sắc tạo thành một chúng sinh: sắc, thọ, tưởng, hành và thức (xem *Th.151).

[9] Chúng có mặt trong khi tái sinh và chấm dứt khi chết.

[10] Mười tám giới là sáu căn (năm sắc căn cộng với ý căn), các đối tượng của chúng, và các thức tương ứng. Chúng được ví dụ như ‘nọc độc của rắn’, hư dối, là ‘các trường nhận thức’ (các căn và cảnh); tất cả đều trống rỗng, không có một cái ngã cố định và thường hằng.

[11] Không, vô tướng, vô nguyện. Xem chú thích cuối *M.14. 208 Theo giải thích *M.10.

[12] Bài Pháp đầu tiên của đức Phật (xem tiểu đoạn *L.27).

[13] Trong Phật giáo, tâm thức được kể như là một giác quan, cùng với các giác quan khác như thấy, nghe, nếm, ngửi và xúc chạm.

[14] Đây là toàn bộ các cõi hữu vi: xem ‘tam giới’ ở Bảng chú giải thuật ngữ và tên riêng.

[15] Những chuyện về tiền thân của Phật. 214  Tức là sự giác ngộ (bồ-đề) của Phật.

[16] Số 62 (dvāṣaṣti), được chọn ở đây vì có lẽ đơn giản là cụm từ này có âm vị tương tợ câu ‘tathāsti nāsti – nó tồn tại như vậy, nó không tồn tại như vậy) đứng ngay trước. Cũng có thể nó chỉ đến 62 tà kiến liệt kê trong bản Kinh Phạm Võng (Brahmajala) thuộc Trường Bộ Pāli (Dīgha-nikāya).

[17] Với bản dịch tiếng Anh, xem The Hundred Thousand Songs of Milarepa, trans. Garma C.C. Chang/Trương Trừng Cơ (HSM). Xem pp.459–61 cho đoạn này.

[18] ‘Bản tánh tịnh bất động’ là trạng thái tự nhiên của tâm (xem *V.70). 218 Xem phần giới thiệu trên *M.9.

[19] Tám ngọn gió đời là bốn cặp: được và mất, lạc và khổ, khen và chê, vinh và nhục.

[20] ‘Bản địa như nhiên’ chỉ cho bản tánh tự nhiên của tâm và pháp trong tự tánh của tâm.

[21] Nhìn vào mọi thứ xuất hiện trong tâm như trò huyễn thuật.

[22] Những bài kệ gốc của bản văn này được đi kèm với một phần tự chú giải mở rộng.

[23] Bồ-tát của trí tuệ.

[24] Quốc vương xuất gia, cai trị vương quốc Guge phía tây Tây Tạng, thỉnh Atiśa sang Tây Tạng.

[25] Tức là những hạng thượng nhân tầm cầu giác ngộ để cứu giúp mọi chúng sanh.

[26] Stupa, tháp thờ xá-lợi thân: xem *Th.94. Chúng cũng xem các kinh văn Phật giáo như ‘xá-lợi Pháp’.

[27] Chương ‘Samantabhadra-caryā’(Phổ Hiền hạnh nguyện phẩm) trong Hoa Nghiêm Kinh (Gaṇḍavyūha Sūtra) là nguồn tài liệu chính về hành trì cơ hản của Đại thừa với ‘bảy chi cúng dường’ – gồm lễ kính chư Phật, rộng tu cúng dường, sám hối nghiệp chướng, tùy hỷ công đức, thỉnh chuyển Pháp luân, thỉnh Phật trụ thế, và hồi hướng bồ-đề.

[28] Xem *Th.93 và *M.49–50.

[29] Cõi bàng sanh, ngạ quỷ và địa ngục.

[30] Bodhicitta, theo nghĩa khuyến khích chứng đắc viên mãn Phật quả, vì lợi lạc quần sanh. Xem *V.33.

[31] Biệt giải thoát luật nghi (pratimokṣa-saṃvara, phòng hộ tâm bằng giới biệt giải thoát), có bảy phần: năm cho xuất gia – sa-di, sa-di-ni, thức-xoa- ma-na, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni – và hai chi tại gia: cận sự nam, cận sự nữ. Xem *V.48.

[32] Tức là thanh tịnh hóa các thế giới của chúng sanh thành cõi Phật. 233 Ba tụ tịnh giới: nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới, và nhiêu ích hữu tình giới (xem LP pp.96–7). Xem *V.46–8.

[33] Hai tư lương được tích lũy cần thiết để chứng đắc Phật quả viên mãn.

[34] Thắng trí (abhijña) thường hiểu là thần thông Xem *Th.141.

[35] Tu chỉ (samatha) tăng trưởng định, xem *Th.132 và 140.

[36] Samādhi-saṃbhāra-parivarta, một tác phẩm của Bodhibhadra (Giác

Hiền, vị thầy chính của Atiśa) tóm tắt các chi phần là: (1) xuất ly ma nghiệp, (2) gia hành văn huệ, (3) trừ khử hý luận, (4) không ham nói nhiều, (5) tác ý nơi tướng, (6) niệm công đức định, (7) cần hành đối trị, (8) hòa hiệp chỉ–quán (vipaśyanā), (9) trú thực am tri phương tiện (LPp.215). 238 Phiền não chướng trở ngại giải thoát, và sở tri chướng trở ngại nhất thiết trí.

[37] Tu tập trí tuệ là quán chiếu nhân vô ngã và pháp vô ngã (xem *V.75-6).

[38] Chuỗi tương tục của danh và sắc tạo thành tự ngã.

[39] Các cơ sở tri giác (căn và cảnh) cùng với các thức tương ứng.

[40] Xem *V.75, ‘Quán chiếu nhân vô ngã’, hay không tự tánh, của

Gampopa, cùng lý luận đồng dạng (căn cứ trên hỗ tương phụ thuộc của hai khái niệm ‘nhân’ và ‘quả’) được dùng để chứng minh về nhân vô ngã. 243 Thí dụ kinh điển là khái niệm về một ‘vi trần’ được thấy chẳng phải là ‘một’ hay ‘nhiều’: vi trần là ‘một’ không có bởi vì bất cứ cái gì có trương độ trong không gian (hay thời gian) thì cũng có thể chia chẻ đến vô hạn, và nếu không có những cái ‘một’, thì cũng chẳng thể có ‘nhiều’ (xem *V.76). 244 Cf. MMK XVIII.5: ‘Khi nghiệp và phiền não bị tiêu diệt, thì có sự giải thoát. (Quán chiếu vào) tánh không chặn đứng sự tăng trưởng của nghiệp và phiền não, thứ sẽ dẫn tới sự tăng trưởng niệm tưởng phân biệt.’ 245 Không rõ nguồn.

[41] Tám đại tất-địa (mahāsiddhi): 8 đại thành tựu. Trong số rất nhiều ‘đại thành tựu’ được nêu trong kinh điển Kim cang thừa, bộ tám này ở đây chỉ cho: (1) bảo bình, (2) phi hành (chạy nhanh), (3) bảo kiếm, (4) khiển sứ, (5) độn thổ, (6) ẩn thân, (7) cây như ý, và (8) quốc chánh (xem LP pp.167. và 184. n.7). Một số tương tự như các thần thông được nêu trong kinh văn Thượng tọa bộ (xem *L.35 và *Th.48 và 141).

[42] Bốn loại bồ-đề sự nghiệp được tu tập trong đạo lộ của Mật Tục (Tantra) hay Chân Ngôn (Tantra) (cả hai thuật ngữ được dùng tương đương cho Kim cang thừa) gồm tĩnh (tức tai, trừ tai họa), tăng ích (diên mạng, trường thọ), hoài ái (hoài nhu, nhiếp phục, câu triệu, lôi cuốn thân thích) và hàng phục (trấn áp, tiêu diệt kẻ địch).

[43] Bốn bậc mật tục được biết trong các tân phái Phật giáo Tây Tạng gồm sự mật bộ (kriyā-tantra), hành mật bộ (caryā-tantra), du-già mật bộ (yoga- tantra), và vô thượng mật bộ (anuttara-tantra). Chúng đại diện cho các mức độ hiểu biết uyên áo tăng dần để một người có bồ-đề tâm, với từng cấp có các pháp hành khác nhau của mình. Hai cấp đầu tiên được đề cập ở đây.

[44] Nghi lễ nhập môn cho phép một người có thể hành một pháp Kim cang thừa nào đó.

[45] Hai cấp độ nhập môn mật tục cao hơn, liên quan đến những hoạt động có bản chất tính dục và do đó không phù hợp với hàng xuất gia. Trong hành trì hiện tại, hàng xuất gia chỉ được truyền quán đảnh (nhập môn) một cách tượng trưng.

[46] Tha thắng tội: pārajika (ba-la-di), xuất gia hành dâm dục, phạm trọng cấm ba-la-di, mất thể tánh tỳ-kheo, phải bị tẫn xuất khỏi Tăng. Xem *V.84. 254 Hộ-ma (homa), hay hỏa đàn, một trong nhiều loại lễ nghi Kim cang thừa (xem LP p.186.n.31 để biết danh sách).

[47] Xem chuyện 57 (Rechungpa’s Departure) trong HSM p. 677-48.

[48] Tức là, đã từng là cha mẹ của mình trong nhiều đời quá khứ.