Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập
Pháp Nhiên Thượng Nhân
Thích Pháp Chánh dịch

 

16. Ân Cần Phó Chúc

Thích Ca Như Lai đem danh hiệu Phật A Di Đà ân cần phó chúc các ngài Xá Lợi Phất, v.v..

A Di Đà Kinh nói:

Phật nói kinh này xong, ngài Xá Lợi Phất cùng các vị tỳ kheo, tất cả trời, người, a tu la, v.v.., nghe lời Phật dạy, vui mừng tin nhận, đảnh lễ mà lui ra.

Pháp Sự Tán của ngài Thiện Đạo giải thích đoạn kinh này như sau:

Lúc Thế Tôn nói pháp sắp xong,
Ân cần phó chúc Di Đà danh,
Trong thời năm trược, nhiều nghi báng,
Tăng, tục kỵ hiềm, không chịu nghe.
Thấy người tu hành, khởi sân độc,
Tìm cách phá hoại, sinh thù hận,
Bọn nhất xiển đề đui mù này,
Hủy diệt đốn giáo, vĩnh trầm luân.
Quá số kiếp như số vi trần,
Cũng chưa ra khỏi ba đường ác,
Đại chúng đều đồng tâm sám hối,
Tất cả tội phá pháp nhân duyên.

Lời bàn: Theo bổn ý của ba kinh, trong các công hạnh, tuyển chọn pháp Niệm Phật làm chỗ quay về (Hán: chỉ quy).

Trước tiên, trong Vô Lượng Thọ Kinh có ba sự tuyển chọn: (1) tuyển chọn bổn nguyện, (2) tuyển chọn tán thán, (3) tuyển chọn lưu lại giáo pháp.

1. Tuyển chọn bổn nguyện: Niệm Phật là công hạnh vãng sinh do ngài tỳ kheo Pháp Tạng tuyển chọn từ hai trăm mười ức cõi Phật, ý chỉ vi tế đã trình bày ở trên, nên gọi là tuyển chọn bổn nguyện.

2. Tuyển chọn tán thán: Trong ba bậc thượng phẩm vãng sinh, tuy nêu ra các công hạnh khác như phát Bồ đề tâm, v.v.., thế nhưng Đức Thích Ca không tán thán các công hạnh đó, mà chỉ tán thán Niệm Phật như sau: “ Nên biết một niệm niệm Phật là công đức vô thượng” , nên gọi là tuyển chọn tán thán.

3. Tuyển chọn lưu lại giáo pháp: Lại như phần trên, tuy nêu ra các công hạnh khác, Đức Bổn Sư chỉ lưu lại một pháp Niệm Phật, nên gọi là tuyển chọn lưu lại giáo pháp.

Kế đến, trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh cũng có ba sự tuyển chọn: (1) tuyển chọn nhiếp thủ, (2) tuyển chọn Hóa Phật tán thán, (3) tuyển chọn phó chúc.

1. Tuyển chọn nhiếp thủ: Trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh, tuy nói rõ các công hạnh định thiện, tán thiện, thế nhưng, ánh sáng của Đức A Di Đà chỉ chiếu soi những chúng sinh Niệm Phật, nhiếp thủ không rời, nên gọi là tuyển chọn nhiếp thủ.

2. Tuyển chọn Hóa Phật tán thán: Người hạ phẩm thượng sinh, tuy có hai công hạnh nghe kinh và Niệm Phật, Hóa Phật của Đức A Di Đà tuyển chọn Niệm Phật rằng: “Vì ông xưng danh hiệu Phật, chư tội tiêu diệt, ta đến rước ông”, nên gọi là tuyển chọn Hóa Phật tán thán.

3. Tuyển chọn phó chúc: Lại nữa, tuy nói rõ các công hạnh định thiện, tán thiện, nhưng chỉ riêng phó chúc một công hạnh Niệm Phật, nên gọi là tuyển chọn phó chúc.

Kế đến, trong A Di Đà Kinh có một sự tuyển chọn, đó là tuyển chọn chứng thành. Trong các kinh điển, tuy nói nhiều đến các công hạnh vãng sinh, nhưng sáu phương chư Phật không chứng thành các công hạnh này, đến A Di Đà Kinh nói về Niệm Phật vãng sinh, thì hằng hà sa chư Phật ở sáu phương, mỗi vị đều hiện tướng lưỡi biến khắp tam thiên đại thiên thế giới để chứng thành, cho nên gọi là tuyển chọn chứng thành.

Hơn nữa, trong Bát Chu Tam Muội Kinh cũng có một tuyển chọn, gọi là tuyển chọn trì danh. Chính Đức Phật A Di Đà nói rằng: “Muốn vãng sinh cõi nước ta, phải thường niệm danh hiệu ta, không được gián đoạn”, cho nên gọi là tuyển chọn trì danh.

Bốn điều:(1) bổn nguyện, (2) nhiếp thủ, (3) danh hiệu và (4) Hóa Phật tán thán, là sự tuyển chọn của Đức A Di Đà.

Ba điều: (5) tán thán, (6) lưu lại giáo pháp, và (7) phó chúc, là sự tuyển chọn của Đức Thích Ca.

Còn điều (8) chứng thành, là sự tuyển chọn của hằng sa chư Phật ở mười phương.

Như vậy, Đức Thích Ca, Đức A Di Đà và hằng sa chư Phật mười phương, đồng tâm tuyển chọn công hạnh Niệm Phật. Các công hạnh khác thì không được như vậy, cho nên ba bộ kinh Tịnh Độ đều tuyển chọn Niệm Phật làm tông chỉ.

Muốn mau thoát sinh tử,
Trong hai loại thắng pháp,
Nên bỏ Thánh Đạo Môn,
Mà chọn Tịnh Độ Môn,
Muốn vào Tịnh Độ Môn,
Trong hai hạnh chánh, tạp,
Nên bỏ các tạp hạnh,
Mà tuyển chọn chánh hạnh,
Nếu muốn tu chánh hạnh,
Trong hai nghiệp chánh, phụ,
Nên gạt bỏ nghiệp phụ,
Mà chuyên tu chánh định,
Nhưng nghiệp của chánh định,
Tức là xưng danh Phật,
Xưng danh ắt vãng sinh,
Vì nương bổn nguyện Phật.

Hỏi: Các nhà chú giải trong các tông Hoa Nghiêm, Thiên Thai, Chân Ngôn, Thiền, Pháp Tướng, mỗi vị đều có biên soạn chương sớ về pháp môn Tịnh Độ, tại sao lại không y cứ vào các nhà chú giải đó mà chỉ riêng y cứ vào ngài Thiện Đạo?

Đáp: Các nhà chú giải đó, tuy biên soạn chương sớ về Tịnh Độ, nhưng không dùng Tịnh Độ làm tông, mà lại dùng Thánh Đạo làm tông, cho nên không y cứ vào họ, còn ngài Thiện Đạo chỉ lấy Tịnh Độ làm tông, cho nên y cứ vào ngài.

Hỏi: Các vị tổ sư Tịnh Độ rất nhiều, chẳng hạn như ngài Ca Tài ở chùa Hoằng Pháp, ngài Từ Mẫn Tam Tạng, v.v.. Tại sao không y cứ vào các vị ấy, mà chỉ riêng y cứ vào ngài Thiện Đạo?

Đáp: Các vị thiện tri thức đó, tuy cũng đề xướng Tịnh Độ pháp môn, nhưng chưa chứng Tam muội, còn Hòa Thượng Thiện Đạo là người chứng đắc tam muội. Vì ngài có chỗ chứng đắc, cho nên y cứ vào ngài.

Hỏi: Nếu y cứ vào người chứng đắc Tam muội, thì Hoài Cảm Thiền Sư cũng chứng đắc Tam muội, tại sao không y cứ?

Đáp: Ngài Thiện Đạo là thầy, ngài Hoài Cảm là trò, cho nên y cứ vào thầy mà không y cứ vào đệ tử. Huống chi sự giải thích của hai thầy trò có nhiều điểm trái nghịch, cho nên không y cứ vào ngài Hoài Cảm.

Hỏi: Nếu y cứ vào thầy, thì ngài Đạo Xước Thiền Sư là thầy của ngài Thiện Đạo, tại sao lại không y cứ vào ngài Đạo Xước?

Đáp: Ngài Đạo Xước tuy là thầy, nhưng vẫn chưa chứng được Tam muội, không tự biết mình có được vãng sinh hay không, cho nên đã hỏi ngài Thiện Đạo: “Đạo Xước niệm Phật, được vãng sinh hay không?” Ngài Thiện Đạo bèn thưa với ngài Đạo Xước nên đem một cành hoa sen đặt trước bàn Phật, sau đó dụng công bảy ngày, nếu hoa sen không héo, ắt được vãng sinh. Ngài Đạo Xước y lời, sau đó bảy ngày, quả nhiên hoa sen không héo, bèn rất khen ngợi. Kế đó thỉnh ngài Thiện Đạo nhập định quán sát, xem mình có được vãng sinh hay không. Ngài Thiện Đạo bèn nhập định, giây lát sau nói với ngài Đạo Xước: “Thầy phải sám hối ba tội mới được vãng sinh. Thứ nhất, thầy đặt tượng Phật ở góc phòng, còn mình ở giữa phòng; thứ hai, sai bảo người xuất gia phục dịch cho mình; thứ ba, xây dựng phòng ốc làm tổn thương sinh mệnh côn trùng. Thầy phải đối trước mười phương Phật sám hối tội thứ nhất, đối trước bốn phương tăng sám hối tội thứ hai, đối với tất cả chúng sinh sám hối tội thứ ba.” Ngài Đạo Xước suy ngẫm những lỗi lầm quá khứ, thấy lời ngài Thiện Đạo quả thật không sai, bèn chí thành sám hối. Sám hối xong, đến gặp ngài Thiện Đạo, ngài Thiện Đạo bèn nói: “Tội của thầy đã diệt, sau này sẽ có ánh sáng chiếu thân, đó là điềm vãng sinh của thầy.””

Do đây biết rằng Hòa Thượng Thiện Đạo tu đắc Tam muội, xứng đáng làm bậc thầy, giải hạnh đều phi phàm, điều này thật rõ ràng. Huống chi, người cùng thời với ngài đều tương truyền rằng: “Từ lúc Phật pháp truyền vào Trung Hoa đến nay, chưa ai có được thạnh đức như ngài Thiện Đạo!” Lời xưng tán tuyệt luân, khó diễn tả được. Hơn nữa, lúc ngài viết sớ giải của Quán Vô Lượng Thọ Kinh, có nhiều điềm lành, thường được Đức A Di Đà đến chỉ dẫn. Vì đã được sự gia bị của chư Phật, Bồ tát, cho nên Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ của ngài được xưng dương là Chứng Định Sớ, mọi người đều quý trọng như chính lời dạy của Đức Phật.

Như trong Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ quyển thứ tư có viết:

Kính bạch tất cả thiện tri thức hữu duyên, tôi là một phàm phu sinh tử, trí tuệ cạn cợt, lời dạy của Phật sâu xa vi tế, tôi không dám tự chuyên, bèn thành tâm phát nguyện, thỉnh cầu sự linh nghiệm, sau đó mới dám biên soạn sớ giải: “ Nam mô quy mạng tận hư không pháp giới, tất cả Tam Bảo, Thích Ca Mâu Ni Phật, A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí, chư Bồ tát đại hải chúng của cõi Cực Lạc, cùng tất cả cảnh tướng trang nghiêm. Con nay muốn đề xuất yếu nghĩa của Quán Vô Lượng Thọ Kinh, khải định cổ kim. Nếu như xứng đáng với ý nguyện Đại bi của chư Phật ba đời, Đức Phật Thích Ca, Đức Phật A Di Đà, v.v.., xin trong giấc mộng, thấy được tướng trạng của cảnh giới giống như lời nguyện của con.” Sau khi phát nguyện trước tượng Phật, tôi bèn tụng kinh A Di Đà ba biến, niệm danh hiệu Phật A Di Đà ba vạn biến, chí tâm phát nguyện. Ngay đêm hôm đó, thấy trên không trung ở phía tây, các cảnh giới như trong lời nguyện đều hiện trước mắt, các núi báu nhiều màu, trùng trùng điệp điệp, đủ loại quang minh, chiếu xuống mặt đất, mặt đất màu vàng ròng, trên không có chư Phật Bồ tát, hoặc ngồi hoặc đứng, hoặc nói hoặc im lặng, hoặc cử động tay chân, hoặc đứng yên bất động. Thấy những cảnh giới ấy rồi, tôi bèn chắp tay đứng quán sát, sau một lúc rất lâu mới chợt tỉnh, trong lòng vui mừng khôn tả, và sau đó mới bắt đầu biên soạn phần Nghĩa Môn của Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ. Từ đó về sau, mỗi đêm, trong mộng thường thấy một vị tăng đến chỉ dạy về khoa văn của phần Huyền Nghĩa, sau khi phần này hoàn tất, thì không còn thấy nữa.

Sau khi bản cảo của Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ hoàn thành, tôi lại chí tâm cầu trong bảy ngày bảy đêm thấy được điềm lành chứng minh. Mỗi ngày tôi tụng kinh A Di Đà mười biến, niệm danh hiệu Phật A Di Đà ba vạn biến. Vào cuối đêm thứ nhất, trong lúc thành tâm quy mệnh, quán tưởng cảnh tướng trang nghiêm của cõi Cực Lạc, thấy bên vệ đường, ba cối xay đá tự chuyển động, hốt nhiên, lại thấy một người cỡi lạc đà trắng đến trước mặt khuyến tấn: “ Thầy phải nên nỗ lực, quyết định sẽ vãng sinh, chớ nên thoái chuyển, cõi này trược ác nhiều khổ, đừng nên tham luyến, v.v..” Tôi trả lời: “ Nay nhờ hiền giả có lòng tốt chỉ bảo, nguyện trọn đời không dám sinh tâm giải đãi, kiêu mạn, v.v..” Đêm thứ hai, thấy Đức A Di Đà, thân màu vàng ròng, ngồi trên tòa sen vàng dưới cây thất bảo, mười vị tăng vây quanh, mỗi vị ngồi dưới một cây báu. Trên cành cây chỗ Phật ngồi, có treo nhiều thiên y, tôi ngồi xoay mặt hướng tây, chắp tay quán sát. Đêm thứ ba, thấy có hai cây bảo tràng, cao to chất ngất, trên có treo tràng phan ngũ sắc, đường xá ngang dọc, xa tít ngoài tầm mắt. Sau khi thấy những điềm lành này, tôi bèn đình chỉ, tuy là chưa hết thời hạn bảy ngày.

Những điềm lành thuật lại trên đây, vốn là vì chúng sinh chứ không phải vì chính mình. Tôi thấy được điềm lành, không dám dấu diếm, xin cung kính ghi lại phía sau quyển Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ, để cho đời sau được nghe biết. Nguyện chư chúng sinh nghe xong, sinh khởi lòng tin, những người thấy biết đều sinh Tịnh Độ, đồng thành Phật Đạo. Nghĩa lý này đã được thỉnh cầu sự chứng minh xong, mỗi câu mỗi chữ, không thêm không bớt. Vị nào muốn sao chép, phải nên y theo phương pháp sao chép kinh điển!”

Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ của ngài Thiện Đạo là chỉ nam cho sự vãng sinh Tây Phương, là mắt, là chân cho hành giả, bởi vậy, hành giả tu hạnh vãng sinh Tây Phương, phải nên trân kính!

Trong đây mỗi đêm mộng thấy một vị tăng đến chỉ dạy phần Huyền Nghĩa, vị tăng đó có thể là Đức Phật A Di Đà. Nếu vậy, quyển Sớ này có thể gọi là A Di Đà Truyền Sớ, vả lại, đời Đường tương truyền rằng ngài Thiện Đạo là hóa thân của Đức A Di Đà, nếu vậy, quyển Sớ này lại có thể gọi là A Di Đà Trực Thuyết Sớ. Ở trên nói: “Muốn sao chép, phải nên y theo phương pháp sao chép kinh điển.” Đây là lời thành thực.

Ngước tìm bổn địa, Ngài là Pháp Vương của Bốn mươi tám nguyện, nói mười kiếp thành Phật, quyết định nương tựa câu Niệm Phật.

Cúi hỏi thùy tích, Ngài là Đạo Sư của Chuyên tu Niệm Phật, giảng tám muôn chánh thọ, không chút nghi ngờ sự Vãng sinh.

Bổn môn, tích môn tuy khác, nhưng sự giáo hóa dẫn đạo thì giống nhau.

Bần đạo (Pháp Nhiên) đã đọc kỹ Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ, tuy chỉ hiểu sơ sài vài ý chính, cũng đã vội vàng xả bỏ các tạp hạnh khác, quy tâm Niệm Phật. Từ đó đến nay, hoặc tự mình tu tập, hoặc dạy bảo người khác, cũng đều là một hạnh Niệm Phật. Đối với người đến hỏi đạo, chỉ bày cho họ tu hạnh vãng sinh, còn đối với người khế cơ, dạy bảo cho họ công hạnh Niệm Phật. Phần đông đều tin theo, nhưng vẫn có một số ít không tin.

Nên biết:

Giáo lý Tịnh Độ, thích ứng thời cơ mà phát triển,
Công hạnh Niệm Phật, tùy theo căn tánh mà đổi thay.

Bần đạo tuy không cầu sự cung kính, nhưng cũng không có cách nào chối từ sự yêu cầu của đại chúng, bèn gom góp, chỉnh lý những lời dạy quan trọng, soạn thành tập sách này, thuật lại một cách thừa thải những yếu nghĩa Niệm Phật. Vả lại, bần đạo do vì chỉ quan tâm đến lời dạy bảo của hai Đức Như Lai, mà quên đi kiến thức hủ lậu của mình, đây quả thật là “không biết tự thẹn.” Cúi xin các bậc cao nhân sau khi xem xong, đem chôn kín vào góc tường, đừng để rơi rớt trước sân, e rằng những kẻ phá pháp, nhân vì hủy báng tập sách này, sẽ bị đọa vào ác đạo.