NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH LUẬN
Thế Thân Bồ-tát tạo
Tùy Thiên Trúc Tam tạng Đạt-ma Cấp-đa dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 9

Tăng thượng tuệ học thắng tướng thắng ngữ 8-2

Luận nói: Trong trí phương tiện vô phân biệt có 3 thứ là nhân duyên, dẫn nhiếp và thường tập, vì xuất sinh sai biệt. Trí vô phân biệt cũng có 3 thứ là biết đủ, không điên đảo và không hý luận vì vô phân biệt. Trí vô phân biệt hậu đắc có 5 thứ là thông đạt, ức niệm, thành lập, hòa hợp và như ý, hiển thị sự sai biệt.

Giải thích: Nhân duyên, dẫn nhiếp và thường tập do xuất sinh sai biệt, đây là 3 thứ phương tiện vô sai biệt. Hoặc do sức của chủng tính, hoặc do sức hiện tiền thường tập mà được sinh. Trong đó sức của chủng tính tức là từ nhân được sinh. Sức thường tập tức lực tác của thân hiện tại chắc chắn, không phải từ nhân sinh. Biết đủ, không điên đảo, không hý luận vì vô phân biệt, nghĩa là trong đó biết đủ không phân biệt là biết rốt ráo cải thể của văn, tư, do đầy đủ nên không phân biệt nữa. Do đó gọi là tri túc vô phân biệt. Khi đã rốt ráo ở nơi địa vị văn, tư thì tự biết đã đến chỗ cứu cánh. Bồ-tát này trụ tại địa vị phàm phu, sinh tâm thỏa mãn nghĩ rằng việc văn, tư chỉ bằng được đến đây. Vì nghĩa đó nói là tri túc vô phân biệt. Lại nữa phải biết rằng có thế gian tri túc vô phân biệt, nếu đạt được đến Hữu đỉnh cho là Niết-bàn sinh tâm tri túc, nghĩa là cho rằng không còn nơi nào nữa, nên gọi là tri túc vô phân biệt. Không điên đảo vô phân biệt là Thanh Văn v.v… Do các Thanh Văn thông đạt chân thật nên được 4 trí vô đảo như vô thường v.v…đối với thường v.v… 4 đảo tướng không còn điên đảo phân biệt nữa. Không hý luận vô phân biệt là các Bồ-tát do các Bồ-tát biết tất cả pháp cho đến Bồ-đề không hý luận vô phân biệt cho nên không phân biệt nữa. Không hý luận nghĩa là phát ngôn nói ra vượt quá trí thế gian, trí này chẳng phải ngôn ngữ nói ra, cũng chẳng phải trí thế gian biết được. Lại nữa trí vô phân biệt hậu đắc có 5 thứ sai biệt là thông đạt, ức niệm, thành lập, hòa hợp và như ý hiển thị sự sai biệt. Trong đó thông đạt hiển thị, ức niệm hiển thị, thành lập hiển thị, hòa hợp hiển thị và như ý hiển thị 5 thứ sai biệt. Trong đây thông đạt hiển thị là nếu đã thông đạt tức khi ấy hiển thị nói rằng ta đã thông đạt. Hiển thị nghĩa là biết một cách quyết chắc. Ức niệm hiển thị là nếu xuất định rồi nghĩ nhớ nói rằng ta đã thông đạt vô phân biệt rồi. Thành lập hiển thị là như chỗ đã thông đạt mà giải nói cho người khác. Hòa hợp hiển thị là đem tất cả pháp làm thành một khối. Trí phan duyên tổng tướng, do quán trí này tức được chuyển y. Như ý hiển thị là do chuyển y này liền được hiển thị như ý, do tùy theo tâm niệm tất cả tự tại. Do tự tại này nếu muốn lấy đất làm vàng v.v… đều được thành tựu. Do hiển thị được như ý nên gọi là như ý hiển thị. Bởi vì sao? Do kinh nói vì lấy hiển thị và như ý nên đã thành lập trí vô phân biệt. Vì chưa noi nhân duyên thành tựu nên lại dùng kệ hiển thị.

Luận nói: Lại có kệ khác thành tựu trí vô phân biệt:

Quỷ súc và người, trời,

Đều tùy theo chỗ ứng.

Tâm ý đều khác nhau,

Nên biết nghĩa không thành.

Quá khứ và chiêm bao,

Cùng 2 thứ ảnh tượng,

Vô hữu làm phan duyên,

Nhưng phan duyên kia thành.

Nếu nghĩa thành là cảnh,

Không trí vô phân biệt.

Nếu trí này không có,

Phật quả không thể được.

Bồ-tát được tự tại, Nên lạc dục tự tại.

Như muốn đất thành vàng,

Người được định cũng vậy.

Người thành tựu quán hạnh,

Người trí được tịch tĩnh.

Tư duy tất cả pháp,

Như nghĩa ấy hiển hiện.

Trí hành vô phân biệt,

Tất cả nghĩa không hiện.

Tức biết không có nghĩa,

Thì thức cũng không có.

Giải thích: Trong đây nói “Quỷ súc và người, trời, đều tùy theo chỗ ứng.”, nghĩa là súc sinh thấy là nước, ngạ quỷ là cao nguyên, người thấy là phân nhơ, heo thấy là vật sạch. Như người thấy thức ăn uống là sạch thì chư thiên là không sạch. Dùng đạo lý này hiển thị, trong một vật tùy theo ý thức mỗi loài thấy khác nhau. Cho nên biết nghĩa, là không sở hữu. Vì vậy cái chấp thủ của họ là không thành. Nếu vậy, nghĩa, là vô sở hữu, thì thức phải không duyên cảnh mà sinh? Đáp: Cũng có trường hợp thức không duyên cảnh mà sinh.. Như chiêm bao và quá khứ vị lai v.v… Phan duyên cái không thật, tức là phan duyên tự thể. Như cảnh trong gương và cảnh trong định cũng vậy. Tiếp đến là dùng kệ hiển thị. Kệ nói quá khứ v.v… và chiêm bao, trong đó nửa kệ sau giải thích nửa kệ trước. Tuần tự cũng như vậy. Do phan duyên không thật nên không có phan duyên. Chẳng phải không phan duyên tức là tự phan duyên. Nghĩa là tự tâm làm cảnh mà phan duyên. Tức là quá khứ, vị lai và mộng cùng 2 ảnh tượng v.v… tuần tự nên biết như vậy. Nếu nghĩa thành, là cảnh không có trí vô phân biệt. Nếu nghĩa có tự tính, tức là không có trí vô phân biệt. Nếu ông nói không có trí vô phân biệt thì có lỗi gì? Nếu không có trí này thì không thể đắc Phật quả. Nếu không có trí vô phân biệt thì không thể đắc Phật quả. Cho nên chắc chắn phải có. Bồ-tát được tự tại, nghĩa là đã được năng lực tự tại nên thắng giải tự tại, được lạc dục tự tại nên nghĩ muốn như thế nào thì được như thế đó, nghĩa là như muốn dất v.v… các vật thành vàng v.v… liền được như vậy. “Người được định cũng vậy.”, nghĩa là những người được định và các Thanh Văn. “Người thành tựu quán hạnh”, nghĩa là thành tựu Tì-bát-xá-na. Người trí tức các Bồ-tát. Người được tịch tĩnh là được Tam-ma-đề. “Tư duy tất cả pháp, như nghĩa ấy hiển hiện.”, nghĩa là do các Bồ-tát khi tư duy nghĩ nhớ nghĩa các pháp như vậy như vậy trong Tu-đa-la thì sẽ được hiển hiện như nghĩ nhớ. Như khi niệm Phật tùy theo tư niệm, Phật nghĩa trong các pháp kia sẽ được hiển hiện. Các nghĩa như sắc, thụ v.v… cũng hiển hiện như vậy. “Trí hành vô phân biệt, tất cả nghĩa không hiện.”, nghĩa là khi trí chính hành vô phan biệt, do tất cả nghĩa không hiện nên biết tức là không có nghĩa. Do nghĩa không có nên thức cũng thành không có. Nay sẽ nói về thức này vô sở hữu. Nói “Thức cũng không có được”, nghĩa là cái sở thức đã không có thì cái năng thức không thành. Cho nên phải biết nghĩa vô sở hữu là như vậy. Trong tướng đã giải thích đầy đủ.

Luận nói: Bát-nhã Ba-la-mật với trí vô phân biệt không khác nhau. Như kinh nói: Bồ-tát trụ trong Bát-nhã Ba-la-mật rồi, và không trụ tương ưng, nên tu các Ba-la-mật được viên mãn. Thế nào là không trụ tương ưng mà được viên mãn? Nghĩa là xa lìa 5 thứ trụ xứ: 1. Xa lìa chỗ chấp ngã của ngoại đạo. 2. Xa lìa chỗ phân biệt của Bồ-tát không thấy chân thật. 3. Xa lìa chỗ 2 cực đoan của sinh tử và Niếtbàn. 4. Xa lìa tư tưởng cho rằng chỉ đoạn trừ phiền não chướng là đủ. 5. Xa lìa việc bỏ làm lợi ích chúng sinh mà an trụ vô dư Niết-bàn.

Giải thích: Trí vô phân biệt này tức là Bát-nhã Ba-la-mật. Bởi vì sao? Như kinh nói: Trụ trong Bát-nhã Ba-la-mật rồi và không trụ tương ưng. Như vậy là muốn khiến biết nghĩa này nên dùng văn kinh hiển thị. Như vậy trụ và không trụ trong tương ưng, đầy đủ các Bala-mật. Xa lìa chỗ chấp ngã của ngoại đạo, nghĩa là như ngoại đạo trụ trong Bát-nhã có ngã chấp, nghĩ rằng ta trụ trong Bát-nhã, đây là Bát-nhã. Bồ-tát xa lìa trụ tướng như thế của ngoại đạo cho nên được trụ trong vô trụ tương ưng Bát-nhã. Xa lìa chỗ phân biệt của Bồ-tát không thấy chân thật, nghĩa là nếu không thấy chân thật thì Bồ-tát trong Bát-nhã Ba-la-mật vô phân biệt, lại phân biệt nói rằng đây là Bát-nhã Ba-la-mật. Không phân biệt như vậy nên gọi là không trụ tương ưng. Xa lìa chỗ 2 cực đoan của sinh tử và Niết-bàn, nghĩa là như thế gian trụ bên sinh tử, Thanh Văn trụ bên Niết-bàn. Bồ-tát không như vậy, không trụ 2 bên này, tức không trụ tương ưng. Xa lìa tư tưởng cho rằng chỉ đoạn trừ phiền não chướng là đủ, nghĩa là như Thanh Văn chỉ đoạn phiền não chướng cho là đủ. Bồ-tát không như vậy. Do ý này nên nói chư Bồ-tát không trụ tương ưng hạnh. Xa lìa việc bỏ làm lợi ích chúng sinh mà an trụ vô dư Niết-bàn, nghĩa là Bồ-tát không như vậy, là không trụ chỗ trụ của Thanh Văn . Đó là không trụ tương ưng. Trí của Thanh Văn với trí của Bồ-tát có 5 tướng sai biệt, nay sẽ nói đến.

Luận nói: Trí của Thanh Văn với trí của Bồ-tát này có gì khác nhau? Có 5 thứ khác nhau: 1. Khác nhau ở chỗ vô phân biệt, nghĩa là ấm v.v…các pháp không phân biệt. 2. Khác nhau ở chỗ không có giới hạn, nghĩa là thông đạt chân như, nhập nhất thiết chủng, vì đô tất cả chúng sinh không giới hạn. 3. Khác nhau ở chỗ vô trụ, nghĩa là nhập vô trụ Niết-bàn. 4. Khác nhau ở chỗ rốt ráo, nghĩa là hướng đến Niết-bàn vô dư mà không cùng tận. 5. Khác nhau ở chỗ vô thượng, nghĩa là đạt đến cao tột không còn có thừa nào hơn.

Năm thứ trí sai biệt,

Lấy Đại bi làm thể.

Quả báo thế xuất thế,

Phải biết chẳng bao xa.

Giải thích: Trong đây, khác nhau ở chỗ vô phân biệt, nghĩa là các Thanh Văn phan duyên các ấm v.v… sinh trí phân biệt. Trí các Bồ-tát đối với ấm v.v… không sinh phân biệt. Khác nhau ở chỗ không giới hạn, nghĩa là người thông đạt nhân pháp 2 vô ngã nên không có phân chia giới hạn. Bởi các Bồ-tát sinh trí trong tất cả những gì phải biết, còn Thanh Văn chỉ biết khổ đế v.v…, Bồ-tát vì chúng sinh không có giới hạn, vì tất cả chúng sinh cầu Bồ-đề, còn Thanh Văn chỉ vì tự lợi. Khác nhau ở chỗ vô trụ, nghĩa là các Bồtát được vô trụ xứ Niết-bàn chẳng phải như các Thanh Văn. Khác nhau ở chỗ rốt ráo, nghĩa là trong vo dư Niết-bàn giới thì Niết-bàn Thanh Văn có tận diệt, Niết-bàn Bồ-tát thì không như vậy. Khác nhau ở chỗ vô thượng, nghĩa là Thanh Văn thừa còn có bậc trên, Bồ-tát Đại thừa thì không còn thừa nào trên. Đó là chỗ khác nhau. Nghĩa này trong kệ hiển thị 5 thứ sai biệt về trí. Quả báo thế xuất thế, nghĩa là cõi Sắc, Vô sắc là quả báo thế gian, Thanh Văn v.v… là quả báo xuất thế gian.

Luận nói: Nếu Bồ-tát đã đầy đủ quả báo công đức của giới tăng thượng, tâm tăng thượng, tuệ tăng thượng, đã được tự tại trong tất cả nghĩa lợi, vì sao hiện thấy còn có các chúng sinh chịu các nghèo khổ? Do thấy các chúng sinh ấy có các nghiệp chướng trong các nghĩa lợi kia. Do thấy nếu cho quả báo sung sướng thì đối với các thiện pháp trở ngại việc khởi thiện. Do thấy không có nghĩa lợi thì chán ghét hiện tại. Do thấy nếu được quả báo thì thành nhân tụ tập các pháp bất thiện. Do thấy nếu được quả báo là làm nhân bức não cho vô lượng chúng sinh khác. Do nghĩa đó mà hiện thấy có chúng sinh chịu các khổ não. Trong đây có kệ như sau:

Thấy nghiệp ngại hiện tiền,

Gom ác bức não người,

Phải biết chúng sinh ấy,

Không được Bồ-tát thí.

Giải thích: Bồ-tát được tự tại. Do nhân duyên này, tuy có Đại bi mà không cho chúng sinh giàu có sung sướng. Nay sẽ nói rõ ý này. Trong đây nói thấy nghiệp chướng các chúng sinh, nghĩa là các chúng sinh này trong oai lực của Bồ-tát có trở ngại nghiệp chướng, có trở ngại Bồ-tát trí nên tuy Bồ-tát kham năng, thấy việc này nên sinh tâm xả đối với sự nghèo khổ kia. Điều này có thể lấy thí dụ ngạ quỷ thấy nước sông thì rõ. Như sông có nước, nếu muốn uống cũng không ai cản trở. Nhưng ngạ quỷ do tự tội nghiệp không thể uống được. Đây cũng vậy, sông ví dụ cho Bồ-tát. Của cải ví dụ cho nước. Ngạ quỷ ví dụ cho chúng sinh. Cũng như nước kia, các chúng sinh này đối với của cải không thể thụ dụng cũng có nghĩa như vậy. Do thấy sự sung sướng có trở ngại việc khởi thiện, nghĩa là lại có những người khác tuy không nghiệp chướng, nhưng người này khi được gặp Bồ-tát, trong tương tục sinh khởi thiện pháp, nếu cho người này quả báo hưởng thụ giàu có sung sướng thì sẽ đứt mất việc khởi thiện. Bồ-tát suy nghĩ như vậy thà để cho nghèo khổ mà tùy thuận khởi thiện. Do đạo lý này mà không cho giàu có sung sướng. Do thấy chán ghét hiện tiền, nghĩa là hoặc lại có người chán ghét hiện tiền, Bồ-tát thấy kia nghèo khổ mà trong thiện bất thiện suy nghĩ chán ghét hiện tiền hơn, vì vậy đối với chúng sinh kia không cho sự giàu có sung sướng. Do thấy quả báo chịu khổ kia thêm lớn nhân bất thiện, nghĩa là lại có người khi nghèo cùng không tụ tập các pháp bất thiện được, Bồ-tát tháy vậy nghĩ rằng thà khiến nghèo khổ chớ khiến tạo tác bất thiện, cho nên đối với chúng không cho sự giàu có sung sướng. Do thấy khổ kia mà được quả báo. Cho các vô lượng chúng sinh khác tạo nhân bức não, nghĩa là lại có người được đại quả báo thì làm khổ não vô lượng chúng sinh, cho nên thà một thân chịu nghèo khổ là hơn, chớ để khổ não vô lượng chúng sinh, vì vậy không cho giàu có sung sướng. Kệ hiển thị các nghĩa như vậy. Trong đây vì nghiệp chướng ngại, vì sinh khởi thiện căn, vì thiện hiện tiền, vì tụ tập bất thiện, vì bức não các chúng sinh, Bồ-tát thấy những việc như thế không cho giàu có sung sướng, tức trong kệ là nghiệp và ngại hiện tiền, tập họp các ác bức não người khác. Lấy đó hiển thị có thể hiểu các nghĩa khác. Đến đây giải thích xong về tăng thượng tuệ học.

Tịch diệt thắng tướng thắng ngữ 9

Luận nói: Như vậy là đã nói về tướng thù thắng của tăng thượng tuệ học rồi, còn làm sao tháy được tướng thù thắng của tịch diệt? Tịch diệt của chư Bồ-tát là vô trụ xứ Niết-bàn, vì xả ly phiền não mà không bỏ sinh tử, cùng y chỉ chuyển y làm tướng. Trong đây sinh tử là phần nhiễm ô của tính y tha, Niết-bàn là phần thanh tịnh của tính y tha. Y chỉ tức là đủ 2 phần của tính y tha. Chuyển y là khi khởi đối trị tính y tha, phần nhiễm ô diệt, phần thanh tịnh hiển hiện.

Giải thích: Tướng vô trụ xứ Niết-bàn tức là xả ly phiền não mà không bỏ sinh tử. Cùng y chỉ chuyển y làm tướng, nghĩa là khi trụ chuyển này thì không cho phiền não được trụ lại, nhưng không bỏ sinh tử. Phần nhiễm nên gọi là y tha, tức phần tịnh nên gọi Niếtbàn. Hai phần nên là chỗ y chỉ của kia. Chuyển y tức trong đây được thành. Do trong đây khi khởi đối trị thì phần nhiễm không hiện hành, phần tịnh hiện hành.

Luận nói: Lại nữa sự chuyển y này lược nói có 6 thứ: Một là chuyển bằng cách thêm sức, giảm khả năng. Do sức tín giải trụ nơi văn huân tập, do có sự hổ thẹn nên một ít phiền não hiện hành và không hiện hành. Hai là chuyển do thông đạt, nghĩa là các Bồ-tát đã nhập địa cho đến địa thứ 6, thì trước mắt chân thật hiển hiện không chân thật không hiển hiện. Ba là chuyển bằng sự tu tập, nghĩa là cho đến địa thứ 10 tất cả tướng có chướng ngại không hiển hiện, chân như thì hiển hiện. Bốn là chuyển quả viên mãn, tất cả tướng không chướng ngại không hiển hiện, chân như thanh tịnh cùng tột hiển hiện vì được tất cả tướng tự tại. Năm là chuyển hạ liệt, nghĩa là chuyển đổi sự thấp kém, vì các Thanh Văn thông đạt nhân vô ngã nên một bề quay lưng với sinh tử xả bỏ sinh tử. Sáu là chuyển thành rộng lớn, nghĩa là chư Bồ-tát thông đạt pháp vô ngã, nên thấy sinh tử tức tịch tĩnh, diệt phiền não mà không bỏ sinh tử. Chư Bồ-tát trong chuyển hạ liệt có lỗi lầm gì? Có lỗi là không nghĩ đến việc lợi ích chúng sinh. Pháp Bồ-tát là phải siêu quá hạ thừa, nghĩa là vượt qua trình độ thấp kém, chứ giải thoát đồng như họ là có lỗi. Chư Bồ-tát đối với sự chuyển thành rộng lớn có được công đức gì? Ở trong pháp sinh tử lấy sự tự y chỉ chuyển thành y chỉ, cho nên được thân tự tại trong tất cả nẻo đường sinh tử hiển thị tất cả thân, dùng nhiều phương tiện điều phục, điều phục và an lập trong quả báo thế gian và trong 3 thừa. Đó là công đức.

Giỉ thích: Chuyển y này lại có 6 thứ. Chuyển bằng cách thêm sức giảm khả năng, nghĩa là những huân tập nhiễm ô trong thức A-lê-da làm giảm khả năng gây ô nhiễm mà tăng thêm sức đối trị. Cho nên được chuyển trụ giải hành địa, nghĩa là vì sức trụ nơi văn huân tập đã được chuyển y nên nếu phiền não hiện hành thì kia có sự hổ thẹn do đó sự hiện hành phiền não huân tập mỏng manh ít ỏi. Trong sự chuyển bởi thông đạt mà việc hiển hiện chân thật không chân thật, nghĩa là do chính khi nhập vào địa rồi thì đó là nhân hiển hiện chân thật, cho nên tức thời được chuyển y. Hoặc có khi xuất quán thì đó là nhân hiển hiện không chân thật. Tình trạng này tồn tại cho đến địa thứ 6. Chuyển bằng tu tập, nghĩa là nên biết rằng trong chướng có ngại. Bồ-tát này tất cả các tướng đã không hiển hiện trở lại nên được chuyển y. Chuyển y này đến địa thứ 10. Trong chuyển quả viên mãn, tất cả chướng không còn chướng ngại nữa, nghĩa là Bồ-tát này tất cả chướng đã không hiển hiện, không có tất cả chướng ngại, thấy đượcchân như thanh tịnh cùng cực, được tự tại trong tất cả tướng nên được y chỉ. Do được tướng tự tại này nên có thể tùy ý làm các việc lợi ích chúng sinh. Chuyển thành rộng lớn, nghĩa là do thấy sinh tử là tịch tĩnh thì phền não tức diệt không có cái gì gọi là xả bỏ. Chỉ phiền não không nhiễm là do ở trong nhiễm mà không bị nhiễm. Không bỏ sinh tử, điều này có công đức gì? Chuyển y rộng lớn này, chư Bồ-tát lấy sự tự y chỉ chuyển y cho nên được tự tại trong tất cả pháp, trong tất cả nẻo đường sinh tử hiển thị đồng thân với chúng sinh, dùng mọi phương tiện điều phục mà điều phục, an lập chúng sinh trong sự phú lạc và trong 3 thừa. Đó là công đức. Trong đó phú lạc là quả báo thế gian.

Luận nói: Trong đây có các bài kệ về chuyển y:

Phàm phu che chân thật,

Tất cả hư vọng hiện.

Chư Bồ-tát lìa vọng,

Tất cả chân thật hiện.

Nên biết hiện không hiện,

Chân thật chẳng chân thật.

Y chỉ này chuyển rồi,

Là giải thoát như ý.

Sinh tử và Niết-bàn,

Như bình đẳng trí sinh.

Sinh tử tức Niết-bàn,

Người kia được như vậy.

Tức được nơi sinh tử,

Phi xả phi phi xả.

Tức ở nơi Niết-bàn,

Phi đắc phi phi đắc.

Giải thích: Nói kệ để làm rõ chuyển y. Như các phàm phu do vô minh che khuất chân thật, hư vọng hiển hiện, tức các tướng chúng sinh. Như vậy chư Thánh nhân chân thật hiển hiện nên xả bỏ các tướng chúng sinh, do đoạn trừ hư vọng vô minh nên được như vậy. Phải biết hiện không hiện chân thật không chân thật, nghĩa là hư vọng phân biệt không hiển hiện, tính chân thật thành tựu hiển hiện, gọi là chuyển y. Trong chuyển y hư vọng không hiện hành, chân thật hiện hành. Đây tức là giải thoát tương ưng. Gọi giải thoát như ý, nghĩa là như ý muốn làm đều được giải thoát. Chẳng phải như Thanh Văn rốt ráo Niết-bàn như người bị chém đầu. Được giải thoát như vậy, trí bình đẳng sinh tử như Niết-bàn sinh, tức là đối với 2 thứ sinh tử và Niết-bàn, sinh trí bình đẳng. Nói vì 2 thứ này không khác biệt nhau, nhưng nếu như khi ấy lại có sinh tử Niết-bàn thì làm sao được bình đẳng? Do phiền não là sinh tử. Pháp phiền não là vô ngã, Bồ-tát thông đạt pháp này, trí vô ngã sinh thấy các pháp kia đều vô sở hữu. Các hữu sinh tử tức là Niết-bàn, thấy pháp sinh tử tức là Niết-bàn tịch tịnh. Nếu như vậy có gì là sở đắc? Tức được nơi sinh tử phi xả phi phi xả. Phi xả là do các hữu sinh tử tức là Niết-bàn. Phi phi xả là xả. Do trong đó không nhiễm cho nên thấy là vô sở hữu. Nếu được như vậy thì cũng ở nơi Niết-bàn là phi đắc phi phi đắc. Bởi pháp kia không khác Niết-bàn cho nên là phi đắc. Do nơi pháp kia thấy là tịch tĩnh, với Niết-bàn không khác, cho nên là phi phi đắc. Đến đây giải thích xongvề học quả tịch tĩnh.

Trí thắng tướng thắng ngữ 10 – 1

Luận nói: Như vậy là đã nói về thắng tướng của tịch diệt, còn làm sao thấy được thắng tướng của trí? Vì có 3 thứ Phật thân, phải biết đó là thắng tướng của trí. Ba thân là tự tính thân, thụ dụng thân và biến hóa thân. Trong đó tự tính thân tức là Như Lai pháp thân, vì y chỉ tự tại trong tất cả pháp. Thụ dụng thân tức là hiển thị các đại tập hội của chư Phật, lấy pháp thân làm y chỉ trong các cõi Phật thanh tịnh thụ dụng quả báo của pháp Đại thừa. Biến hóa thân cũng lấy pháp thân làm y chỉ, ở cung Đâu-suất-đà, thị hiện giáng sinh, thụ dục lạc, xuất gia, tìm ngoại đạo, tu hành khổ hạnh, chính giác Bồ-đề, chuyển pháp luân, nhập Đại Niết-bàn.

Giải thích: Trong đây giải thuyết thắng tướng của trí lấy 3 thân hiển thịn thắng tướng của trí. Tự tính thân là tất cả pháp tự tại y chỉ. Thụ dụng thân tức như trước nói lấy tự tính thân làm sở y, các đại tập hội chư Phật, hiển thị cõi Phật thanh tịnh làm nhân các pháp Đại thừa Tu-đa-la, được thụ dụng pháp lạc lấy đây làm y chỉ. Lại có nghĩa khác là thụ dụng cõi Phật thanh tịnh và thụ dụng pháp lạc nên lấy đây làm y chỉ. Trong biến hóa thân thì từ cung Đâu-suất-đà cho đến nhập Niết-bàn là hiển thị trời và người là đồng pháp và lấy đây làm y chỉ.

Luận nói: Ở đây có một bài Uất-đà-na như sau:

Tướng, đắc, và tự tại,

Y chỉ với nhiếp trì,

Sai biệt, đức, thậm thâm,

Niệm, nghiệp nói Phật thân.

Những gì là tướng? Pháp thân chư Phật lược nói có 5 tướng. Một là tướng chuyển y, nghĩa là phần nhiễm ô của tất cả chướng nơi tính y tha diệt là giải thoát tất cả chướng, trong tất cả pháp được tự tại hiện tiền, vì phần thanh tịnh của y tha tính hiển hiện.

Hai là tướng bạch pháp tự thể. Sáu Ba-la-mật viên mãn thì được 10 tự tại. Tức là mạng tự tại, tâm tự tại, chúng cụ tự tại do viên mãn Đà-na Ba-la-mật. Nghiệp tự tại, sinh tự tại do viên mãn Thi-la Bala-mật. Thắng giải tự tại do viên mãn Sằn-đề Ba-la-mật. Nguyện tự tại do viên mãn Tì-li-da Ba-la-mật. Thần lực tự tại gồm thâu 5 thần thông do viên mãn Thiền Ba-la-mật. Trí tự tại, pháp tự tại do viên mãn Bát-nhã Ba-la-mật.

Ba là tướng không hai. Nghĩa là hữu, vô, không hai tướng. Tất cả pháp vô sở hữu. Tướng không này chẳng phải không. Hữu vi, vô vi không hai là tướng. Chẳng phải nghiệp phiền não tạo ra nhưng tựa như có tạo ra vì hiển thị tự tại nên một và khác không hai tướng. Trong đó tất cả chư Phật y chỉ vô sai biệt, nhưng vô lượng thân liên tục chứng chính giác. Cho nên trong đây có kệ như sau:

Không có ngã chấp nên

Y chỉ không sai biệt.

Trước sau tuần tự chứng,

Giả danh nói sai biệt.

Tính hành chẳng phải rỗng,

Đủ không đầu, không khác.

Chẳng một cũng chẳng nhiều,

Vì y chỉ vô cấu.

Bốn là tướng thường. Nghĩa là chân như thanh tịnh làm tướng. Bản nguyện dẫn dắt Phật sự nên không ngừng nghỉ.

Năm là tướng không thể nghĩ bàn. Trạng thái chân như thanh tịnh này chỉ tự chứng biết, không thể có cái gì của thế gian ví dụ được vì không thể phân biệt được.

Giải thích: Trong kệ Uất-đà-na này nói tướng đắc v.v… trong đó tướng tức là tướng pháp thân, có 5 thứ.

Tướng chuyển y nghĩa là tất cả phần chướng nhiễm ô trong tính y tha diệt, do phần nhiễm ô trong tính y tha diệt nên tất cả chướng được giải thoát, tự tại hiện tiền trong tất cả pháp. Phần thanh tịnh trong tính y tha hiển hiện là do được tự tại trong tất cả các pháp nên một phần tính thanh tịnh trong tính y tha được hiển hiện.

Tướng của thể bạch pháp nghĩa là vì 6 Ba-la-mật viên mãn nên được 10 thứ tự tại của pháp thân. Đây là thể của bạch pháp. Trong đó mạng tự tại nghĩa là muốn sống thọ bao lâu thì có thể hiển thị được như vậy. Tâm tự tại nghĩa là trong thời gian sống ở đời không bị sinh tử nhiễm ô. Các công cụ sinh hoạt tự tại nghĩa là như ăn ở các phương tiện sinh hoạt v.v… 10 thứ, chư Phật đều được như ý nghĩ. Đây là nhân do viên mãn Đà-na Ba-la-mật. Như kệ nói:

Chư Bồ-tát tư duy,

Hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Tất cả đều thành thiện,

Đó là ý tự tai.

Nghiệp tự tai, sinh tự tại là do viên mãn Thi-la Ba-la-mật là nhân và sinh quả. Lại nữa do đây mà thân khẩu nghiệp tự tại chuyển, do ý muốn nảy sinh thì nghiệp kia hiện tiền. Sinh tự tại nghĩa là nơi sinh được tự tại chuyển, do các nẻo đường sinh tử thiện ác tùy ý muốn sinh vào đâu thì liền được sinh. Nhân Thi-la là nghiệp. Quả Thi-la gọi là sinh. Do đạo lý này liền được hiển thị tự tại. Tín giải tự tại là do viên mãn Nhẫn Ba-la-mật nên các pháp tùy tâm chuyển, được tùy theo ý muốn như muốn tất cả mọi sự đều thành tựu. Nguyện tự tại là viên mãn Tì-li-da Ba-la-mật do tinh tiến, tất cả phát hạnh đều được cứu cánh, tất cả tư lường đều thành tựu. Gồm 5 thần thông, thần lực tự tại là viên mãn Thiền Ba-la-mật, do tâm có đủ năng lực xuất sinh thần thông. Trí tự tại, pháp tự tại là quả viên mãn của Bát-nhã Bala-mật. Sức của Bát-nhã nên an lập ấm v.v…và được hậu nhất thiết chủng trí này. Trong tướng không hai, phi hữu tướng là tất cả pháp không có tướng, phi vô tướng là cái hữu không có tự tính. Hữu vi vô vi không có hai tướng nghĩa là phi hữu là tự tính, phi vô là tự tính. Cho nên trong đó chẳng phải nghiệp phiền não sinh, nên chẳng phải tướng hữu vi. Nói cũng là tướng hữu vi, nghĩa là ở trong hữu vi đã được tự tại hiển thị mọi nơi, do nghĩa này nên gọi là tướng hữu vi. Nói là tướng một khác không hai, nghĩa là trong pháp thân do không khác chỗ y chỉ cho nên không có tướng khác. Do vô lượng thân mà đực đến như kết quả này nên không được nói là một tướng. Đối với 2 cái này không thể thiên nói một phía cho nên nói là tướng không hai, hay không hai tướng. Nghĩa này dùng kệ hiển thị: “Không có ngã chấp nên y chỉ không sai biệt.”, nghĩa là ở đời do sức ngã chấp nên có thân khác biệt. Trong pháp thân không có ngã chấp nên không khác biệt. Nếu thân không khác biệt thì sao có nhiều Phật tuần tự trước sau chứng? “Giả danh nói là sai biệt” , nghĩa là do vô lượng thân mà được nên cũng có khác biệt. Như các nghĩa này nên lại dùng kệ nói “tính biệt” nghĩa là chư Bồ-tát rất đông, do sai biệt này nên ra làm cũng khác, do ra làm sai khác nên có nhiều người. Khi hành trang tư lương Bồ-đề viên mãn mà nếu chỉ có một Phật thì hành trang tư lương của bao nhiêu người khác trở thành trống rỗng. Nói làm đầy đủ, nghĩa là chư Phật làm đủ tất cả việc lợi ích chúng sinh, nghĩa là an lập trong 3 thừa. Nếu chư Phật chỉ dùng một Phật thừa an lập chúng sinh thì việc ra làm Phật sự không đầy đủ, cho nên phải có nhiều Phật. Như sinh tử là không có cái bắt đầu thì Phật cũng như vậy. Nếu chỉ một Phật tức là có bắt đầu, cho nên chẳng phải một. Lại nữa kia y chỉ nơi không sai biệt nên cũng không được nói là nhiều. Tức là pháp giới vô cấu này y chỉ nơi vô sai biệt. Tướng không một không khác này, do đạo lý này được hiển thị. Tướng thường, nghĩa là vì 3 nhân duyên nên thể này thường trụ là tướng. Lấy chân như thanh tịnh làm Phật thể. Đây tức là thường trụ. Do đạo lý này được hiển thị Như Lai thường trụ. Nói bản nguyện dắt dẫn, nghĩa là do xưa kia phát nguyện làm lợi ích chúng sinh, do nguyện này dắt dẫn nên Phật thể hiển hiện. Cho nên nguyện ấy không trống rỗng. Đó tức là thường trụ. Nếu nói Như lai làm việc lợi ích chúng sinh xong rồi thì không đúng nghĩa. Vì việc làm chưa xong nên hiện nay có vô biên công việc, nghĩa là vì tất cả chúng sinh chưa Bát-niết-bàn nên vì nhân duyên này mà thường trụ là tướng. Tuy đã nói như vậy nhưng cũng không thể nghĩ bàn. Nay sẽ nói rõ nhân duyên không thể nghĩ bàn này. Nói “chỉ tự chứng biết”, nghĩa là chư Phật tự chứng cái thể của chư Phật, do cái thể kia chỉ tự chứng cho nên giác quán của người khác không thể tư duy biết được. Trong thế gian cũng không lấy cái gì giống nhau để ví dụ được.

Luận nói: Lại nữa làm sao đầu tiên chứng được pháp thân này? Vì là sở duyên của tướng chung của pháp Đại thừa, là trí vô phân biệt và trí hậu đắc, trong tất cả các địa tu 5 tướng thiện, khéo gom góp hành trang tư lương, phá được các chướng vi tế khó phá như Kim cương dụ Tam-ma-đề, rồi sau Tam-ma-đề này lìa tất cả chướng thì được chuyển y.

Giải thích: Trong đây nói đầu tiên chứng được, nghĩa là do cái thể này vì vô vi nên không sinh. Nếu sinh tức là vô thường. Kim cương thí Tam-ma-đề, nghĩa là Tam-ma-đề này ví như kim cương có thể pháp các chướng vi tế khó phá. Nói “liền được chuyển y” nghĩa là Kim cương thí Tam-ma-đề này có thể chuyển y được pháp thân.

Luận nói: Lại nữa pháp có mấy thứ tự tại mà được tự tại? Lược nói có 5 thứ tự tại. Một là tự tại về cõi nước, tự thân, tướng hảo, âm thanh vô biên, vô kiến đỉnh, do chuyển y sắc tụ. Hai là tự tại về hạnh an lạc to lớn khôn lường, do chuyển y thụ tụ. Ba là tự tại về giảng nói tất cả danh, văn, nghĩa lý, do chuyển y tưởng tụ. Bốn là tự tại về sự biền hóa, biến đổi, dẫn nhiếp đại chúng, dẫn nhiếp bạch pháp, do chuyển y hành tụ. Năm là tự tại về trí đại viên kính, trí bình đẳng tính, trí diệu quan sát, trí thành sở tác, do chuyển y thức tụ.

Giải thích: Đây là hiển thị sự tự tại do chuyển y sắc v.v…5 tụ được tự tại. Trong đó do chuyển y sắc tụ nên được cõi Phật tự tại. Nghĩa là hiển thị vàng, bạc v.v… Tùy ý hiển thị thân tự tại, nghĩa là trong Đại pháp hội tùy ý muốn các chúng sinh mà hiện thân. Tưóng hảo v.v… tự tại , nghĩa là tùy theo ý muốn mà được hiển thị như vô biên âm thanh, vô kiến đỉnh v.v… Do chuyển y thụ tụ được tự tại về hạnh an lạc to lớn không lường. Trong này nói không lường có nghĩa là nhiều thứ. Nói to lớn có nghĩa là an lạc này vượt quá an lạc của 3 cõi. Do chuyển y tưởng tụ nên được tự tại trong việc giảng nói danh văn nghĩa lý v.v…Do chấp lấy tướng tưởng nên duyên nơi danh , ngôn v.v…mà lấy tướng của nó chuyển diệt tưởng này. Do chuyển y hành tụ nên được tự tại biến hóa, biến đổi, dẫn nhiếp Đại chúng, dẫn nhiếp bạch pháp v.v… Trong đây biến hóa tự tại nghĩa là tùy ý biến hóa. Biến đổi nghĩa là như biến đổi đất thành vàng v.v… Dẫn Đại chúng nghĩa là tùy ý dẫn nhiếp hướng dẫn các chúng như trời, Dạ-xoa v.v… Dẫn bạch pháp nghĩa là như ý muốn thì bạch pháp hiện tiền. Do chuyển y thức tụ nên được kính trí, bình đẳng trí, chính quán trí, tác sở ưng tác trí. Trong đó kính trí nghĩa là tuy pháp không hiện tiền nhưng khônng quên mất, như thế gian giỏi học tập kinh sách vậy. Bình đẳng trí nghĩa là khi thông đạt, đối với tất cả chúng sinh được tâm bình đẳng. Đây tức là tịnh tâm. Chính quán trí nghĩa là như kho tàng kinh điển, trong các Đà-la-ni Tam-ma-đề môn, tùy lúc nào, pháp gì, tác ý tư duy thì trí hành không ngại. Tác sở ưng tác trí nghĩa là hiển thị như từ Đâu-suất-đà cho đến Niết-bàn hiển hiện các Phật sự.

Luận nói: Pháp thân y chỉ vào bao nhiêu pháp? Lược nó có 3 thứ . Một là y chỉ các nơi Phật trụ. Ở đây có 2 bài kệ:

Được thụ 5 thứ tự thể hỷ,

Chư Phật do chứng pháp giới tính.

Xa lìa 5 hỷ do không chứng,

Cho nên phải chứng 5 hỷ này.

Năng lực sự thành không có lượng.

Pháp vị nghĩa lợi công đức đủ.

Chư Phật hằng thường thấy vô tận,

Nên được hoan hỷ không cùng tột.

Hai là vì thành thục các Bồ-tát nên y chỉ các thụ dụng thân. Ba là phần nhiều vì thành thục các Thanh Văn nên y chỉ các hóa thân.

Giải thích: Nên biết có bao nhiêu pháp y chỉ. Pháp thân y chỉ nơi các thứ Phật trụ, nghĩa là nói “các thứ” tức chỉ các nơi y chỉ như Thánh trụ, Thiên trụ, Phạm trụ v.v… Hoặc có người nghĩ rằng chư Phật cần gì phải hiện hóa thân, vì chư Thanh Văn không chứng được điều này. Lìa 5 hỷ, nghĩa là chư Thanh Văn không thể chứng được pháp thân này nên xa lìa 5 thứ hoan hỷ. Vì vậy là hỷ thì càn phải chứng, nghĩa là nếu muốn cầu sự hoan hỷ này từ nơi chứng thì phải siêng tu phương tiện. Năm thứ hoan hỷ này được hiển thị trong bài kệ thứ hai: “Năng lực sự thành không có lượng. Pháp vị nghĩa lợi công đức đủ.”, nghĩa là trong đó pháp thân có năng lực vô lượng cho nên vô lượng người được chính giác thảy đều có năng lực bình đẳng. Do được thấy năng lực vô lượng này nên sinh hoan hỷ. Và sự thành cũng vô lượng, nghĩa là nếu một vị Phật làm việc lợi ích chúng sinh tức là tất cả Phật sự. Do chư Phật nhiều nên Phật sự cũng vô lượng. Do thấy đó nên sinh hoan hỷ. Pháp vị, nghĩa là do thấy rõ Tu-đa-la, Kì-dạ v.v… 12 bộ kinh pháp nên sinh thắng hoan hỷ. Nghĩa lợi công đức đủ, nghĩa là tài lợi và công đức đầy đủ. Trong đó tài lợi đầy đủ là tùy ý nghĩ ý muốn liền được đầy đủ. Công đức đầy đủ là 10 lực, 18 pháp không chung v.v… đều đầy đủ. Cho nên được hoan hỷ cùng tột không mất, nghĩa là, nói cùng tột là sự hoan hỷ hơn cả 3 cõi, không mất là tập khí phiền não diệt nên chư Phật hằng thường thấy vô tận. Xem đây thì trước nói 4 thứ hoan hỷ cho đến cùng sinh tử không có tận diệt. Tuy nhập vô dư Niết-bàn cũng vô tận. Cho nên chư Phật được đặc biệt hoan hỷ cùng tột, không như các Thanh Văn. Pháp thân cũng là chỗ y chỉ của thụ dụng thân.

Vì nhân duyên gì được thành y chỉ của thụ dụng thân? Nếu tách rời đây thì chư Bồ-tát nhập địa trở lên sẽ không được thành thục. Cũng là chỗ y chỉ của hóa thân. Do nhân duyên gì được thành y chỉ của hóa thân? Vì phần nhiều vì thành thục các Thanh Văn. Các Thanh Văn do nguyện lạc thấp kém, nếu lìa đây thì không được thành thục. Nói “phần nhiều vì” là gồm nói cả các Bồ-tát ở Tín hành địa.

Luận nói: Nên biết có bao nhiêu Phật pháp nhiếp thủ pháp thân? Lược nói có 6 thứ. Một là do thanh tịnh nhiếp thủ thức A-lêda chuyển thành mà được pháp thân. Hai là do quả báo nhiếp thủ sắc căn chuyển thành mà được quả báo trí. Ba là do an lạc nhiếp thủ chuyển dục hạnh thành lạc hạnh mà được vô lượng trí lạc. Bốn là do tự tại nhiếp thủ các nghiệp chuyển thành tự tại mà được vô ngại thần thông trí tự tại trong tất cả thế giới. Năm là do nhiếp thủ các phương tiện lưu bố ở đời như tất cả sự thấy nghe hay biết do ngôn ngữ lưu bố chuyển thành, được chính thuyết trí tự tại khiến tâm chúng sinh hoan hỷ. Sáu là do tâm cứu vớt nhiếp thủ chuyển thành mà được trí cứu vớt tất cả tai họa tội lỗi cho tất cả chúng sinh. Sáu thứ Phật pháp này nhiếp thủ pháp thân chư Phật.

Giải thích: Nếu có pháp có thể nhiếp thủ pháp thân, nay sẽ nói rõ chuyển pháp gì mà được pháp thân này? Nói chuyển thức A-lê-da mà được pháp thân, nghĩa là được pháp thân và thanh tịnh cho nên pháp thân này thanh tịnh, vì vậy gọi là thanh tịnh nhiếp. Quả báo nhiếp, nghĩa là quả báo thâu giữ Phật pháp. Chuyển sắc căn, nghĩa là chuyển nhãn v.v… các sắc căn. Được quả báo trí, nghĩa là chuyển các sắc căn kia được quả báo trí. An lạc nhiếp thủ các dục hạnh thành lạc hạnh, nghĩa là chuyển các dục hạnh thế gian thành được pháp lạc của Phật. Được vô lượng trí, tức được tự tại trong các pháp lạc. Trong tự tại nhiếp thủ chuyển các nghiệp, nghĩa là như các nghề nghiệp thế gian làm nông hay doanh thương v.v… chuyển thành được thần thông trí vô ngại trong tất cả thế giới. Nhiếp thủ các phương tiện lưu bố ở đời, nghĩa là những thấy nghe hay biết trong thế gian chuyển thành những thấy nghe v.v… được tự tại, do được trí làm hoan duyệt tất cả chúng sinh. Tâm cứu vớt nhiếp thủ, nghĩa là như phép vua ở đời gây những sự khổ não, hoặc đem sự thân thiện hoặc tài lực vật lực cứu giúp chuyển thành trí cứu khổ tất cả chúng sinh. Trí cứu vớt này lìa tất cả tội lỗi.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10