NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH LUẬN
Thế Thân Bồ-tát tạo
Tùy Thiên Trúc Tam tạng Đạt-ma Cấp-đa dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 8

Tăng thượng giới học thắng tướng thắng ngữ 6

Luận nói: Như vậy là đã nói xong về tu tập nhân quả sai biệt rồi. Trong đây làm sao thấy được tướng thù thắng của giới tăng thượng? Như kinh nói chư Bồ-tát thụ cấm giới trong Bồ-tát địa. Nếu lược nói có 4 tướng thù thắng nên gọi là thắng tướng, Tức là thắng tướng về sự sai biệt, thắng tướng về chỗ học chung và không chung, thắng tướng về sự rộng lớn, thắng tướng về sự sâu xa. Trong đây thắng tướng về sự sai biệt nghĩa là có giới về sự thủ hộ giữ gìn, giới về nhiếp thiện pháp, giới về việc lợi ích chúng sinh. Nên biết rằng trong đây giới thủ hộ là trụ xứ của 2 giới kia. Giới nhiếp thiện pháp là trụ xứ của sự xuất sinh Phật pháp. Giới lợi ích chúng sinh là trụ xứ của việc thành thục chúng sinh. Cộng học là Thanh Văn và Bồ-tát, vì tính tội không hành. Bất cộng học là vì giá tội không hành. Học xứ này hoặc đối với Thanh Văn thì phạm nhưng Bồ-tát thì không phạm, hoặc có trường hợp đối với Bồ-tát thì phạm nhưng Thanh Văn thì không phạm. Học xứ của Bồ-tát, là thân khẩu ý. Học xứ của Thanh Văn thì chỉ thân khẩu. Cho nên đối với Bồ-tát, tâm cũng phạm, không phải như các Thanh Văn. Lược nói chỉ là nhiếp thụ tất cả chúng sinh không tội lỗi thân khẩu ý nghiệp Bồ-tát tất cả đều phải hành trì là đối với tất cả đều phải học. Đó là chỗ học chung và không chung.

Giải thích: Làm sao biết được chỗ học của Bồ-tát khác với Thanh Văn? Nói phẩm loại khác nhau. Bởi Thanh Văn v.v… chỉ có một loại là thủ hộ giới, không có nhiếp thiện pháp giới và lợi ích chúng sinh giới. Về giới chỗ học chung và không chung, trong tính tội như sát sinh v.v… là chung, đào đất nhổ cỏ v.v…các chế tội là không chung. Học xứ sau đối với Thanh Văn là có tội, Bồ-tát vô tội. Như Thanh văn nếu đi trong mùa hạ là phạm, Bồ-tát nếu thấy việc có lợi ích chúng sinh mà không đi là phạm. Nói nhiếp thụ tất cả chúng sinh không tội lỗi, nghĩa là thâu nhiếp tất cả chúng sinh mà không tội lỗi, chẳng phải như dùng nữ sắc v.v… đem cho. Tuy là nhiếp thụ nhưng không phải không tội nghiệp. Để lìa tội này nên nói dùng sự không tội lỗi mà nhiếp thụ. Nói tâm cũng phạm, là như hại giác v.v… chỉ khi khởi giác tức là Bồ-tát tội, chẳng phải như Thanh Văn. Tăng thượng giới 3 học này tức là thể tính của Ba-la-mật. Vì sao còn lập 3 học? Đây có nghĩa khác với Ba-la-mật. Nay sẽ nói rõ. Do lần lượt làm nhân cho nhau nên lập riêng các học xứ. Vì y giới nên sinh định, y định nên sinh tuệ.

Luận nói: Sai biệt về sự rộng lớn, là vì lại có 4 thứ rộng lớn: 1.nhiều thứ học xứ vô lượng rộng lớn, 2.gồm thâu vô lượng phúc đức rộng lớn, 3.gồm thâu tâm lợi lạc tất cả chúng sinh rộng lớn, 4.trụ xứ A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề rộng lớn.

Giải thích: Nhiều thứ học xứ vô lượng rộng lớn, nghĩa là học xứ của Bồ-tát cũng có nhiều chủng loại và vô lượng, vì hành giáo hóa nhiếp sự đối với chúng sinh. Gồm thâu vô lượng phúc đức, nghĩa là gồm các phúc đức, tư lương của Bồ-tát cũng không thể kể hết được, Thanh Văn thì không như vậy. Gồm tất ý lợi lạc tất cả chúng sinh, nghĩa là trong đó khuyên bảo tu thiện là ý lợi ích. Người này vì điều thiện này nên khi có quả sẽ được phúc báo. Đây gọi là an lạc ý. Trụ xứ A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề rộng lớn, nghĩa là trụ nơi giới này mà được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Giới Thanh Văn thì không như vậy.

Luận nói: Sai biệt sâu xa, nghĩa là nếu Bồ-tát dùng các phương tiện thiện xảo như vậy hành sát sinh v.v… 10 thứ ác nghiệp, nhưng không bị tội, sinh vô lượng phúc, mau chứng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, lại biến hóa thân khẩu nghiệp, phải biết đó là giới sâu xa của Bồ-tát. Hoặc làm quốc vương hiển thị các việc làm bức não chúng sinh. Lấy đó đặt chúng sinh vào trong luật hạnh. Lại trong bản sinh có thị hiện bức não bao nhiêu chúng sinh mà nhiếp thụ bao nhiêu chúng sinh. Trước là khiến tâm chúng, sinh tịnh tín, rồi sau giáo hóa thành thục. Đây là thắng tướng sâu xa của giới Bồ-tát. Bốn thứ tướng thù thắng này, lược nói đây là thắng tướng thủ hộ giới của Bồ-tát. Như vậy đó là các sai biệt về học xứ của Bồ-tát. Lại có vô lượng thứ sai biệt như nói trong Kinh Phương Quảng Tì-na-da Cù-sa.

Giải thích: Trong sai biệt về sự sâu xa, là nếu Bồ-tát dùng các phương tiện thiện xảo như vậy, thì Bồ-tát sẽ được sức mạnh của phương tiện thiện xảo như vậy. Nay sẽ nói rõ. Nếu biết như vầy: Người này do sự bất thiện này sẽ đọa địa ngục vô gián. Bồ-tát do trí biết tha tâm, nên không còn phương tiện nào khác có thể chuyển được ác nghiệp để khỏi đọa ác đạo, bởi nếu tạo nghiệp này rồi thì chắc chắn phải đọa địa ngục. Biết như vậy rồi liền khởi tâm nếu khiến ta tạo nghiệp rồi đọa vào địa ngục thì nào có phải chịu đựng mà giết người ấy. Tuy hiện đời có chịu ít khổ não nhưng đời sau sẽ được an lạc. Cho nên cũng như thầy thuốc, Bồ-tát vì tâm lợi ích giết người ấy mà không có tội, được thắng phúc lớn. Do phúc đức này mau chóng được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Các hạnh như vậy thật là rất sâu xa. Lại nữa Bồ-tát còn có biến hóa thân khẩu nghiệp. Nên biết rằng do đây có giới sâu xa này. Hoặc làm vị quốc vương thị hiện các việc bức não chúng sinh để an lập chúng sinh trong luật hạnh. Trong đó hóa thể tướng là biến hóa, như A-na-la vương vì Thiện Tài đồng tử thị hiện các việc. Thị hiện trong các bản sinh, như Tì-du-an-đát-la vương tử, Tùy gọi là Đa năng, tức Tu-đạt-noa trong Kinh Bản Sinh nói Bồ-tát đem đứa con thí cho Bà-la-môn. Đứa con này là biến hóa. Bởi vì sao? Luận nói hiển thị sự không bức não chúng sinh này vì nhiếp thụ các chúng sinh. Do Bồ-tát hoàn toàn không bức não chúng sinh này nên nhiếp thụ việc các chúng sinh. Đây cũng là rất sâu xa. Bốn thứ sai biệt này có nói rộng trong 10 vạn kệ Kinh Tì-na-da Cùsa. Đến đây giải thích xong về tăng thượng giới học.

Tăng thượng tâm học thắng tướng thắng ngữ 7

Luận nói: Như vậy là đã nói xong về thắng tướng của tăng thượng giới học, còn thắng tướng của tăng thượng tâm học làm sao thấy được? Lược nói có 6 thứ sai biệt: 1.sai biệt về sở duyên, 2.sai biệt về chủng loại, 3.sai biệt về đối trị, 4.sai biệt về công năng, 5.sai biệt về xuất sinh, 6.sai biệt về tác nghiệp. Pháp Đại thừa là sở duyên. Đại thừa quang minh, Nhất thiết phúc đức tụ, Tam-muội vương, Hiền hộ Thủ-lăng-già-ma v.v…Tam-ma-đề, vô lượng chủng loại. Tướng chung của tất cả các pháp duyên trí, ví như phương tiện dùng cây nêm để tháo cây nêm, trục xuất các chướng nhiễm trược trong thức A-lê-da. Vui trong thiền định, tùy ý muốn mà thụ sinh. Trong tất cả thế giới xuất sinh thần thông không chướng ngại. Nghĩa là như chấn động, bùng cháy, phổ biến, hiển hiện, thần biến, qua lại, kéo dài thu ngắn, tụ tán, tất cả sắc tượng nhập vào trong thân, đến đâu thì hiện thân đồng loại, hoặc ẩn hoặc hiện, ra làm tự tại, trấn áp thần thông đối phương, cho biện tài, cho nghĩ nhớ, cho vui thích, phóng ánh sáng v.v… xuất sinh các loại thần thông như vậy.

Giải thích: Nay nói rõ thắng tướng của tăng thượng tâm học. Nói là sở duyên trong pháp Đại thừa, nghĩa là do các Bồ-tát lấy pháp Đại thừa làm sở duyên, không phải như các Thanh Văn v.v… Đại thừa quang minh, Phúc tụ Tam-ma-đề vương v.v… là nói tên các Tam-ma-đề. Bởi các Thanh Văn trong các thứ Tam-ma-đề này chẳng có một thứ nào cả. Nói sai biệt về sự đối trị, nghĩa là do có thể đối trị tất cả chướng ngại cho nên như dùng một vật nhỏ mà đẩy được vật lớn ra. Cũng như vậy các chủng tử phiền não ở trong thức A-lê-da gọi là huân tập. Đây nói là thô đối trị. Đạo nói là tế. Đẩy cái thô kia ra. Nói sai biệt về công năng, nghĩa là do có công năng này nên vui trong thiền định nhưng có chỗ lợi ích tất cả chúng sinh. Cho đến thụ sinh cũng không mất thiền định, Thanh Văn thì không được vậy. Nói sai biệt về xuất sinh, nghĩa là ở trong tất cả thế giới được thần thông không chướng ngại, do từ thiền định sinh. Nói sai biệt về tác nghiệp, nghĩa là trong chấn động làm chấn động tất cả thế giới. Đốt cháy tức là đốt cháy tất cả thế giới. Phổ biến nghĩa là ánh sáng đầy khắp. Hiển hiện là chúng sinh như thế nào thì tùy theo đó ứng hiện. Do năng lực thần thông, Bồ-tát thấy được vô lượng thế giới, và thấy chư Phật Bồtát trong các thế giới kia. Chuyển biến là như chuyển đổi đất thành ra nước v.v…Qua lại là trong một sát-na đi qua vô lượng thế giới và trong một sát-na này liền trở về lại. Tụ là đem vô lượng thế giới nhập vào trong một hạt bụi mà không tăng lớn. Tán là đem một hạt bụi biến đầy khắp vô lượng thế giới. Nói tất cả sắc tượng nhập vào trong thân, nghĩa là như trong một thân hiển hiện tất cả vô lượng sắc tượng. Nói đến đâu thì hiện thân như đồng loại, nghĩa là như qua đến trời thứ 33 thì sắc tượng âm thanh đều đồng như người ở cõi đó để giáo hóa chúng. Và đi đến cõi nào cũng đều như vậy. Nói khi ẩn khi hiện, nghĩa là ở tất cả mọi nơi khi hiện khi không hiện. Việc ra làm tự tại, nghĩa là như biến ma vương làm Phật thân v.v… Trấn áp thần thông đối phương, là được vượt trội hơn tất cả mọi thần thông. Cho biện tài, là khiến có khả năng ứng đáp. Cho nghĩ nhớ và vui thích, là do nghe Bồ-tát thuyết pháp được Tam-ma-đề nên được nghĩ nhớ vui thích. Phóng ánh sáng, là phóng ánh sáng khiến các Bồ-tát ở các thế giới khác đều đến tập hội. Xuất sinh các đại thần thông như vậy, nghĩa là các đại thần thông đã nói ở trước. Các thần thông này Thanh Văn không có được.

Luận nói: Gồm thâu tất cả những việc khó làm, do xuất sinh 10 việc khó làm. Mười việc khó làm là: tự nhận việc khó làm, tự thụ nguyện Bồ-đề, việc khó làm không thoái lui, trong khổ sinh tử không thoái chuyển, không làm trái việc khó làm, không ruồng bỏ tất cả chúng sinh có hành vi điên đảo, các việc khó làm trước mắt, các chúng sinh gây xúc não Bồ-tát cũng hiện tiền làm lợi ích cho chúng, không nhiễm ô dầu việc khó làm, sinh ở thế gian không bị pháp thế gian nhiễm ô, tin vui việc khó làm, trong Đại thừa tuy có chỗ chưa hiểu nhưng vẫn sinh tin vui tất cả giáo pháp rộng lớn sâu xa, thông đạt những việc khó làm, thông đạt nhân pháp 2 vô ngã, tùy hiểu những việc khó làm, tùy thuận hiểu biết các bí mật ngữ sâu xa của Như Lai nói, không bỏ không nhiễm việc khó làm, không bỏ sinh tử mà không nhiễm, ra làm các việc khó làm, trụ trong giải thoát tất cả chướng ngại của chư Phật vận dụng vô công dụng cho đến tận cùng sinh tử làm việc lợi ích tất cả chúng sinh.

Giải thích: Như kinh nói Bồ-tát có những việc khó làm. Đó là những việc gì? Có 10 thứ. Trong đó không lìa không nhiễm khó làm, không lìa nghĩa là không bỏ. Nếu ở trong sinh tử không bỏ sinh tử mà cũng không nhiễm. Đây là rất khó. Còn 9 thứ khác xem luận bản sẽ rõ.

Luận nói: Tùy theo mà hiểu các mật ngữ Phật nói là khó. Bồtát tùy thuận theo đó mà hiểu. Như nói: Thế nào là Bồ-tát thành tựu được bố thí? Nếu không thí một vật mà trong 10 phương thế giới thành tựu vô lượng việc bố thí. Thế nào là thành tựu được sự ưa thích bố thí? Là nếu trong tất cả bố thí chẳng có gì ưa thích. Thế nào là được thành tựu việc tin vào bố thí? Là nếu không tin vào các Như Lai. Thế nào là thành tựu được sự khuyến khích bố thí? Là tự bản thân chẳng có một động cơ gì khởi phát đối với sự bố thí. Thế nào là được thành tựu bố thí một cách thoải mái? Là nếu không có một lúc nào bố thí một vật gì. Thế nào là được thành tựu sự bố thí rộng lớn?

Là nếu đối với sự bố thí sinh tưởng không chắc thật. Thế nào là được thành tựu sự bố thí thanh tịnh? Là nếu sinh tâm keo kiệt. Thế nào là được thành tựu sự bố thí rốt ráo? Là nếu đối với sự bố thí không được tự tại. Thế nào là được thành tựu sự bố thí vô tận? Là nếu không trụ trong vô tận. Giống như bố thí, việc trì giới cho đến trí tuệ đều như vậy. Phải biết tùy theo sự thích hợp.

Giải thích: Trong đây hiển thị ý của các mật ngữ. Trong này nói thế nào là được thành tựu bố thí , tức là Bồ-tát lấy tất cả chúng sinh làm cái thể của mình, cho nên tất cả chúng sinh hành thí là Bồ-tát hành thí. Đây là mật ý. Thế nào là được thành tựu sự ưa thích bố thí, nghĩa là không ưa thích sự bố thí có sở đắc. Chỉ ưa thích tịnh thí của Bồ-tát. Tạp tướng và trước tướng là có sở đắc. Cho nên kinh nói bố thí có tạp tướng trước tướng. Thế nào là được thành tựu tin tưởng vào việc bố thí, nghĩa là do tự mình được tâm bố thí nên không phải nhờ duyên người khác. Thế nào là được thành tựu việc phát khởi khuyến khích bố thí, nghĩa là đây cũng hiển thị cái tự tính năng thí. Nếu tự thân không có động cơ khởi phát , nhưng do trừ bỏ keo kiệt nên tuy không phát động tự có thể hành thí. Thế nào là được thành tựu bố thí một cách thoải mái, nghĩa là không phải thí một lần mà thường thí, không phải chỉ thí một vật mà thí tất cả. Thế nào là được thành tựu bố thí một cách rộng lớn, trong đó nói không chắc thật tức là nếu lấy nghĩa bí mật thì gọi là không loạn. Đây là hiển thị định tâm thí và phá tham dục thí. Thế nào là được thành tựu bố thí thanh tịnh, nghĩa là trong đây nói sinh khởi tức lấy nghĩa bí mật gọi là bạt căn, bạt căn là nhổ gốc rễ, nhổ gốc rễ của tính keo kiệt, do đưa đầu keo kiệt xuống dưới nhổ gốc lên trên nên gọi là sinh khởi. Thế nào là được thành tựu bố thí một cách rốt ráo, nghĩa là cứu cánh tức Niết-bàn. Trong đây Niết-bàn cũng không trụ nên không như Thanh Văn trụ cứu cánh Niết-bàn. Thế nào là được thành tựu bố thí một cách tự tại, nghĩa là chỉ đối với thí, chướng không được tự tại. Thế nào là được thành tựu bố thí vô tận, nghĩa là vô tận tức Niết-bàn, để hiển thị không đồng với Thanh Văn trụ Niết-bàn.

Luận nói: Thế nào là thành sát sinh? Là nếu cắt đứt sinh tử của chúng sinh. Thế nào là thành không cho mà lấy? Là nếu tất cả chúng sinh không có ai cho mà tự lấy. Thế nào là thành dục tà hạnh? Là nếu hành động trong tà dục. Thế nào là thành vọng ngữ? Là nếu trong hư vọng nói là hư vọng. Thế nào là thành lời nói phá hoại? Là nếu thường hành trong đệ nhất không hành. Thế nào là thành lời nói thô ác? Là nếu trụ nơi phải biết bờ kia. Thế nào là thành lời nói tạp loạn? Là nếu ở trong pháp chủng loại sai biệt nói như tướng của chúng. Thế nào là thành tham chẳng phải phần? Là nếu đối với vô thượng thiền định thường tu tập để tự chứng đắc. Thế nào là thành tâm sân hại? Là nếu đã sát hại được tất cả tâm phiền não. Thế nào là thành tà kiến? Là nếu khắp tất cả mọi nơi là tà thể thấy như thể của chúng.

Giải thích: Như trong kinh nói: Phật bảo Tì-khưu, ta là kẻ sát sinh. Nay sẽ nói rõ ý của câu này. Thế nào là kẻ dục tà hạnh, nghĩa là nếu nghĩ biết cái dục này là tà, như vậy thì phải biết trụ ở bờ bên kia. Thế nào là tà kiến, nghĩa là đối với sắc v.v…biến hành khắp cả tà thể thì thấy như tướng của chúng, tức thấy tính phân biệt trong tính y tha là tà tướng. Ngoài ra nghĩa của 10 nghiệp đạo bất thiện, có thể hiểu như trong luận.

Luận nói: Pháp Phật rất sâu. Những gì là pháp Phật rất sâu, nay sẽ giải thuyết. Pháp thường trụ là pháp Phật, vì pháp thân thường trụ. Pháp đoạn diệt là pháp Phật, vì đoạn diệt tất cả chướng. Pháp sinh khởi là pháp Phật, vì hóa thân sinh khởi. Pháp chứng kiến là pháp Phật, vì chúng sinh có 8 vạn 4 ngàn hành vi và đối trị đều chứng kiến. Pháp có dục là pháp Phật, vì dục là muốn cùng chúng sinh nhiếp đồng tự thể. Cũng ý như vậy mà nói pháp có sân là pháp Phật, pháp có si là pháp Phật, pháp phàm phu là pháp Phật, pháp không nhiễm là pháp Phật vì thành tựu chân như thì tất cả không ô nhiễm, cho nên pháp không ô nhiễm là pháp Phật. Vì pháp Phật sinh tại thế gian không bị thế gian ô nhiễm. Cho nên nói pháp Phật rất sâu. Vì để tu Ba-la-mật, để thành thục chúng sinh, để thanh tịnh cõi Phật, để xuất sinh tất cả pháp Phật v.v…phải biết đây là nghiệp sai biệt Tam-ma-đề của Bồ-tát.

Giải thích: Lại có các kinh khác nói pháp thường trụ là pháp Phật, cho đến pháp không nhiễm là pháp Phật v.v… Nay sẽ hiển thị ý trong đó nói. Thường trụ nghĩa là pháp thân lấy pháp này nên nói là pháp thường trụ. Pháp đoạn diệt, pháp chứng kiến, pháp không ô nhiễm, các pháp này hiển thị sự xuất ly tất cả chướng nhiễm chân như. Vì pháp này nên nói là pháp không nhiễm ô. Trước không nói sự sai biệt về tác nghiệp, nên nay sẽ hiển thị. Nghiệp Tam-ma-đề của Bồ-tát, trong đây Bồ-tát y chỉ Tam-ma-đề nên được tu các Ba-la-mật. Cũng do y chỉ Tam-ma-đề nên thành thục chúng sinh. Do thần thông nên nhiếp dẫn khiến nhập. Cũng y chỉ sức của Tam-ma-đề mà thanh tịnh cõi Phật cũng như vậy. Nếu tâm được tự tại tức tùy ý muốn khiến thế giới trở thành vàng v.v…như vậy là nhờ sức của Tam-ma-đề. Xuất sinh pháp Phật, đó là nghiệp. Đến đây giải thích xong về tăng thượng tâm học.

Tăng thượng tuệ học thắng tướng thắng ngữ 8

Luận nói: Như vậy là đã nói xong về thắng tướng của tăng thượng tâm học, vậy làm sao có thể thấy thắng tướng của tăng thượng tuệ học? Nghĩa là trí vô phân biệt, như tự tính, y chỉ, nhân duyên, sở duyên, tướng mạo, thiết lập, giải thích câu hỏi, trụ trì, trợ bạn, quả báo, lưu xuất, xuất ly, đến cứu cánh, phương tiện, các công đức của vô phân biệt hậu đắc, sai biệt, thí dụ trí vô phân biệt, vô công dụng làm việc nên làm, sự sâu xa v.v… Phải biết đây là các sai biệt về tuệ tăng thượng của trí vô phân biệt.

Giải thích: Nay sẽ nói về thắng tướng của tăng thượng tuệ học. Trí này lại có 3 thứ: 1.phương tiện vô phân biệt, tức là tầm tư, 2.vô phân biệt, 3.hậu đắc. Trong đây trí muốn tìm cầu là tuệ tăng thượng đầu tiên, trí tự bên trong là tăng thượng tuệ thứ hai, trí nhiếp trì là tăng thượng tuệ thứ ba. Trong đây chỉ có thành tựu trí vô phân biệt là chính thể. Do nhân tầm tư, trí tức là quả của nó. Do sau được quả trí, nên kia là nhân. Nếu trí này thành tựu 2 trí trước và sau, tức là được thành tựu. Nay giải thích trước tự tính của trí vô phân biệt. Tự tính tức là thể tướng. Tự tính của trí vô phân biệt của Bồ-tát phải lìa bỏ 5 thứ tướng. Nay sẽ đề cập.

Luận nói: Tự tính của trí vô phân biệt này lìa 5 thứ tướng: lìa phi tư duy, lìa quá giác quán, lìa diệt thụ tưởng định, lìa tự tính của sắc, lìa các tướng suy tính nghĩa chân thật. Phải biết rằng lìa 5 thứ tướng này là trí vô phân biệt.

Giải thích: Trong 5 thứ tướng, nếu không tác ý tức là không phân biệt, vậy thì khi ngủ say, hoặc say rượu là trí vô phân biệt? Lại nữa nếu quá giác quán là không phân biệt thì nhị thiền trở lên phải là trí vô phân biệt? Nếu vậy người thế gian cũng có được trí vô phân biệt? Lại nữa nếu tâm và tâm pháp không hiện hành là trí vô phân biệt thì trụ ở diệt thụ tưởng định phải là trí vô phân biệt? Trí này không thành. Bởi vì sao? Vì khi trụ ở diệt định v.v…thì không có tâm. Lại nữa nếu thể tính của trí như sắc, tức là như sắc thì ngoan độn không tri giác, vậy là trí cũng ngoan độn không tri giác? Lại nữa nếu trong nghĩa chân thật thủ lấy các tướng là vô phân biệt, cái thủ lấy này tức là phân biệt, vì lấy phân biệt nói đây là chân thật. Nếu trí lìa 5 thứ tướng duyên nghĩa chân như, trong nghĩa chân như nếu không khởi các chủng tướng nói đây là chân thật thì đó là tướng của trí vô phân biệt. Cho nên khi duyên nghĩa chân thật, như nhãn thức duyên sắc không có các chủng tướng thì đó là nghĩa của nó.

Luận nói: Để thành lập như đã nói về trí vô phân biệt nên nói kệ như sau:

Chư Bồ-tát tự tính,

Thoát ly 5 thứ tướng.

Là trí vô phân biệt,

Không kế đạc chân như.

Chư Bồ-tát y chỉ,

Không mà có tư duy,

Là trí vô phân biệt,

Không tư duy chủng loại.

Chư Bồ-tát nhân duyên,

Có ý ngôn văn huân,

Là trí vô phân biệt,

Tương ưng chính tư duy.

Chư Bồ-tát sở duyên,

Không thể nói thuyết pháp,

Là trí vô phân biệt,

Vô ngã và chân như.

Chư Bồ-tát tướng mạo,

Ở trong sở duyên kia,

Là trí vô phân biệt,

Nhĩ diệm không có tướng.

Tương ưng nghĩa tự tính,

Không ngoài sở phân biệt.

Chữ chữ đều tương ưng,

Đó là tương ưng nghĩa.

Nếu tách rời ngôn thuyết,

Với nghĩa, trí không sinh.

Vì ngôn thuyết bất đồng,

Không thể nói tất cả.

Chư Bồ-tát trụ trì,

Là trí vô phân biệt,

Hiện hành trí hậu đắc,

Được tăng trưởng tiến thú.

Chư Bồ-tát trợ bạn,

Nói có hai đường lối,

Là trí vô phân biệt,

Các chủng loại ngũ độ.

Chư Bồ-tát quả báo,

Nhị luân trong chư Phật,

Là trí vô phân biệt,

Phương tiện và chính đắc.

Chư Bồ-tát lưu xuất,

Sinh trong các đời sau,

Là trí vô phân biệt,

Vì tự thể chuyển thắng.

Chư Bồ-tát xuất ly,

Được tương ưng thành tựu,

Là trí vô phân biệt,

Phải biết trong10 địa.

Chư Bồ-tát cứu cánh,

Do được tịnh 3 thân,

Là trí vô phân biệt,

Được tự tại cao tột,

Như hư không không nhiễm,

Trí vô phân biệt này,

Các thứ nghệp cực ác,

Chỉ tin là quyết định.

Như hư không không nhiễm,

Trí vô phân biệt này,

Giải thoát tất cả chướng,

Được thành tựu tương ưng.

Như hư không không nhiễm,

Trí vô phân biệt này,

Thường hành trong thế gian,

Pháp thế gian không nhiễm.

Như người câm muốn biết,

Đúng như người câm biết,

Như người không câm biết,

Ba trí nói như vậy.

Như người ngu muốn biết,

Đúng như người ngu biết,

Như người không ngu biết,

Ba trí nói như vậy.

Như 5 đều muốn biết,

Đúng như 5 biết,

Như ý thức muốn biết,

Ba trí nói như vậy.

Như chưa biết muốn biết,

Như biết pháp và nghĩa,

Ba trí tuần tự vậy,

Phải biết là phương tiện.

Như người lúc nhắm mắt,

Là trí vô phân biệt,

Thì người ấy mở mắt,

Chính là trí hậu đắc.

Trí vô phân biệt này,

Phải biết như hư không,

Như hình sắc trên không,

Trí hậu đắc cũng vậy.

Như Ma-ni, nhạc trời,

Tác động lìa phân biệt,

Chư Phật các chủng nghiệp,

Cũng thường lìa phân biệt.

Chẳng đây cũng chẳng khác,

Chẳng phải trí mà trí.

Với nhĩ diệm không khác,

Là trí vô phân biệt.

Bởi nói tất cả pháp,

Tự tính lìa phân biệt,

Sở phân biệt phi hữu,

Không trí vô phân biệt.

Giải thích: Trong kệ thứ nhất hiển thị nghĩa này, tức nói tự tính do y chỉ nên được sinh. Nay sẽ đề cập. Do nói trí này là vô phân biệt nên trí này phải y chỉ tâm sinh. Nếu y chỉ tâm sinh, do có khả năng tư niệm nên gọi là tâm. Nếu y chỉ tư niệm sinh tức nghĩa vô phân biệt không thành. Lại nếu y chỉ phi tâm sinh thì không thành trí. Vì 2 lỗi này nên kệ nói “Chư Bồ-tát y chỉ “ v.v… Trong này trí y chỉ không phải là tư. Bởi vì sao? Bởi nghĩa không tư lường. Lại nữa chỗ y chỉ đây cũng chẳng phải phi tư. Bởi vì sao? Vì tư có công dụng dẫn sinh, cho nên khi y chỉ sinh là thuộc chủng loại tư, cho nên được gọi là tư. Lại nữa trí này do nhân sinh khởi, cho nên kệ tiếp theo là hiển thị nhân đó. Câu “Chư Bồ-tát nhân duyên, có ý ngôn văn huân.” Nghĩa là chính khi nghe do âm thanh người khác mà huân tập. Lấy huân tập này làm nhân sinh tư duy ý ngôn, gọi là chính tư duy. Trí này lấy gì làm duyên? Lại dùng kệ hiển thị. Câu “Chư Bồ-tát sở duyên” v.v… nghĩa là trong đó không thể nói là pháp tính, tức là trong tính phân biệt không thể nói tất cả các pháp. Lại nữa pháp nào không thể nói? Là vô ngã, chân như, thể của nhân pháp, vô ngã của tính phân biệt. Cái thể của vô thể gọi là chân như. Chớ nên chấp thủ một cách độc đoán. Lại nữa duyên này tướng mạo như thế nào? Tiếp theo dùng kệ hiển thị. Câu “Chư Bồ-tát tướng mạo” v.v… nghĩa là trong đó vô tướng tức trí này cùng với chân như bình đẳng mà sinh, không có tướng nào là tướng riêng. Đó là tướng mạo, như mắt bắt lấy sắc, trong đó thấy xanh v.v…các tướng mạo cùng với sắc không khác.

Đây cũng như vậy. Trí với chân như tướng mạo không khác. Nếu có tất cả pháp đều không thể nói thì lấy gì làm sở phân biệt? Tương ưng nghĩa của tự tính là sở phân biệt, không gì khác. Không gì khác hơn là nó nên gọi là phi dư. Lại nữa làm sao thành tựu? Để thành tựu nên kệ nói “Chữ chữ tự tương ưng”. Đó là tương ưng với nghĩa, tức là nếu chữ này tương ưng với chữ kia thì nghĩa nói trong đây là nghĩa hòa hợp. Như 2 chữ Chước-sô không thể cắt rời ra mà nói được, tức là có sự hòa hợp mà sinh nghĩa là con mắt ( chữ Chước-sô là tiếng Phạn, Tùy tức đời nhà Tùy, chỉ Trung Hoa, gọi là nhãn nghĩa là con mắt). Đó là sở phân biệt. Dùng nghĩa lý gì mà nói tất cả pháp là không thể nói? Nếu lìa ngôn thuyết thì đối với nghĩa, trí không sinh cho nên như có người chưa biết đã có thể nói tên. Đốu với nghĩa được nói thì trí không sinh. Nếu ông nói chỉ nói được tên thì biết nghĩa, điều đó không thành. Như kệ nói “ Vì ngôn thuyết bất đồng”, vì tên năng thuyết với nghĩa sở thuyết không đồng nhau, vì tên và nghĩa đều có biệt thể. Kệ nói “Tất cả không thể nói”, nghĩa là do nghĩa này nên năng thuyết và sở thuyết đều không thể nói. Lại nữa trí vô phân biệt này trụ giữ như thế nào? Kệ nói “Chư Bồ-tát trụ trì”, tức là trí hậu đắc trong trí vô phân biệt. Tức là cái trí do vô phân biệt mà người hành giả về sau có được. Bồ-tát tu các hành tức dựa vào trí này được tăng trưởng tiến lên. Bồ-tát có được các hành trong nghĩa tăng trưởng này, y vào trí vô phân biệt mà trụ giữ. Lại nữa trí này lấy gì làm trợ bạn? Kệ nói “Chư Bồ-tát trợ bạn”, nghĩa là nói có 2 đường lối. Trí vô phân biệt này lấy 5 Ba-la-mật làm trợ bạn. Trong đó có 2 đường lối gọi là tư lương đạo và y chỉ đạo. Tư lương đạo là đường lối sử dụng như hành trang lên đường, tức là các Ba-la-mật như thí, giới, nhẫn, tinh tiến v.v…Y chỉ đạo là đường lối nương tựa, tức thiền Bala-mật. Như trước nói các Ba-la-mật sinh các thiện căn và nương tựa vào thiền định nên được sinh trí vô phân biệt. Trí này tức Bát-nhã Ba-la-mật. Lại nữa cho đến chưa được Phật quả đến nay có trí vô phân biệt có thể thành thục quả báo. Kệ nói “Chư Bồ-tát quả báo, trong nhị luân chư Phật”, nghĩa là người có trí vô phân biệt. Những gì là nhị luân của chư Phật? Đó là thụ dụng thân luân và hóa thân luân. Nếu tu phương tiện vô phân biệt có thể thành thục quả hóa thân. Nếu chính được vô phân biệt có thể thành thục quả thụ dụng thân. Để hiển thị nghĩa này nên kệ nói “Phương tiện và chính đắc”. Lại nữa cái gì là trí vô phân biệt lưu xuất? “Chư Bồ-tát lưu xuất, sinh trong các đời sau”, nghĩa là ở trong nhị luân kia nơi các đời sau thể của trí vô phân biệt này chuyển được thắng tiến. Phải biết khi trí vô phân biệt này chuyển thành thắng tiến tức đó là quả lưu xuất. Lại nữa thế nào là xuất ly? Chư Bồ-tát xuất ly, nghĩa là cứu cánh gọi là xuất ly. Tức là Niết-bàn được thành tựu tương ưng. Nói trí vô phân biệt này, tức trí này mới được tương ưng. Từ đó trải vô lượng trăm ngàn kiếp được thành tựu tương ưng. Nói phải biết trong 10 địa tức tuần tự từ sơ địa cho đến địa thứ 10. Trong sơ địa chỉ có được tương ưng. Từ đó về sau vô lượng thời được thành tựu tương ưng. Cho nên chư Bồ-tát trong 3 kiếp a-tăng-kì được Niết-bàn. Do trải qua thời gian như vậy mới được cứu cánh. Những ai là vô phân biệt cứu cánh? Như trướcv đã nói. Đó là kệ nói chư Bồ-tát cứu cánh do được 3 thân thanh tịnh, là người có trí vô phân biệt. Trong đây 3 thân thanh tịnh là do 3 thân này trong sơ địa chỉ có đắc. Trong 10 địa được thiện thanh tịnh. Được tự tại cao tột, nghĩa là trí vô phân biệt này không phải chỉ cứu cánh được thanh tịnh 3 thân, lại còn có 10 thứ tự tại. Như sau sẽ đề cập. Lại nữa trí vô phân biệt có công đức gì? Trong đây có 3 thứ vô phân biệt: 1.phương tiện vô phân biệt, 2.căn bản vô phân biệt, 3.hậu đắc vô phân biệt. Trong đây phương tiện vô phân biệt nghĩa là người này ban đầu ở một nơi nào đó được nghe Bồ-tát vô phân biệt nhưng chưa thấy phương tiện ấy tâm vẫn sinh tin yêu, y chỉ sự tin yêu này tu quán vô phân biệt, khi ấy gọi là phương tiện vô phân biệt. Do quán hạnh này được sinh vô phân biệt, nên được gọi là vô phân biệt. Phương tiện vô phân biệt này có công đức vô nhiễm. Ví dụ như gì? Kệ nói “Như hư không không nhiễm, trí vô phân biệt này”. Để hiển thị pháp gì? Vô nhiễm nên nói các thứ nghiệp cực ác, để hiển thị nhân không nhiễm nên nói chỉ có tin quyết định, do nơi vô phân biệt này chỉ có tin là quyết định nên có khả năng đối trị ác thú. Đây tức hiển thị căn bản không nhiễm các ác. Công đức vô phân biệt còn dụng được gì? Kệ nói “Như hư không không nhiễm, là trí vô phân biệt”. Pháp gì không nhiễm? Là tất cả chướng ngại. Vì sao không nhiễm? Vì được thành tựu tương ưng. Hiển thị trong các địa là nhân do đó được tương ưng và thành tựu tương ưng. Đây tức là hiển thị đối trị tất cả chướng. Công đức của trí vô phân biệt hậu đắc còn có công dụng gì? Kệ nói “Như hư không không nhiễm, là trí vô phân biệt” Như hư không không nhiễm, trí vô phân biệt này, thường hành trong thế gian, “pháp thế gian không nhiễm.”, nghĩa là do sức của trí này thấy nơi nào có lợi ích chúng sinh thì tùy niệm sinh qua đó. Tuy sinh thế gian nhưng không bị pháp thế gian nhiễm. Pháp thế gian có 8 thứ là được lợi, không được lợi, tiếng tốt, tiếng xấu, chê, khen, khổ, sướng. Đây tức là vô phân biệt, từ trí vô phân biệt sinh. Nay sẽ hiển thị sai biệt của 3 trí này. Phải biết như tướng của chúng. “Như người câm muốn biết”, là không có ngôn thuyết, phương tiện vô phân biệt cũng vậy. “Đúng như người câm biết”, là không có ngôn thuyết, căn bản vô phân biệt cũng vậy. “Như người không câm biết”, là như chỗ biết, tức có ngôn thuyết, vô phân biệt hậu đắc cũng vậy. Các tên gọi chữ viết v.v…là ngôn thuyết. “Như người ngu muốn biết”, nghĩa là chưa hiểu biết gọi là ngu. Cái ngu này v.v… ví cho 3 trí. Giống như nói về người câm. “Như 5 đều muốn biết”, nghĩa là vô phân biệt có 5 thứ, phải biết đó là nhãn v.v… 5 thứ. Những thứ này cầu biết chính thụ. Đây ví chi 3 trí, tất cả nói gì cũng như người câm nói. “Như ý thức muốn biết” nghĩa là như ý thức đối với trần có thể phân biệt, có thể thụ dụng, trí hậu đắc cũng vậy đối với trần cũng phân biệt cũng thụ dụng. “Như chưa biết muốn biết”, phương tiện vô phân biệt cũng vậy. Như khi tụng tập luận, chỉ thụ dụng nơi pháp, căn bản vô phân biệt cũng vậy. Pháp là hiểu như văn tự. Luận là đều thụ dụng pháp và nghĩa, phải biết trí hậu đắc cũng vậy. Lại nữa, để gồm thâu pháp và nghĩa này nên hiển thị 2 trí. “Như người lúc nhắm mắt”, kệ này hiển thị 2 tướng sai biệt của vô phân biệt và hậu đắc. Nói “như hư không” là như hư không không nhiễm, không phân biệt, cũng không bị cái khác phân biệt nó, trí vô phân biệt cũng vậy. Phổ biến khắp tất cả pháp chỉ một mùi vị. Trong hư không, tất cả pháp đều không thể nhiễm ô nên gọi là vô nhiễm. Tự thể không phân biệt nên gọi là vô phân biệt, cũng không bị cái khác phân biệt thành tướng mạo, nên gọi là phi sở phân biệt. Phải biết trí này là như vậy.

“Như hình sắc trên không, trí hậu đắc cũng vậy.”, như sắc hiển hiện cũng là năng phân biệt, cũng là sở phân biệt. Lại nữa nếu lấy trí vô phân biệt gọi là Phật thì đã lìa phân biệt chúng sinh làm sao làm việc lợi ích chúng sinh được? Tuy lìa phân biệt nhưng như lý được thành. Kệ lấy ngọc Ma-ni và nhạc trời làm ví dụ để hiển thị. “Như Ma-ni, nhạc trời,”, nghĩa là như ngọc như ý lìa nghiệp phân biệt, tùy ý muốn chúng sinh mà làm việc lợi ích. Lại giống như nhạc trời không có người diễn tấu, tùy ý muốn của trời kia mà phát ra các thứ âm thanh. Chư Phật cũng vậy, lìa phân biệt mà mọi thứ sự thành. Vô phân biệt này rất sâu làm sao trí duyên tính y tha mà phân biệt vật? Vì có biệt duyên. Nếu vậy thì có lỗi gì? Nếu phân biệt sở phan duyên thì không được gọi là vô phân biệt. Nếu nói có phan duyên riêng thì phan duyên riêng này cũng phi hữu. “Chẳng đây cũng chẳng khác”, nghĩa là trong đây nói chẳng phải cái này bởi chẳng phải phân biệt năng duyên, bởi vô phân biệt nên cũng chẳng phải cái khác. Bởi vì tác pháp ngay nơi pháp của tính y tha như phan duyên, nên pháp và pháp như 2 thứ, không thể nói là một, không thể nói là khác. Đây cũng vậy, không thể nói là phân biệt sở duyên. Cũng không thể nói là khác duyên. Lại nữa vì sao đây là trí cũng là phi trí? Nếu vậy có lỗi gì? Nếu là trí thì đã tên là trí rồi vì sao không phân biệt? Nếu phi trí tự tính vì sao nói là trí vô phân biệt? Cho nên lấy kệ “Chẳng phải trí mà trí” để hiển thị.

Đây không thể là trí. Bởi vì sao? Do phương tiện có trí phân biệt, vì trong tự tính không sinh. Cũng là phi phi trí, bởi phương tiện có trí phân biệt làm nhân sinh. Lại có nghĩa khác là “phi tức” cũng là “phi dị”, “phi trí” cũng là “trí”, nghĩa là do “phi tức” duyên trong phân biệt sinh, nên gọi là “phi trí cũng phi dị”. Do “tức” duyên trong pháp như sinh, nên là “phi phi trí”. Tức là lấy câu trước giải thích câu sau. “Với nhĩ diệm không khác, là trí vô phân biệt.”, nghĩa là không phải như trí phương tiện có năng thủ sở thủ sinh nên gọi là vô phân biệt. Nếu trong sở thủ nhĩ diệm, không biệt dị bình đẳng bình đẳng sinh là vô phân biệt. Trí này không trụ trong năng thủ sở thủ. Thế Tôn trong Tu-đa-la nói tất cả pháp là vô phân biệt, trong đó muốn hiển thị vô phân biệt này cho nên lại nói kệ: “Bởi nói tất cả pháp, tự tính lìa phân biệt”, nghĩa là tất cả pháp tức tự tính vô phân biệt. Vì sao kệ nói như vậy? Sở phân biệt phi hữu. Lấy đó hiển thị do vật sở phân biệt là phi hữu. Nếu sở phân biệt phi hữu nên tức tất cả pháp tự tính vô phân biệt thì vì sao tất cả chúng sinh không được giải thoát ngay? “Không trí vô phân biệt.” lấy câu này hiển thị sự không được giải thoát. Tuy tất cả pháp tự tính vô phân biệt, bởi tất cả pháp tự tính vô phân biệt cho nên không có sở phân biệt. Néu trong đây trí thông đạt sinh chứng kiến vô phân biệt này nên được giải thoát. Nếu trí thông đạt không sinh, tức không được giải thoát. Nói trí vô phân biệt tức trí này có 3 phần. Nay sẽ nói rõ.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10