NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH LUẬN
Thế Thân Bồ-tát tạo
Tùy Thiên Trúc Tam tạng Đạt-ma Cấp-đa dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 3

Phải biết y chỉ thắng tướng thắng ngữ 1 – 3

Chương 14: Thế gian tịnh

Luận nói: Vì sao nói thế gian thanh tịnh bất thành? Như chưa lìa bỏ cái dục của cõi Dục, chưa được cái tâm của cõi Sắc, tức đem cái thiện tâm của cõi Dục tu hành trừ cái dục của cõi Dục. Cái tâm tu hành của cõi Dục này với cái tâm của cõi Sắc không cùng sinh cùng diệt nên không huân tập không thành chủng tử. Quá khứ không có tâm cõi Sắc, trong vô lượng kiếp bao nhiêu tâm xen cách nên chủng tử tĩnh tâm kia không thành tựu. Đã không có cho nên thành tựu cái tĩnh tâm cõi Sắc kia là do Nhất thiết chủng tử quả báo thức tuần tự truyền đến làm nhân duyên, tu hành thiện tâm là tăng thượng duyên. Như thế tất cả địa vị lìa Dục đều có tương trạng như vậy. Như vậy thanh tịnh thế gian mà lìa Nhất thiết chủng tử quả báo thức cũng bất thành.

Giải thích: Như thế gian tịnh bất thành, nay sẽ nói rõ. Như khi khởi tu hành lìa dâm dục, tu hành thiện tâm cõi Dục không có huân tập tâm cõi Sắc vì không đồng sinh đồng diệt, cho nên tâm cõi Sắc kia là không chủng tử mà sinh bởi quá khứ tâm cõi Sắc trong vô lượng kiếp các thức khác xen cách, đã là quá khứ không có nên bất thành, chủng tử tĩnh tâm kia làm nhân duyên, từ tự chủng tử trong thức A-lê-da sinh nên phương tiện thiện tâm kia chẳng phải không công lực. Được làm tăng thượng duyên tức là có công lực nhưng chẳng phải nhân duyên. Do tăng thượng nên tâm cõi Sắc được sinh. Như vậy khi phá dục cõi Sắc cũng vậy.

Chương 15: Xuất thế gian tịnh

Luận nói: Vì sao nói xuất thế gian thanh tịnh bất thành? Như

Thế Tôn nói: Nghe âm thanh từ người khác và tư duy đúng đắn, do 2 nhân này được sinh chính kiến. Cái âm thanh và chính tư duy này huân tập vào nhĩ thức hay huân tập vào ý thức hay huân tập cả hai nhĩ thức và ý thức? Trong pháp kia khi khởi chính tư duy thì nhĩ thức không sinh. Ý thức cũng bị các thức khác phan duyên xen cách. Nếu khi sinh tâm tương ưng chính tư duy, ý thức kia đã diệt lâu và trở thành quá khứ không con có cái năng huân tập sở huân tập của cái nghe nữa thì được chủng tử ở đâu? Thời gian sau cái tâm tương ưng sinh chính tư duy và cái tương ưng chính tư duy là tâm thế gian với cái tương ưng chính kiến là tâm xuất thế gian không có nghĩa cùng sinh cùng diệt cho nên không bị kia huân tập. Đã không bị huân tập thì không thành chủng tử. Vì vậy sự thanh tịnh xuất thế gian mà lìa Nhất thiết chủng tử quả báo thức cũng bất thành, vì trong đó sự nhiếp trì chủng tử nghe bất thành.

Giải thích: Nay sẽ làm rõ nghĩa xuất thế gian tịnh bất thành. Nói âm thanh từ người khác và chính tư duy nghĩa là chính cùng với thanh tư duy, ý thức này bị các thức khác phan duyên làm xen cách nghĩa là cùng chính kiến tương ưng tâm xuất thế cách tuyệt, cho nên nếu tâm tương ưng chính tư duy sinh nghĩa là cái chính tư duy của thời gian sau. Nói kia diệt thành quá khứ đã lâu, nghĩa là ý thức trước đã tạ diệt trải vô lượng thời gian, cái văn sở huân và huân tập đều không có, làm sao được làm nhân sinh tương ưng chính tư duy? Nói trong ý thức kia, nghĩa là trong ý thức thế gian. Văn huân tập là do nghe âm thanh người khác huân tập trong ý thức. Nếu nghĩ như vậy thì sự nhiếp trì chủng tử kia bất thành. Nghĩa là sự nhiếp trì chủng tử xuất thế tịnh bất thành, cho nên nếu có chủng tử sinh mới có nghĩa.

Luận nói: Lại nữa Nhất thiết chủng tử quả báo thức đã là nhân nhiễm pháp, làm sao lại thành chủng tử của tâm xuất thế đối trị lại kia? Lại nữa cái tâm xuất thế này xưa chưa từng có, nên không huân tập. Đã không huân tập thì do đâu sinh chủng tử? Ông nên trả lời rằng: Thiện thanh tịnh pháp giới lưu xuất cái nghe, huân tập làm sinh chủng tử.

Giải thích: Cái quả báo thức này đã là cái thể chướng ngại nhân, tức không thành cái thể của nhân đối trị. Lại nữa cái tâm xuất thế này ban đầu chưa từng có, nghĩa là từ xưa nay chưa sinh. Không huân tập là do xưa nay chưa sinh cái tâm xuất thế kia, huân tập nhất định chưa có. Nói “thiện thanh tịnh pháp giới lưu xuất văn huân tập làm chủng tử được sinh” là nghe một thứ âm thanh khác cho nên nói nghe từ thiện thanh tịnh pháp giới lưu xuất huân tập. Do thiện thanh tịnh pháp giới diệt trí chướng phiền não chướng cho nên gọi là thiện thanh tịnh pháp giới. Nói “lưu xuất ra” tức là thuyết pháp, nghĩa là Tu-đa-la v.v…ở nơi pháp giới này lưu xuất ra Tu-đa-la. Nghe được, cho nên nói là “nghe từ pháp giới lưu xuất ra”. Tức là cái văn huân tập này, cho nên nói là “cái văn huân tập được lưu xuất từ pháp giới”. Lại nữa văn tức là huân tập, cho nên nói là văn huân tập. Cái văn huân tập kia trụ trong thức A-lê-da làm nhân sinh khởi tâm xuất thế.

Luận nói: Cái văn huân tập này là tự tính của thức A-lê-da hay chẳng phải? Nếu là tự tính của thức A-lê-da thì sao được thành chủng tử đối trị? Nếu chẳng phải tự tính của thức ấy thì làm sao thấy được y chỉ của chủng tử văn huân tập? Cho đến địa vị Phật Bồ-đề cái văn huân tập này ở nơi nào trong thân? Nó cùng với quả báo thức đồng tướng mà sinh, như nước với sữa nhưng không phải là thức A-lê-da để thành chủng tử đối trị lại A-lê-da.

Giải thích: Nói cái văn huân tập là tự tính hay không phải tự tính của thức A-lê-da? Giả sử là như vậy thì có lỗi gì? Nếu là tự tính của thức A-lê-da thì sao thức A-lê-da lại tự trở thành chủng tử đối trị. Nếu chẳng phải tự tính của thức ấy thì cái văn huân tập này phải có chỗ y chỉ khác. Cho đến quả vị Phật Bồ-đề, văn huân tập tức là sức huân tập lưu xuất từ thiện thanh tịnh pháp giới, cho nên tùy ở tại trong thân, tùy thân nào đồng thể thì sinh, nhưng không phải tự tính của nó. Như nước với sữa tuy đồng một thể sinh, nhưng văn huân tập này chẳng phải thức A-lê-da, bởi vì nó đối trị thức A-lê-da.

Luận nói: Trong đây y hạ huân tập thành trung huân tập, y trung huân tập thành thượng huân tập, do văn tư tu huân tập nhiều lần.

Giải thích: Nói hạ trung thượng trong đây là vì văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ mỗi mỗi đều có 3 bậc. Lại có nghĩa khác là văn tuệ là hạ, tư tuệ là trung, tu tuệ là thượng. Nói văn tư tu huân tập nhiều lần là nơi văn v.v…tăng thượng tu hành, lấy hạ phẩm làm nhân được trung phẩm, trung phẩm làm nhân được thượng phẩm.

Luận nói: Chủng tử văn huân tập kia tùy hạ trung thượng đều là chủng tử của pháp thân. Vì là đối trị thức A-lê-da nên không thâu nhiếp trong thức A-lê-da. Vì được lưu xuất từ xuất thế thanh tịnh pháp giới, nên tuy ở thế gian mà là chủng tử của tâm xuất thế. Khi cái thể của tâm xuất thế chưa sinh, nhưng có khả năng hiện khởi đối trị phiền não, đối trị ác thú, đối trị tất cả ác nghiệp phá hoại, có thể tùy thuận được thân cận chư Phật Bồ-tát nên tuy là sở đắc của Bồ-tát mới tu hành ở thế gian đều nhiếp thuộc pháp thân, còn sở đắc của Thanh Văn Duyên Giác thì nhiếp thuộc giải thoát thân.

Giải thích: Đối trị hiện khởi phiền não, nghĩa là dục v.v… xuất sinh, vì nhân trừ diệt, nên do trừ diệt phiền não nên đối trị ác thú phải thụ hậu báo ác nghiệp đạo làm nhân phá hoại kia. Nói vắn tắt là quá khứ vị lai hiện tại đối trị tất cả ác nghiệp nên vào đời vị lai tự thân được thân cận thiện hữu . Nói mới tu hành nghĩa là nhiếp thuộc phàm phu pháp thân là thể của chủng tử pháp thân, nhiếp thuộc giải thoát thân là thể của nhân giải thoát của các Thanh Văn. Bởi vì sao? Vì Thanh Văn chỉ được giải thoát thân, không được pháp thân.

Luận nói: Đây không phải thức A-lê-da, mà nhiếp thuộc pháp thân và giải thoát thân. Tùy theo hạ trung thượng mà tuần tự tăng dần. Cũng như vậy y chỉ của quả báo thức giảm dần, tức là chuyển y chỉ. Tất cả chuyển hết rồi thì chủng tử của Nhất thiết chủng tử quả báo thức này đều không, tức tất cả đều diệt. Lại nữa cái chẳng phải thức A-lê-da với thức A-lê-da sinh đồng chỗ như nước với sữa. Thế nào là tất cả đều diệt? Như con ngỗng uống sữa trong nước. Lại như thế gian lìa dục thì huân tập của bất tĩnh địa diệt, huân tập tĩnh địa tăng, tức chuyển y chỉ.

Giải thích: Như thức A-lê-da voái cái chẳng phải thức A-lê-da đồng sinh một chỗ, nhưng thức A-lê-da hết, thức chẳng phải A-lê-da còn, như con ngỗng uống sữa trong nước, sữa hết nhưng nước còn. Lại như thế gian lìa dục, ở trong một thức A-lê-da huân tập phiền não bất tĩnh địa diệt, huân tập thiện pháp tĩnh địa đầy đủ, y chỉ được chuyển. Huân tập xuất thế cũng vậy.

Chương 16: Thuận đạo lý

Luận nói: Như nói nhập Diệt tận định thức không lìa thân. Đây là nói quả báo thức không lìa thân. Bởi Diệt tận định không bị thức này đối trị nên sinh. Cũng không phải khi xuất định thức này sinh trở lại. Quả báo thức này đoạn dứt rồi không kết sinh khác thì không sinh trở lại.

Giải thích: Nói Diệt tận định thức không lìa thân, đây là thành tựu có thức A-lê-da. Do Thế Tôn nói thức không lìa thân là nếu lìa quả báo thức thì không thành các thức khác. Bởi vì sao? Vì Diệt tận định đối trị sinh khởi thức, nên sinh thấy định này vắng lặng. Nếu lại chấp bảo rằng khi xuất định thức sinh trở lại, do ý này nên gọi là thức không lìa thân. Nghĩa này không đúng. Bởi vì sao? Vì khi xuất định rồi thức không sinh trở lại. Sự tiếp nối của quả báo thức đã đứt. Nếu khi lìa thì thác sinh mà không sinh trở lại.

Luận nói: Nếu người chấp vì có ý thức nên nói Diệt tận định có tâm thì cái tâm người ấy chấp là bất thành. Vì nghĩa không thành nghĩa của định, vì không thể có tướng của phan duyên, vì tương ưng với thiện căn là lỗi, vì không tương ưng với bất thiện và vô ký, vì tưởng và thụ cùng hiện hành là lỗi tức là có xúc, vì trong Tam-ma-đề có năng lực này, vì chỉ diệt tưởng là lỗi, vì tư duy tức cùng với tín v.v… các hiện căn đều khởi là lỗi, vì năng y không thể lìa sở y, vì có thứ dụ, vì không phải tất cả hành giả cũng không có.

Giải thích: Nếu có người chấp vì có ý thức nên nói Diệt tận định có tâm thì cái tâm người ấy chấp là bất thành. Vì nghĩa không thành nghĩa của định. Nếu muốn lìa bỏ như trước đã nói tự tướng của thức A-lê-da, ở trong sinh khởi thức tùy theo một thức trong Diệt tận định có cái tâm này thì nghĩa này không thành. Bởi vì sao? Vì nghĩa của định không thành. Chưa từng thấy tâm lìa tâm pháp, như bao nhiêu tâm pháp chưa từng lìa tâm. Nếu tưởng thụ không diệt, không được gọi là diệt. Vậy thì định này không thành định. Nếu như còn có thức A-lê-da thì không có lỗi này, vì trụ trong vắng lặng. Các tâm tâm pháp đối trị oán kia nên diệt định sinh. Vì thức A-lê-da không phân minh, không đối trị thức này nên sinh. Vì vậy định này không được có các tâm. Bởi vì sao? Vì tướng phan duyên là không thể được. Tâm và tâm pháp nếu tương tục không đứt ắt có tướng sở duyên. Diệt định nếu có tâm cũng phải không lìa tướng sở duyên. Cả hai trường hợp này đều không thể được, cho nên định này không có các tâm. Nếu lập có thức A-lê-da thì không có lỗi này. Thức này do nhiếp trì thân mà được tên. Lại nữa nếu trong Diệt định có các thức sinh, các thức ắt có các phần thiện v.v… nghĩa là thiện, bất thiện, vô ký. Tâm này không được là thiện. Nếu thiện thì phải tương ưng với thiện căn, như vậy là mâu thuẫn. Cũng chẳng phải tự tính của thức là thiện vì lìa thiện căn tương ưng không được nghĩa là thiện. Cho nên nếu định tâm là thiện thì không chấp nhận nghĩa cùng các thiện căn như không tham v.v…tương ưng. Đây không thể chấp nhận tức không khác với thiện tâm mọi nơi khác, nên cũng không được là bất thiện và vô ký. Không tương ưng với bất thiện và vô ký nên khi lìa dục ở cõi Dục, tất cả bất thiện căn đã diệt không thành bất thiện, cũng chẳng phải vô ký vì định này là thiện. Cũng không thể cho tâm này là thiện vì cùng tưởng thụ cộng hành là lỗi. Nếu lìa thiện căn không được là thiện. Chỉ có thiện mới tương ưng với thiện căn. Nếu tương ưng với thiện căn ắt cùng với tưởng thụ tương ưng vì không có nhân nào khác. Sở trị hiện hành lại có năng trị, nghĩa này bất thành. Như dục v.v. hiện hành không thể có bất tịnh quán. Lại nữa trong định nếu lìa thức A-lê-da mà có các tâm khác thì có xúc sinh lỗi. Nay sẽ lấy việc trụ các định khác làm thí dụ. Chỉ có các thiện căn khi tương ưng định tâm sinh thì chắc chắn cùng với xúc. Nghĩa là nhân định sinh, dựa làm tướng. Nếu xúc lạc thụ, nếu xúc bất khổ bất lạc thụ, lấy xúc này làm duyên nên có sinh lạc thụ và bất khổ bất lạc thụ. Bởi vì sao? Vì xúc này có năng lực ở trong định cho nên thấy xúc này sinh trong các định khác, hai thụ có năng lực nên trong Diệt định cũng phải như vậy, vì không có nhân nào khác chướng ngại. Nếu vậy xúc duyên thụ thì nghĩa này không thành. Bởi vì sao? Vì chỉ diệt tưởng là lỗi, cho nên nếu nói có xúc duyên thụ, tu hành định này chỉ là diệt tưởng, đây là điều không thể chấp nhận, vì nói thụ tưởng đều diệt. Lại nữa không nên có xúc. Trong các thức khác nếu có xúc thì có tư duy tương ưng cộng hữu, tín v.v…các thiện căn cùng sinh là lỗi. Kinh nói: Nếu có thức cùng xúc tương ưng sinh thì có tư duy cùng sinh, vì vậy cho nên ở trong định thành nghĩa có tư duy hiện hành. Nếu có tư duy hiện hành tức là khởi tác thiện tâm. Dây chắc chắn phải cùng tín v.v…các thiện căn cùng sinh. Nghĩa này không thể chấp nhận. Nếu muốn lìa các lỗi như trước đã nói và lỗi mâu thuẫn với A-hàm nên nói nhổ bỏ tâm pháp, không có tâm pháp, chỉ có tâm là đúng. Đây cũng không thành. Bởi vì sao? Vì từ sở y trừ bỏ năng y là không thể được. Tâm là sở y, tâm pháp là năng y. Tâm và tâm pháp năng y sở y này, từ sinh tử vô thủy đến nay hằng nương vào nhau chưa hề tách rời. Do sự dắt dẫn nhau như thế nên chắc chắn phải tương ưng cùng các thiện căn vô tham v.v… Nếu ông nói định và định phương tiện đều mâu thuẫn với chúng nên vô tham v.v… không sinh chỉ sinh thiện. Điều đó chưa hề thấy ở đâu nói đến. Bởi vì sao? Nếu pháp tương ưng sinh chắc chắn có quả tương ưng lưu xuất sinh ra. Cho nên nghĩa đó không thành. Lại nữa còn có bất thành nữa là như Thế Tôn nói: Thanh hành diệt cho đến ngôn ý hành diệt . Trong đó thân hành là hơi thở ra vào, ngữ ngôn hành là giác quán, ý hành là tư duy và tưởng. Như giác quán diệt thì ngôn ngữ không được sinh. Cũng như vậy ý hành diệt thì ý không được sinh. Nếu ông nói như thân hành diệt trụ ở trong định thì thân không được diệt. Cũng như vậy ý hành tuy diệt, ý vẫn tồn tại. Nghĩa này không đúng. Bởi vì sao? Vì có nhân duyên, lại có thân hành khác là nhân của thân được trụ. Như Thế Tôn nói: Do ăn uống mạng căn và thức cho nên tuy không có hơi thở ra vào thân cũng trụ được. Ý thì không như vậy, lại vì không có các ý hành khác duy trì, cho nên ở trong định kia không thể lấy ý thức làm chỗ trụ của tâm. Như Thế Tôn nói: Thức không lìa thân. Đây là nói quả báo thức. Bởi vì sao? Vì có chủng tử. Cho nên sau khi xuất định, sinh khởi thức từ đó mà sinh. Năng y sở y này mọi lúc đều sinh như thế, dù thêm dụng công cũng khôngn thể khiến tách rời nhau. Bởi vì sao? Vì có thí dụ. Điều này như trong thế gian từ khi sinh đến chết không tách rời nhau, mọi lúc cùng sinh, không thể nào đánh bạt năng y ra khỏi sở y. Ví như tứ đại và cái do tứ đại tạo ra. Tâm pháp cũng vậy, không có đạo lý nào khiến chúng tách rời nhau chỉ để riêng một tâm tồn tại. Nếu nói từ sở y nhổ bỏ năng y là không thể được. Chỉ dùng tưởng thụ là lỗi cho nên chỉ 2 pháp này không hiện hành chứ không phải pháp nào khác. Đây cũng không thành. Bởi vì sao? Chẳng phải hiện hành tất cả mọi nơi, trong đây không có, cho nên kinh nói: Trong Diệt tận định thức không rời thân, điều này tức thành tựu nghĩa có thức A-lêda. Vì vậy Thế Tôn nói thức không rời thân. Nếu lìa quả báo thức thì không thành các thức khác. Bởi vì sao? Vì Diệt tận định đối trị sự sinh khởi của sinh khởi thức do đó mà vắng lặng. Nếu có người chấp từ định khởi rồi, thức trở lại từ thân sinh cho nên nói là không rời. Nói vậy cũng không thành. Bởi vì khi xuất định không có nghĩa thức sinh trở lại. Bởi vì báo thức kia nếu đoạn đứt sự liên tục lìa kết sinh thân sau, không có nghĩa sinh trở lại. Nếu chấp cho rằng lìa thức A-lê-da dùng ý thức nên nói trong Diệt tận định có tâm thì tâm kia không được là thiện, bất thiện, vô ký, đều là bất thành. Cho nên do định này là thiện nên không thể là bất thiện, cũng không được là oai nghi biến hóa khéo léo ra vô ký v.v… Nếu nói là quả báo vô ký tức là thức A-lê-da, vì là vô ký thứ 5. Nếu nói tâm này là thiện thì phải tương ưng với các thiện căn vô tham v.v… Lại nữa khi tâm này tồn tại, nhiễm ô ý đã diệt, chỉ trụ trong thiện, thiện tâm này tức có chỗ y chỉ và có sở duyên, ba việc hòa hợp làm sao không sinh xúc? Đã sinh xúc làm sao không sinh thụ v.v… Nếu vậy thì nghĩa Diệt tận định không thành vì trong đó tâm và tâm pháp không diệt. Nếu ông chấp nói rằng sức mạnh của thiện tâm dẫn sinh định này, đó là do sức thiện tâm phương tiện. Định này tuy thiện nhưng không cùng các thiện căn vo tham v.v… tương ưng. Nếu có năng lực hòa hợp, được gọi là hòa hợp. Cho nên định này tuy thiện nhưng không có năng lực đối với 3 sự hòa hợp. Đây không như vậy, như quả lưu xuất sinh do phương tiện tâm kia là thiện nên định này tương ưng với thiện căn.

Luận nói: Nếu lại chấp sắc tâm tuần tự sinh làm chủng tử các pháp, đây là phá cái lập luận như trước cũng bất thành. Ở cõi Vô sắc và trời Vô tưởng thoái đọa, từ Diệt tận định xuất định, nghĩa này không thành, tâm sau cùng của A-la-hán cũng không thành, chỉ trừ nghĩa duyên tuần tự là thành mà thôi. Như vậy nếu lìa Nhất thiết chủng tử quả báo thức thì nhiễm ô hay thanh tịnh đều bất thành. Vì vậy như trước đã nói thành tựu tướng thức A-lê-da là có.

Giải thích: Nếu chấp cho rằng sắc tâm tương tục sinh ra các pháp, sát-na trước được coi là chủng tử làm nhân cho sát-na sau. Thức của sát-na ban đầu sinh thức của sát-na sau cũng vậy. Nếu từ cõi Vô sắc thoái, sắc kia đoạn dứt đã lâu làm sao được là chủng tử sinh lại nơi sắc? Nếu từ trời Vô tưởng thoái, và từ Diệt tận định xuất định, tâm này diệt đã lâu làm sao được coi là nhân cho tâm sau sinh? Nếu như vậy thì A-la-hán không có được vô dư Niết-bàn, vì nhân của sắc tâm không bao giờ hết. Cái sắc của sát-na trước nơi sắc của sát-na sau, cái thức của sát-na trước ở nơi thức của sát-na sau. Phải biết chỉ được là duyên tuần tự, không được là nhân duyên. Vì vậy cho nên việc thành tựu thức A-lê-da là có. Nếu trụ trong sinh khởi thức thì nghĩa chuyển y không thành. Nghĩa này nay sẽ dùng 3 bài kệ hiển thị như sau.

Luận nói: Ở đây có kệ như sau:

Trong thiện tâm Bồ-tát,

Thì lìa xa 5 thức.

Lại không có thức khác,

Chuyển y thành tâm nào.

Đối trị là chuyển y,

Chưa diệt nên bất thành.

Quả nhân không sai biệt,

Với diệt thành sai lầm.

Không chủng tử, không thể,

Cho đây là chuyển y,

Kia vì không có hai,

Nên chuyển y bất thành.

Giải thích: Nói “Trong thiện tâm Bồ-tát” nghĩa là trong ý thức thiện, tức tương ưng đối trị xuất thế. “Thì lìa xa 5 thức “ nghĩa là lìa nhãn v.v… 5 thức. Nói “không có thức khác” nghĩa là lìa nhiễm ô ý thức và hữu lưu thiện thức. Vì lìa hữu lưu thiện thức nên nói là thiện tâm. “Lại nói không thức khác chuyển y thành tâm nào” nghĩa là trong thức A-lê-da, tất cả chủng tử nhiễm ô không có chủng tử nào làm như thế. Nếu nói đối trị sinh là chuyển y thì đối trị là chuyển y. Vì không diệt thì không thành cho nên phiền não diệt gọi là chuyển y. Chẳng phải đối trị tức là diệt. Bởi vì sao? Vì đối trị chỉ là nhân của diệt. Nếu vậy thì quả nhân không sai biệt. Kia diệt tức có sai lầm. Quả gọi là diệt, là Niết-bàn. Nhân gọi là đối trị, là đạo. Đối trị kia với diệt thì thành một thể. Lại khi đối trị sinh tức là Niết-bàn cho nên nếu ông lấy vô chủng tử, vô thể, cho đó là chuyển y thì trong sinh khởi thức không chủng tử và không thể, như thế là chuyển y. Kia không có hai cái không, nên chuyển y bất thành. Khi trụ trong Xuất thế định, các sinh khởi thức đều không có, cho nên không có vô chủng tử và không có vô thể, vì vậy không thành nghĩa chuyển y. Nếu có thức A-lê-da, các sinh khởi thức tuy không có, các chủng tử kia trụ trong thức A-lê-da tức có thể làm vô chủng tử và vô thể. Do chuyển y bất thành nên biết là có thức A-lê-da.

Chương 17: Sai biệt

Luận nói: Lại nữa sự sai biệt của thức A-lê-da này là thế nào? Nói đại lược có 3 hoặc có 4 thứ sai biệt. Trong đây 3 thứ là do 3 thứ sai biệt về huân tập: 1.Danh ngôn huân tập sai biệt, 2.Ngã kiến huân tập sai biệt, 3.Hữu phần huân tập sai biệt. Bốn thứ là: 1.Dẫn sinh sai biệt, 2.Quả báo sai biệt, 3.Duyên tướng sai biệt, 4.Tướng mạo sai biệt. Trong đây dẫn sinh sai biệt nghĩa là tân sinh huân tập. Nếu không có cái hành duyên thức này thì thủ duyên hữu không thành. Quả báo sai biệt là vì hành và hữu là duyên với các thú thành thục.

Nếu không có đây thì không có chủng tử. Hậu hữu các pháp sinh không thành. Duyên tướng sai biệt là ý sở thủ ngã tướng. Nếu không có đây thì ngã thủ ý niệm sở duyên không thành.

Giải thích: Như vậy là đã thành lập xong thức A-lê-da. Nay sẽ hiển thị các phẩm loại sai biệt của thức này. Ở đây trong 3 thứ huân tập sai biệt, danh ngôn huân tập là như nhãn danh huân tập trong quả báo thức là sinh nhân của nhãn kia. Sau khi quả báo nhãn căn sinh, do danh ngôn nhãn này nói là nhân nên sinh. Nhĩ v.v… tất cả danh ngôn sai biệt của các căn cũng vậy. Ngã kiến huân tập sai biệt nghĩa là do sức thân kiến trong nhiễm ô ý, lấy thức A-lê-da làm ngã, huân tập sinh rồi thì có sự phân biệt đây là ta kia là khác. Hữu phần huân tập nghĩa là do sức hành nghiệp thiện, bất thiện, bất động cho nên có thụ sinh khác nhau trong các thú. Nghĩa này sau ở phần nói về tướng sẽ nói rộng. Dẫn sinh sai biệt nghĩa là thu giữ các chủng loại sai biệt. Tân sinh huân tập nghĩa là khi mới khởi huân tập nếu không có thức A-lê-da này dẫn sinh sai biệt thì cái thức huân tập các hành sinh diệt, do thủ nhiếp trì nên sinh có hiện khởi. Cái hữu này không thành, năng hữu hậu sinh nên gọi đây là hữu. Cái hữu này tức là thiện, bất thiện do thủ huân tập nhiều lần. Quả báo hữu sai biệt nghĩa là do nhiếp tụ hành hữu làm duyên, thành thục trong các thú. Nếu không có dẫn nhiếp phần của thức A-lê-da này thì không có nhân, về sau trong hữu các pháp như nhãn v.v… các sắc căn sinh khởi bất thành. Đây tức là báo quả. Duyên tướng sai biệt tức là phần thức A-lê-da cùng với kia y chỉ nhiễm ô ý ngã kiến làm duyên tướng ngã thủ. Nếu không có duyên tướng này, thức A-lê-da cùng với ý của nhiễm ô ý dều lấy thân kiến làm nhân, ngã chấp này duyên cảnh bất thành. Đây tức là quả lưu xuất.

Luận nói: Trong đây, tướng mạo sai biệt nghĩa là thức này có tướng chung có tướng không chung, có tướng chủng tử không thụ sinh, có tướng chủng tử thụ sinh. Tướng chung là chủng tử khí thế giới. Tướng không chung là các chủng tử nội nhập riêng biệt. Tướng chung này là chủng tử không thụ sinh. Nếu khi khởi đối trị thì tướng không chung chướng ngại diệt, cho nên tướng chung do tha phân biệt duy trì. Người tu quán trong đó thấy thanh tịnh. Trong tất cả các vật thấy lạc dục , thành tựu. Ở đây có kệ như sau:

Khó diệt và khó biết,

Đó là cộng tướng kết.

Người tu quán tâm khác,

Ở ngoài các đại tướng.

Người thanh tịnh không diệt,

Ở trong thấy thanh tịnh.

Chư Phật thấy thanh tịnh,

Thành cõi Phật nghiêm tịnh.

Lại có các kệ khác như sau:

Tùy các thứ dục lạc,

Các chỗ thấy thành tựu.

Người tu thấy một vật,

Tùy các thứ dục lạc.

Các chỗ thấy thành tựu,

Sở thủ chỉ có thức.

Tướng không chung này là có chủng tử thụ sinh. Những thứ này nếu không có khí thế giới và chúng sinh thế giới chuyển sinh thì sai biệt bất thành.

Giải thích: Tướng mạo sai biệt có nhiều thứ. Nói “Trong đây” là trong tướng chung và không chung, tướng chủng tử có thụ sinh, tướng chủng tử không thụ sinh. Thức A-lê-da này là cái thể của nhân cái khí thế giới chung cùng của tất cả chúng sinh, tức là chủng tử không thụ sinh. Thức A-lê-da của tướng không chung là cái thể của nhân các nhập như sắc v.v…của mỗi mỗi tự thân, tức là chủng tử có thụ sinh. Nếu lìa các tướng loại như thế của thức A-lê-da thì cái nhân thụ dụng chung cùng của tất cả chúng sinh, tức khia thế giới bất thành. Cũng vậy nếu lìa cái đệ nhị A-lê-da thức thì chúng sinh thế giới bất thành, tức như cây khô không có tri giác.

Luận nói: Lại có tướng thô ác và tướng khinh an. Tướng thô ác là chủng tử phiền não và tiểu phiền não. Tướng khinh an là chủng tử hữu lưu thiện pháp. Nếu không có đây trong quả báo thân thì không thành sự sai biệt có kham năng hay không kham năng.

Giải thích: Tướng thô ác là thân không kham năng. Tướng khinh an là thân có kham năng.

Luận nói: Lại có tướng thụ dụng và tướng không thụ dụng. Tướng thụ dụng là chủng tử thiện bất thiện quả báo đã chín muồi. Tướng không thụ dụng là chủng tử huân tập của ngôn thuyết, là chủng tử sinh khởi hý luận từ vô thủy, nếu không có đây hằng tạo các nghiệp thiện ác, thì nghĩa được quả thụ dụng không thành. Và những ngôn thuyết mới huân tập sinh ra cũng không thành.

Giải thích: Tướng thụ dụng nếu lìa thức A-lê-da này, các nghiệp thiện ác thường huân tập đều không thành. Tướng không thụ dụng là chủng tử ngôn thuyết huân tập, như nói chủng tử các ngôn thuyết sai biệt huân tập sinh khởi hý luận từ vô thủy. Nghĩa là nhân thường lưu bố từ vô thủy đến nay. Nếu không có tướng không thụ dụng đây, thức A-lêda không có sinh khởi ngôn thuyết huân tập cũ mới gì cả. Bởi vì sao? Trong thế gian không có ngôn thuyết hiện tại nào lìa gốc mà có được.

Luận nói: Lại có tướng tương tự, nghĩa là như ảo hóa, sóng nắng, chiêm bao, đau mắt v.v…Nếu không có những tướng tương tự này của thức A-lê-da thì do chủng tử hư vọng phân biệt thành tướng điên đảo, nghĩa này sẽ không thành.

Giải thích: Tướng tương tự là như các sự ảo hóa làm nhân nên vọng thấy các hiện tượng. Như vậy các tướng tương tự của A-lê-da là chủng tử hư vọng phân biệt nên có tướng điên đảo. Nếu không có thức A-lê-da đây thì các tướng điên đảo kia không thành.

Luận nói: Lại có tướng đủ và tướng không đủ. Người có đầy đủ các tướng trói buộc gọi là đủ tướng thế gian. Người lìa dục là tướng tổn giảm. Hữu học Thanh Văn và các Bồ-tát là nhổ bỏ tướng một phần. A-la-hán, Bích-chi-phật là nhổ bỏ hết phiền não chướng và Như Lai là ứng hợp với nhổ bỏ hết phiền não chướng và tri chướng. Nếu không có thức A-lê-da đây thì sự tuần tự diệt phiền não không thành.

Vì nhân duyên gì quả báo thiện ác chỉ là vô chướng vô ký? Vì quả báo này là vô chướng vô ký nên không trái chống với thiện ác. Nếu trái chống với thiên ác thì khi quả báo là thiện hay ác rồi không có đạo lý nào diệt được phiền não. Cho nên quả báo thức chỉ là vô chướng vô ký.

Giải thích: Vô chướng vô ký nghĩa là vô chướng là vô nhiễm, do vô nhiễm vô ký nên gọi là vô chướng vô ký. Chẳng phải như sinh cõi Sắc lấy phiền não bất thiện làm vô ký. Quả báo này nếu là thiện hay bất thiện thì không diệt được phiền não. Bởi vì sao? Vì nếu là thiện thì sẽ sinh thiện, nếu là bất thiện sẽ sinh bất thiện. Như vậy có nghĩa là sinh tử không bao giờ hết. Sinh tử tức là phiền não và hữu lưu thiện v.v… Đến đây là đã giải thích xong về nghĩa của y chỉ.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10