NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH LUẬN
Thế Thân Bồ-tát tạo
Tùy Thiên Trúc Tam tạng Đạt-ma Cấp-đa dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 10

Trí thắng tướng thắng ngữ 10 – 2

Luận nói: Pháp thân chư Phật là khác nhau hay không khác nhau? Vì y chỉ ý dụng và nghiệp không khác nên không thể nói là khác. Vì vô lượng chúng sinh thành chính giác nên có khác. Như pháp thân, thụ dụng thân cũng vậy. Ý dụng và nghiệp không khác nên không khác. Y chỉ có khác vì từ vô lượng y chỉ chuyển nên biến hóa thân cũng như thụ dụng thân.

Giải thích: Nói từ “vô lượng y chỉ chuyển”, nghĩa là chư Bồtát có vô lượng y chỉ, do đó thụ dụng thân hiển hiện. Vì vậy ý dụng và nghiệp không khác. Nhưng thân thì có sai khác. Trong đây nói ý dụng không sai khác, nghĩa là ý muốn làm an vui tất cả chúng sinh. Nghiệp không sai khác, nghĩa là hiển thị nghiệp chứng chính giác Bát-niết-bàn. Nghiệp này thì không sai khác.

Luận nói: Pháp thân tương ưng với bao nhiêu công đức? Tương ưng với các công đức hết sức thanh tịnh như là 4 tâm vô lượng, giải thoát, thắng xứ, tất cả xứ, không tranh giành, nguyện trí, 4 tài biện luận, 6 thần thông, 32 tướng đại trượng phu, 80 vẻ đẹp, 4 tất cả thanh tịnh, 10 sức mạnh, 4 không sợ hãi, 3 không hộ, 3 niệm xứ, pháp không quên mất, đánh bạt hết tập khí, Đại bi, 18 pháp không chung, tất cả trí thù thắng. Ở đây có kệ như sau:

Thương xót các chúng sinh,

Xả bỏ ý trói buộc.

Không bỏ tâm an lạc,

Quy mạng ý lợi ích.

Giải thoát tất cả chướng,

Mâu-ni thắng thế gian,

Trí biến khắp nhĩ diêm,

Quy mạng tâm giải thoát.

Diệt các hoặc không sót,

Cho tất cả chúng sinh,

Người mê hoặc đều hết,

Quy mạng đấng lìa hoặc.

Không dụng công, không chấp,

Không chướng ngại, vắng lặng,

Thường giải các vấn nạn,

Quy mạng đấng giải nạn.

Sở y và năng y,

Ngôn từ và trí tuệ,

Ý thường không chướng ngị,

Quy mạng đấng thiện thuyết.

Tùy theo các ngôn ngữ,

Qua lại rồi xuất ly,

Biết các chúng sinh kia,

Quy mạng đấng giáo hóa.

Các chúng sinh thấy Phật,

Do kia tướng Đại nhân,

Chỉ được thấy sinh tin,

Quy mạng đấng sinh tin.

Chấp trì, trụ xứ, bỏ,

Biến hóa và biến đổi,

Trí Tam-muội tự tại,

Quy mạng đến bờ kia.

Phương tiện quy y tịnh,

Và Đại thừa xuất ly,

Chướng cách các chúng sinh,

Quy mạng đấng phá ma.

Hay nói trí và đoạn,

Thoát khỏi việc chướng ngại,

Ngoại đạo không thể hại,

Quy mạng tự tha lợi.

Thuyết pháp khuyên Đại chúng,

Xa lìa 2 phiền não,

Không hộ, không quên mất,

Quy mạng đấng nhiếp chúng.

Lợi ích các chúng sinh,

Chỗ làm không quá thời,

Chỗ làm thường không rỗng,

Quy mạng không quên mất.

Đi đứng khắp mọi nơi,

Đều là nghiệp viên trí,

Biết hết cả mọi thời,

Quy mạng đấng thật nghĩa.

Trong ngày đêm 6 thời,

Quán sát các thế gian,

Với Đại bi tương ứng,

Quy mạng ý lợi ích.

Tu hành và chứng đắc,

Trí tuệ với tác nghiệp,

Thắng tất cả Nhị thừa,

Quy mạng đấng tối thắng.

Ba thân Đại Bồ-đề,

Đủ đắc Nhất thiết chủng,

Quy mạng đoạn chúng sinh

Tất cả chỗ nghi hoặc.

Vô úy, vô quá thất,

Vô trược, vô trụ xứ,

Với các pháp không động,

Quy mạng không hý luận.

Pháp thân chư Phật tương ưng với các công đức như vậy. Lại còn các công đức như tự tính, nhân, quả, nghiệp, tương ưng, hành sự. Vì vậy pháp thân chư Phật có công đức vô thượng. Ở đây có kệ như sau:

Thành tựu nghĩa tối thắng,

Xuất quá tất cả địa.

Đến trên các chúng sinh,

Giải thoát các chúng sinh.

Đức vô tận, vô đẳng,

Tương ưng thế gian thấy,

Đại chúng hội chẳng thấy,

Tất cả trời và người.

Giải thích: Pháp thân tương ưng với các công đức như vậy. Lại còn các công đức như tự tính, nhân, quả, nghiệp, tương ưng, hành sự. Trong đó tự tính của pháp thân là để hiển thị nghĩa thành tựu tối thắng. Thành tựu tối thắng là thanh gtịnh chân như, vì đây là tự tính của Phật. Nhân, là hiển thị sự xuất quá tất cả địa, nghĩa là do tu tất cả địa được Phật thể kia. Đến trên các chúng sinh, đây là hiển thị quả. Hiển thị quả này ở trên tất cả chúng sinh. Giải thoát chúng sinh, là hiển thị nghiệp, vì Phật là cứu thoát tất cả chúng sinh. Tương ưng, là tương ưng công đức vô tận, vô đẳng, dùng đây để hiển thị. Trong đây “thế gian thấy”, là thấy hóa thân. Các Đại chúng hội thấy là thấy thụ dụng thân. Các hàng trời người đều không thấy, là các Đại chúng hội không thấy tự tính thân. Các hiển thị đây nói các hành sự sai biệt của Phật thân.

Luận nói: Nhưng pháp thân chư Phật này là sâu xa, cực kỳ sâu xa. Sự sâu xa này làm sao thấy được? Ở đây có kệ như sau:

Phật không sinh mà sinh,

Trụ ở vô trụ xứ.

Các việc không dụng công,

Thụ dụng đệ tứ thực.

Vô sai biệt vô lượng,

Vô số lượng một nghiệp.

Nghiệp động và bất động,

Chư Phật 3 thân đủ.

Không có chứng chính giác,

Chẳng không giác tất cả.

Niệm niệm không thể lường,

Hiển thị hữu phi hữu.

Không dục, không lìa dục,

Mà cũng cùng với dục.

Đã biết dục phi dục,

Được nhập dục pháp như.

Chư Phật quá các ấm,

Mà cũng trụ trong ấm.

Với kia, chẳng một khác,

Không bỏ mà vắng lặng.

Chư Phật đồng sự nghiệp,

Như nước trong biển lớn.

Ta đã, đang, sẽ làm,

Lợi tha, mà không nghĩ.

Người có tội không thấy,

Như bình vỡ không trăng.

Phổ biến khắp thế gian,

Pháp sáng như mặt nhật.

Hoặc hiển thị chính giác,

Hoặc Niết-bàn như lửa.

Không sinh cũng chẳng có,

Như Lai thân thường trụ.

Phật trong phi chính pháp,

Người và nẻo sinh tử,

Trong pháp phi Phạm hạnh,

Tự trụ bậc tối thắng.

Đi cùng khắp tất cả,

Mà cũng chẳng đi đâu.

Tất cả chúng sinh thấy,

Chẳng phải cảnh 6 căn.

Đè bẹp đoạn phiền não,

Như chú trừ các độc.

Bởi hoặc đến hết hoặc,

Phật đủ Nhất thiết trí.

Phiền não tức Bồ-đề,

Thể sinh tử vắng lặng.

Vì có phương tiện lớn,

Như Lai không nghĩ bàn.

Đây là 12 thứ thậm thâm, tức 12 thứ rất sâu. Đó là sinh thành nghiệp trụ thậm thâm. An lập số nghiệp thậm thâm. Chính biến giác thậm thâm. Ly dục thậm thâm. Diệt ấm thậm thâm. Thành thục thậm thâm. Hiển hiện thậm thâm. Hiển thị chính biến giác Bát-niết-bàn thậm thâm. Trụ thậm thâm. Hiển thị tự thể thậm thâm. Diệt phiền não thậm thâm. Bất tư nghị thậm thâm.

Giải thích: Nay sẽ hiển thị cái rất sâu của Đại thừa, tức hiển thị 12 thứ thậm thâm. Trong đó sự sâu xa về sinh thành, nghiệp trụ v.v… được thể hiện trong một kệ. “Chư Phật không sinh mà sinh”, đây hiển thị sâu xa về sự sinh, vì chư Phật lấy không sinh làm sinh. “Vô trụ xứ là trụ xứ”, đây hiển thị sâu xa về sinh trưởng, vì chư Phật không trụ ở sinh tử Niết-bàn. “Chỗ làm không công dụng” hiển thị sâu xa về nghiệp. Chư Phật lấy bình đẳng làm nghiệp, do không công dụng nên chỗ nghiệp ra làm mọi nơi đều bình đẳng thụ dụng. “Đệ tứ thực” hiển thị sâu xa về sự an trụ, vì 4 cách ăn là trụ xứ y chỉ của thân bất tịnh. Trụ xứ của chư Phật không phải trụ xứ của thân bất tịnh, do 4 cách ăn là đoàn thực v.v…Đó là trụ xứ y chỉ thân không thanh tịnh của chúng sinh trong cõi Dục. Trụ xứ y chỉ của tịnh thân bất tịnh thân, nghĩa là chúng sinh trong cõi Sắc, Vô sắc, nếu đối với hạ địa phiền não thì chúng là tịnh, đối với thượng địa phiền não thì chúng là bất tịnh. Các thân tịnh bất tịnh này chỉ có 3 cách ăn là xúc, ý và tư, không phải đoàn thực thân mới được tồn tại. Các thân kia chỉ 3 cách ăn có thể tồn tại. Gìn giữ tịnh thân, tức là đoàn v.v… 4 cách ăn đối với tịnh thân của Thanh Văn Duyên giác nếu trụ ở đời thì do đây được gìn giữ. Thị hiện gìn giữ, tức thị hiện tức thị hiện 4 cách ăn đoàn thực v.v… kia. Nghĩa là dùng đó mà gìn giữ nên chư Phật thụ thực. Đây là cách thứ 4. Do thị hiện lấy đó làm duy trì sự tồn tại nên chư Phật Thế Tôn thụ thí của chúng sinh khiến chúng sinh hoan hỷ tích tụ phúc đức. Không có sự ăn uống. Lại có thuyết nói rằng khi chư Phật thụ thực, chư thiên tiếp lấy thí cho chúng sinh. Do nhân duyên này các chúng sinh kia sẽ được Bồ-đề. Trong cùng một kệ đều nói chỗ sâu xa này. Lại nữa nên biết sinh tướng của chư Phật có 10 nhân duyên: 1.Ngu si biệt dị, 2.Các thứ biệt dị, 3.Nhiếp trì tự tại, 4.Trụ tự tại, 5.Xả tự tại, 6.Không hai tướng, 7.Duy ảnh tượng, 8.Như huyễn, 9.Vô trụ là trụ, 10.Nghĩa thành tựu. Vì có 10 nhân duyên nên Như Lai không trụ sinh tử Niết-bàn: 1.Phi tri, 2.Phi diệt, 3.Phi hữu, 4.Phi hữu tự tính trí, 5.Vô đắc vô phân biệt, 6. Lìa tâm, 7.Được tâm, 8.Bình đẳng tâm, 9.Không được ở vật, 10.Chẳng phải không được. Vì có 10 nhân duyên nên chư Phật không dụng công mà Phật sự thành tựu: 1.Diệt lìa, 2.Không y chỉ, 3.Nên làm không công dụng, 4.Làm không công dụng, 5.Tác nghiệp không công dụng, 6.Không sở hữu không công dụng, 7.Xưa vốn không sai biệt, 8.Làm việc rốt ráo, 9.Việc làm chưa rốt ráo, 10. Do tu thuần thục trong tất cả pháp nên tự tại. Có 10 nhân duyên chư Phật thụ thực: 1.Thị hiện thụ thực để gìn giữ thân căn, 2.Khiến chúng sinh tập họp phúc đức, 3.Để thị hiện đồng làm như chúng sinh, 4.Để khiến thuận học chính thực, 5.Để khiến thuận học tri túc, 6.Để khiến người phát khởi tinh tiến, 7.Để thành thục thiện căn, 8.Để hiển thị tự thân không nhiễm trước, 9.Để giữ gìn tôn trọng sự nghiệp, 10.Để viên mãn bản nguyện.

Tiếp đến là bài kệ hiển thị sự sâu xa của an lập nghiệp và số lượng. “Vô sai biệt vô lượng,”, đây là sự sâu xa về an lập. Trong đó nói vô sai biệt là pháp thân không có sai khác, nói vô lượng là vô lượng thân chứng Bồ-đề. “Vô số lượng một nghiệp”, là nói sự sâu xa về số lượng. Thừa thì tuy có vô lượng mà chư Phật chỉ có một nghiệp. Nói “Nghiệp động và bất động, chư Phật 3 thân đủ.”, là chư Phật tuy có 3 thân tương ưng, nhưng nghiệp của thụ dụng thân thì kiên trụ, nghiệp của hóa thân thì không kiên trụ. Đó là chỗ sâu xa.

Tiếp đến là bài kệ hiển thị cái sâu xa của sự chứng chính giác. Nói “Không có chứng chính giác,” vì nhân và pháp là vô sở hữu. “Chẳng không giác tất cả.” vì do giả danh nói là giác tất cả. Vậy chính giác này như thế nào? Kệ nói: “Niệm niệm không thể lường” để hiển thị trong mỗi niệm có vô số người được thành chính giác. Cho nên “Hiển thị hữu phi hữu.” là nói chân như đối với các hữu, có nghĩa là phi hữu.

Tiếp đến là bài kệ hiển thị cái sâu xa của sự lìa dục. Nói “Không dục, không lìa dục,”, vì dục là vô sở hữu nên vô sở nhiễm. Không nhiễm nên không lìa. Bởi vì sao? Vì nếu dục là có thì có thể lìa dục. Nói “Mà cũng cùng với dục.”, là vì chỉ đoạn thượng tâm dục mà còn tồn tại tùy miên dục. Nếu không còn tùy miên dục thì đồng với Thanh Văn nhập Niết-bàn. Nói “Đã biết dục phi dục, được nhập dục pháp như.”, nghĩa là phân biệt trong dục biết rõ là phi dục, tức ngộ nhập dục pháp chân như.

Tiếp đến là bài kệ hiển thị cái sâu xa của sự diệt ấm. Nói “Chư Phật quá các ấm, mà cũng trụ trong ấm.”, nghĩa là đã quá sắc v.v…5 thủ tụ, chỉ trụ trong pháp như trụ vô sở đắc, cho nên “Với kia, chẳng một chẳng khác,”. Nghĩa là Phật đã bỏ các phân biệt tụ kia, nhưng với chúng chẳng phải khác, bởi trụ trong pháp như của chúng. Cũng chẳng phải không khác, do tuy là hóa thân phân biệt tức thành cảnh giới thanh tịnh. Nói “Không bỏ mà vắng lặng.”, nghĩa là không bỏ tính chân thật tụ, tức là Niết-bàn.

Tiếp đến là bài kệ hiển thị cái sâu xa của sự thành thục. Nói “Chư Phật đồng sự nghiệp,” nghĩa là tác nghiệp của chư Phật bình đẳng, đều vì để thành thục chúng sinh. Vì sao đây giống “như nước trong biển lớn”? Là như nước chảy vào biển lớn, cá tôm đều được thụ dụng. Cũng như vậy đã nhập vào pháp giới thì đều vì thành thục chúng sinh. Nói “Ta đã, đang, sẽ làm, lợi tha, mà không nghĩ.” Nghĩa là không có một ý nghĩ rằng ta trong 3 thời làm lợi ích chúng sinh, nhưng giống như ngọc Ma-ni, như nhạc trời, không thấy mình dụng công mà làm việc lợi ích chúng sinh.

Tiếp đến là bài kệ hiển thị cái sâu xa của sự hiển hiện. Nếu thế gian không thấy chư Phật, lại nói chư Phật là thường trụ thân, đã có thường trụ thân vì sao không thấy? Kệ nói: “Người có tội không thấy, như bình vỡ không trăng.” Như đồ đựng nước bị vỡ không đựng được nước nên không thấy mặt trăng hiện trong nước. Cũng như vậy, chúng sinh không có Xa-ma-tha làm trong trẻo yên lắng thì Phật như mặt trăng không hiện. Nước ví cho Tam-ma-đề thể của nó trong trẻo. Nói “Phổ biến khắp thế gian, pháp sáng như mặt nhật.” là tuy chúng sinh không thấy, Phật cũng vì chúng sinh làm các Phật sự, thuyết pháp Tu-đa-la như ánh sáng mặt trời, lấy đó làm Phật sự thành thục chúng sinh trong thế gian.

Tiếp đến là bài kệ hiển thị cái sâu xa của chính biến giác Bátniết-bàn. Nói “Hoặc hiển thị chính giác, hoặc Niết-bàn như lửa.” nghĩa là hoặc hiển thị chính biến giác, hoặc hiển thị Bát-niết-bàn, giống như lửa khi cháy khi tắt. Chư Phật cũng vậy, nếu có chúng sinh phải lấy Niết-bàn để thành thục thì thị hiện Niết-bàn, phải dùng chính giác để thuần thục thì thị hiện chính giác. Vì để giải thoát nên như tính lửa không khác. Pháp thân duy nhất cũng vậy. Nửa kệ sau, nghĩa có thể hiểu.

Tiếp đến là kệ hiển thị cái sâu xa của nghĩa trụ. Kệ nói: “Phật trong phi chính pháp, người và nẻo sinh tử, trong pháp phi Phạm hạnh, tự trụ bậc tối thắng.” Trụ trong tự thể tối thắng cũng là tối thắng trụ nơi Thánh trụ. Trong đây nói Thánh trụ nghĩa là trụ nơi “không”. Thiên trụ là trụ Thiền-na. Phạm trụ là trụ nơi “từ” v.v… 4 vô lượng tâm. Phi chính pháp là các pháp bất thiện. Chư Phật trong các pháp bất thiện thì trụ nơi “không”. Vì vậy Phật trụ nơi Thánh trụ. Chúng sinh trong loài người và trong các nẻo sinh tử khác thì phan duyên mà trụ. Nhập vào Thiền-na là Thiên trụ. Ở trong pháp phi Phạm hạnh tự thể tối thắng trụ, các “không” trụ tức là tự thể.

Tiếp đến là bài kệ hiển hiện cái sâu xa của tự thể. Kệ nói “Đi cùng khắp tất cả, mà cũng chẳng đi đâu.” Trí hậu đắc, trong các thiện, bất thiện, sinh trí sai biệt. Nếu không có trí phân biệt tức không có chỗ đi. Hóa thân đi khắp các nơi chứ không phải thân nào khác. Trong nghĩa thứ hai nói “tất cả chúng sinh thấy” tức là thấy cái hóa thân này ở khắp nơi. Nhưng đó “chẳng phải là cảnh của 6 căn”. Tức như hóa thân này nếu khi chúng sinh nơi địa ngục trông thấy, tức là vì giáo hóa chúng sinh nơi đó mà sinh, không phải tự tính của hóa thân. Khi chúng sinh nơi địa ngục kia thấy thì đó là thân địa ngục. Vì vậy cho nên không phải là cảnh giới 6 căn của chúng sinh nơi các địa ngục kia.

Tiếp đến là bài kệ hiển thị cái sâu xa của diệt phiền não. Nói “Đè bẹp đoạn phiền não, như chú trừ các độc.” nghĩa là các phiền não hiện hành, khi ở trong Bồ-tát vị thì không đoạn phiền não vì còn có tùy miên hoặc. Nói “như chú trừ các độc” nghĩa là ví như bị độc, có chú lực ngăn chận thì không bị hại. Phiền não cũng vậy, dùng trí biết nên không bị phiền não. Nói “Bởi hoặc đến hết hoặc,” nghĩa là bởi còn tùy miên hoặc nên không đồng như Thanh Văn nhập Bát-niết-bàn. Nói “Phật đủ Nhất thiết trí.” Nghĩa là chư Phật khi hết phiền não tức đầy đủ Nhất thiết trí.

Tiếp đến là bài kệ hiển thị cái sâu xa của sự không thể nghĩ bàn. Nói “Phiền não tức Bồ-đề” là các phiền não này tức là Bồ-đề phần, là tập đế, nên sinh tử v.v… là khổ đế, tức là Niết-bàn. Tất cả những điều Như Lai nói đều không thể nghĩ bàn. Như trước đã nói 3 thứ nhân duyên. Nghĩa là chỉ tự chứng biết, không phải cảnh giới của tư duy.

Luận nói: Bồ-tát niệm pháp thân Phật thì niệm bao nhiêu thứ? Lược nói chư Bồ-tát tu tập niệm Phật có 7 thứ. Một là chư Phật được tự tại đối với tất cả pháp, nên tu tập niệm Phật như vậy. Vì chư Phật có trí thần thông không chướng ngại trong tất cả thế giới. Ở đây có bài kệ như sau:

Chướng ngại và thiếu nhân,

Chúng sinh khắp các cõi,

Do 2 thứ quyết định,

Chư Phật không tự tại.

Hai là thân Như Lai thường trụ, vì chân như lìa cấu uế không gián đoạn. Ba là Như Lai không cơ hiềm, vì lìa tất cả phiền não chướng trí chướng. Bốn là Như Lai không dụng công mà không bỏ tất cả Phật sự. Năm là Như Lai có sự thụ dụng lớn, vì cõi Phật thanh tịnh là sự thụ dụng lớn. Sáu là Như Lai không nhiễm ô, vì sinh trong thế gian không bị các pháp thế gian làm ô nhiễm. Bảy là Như Lai có nghĩa lợi lớn, hiển thị chứng chính giác nhập Niết-bàn v.v…để thành thục các chúng sinh chưa thành thục, chúng sinh đã thành thục thì giải thoát chúng. Ở đây có kệ như sau:

Luôn luôn nơi tự tâm,

Đủ tất cả thanh tịnh.

Lại nữa không dụng công,

Mà cho Đại pháp lạc.

Không y chỉ, đi khắp,

Bình đẳng với nhiều người,

Tất cả Phật như vậy,

Người trí niệm như thế.

Giải thích: Chư Bồ-tát niệm pháp thân chư Phật là tu niệm 7 tướng. nay sẽ nói rõ nghĩa tu này. Trong đây nói được tự tại trong tất cả pháp, nghĩa là do thần thông nên được tự tại trong tất cả pháp. Bởi chư Phật được thần thông không chướng ngại trong tất cả thế giới, không như Thanh Văn còn có chướng ngại. Nếu chư Phật được tự tại trong tất cả pháp, thì sao tất cá chúng sinh không được Niếtbàn? Nghĩa này dung kệ hiển thị. Đó là vì có nhân duyên không thể khiến chúng được Niết-bàn. Vì vậy chư Phật đối với các chúng sinh kia có chỗ không tự tại như trên.. Nói thiếu nhân, nghĩa là không có pháp tính Niết-bàn. Đó là thiếu nhân, do không có tính ấy. Nói vì 2 thứ quyết định, 2 thứ quyết định là: một là tác nghiệp quyết định, hai là thụ báo quyết định. Nhưng đối với 2 thứ quyết định này chư Phật không có tự tại. Trong đó báo chướng, tức là si độn. Thụ báo quyết định, nghĩa là quyết định đến địa ngục v.v… Báo và thụ báo có khác nhau như thế. Thường trụ thân, tức là chân như lìa cấu uế không gián đoạn, cái này như thường trụ, lấy đó làm thân nên gọi là thân thường trụ của Như Lai. Nói thụ dụng lớn của Như Lai, là chư Như Lai lấy cõi Phật thanh tịnh làm sự thụ dụng lớn. Nói nghĩa lợi lớn là cái thể nghĩa lợi lớn của chư Phật, nghĩa là thành thục giải thoát. Với chúng sinh chưa thành thục thì dùng Bồ-đề Niết-bàn mà thành thục. Ngoài ra nghĩa của 4 tướng niệm Phật khác có thể hiểu. Bảy thứ niệm Phật này còn được hiển thị bằng 2 bài kệ. “Luôn luôn nơi tự tâm” v.v… các kệ là nói 7 tướng thành tựu. Các Bồ-tát trước tiên niệm quả báo của chư Phật, tâm niệm này luôn luôn ở trong lòng. Đây cũng tức là thường tương ưng với thanh tịnh, nghĩa là thiện. Cho nên rất mực không cơ hiềm, không dụng công, lấy vô công dụng mà làm Phật sự. Cho nguồn vui Đại pháp, đó tức là cõi Phật thanh tịnh. Nói “Không y chỉ, đi khắp”, nghĩa là nếu có y chỉ tác hành thì khổ, cho nên chư Phật đi giáo hóa mà không có chỗ y chỉ. Nhờ vậy mà lợi ích nhiều người. Do nhiều người được như vậy, nên chư Bồ-tát nghĩ niệm quả báo này.

Luận nói: Lại nữa làm sao biết tướng thanh tịnh của các cõi Phật? Như trong Bồ-tát tạng duyên khởi có nói trong trăm ngàn kệ Tu-đa-la: Đức Bà-già-bà trụ nơi cung điện tối thắng quang minh trang nghiêm bằng 7 báu, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp vô lượng thế giới, trụ nơi vô lượng trang nghiêm viên mãn vô hạn, siêu việt 3 cõi, nơi thức tướng cực kỳ thanh tịnh tự tại. Nơi Như Lai trụ trì, nơi sở trụ của các Đại Bồ-tát. Nơi có vô lượng trời rồng Dạ-xoa, Cànthát-bà,A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhân phi nhân tu hành. Nơi an vui trong Đại pháp vị. Nơi an trụ tất cả lợi ích chúng sinh. Nơi lìa tất cả phiền não bức bách, lìa tất cả ma chướng. Nơi Như Lai trang nghiêm trụ trì vượt quá tất cả mọi sự trang nghiêm. Nơi khởi hành bằng Đại niệm, Đại tuệ, Đại Xa-ma-tha Tì-bát-xá-na làm cỗ xe, Đại không, vô tướng, vô nguyện làm ngõ vào. Nơi kiến lập trên Đại bảo liên hoa vương, trang nghiêm bằng vô lượng công đức, an vui tự tại trong cung điện lớn. Đó là những câu hiển thị cõi Phật thanh tịnh. Như vậy là sắc loại đầy đủ, tướng mạo đầy đủ, số lượng đầy đủ, phương sở đầy đủ, nhân đầy đủ, quả đầy đủ, chủ đầy đủ, bạn đầy đủ, quyến thuộc đầy đủ, trụ trì đầy đủ, nghiệp đầy đủ, thuận nhiếp đầy đủ, vô úy đầy đủ, chỗ ở đầy đủ, đường sá đầy đủ, xe cộ đầy đủ, cửa ngõ đầy đủ, y chỉ giữ gìn đầy đủ. Tất cả những việc như vậy đều hiển hiện đầy đủ. Lại nữa các quả báo trong cõi Phật thanh tịnh kia đều hoàn toàn chỉ có thanh tịnh vi diệu, hoàn toàn an lạc, hoàn toàn không hiềm nghi, hoàn toàn tự tại.

Giải thích: Như trăm ngàn kệ Tu-đa-la Duyên khởi nói về cõi Phật thanh tịnh. Cõi Phật thanh tịnh kia hiển thị bằng những công đức thù thắng gì? Hai câu trước hiển thị sắc đầy đủ. Nghĩa là 7 báu v.v… Trong 7 báu, vàng, bạc, lưu ly, san hô, mã não đều thuộc loại khoáng thạch. Mạt-la-yết-đa cũng là khoáng thạch, một loại ngọc có màu xanh lục. Xích bảo là trân châu đỏ, do một loại trai màu đỏ sản sinh ra. Loại ngọc báu này có giá trị hơn cả các loài ngọc báu khác. Nói ánh sáng chiếu vô lượng thế giới, tức trước nói các 7 báu phát ra ánh sáng. Đó là câu thứ hai nói về sắc đầy đủ. Tiếp đến một câu nói về trang nghiêm đầy đủ. Tiếp đến một câu nói về số lượng đầy đủ. Tiếp đến một câu nói về phương sở đây đủ. Những cái này lấy gì làm nhân? Nhân đó là các điều thiện do 2 thứ thiện căn là xuất thế vô phân biệt và xuất thế vô phân biệt hậu đắc sinh ra. Đây tức là nhân đầy đủ. Đây cũng có một cau. Tiếp đến một câu nói về quả đầy đủ. Trong cõi Phật kia lấy thức tối thanh tịnh tự tại chuyển làm tướng. Tiếp đến một câu nói về chủ đầy đủ. Tiếp đến một câu nói về bạn đầy đủ. Tiếp đến một câu nói về quyến thuộc đầy đủ. Có nơi nói rằng Ma-hầu-la-già cũng ở trong loại rồng. Ờ trong cõi Tịnh độ nếu có thể trụ trì thân thì đây là trụ trì đầy đủ. Cũng dùng một câu hiển thị lấy đây làm việc ăn là để làm nghiệp gì? Chỉ thành tựu tất cả chúng sinh, tất cả việc lợi ích. Cũng dùng một câu hiển thị thuận nhiếp đầy đủ, vì trong cõi Tịnh độ không có phiền não, khổ. Cũng dùng một câu hiển thị trong cõi kia không có oán đối, sợ hãi vì không có ma nghiệp. Trong cõi Phật kia không có ấm ma, phiền não ma, tử ma, thiên tử ma, cho nên không có sợ hãi. Một câu này là nói vô úy đầy đủ. Tiếp đến một câu nói về trụ xứ đầy đủ. Dùng đường lối nào được vào cõi Phật kia? Trong Đại thừa, trí văn tư tu là thể, tức là lần lượt đi trên con đường Đại niệm tuệ. Một câu này hiển thị đường lối đầy đủ. Lấy gì làm cỗ xe? Dùng Xa-ma-tha Tì-bát-xá-na mà đi đến. Một câu này hiển thị cỗ xe đầy đủ, tức phương tiện để đi đến đó. Do cửa ngõ nào được vào cõi kia? Nghĩa là trong Đại thừa, không, vô tướng, vô nguyện là cửa ngõ. Một câu này hiển thị cửa ngõ đầy đủ. Tiếp đến một câu nói về y chỉ giữ gìn đầy đủ. Như cõi đại địa lấy phong luân làm y chỉ giữ gìn. Cõi Phật thanh tịnh kia lấy gì làm y chỉ giữ gìn? Lấy Đại bảo liên hoa có vô lượng công đức làm y chỉ giữ gìn. Câu này hiển thị y chỉ giữ gìn đầy đủ. Quả báo cõi Tịnh độ kia hoàn toàn thanh tịnh vi diệu, vì nơi cõi kia không có vật bài tiết, vật bất tịnh, hoàn toàn an lạc vì nơi cõi kia chỉ có lạc thụ, không có khổ thụ và vô ký, hoàn toàn tự tại vì do sức tự tâm không trông đợi nhân duyên.

Luận nói: Lại nữa trong pháp giới chư Phật này, trong tất cả mọi thời đều có 5 việc. Một là cứu hộ tất cả chúng sinh khỏi sự bức não. Nghĩa là những kẻ bị bức não vì điếc đui cuồng loạn, chỉ thấy gặp là được cứu hộ. Hai là cứu hộ các đường ác, từ chỗ bất thiện cứu xuất đặt vào chỗ thiện. Ba là cứu hộ phi phương tiện. Như ngoại đạo dùng phi phương tiện mà cầu giải thoát, thì khai ngộ đem vào trong chính giáo của Phật. Bốn là cứu hộ người có ngã kiến, dùng giáo pháp khiến họ biết đường siêu thoát 3 cõi. Năm là cứu hộ những kẻ hạ thừa, nghĩa là với các Bồ-tát thực hành các thừa khác và hạng Thanh Văn không định tính thì an lập khiến tu hành Đại thừa. Năm việc này là nghiệp bình đẳng của tất cả chư Phật. Ở đây có bài kệ như sau:

Nhân, y, sự, niệm, hành,

Khác nên nghiệp có khác.

Thế gian có khác này,

Đạo sư thì không khác.

Giải thích: Nói pháp giới chư Phật tức là pháp thân. Có 5 nghiệp dụng phải biết. Nói cứu hộ tất cả chúng sinh thoát khỏi bức não là do thấy gặp Phật mà người mù được sáng mắt v.v…Cứu hộ đường ác là cứu hộ người trong đường ác, khiến chúng ra khỏi nơi chẳng lành mà đem chúng đặt vào nơi an lành. Cứu hộ ngã kiến là cứu hộ chúng giảng nói đạo lý siêu thoát 3 cõi. Thế gian gọi là 3 cõi, đây nói là ngã kiến. Còn lại 2 câu, nghĩa có thể hiểu. Năm việc này là nghiệp dụng bình đẳng của tất cả chư Phật. Các nghĩa này được kệ hiển thị. Nếu chư Phật nghiệp bình đẳng, nghiệp chúng sinh không bình đẳng. Các nhân duyên này lấy nhân, y, sự, niệm, hành một kệ hiển thị nhân khác nhau trong thế gian. Do địa ngục nhân khác, người, trời nhân khác, cho đến ngạ quỷ nhân khác, cho nên nghiệp có khác. Y khác nhau là do thân y chỉ khác. Tác nghiệp có khác thì sự việc khác như kinh doanh hoặc làm nông, do các nghề nghiệp khác nhau, sự việc khác nhau nên thể của các nghiệp thế gian khác. Niệm khác là, niệm là ý dục, do ý dục này khác nên nghiệp thế gian cũng có khác. Hành khác tức là các hành hữu vi. Do những việc làm là hữu vi nên nghiệp khác, cho nên gọi là khác. Ai có các thứ khác này? Kệ nói “thế gian có các thứ khác này”. Nói “Đạo sư thì không khác”, nghĩa là tất cả việc làm của Phật là không dụng công, tức là không có nhân v.v… 5 việc khác nhau. Vì vậy nên tác nghệp của chư Phật không sai biệt.

Luận nói: Như vậy pháp thân chư Phật đầy đủ công đức, không cùng chung với Thanh Văn, Bích-chi-phật. Nếu vậy vì ý gì Phật nói Nhất thừa? Ở đây có kệ như sau:

Vì một phần dẫn dắt,

Và an trụ người khác,

Với hạng không định tính,

Nói chính giác Nhất thừa.

Pháp, vô ngã, giải thoát,

Bình đẳng. Căn tính khác,

Đắc 2 ý Niết-bàn,

Cứu cảnh chỉ Nhất thừa.

Giải thích: Hai kệ này ý nói về Nhất thừa. Nói “ Vì một phần dẫn dắt,”nghĩa là vì để dắt dẫn các Thanh Văn không định tính nhập vào Đại thừa. Làm sao khiến những người không định tính kia Bátniết-bàn trong Đại thừa. “Và an trụ người khác,” tức các Bồ-tát không định tính khiến họ an trụ Đại thừa. Làm sao khiến họ không thoái bỏ Đại thừa mà Bát-niết-bàn trong Thanh Văn thừa. Vì nghĩa này nên Phật nói Nhất thừa không định tính. Câu 2, nghĩa có thể hiểu. Những gì gọi là biệt ý? Là pháp bình đẳng, vô ngã bình đẳng, giải thoát bình đẳng. Trong đó, pháp bình đẳng nghĩa là pháp tức chân như. Chân như bình đẳng này tất cả Thanh Văn đồng đến chân như kia. Cho nên gọi là thừa. Vì bình đẳng nên gọi là Nhất thừa. Vô ngã bình đẳng, nghĩa là không có nhân ngã. Đã không nhân ngã mà còn nói đây là Thanh Văn, đây là Bồ-tát là không hợp đạo lý. Do ý vô ngã này cho nên nói là Nhất thừa. Giải thoát bình đẳng, nghĩa là Thanh Văn v.v… cũng đồng giải thoát phiền não, vì y theo ý này nên nói là Nhất thừa. Bởi vì so? Bởi Thế Tôn nói giải thoát với giải thoát bình đẳng không có các tướng. Nói “tính khác” nghĩa là do có căn tính khác nhau cho nên đối với thừa Thanh Văn không có tính quyết định cũng được thành Phật. Do ý này nên nói là Nhất thừa. “Đắc 2 ý” tức là được 2 ý. Bình đẳng ý là do tất cả chúng sinh một thể thâu nhiếp cho nên ta tức là kia, kia tức là ta. Thâu nhiếp được như vậy là được chính giác. Tức là kia được chính giác. Do ý này nên nói là Nhất thừa. Ý thứ hai là như trong Kinh Pháp Hoa Phật thụ ký cho các Thanh Văn. Vì được ý này nên nói chỉ được các Phật pháp. Như bình đẳng ý không được pháp thân, do vì được bình đẳng ý này nên suy nghĩ rằng chư Phật pháp như, tức chúng ta là pháp như. Lại có nghĩa khác rằng trong hàng Đại chúng kia có các Bồ-tát cùng các Thanh Văn đều gọi là thụ ký được Niết-bàn. Như Phật nói: Ta nhớ quá khứ vô lượng trăm ngàn kiếp trong Thanh Văn thừa Bát-niết-bàn. Do ý này nên nói Nhất thừa. Bởi vì thấy có các chúng sinh cần Thanh Văn thừa để mà điều phục nên hiện Thanh Văn Bát-niết-bàn. Nói cứu cánh, tức là Nhất thừa, bởi cứu cánh thì không có nẻo thú nào khác nhưng có sai biệt vì Thanh Văn thừa v.v… khác Phật thừa. Do ý này nên Thế Tôn nói là Nhất thừa.

Luận nói: Như vậy tất cả chư Phật đồng một pháp thân mà có nhiều Phật. Vậy nhân duyên gì có thể thấy được? Ở đây có kệ như sau:

Một cõi không có hai,

Một thời nhiều thành tựu.

Tuần tự không hợp lý,

Cho nên có nhiều Phật.

Giải thích: Do nhân duyên này phải biết tất cả chư Phật là bình đẳng pháp thân mà hoặc một hoặc nhiều. Nay sẽ nói rõ. Phải biết là một vì là pháp giới bình đẳng, chư Phật lấy đây làm thể, do pháp giới bình đẳng nên chư Phật là một. Lại nữa phải biết là một vì trong một thời, trong một thế giới không có hai Phật đồng thời xuất hiện, cho nên chỉ có một. Lại nữa hoặc nhiều hoặc một như kệ hiển thị, tức là nói một cõi v.v…một cõi không có hai nghĩa là câu này hiển thị nghĩa một. Nghĩa là trong một thế giới không có 2 Phật đồng thời xuất thế. Các câu khác nói nhiều Phật thành tựu trong cùng một thời, nghĩa là trong cùng một thời gian có vô lượng Bồ-tát đồng tu đồng thành tựu viên mãn. Nếu đã thành tựu viên mãn phúc đức trí tuệ mà không được thành Phật quả thì sự tu hành trở nên trống rỗng. Do có nhiều chúng Bồ-tát đồng tu cùng thành tựu viên mãn nên có nhiều Phật. Nói “Tuần tự không hợp lý” nghĩa là việc thành chính giác không có nghĩa tuần tự. Nếu khi tu Bồ-đề tư lương mà phải đợi tuần tự thành tựu thì khi được chứng chính giác mới có tuần tự. Nhưng do nhiều Bồ-tát tu tư lương không phải đợi tuần tự nên khi thành chính giác cũng không có sự đợi chờ tuần tự. Vì vậy có nhiều Phật.

Luận nói: Làm sao thấy pháp thân chư Phật chẳng phải rốt ráo có nhập Niết-bàn, cũng chẳng phải chẳng rốt ráo nhập Niết-bàn? Ở đây có bài kệ như sau:

Giải thoát tất cả chướng,

Việc làm chưa kết thúc,

Phật rốt ráo Niết-bàn,

Cũng không Bát-niết-bàn.

Giải thích: Lại có các sư thuộc bộ khác nói chư Phật không rốt ráo Niết-bàn, có các người Thanh Văn thừa các bộ khác nói có rốt ráo Niết-bàn. Có 2 ý như vậy. Kệ này hiển thị “Giải thoát tất cả chướng,” v.v… nghĩa là trong đó nếu giải thoát phiền não chướng trí chướng, do ý đây nên nói chư Phật rốt ráo Niết-bàn. Do “Việc làm chưa kết thúc,” việc làm đó là với người chưa thành thục thì thành thục họ, người đã thành thục thì giải thoát họ. Việc làm đó chưa kết thúc, do ý này nên nói không rốt ráo Niết-bàn. Nếu khác đây thì đồng với Niết-bàn của Thanh Văn. Bởi rốt ráo Niết-bàn nên chỗ thệ nguyện sẽ không có quả.

Luận nói: Vì sao thụ dụng thân không phải chính là tự tính thân? Có 6 nhân duyên: 1. Sắc thân trông thấy được. 2. Trong vô lượng Đại tập hội, hiển thị nhiều khác nhau. 3. Tùy sự yêu thích của chúng mà ứng hiện, tự thể không nhất định. 4. Tùy các sự khác nhau mà tự thể thị hiện biến động. 5. Ở nơi mà Đại chúng gồm có Bồ-tát, Thanh Văn, trời v.v… xen tạp thì tùy sự xen tạp mà hiển thị. 6. Hiển thị sự chuyển y không tương ưng của A-lê-da thức và sinh khởi thức. Cho nên thụ dụng thân không thành nghĩa của tự tính thân.

Giải thích: Sau đây là những lý do tự tính thân không phải là thụ dụng thân. Một, sắc thân hiển thị nghĩa là sắc thân của Phật không phải đó là pháp thân, vì đó là hình sắc trông thấy, không phải là pháp thân. Cho nên thụ dụng thân không phải pháp thân. Lại nữa thụ dụng thân này có sai khác vì trong Đại tập hội của chư Phật có sai biệt. Pháp thân thì không có sai biệt như vậy. Do đạo lý này không tương ưng nhau nên thụ dụng thân không thành tự tính thân. Lại nữa tùy sự mong muốn của chúng sinh mà hiện thụ dụng thân. Cho nên như Tu-đa-la nói có người thấy Phật màu vàng, có người thấy Phật màu xanh v.v… Thụ dụng thân có những thể tướng như vậy không nhất định. Nếu nói thể của tự tính thân có bất định là không hợp đạo lý. Tự tính thân có những sự không tương ưng như vậy nên chẳng phải thụ dụng thân tức tự tính thân. Lại nữa với thụ dụng thân thì một chúng sinh có thể mới đầu thấy các sắc như thế này, rồi cũng một thân đó sau lại thấy những sắc khác. Nếu là tự tính pháp thân mà biến động khác như vậy là không phù hợp. Cho nên thụ dụng thân không thành tự tính thân. Lại nữa thụ dụng thân thường cùng với trời và các chúng hòa tạp còn tự tính thân thì không phù hợp với sự hòa tạp như thế. Cho nên thụ dụng thân không phải tức là tự tính thân. Lại nữa do thức A-lê-da chuyển y rồi tức được tự tính thân. Nếu tức tự tính thân này là thụ dụng thân thì sinh khởi thức chuyển y rồi lại được thân gì? Cho nên thụ dụng thân không phải tức là tự tính thân. Do 6 thứ này không tương ưng nên không thành là một.

Luận nói: Vì nhân duyên gì hóa thân cũng không phải tự tính thân? Có 8 nhân duyên. Một là chư Bồ-tát từ xa xưa đến nay đã được không thoái lui Tam-ma-đề mà sinh trong trời Đâu-suất và trong loài người là không đúng. Hai là đã nhớ túc mạng mà không biết văn chương tạp luận toán số ấn loát công xảo và thụ dụng dục hạnh là không đúng. Ba là đã biết giáo pháp đâu là tà thuyết chính thuyết mà còn đến hỏi đạo ngoại đạo là không đúng. Bốn là đã biết rõ tam thừa đạo mà còn thực hành khổ hạnh là không đúng. Năm là bỏ vạn ức Diêm-phù châu chứng chính giác và chuyển pháp luân ở một chỗ là không hợp lý. Sáu là nếu lìa như vậy hiển thị phương tiện chứng chính giác v.v.v…ngoài ra đều dùng hóa thân làm Phật sự thì phải chứng chính giác trong trời Đâu-suất. Bảy là sao Phật không xuất hiện bình đẳng ở tất cả các châu Diêm-phù? Đã không như vậy vì không A-hàm và đạo lý có thể chứng. Tám là cùng trong một thế giới không có hai Như Lai xuất thế là không mâu thuẫn vì có nhiều hóa Phật. Nói một thế giới là một thế giới có 4 châu. Như không có hai Chuyển luân vương cùng xuất hiện, ở đây có bài kệ như sau:

Chư Phật vi tế hóa,

Bình đẳng nhập nhiều thai.

Nhất thiết chủng chính giác,

Để hiển thị thụ sinh.

Giải thích: Nay hiển thị nghĩa không phù hợp bảo rằng pháp tính thân tức là biến hóa thân. Có 8 thứ không phù hợp. Cái không phù hợp đầu tiên là chư Bồ-tát từ xa xưa vô lượng kiếp đã được Tam-ma-đề không thoái lui, còn không sinh ở Đâu-suất-đà như chư thiên huống chi là sinh làm người. Cho nên cái mà thế gian thấy đó là hóa thân không phải tự tính thân. Lại nữa chư Bồ-tát đã được trí nhớ đời trước mà không biết sử sách toán số v.v… các việc là không đúng lý. Cho nên hóa thân vì để giáo hóa chúng sinh nên làm các việc này. Lại nữa Bồ-tát tu hành trong 3 kiếp a-tăng-kì không biết chính thuyết tà thuyết làm sao trong lúc cuối cùng có thể biết được? Vì vậy cho nên đó là hóa thân chẳng phải tự tính thân. Lại nữa bỏ vạn ức châu Diêm-phù, chỉ ở một nơi chứng chính giác chuyển pháp luân là không hợp lý. Nếu là hóa thân mới đúng, do ở một nơi đồng thời hóa hiện. Vì vậy cho nên hóa thân chẳng phải tự tính thân. Nếu nói chỉ một nơi chứng chính giác còn các nơi khác là hiển thị hóa thân có quyến thuộc thì tại sao không chứng chính giác ngay khi ở trời Đâu-suất-đà rồi hiện hóa thân ở trong tất cả 4 châu? Nếu nói trong tất cả 4 châu không chứng chính giác thì nghĩa này bất thành, vì không có A-hàm và đạo lý chứng minh cho thuyết này. Ở trong một cõi Phật tùy theo một trong 4 châu không chứng chính giác. Nếu ông nói như vậy thì mâu thuẫn với Tu-đa-la. Bởi vì sao? Vì kinh nói không có 2 Phật đồng thời xuất thế. Trong kinh ấy nói và lấy Chuyển luân vương làm thí dụ. Nói không có 2 Chuyển luân vương đồng thời xuất hiện nghĩa là nói một trong 4 châu không có đồng thời xuất hiện chứ không phải một cõi Phật. Nên nói không có 2 Phật đồng thời xuất thế cũng vậy. Nói thế giới là một 4 châu thiên hạ. Trong đây có bài kệ hiển thị chính giác nói “Chư Phật vi tế hóa,” v.v… tức là nghĩa như vậy. Khi Phật ở cung trời Đâu-suất-đà nếu xuống nhập thai tức lúc ấy, nếu cùng thượng tọa Xá-lợi-phất đồng các quyến thuộc thì phải biết rằng tất cả đều là do hóa hiện. Đã hiển thị như vậy tức có thể hiển thị chứng chính giác trong tất cả tướng.

Luận nói: Vì tất cả chúng sinh nên phát nguyện và tu hành thành Đại Bồ-đề, rốt ráo Niết-bàn là không hợp lý. Phát nguyện và tu hành mà không quả báo là sai lầm.

Giải thích: Trong đây hiển thị nghĩa rốt ráo Niết-bàn là không thành. Chư Phật vì tất cả chúng sinh nên phát thệ nguyện lớn và tu hành. Đã phát ý làm lợi ích chúng sinh rồi, tùy các việc lợi ích chúng sinh mà làm. Nếu rốt ráo mà nhập Niết-bàn thì nguyện và hạnh kia là không hiệu quả. Nếu ông nói pháp thân Như Lai thường trụ thì thụ dụng thân và hóa thân là vô thường, sao gọi là thân thường trụ? Nay là để thành tựu nghĩa này.

Luận nói: Thụ dụng thân và hóa thân, 2 thân này vô thường, sao nói là thân Như Lai thường trụ? Vì y chỉ vào pháp thân thường trụ. Thụ dụng thân và biến hóa thân luôn luôn thụ báo, thường hóa hiện như thường thụ lạc, thường thụ thực. Phải biết Phật thân thường trụ như vậy.

Giải thích: Nói 2 thân là thường, do y chỉ pháp thân thường trụ nên 2 thân này là thường. Lại nữa thụ dụng thân là không bỏ thụ dụng nên gọi là thường. Hóa thân thì thường hiển thị chứng chính giác Bát-niết-bàn v.v… liên tục không gián đoạn nên gọi là thường. Lấy thí dụ hiển thị cái thường của 2 thân này. Như thế gian nói thường thụ lạc, tức không phải được cái vui không gián đoạn mà gọi là thường thụ lạc. Lại như nói người này thường thí thực tức không phải thường thí vì có lúc không thí, nhưng được gọi là người thường thí thực.

Nghĩa thường của 2 thân này cũng vậy.

Luận nói: Có 6 nhân duyên mà hóa thân chư Phật Thế Tôn không thường trụ mãi. Một là việc làm đã hoàn tất. Một là việc làm đã hoàn tất, nghĩa là đã thành thục và giải thoát chúng sinh. Hai là vì chuyển ý muốn Niết-bàn, khiến cầu Phật thân thường trú. Ba là chuyển ý khởi tuần tu nơi Phật, khiến sinh hiểu rõ trong chính pháp sâu xa. Bốn là ý khao khát được thường thấy không sinh chán đủ. Năm là sinh tự tinh tiến, do biết khó gặp được đấng thuyết chính pháp. Sáu là khiến được mau chóng thành thục, tự mình khởi tinh tiến không bỏ ách nặng. Ở đây có kệ như sau:

Việc làm đã hoàn tất,

Chuyển ý muốn tịch diệt.

Chuyển ý khinh thường Phật,

Khiến sinh tâm khao khát.

Để tự phát tinh tiến,

Khiến mau chóng thành thục.

Cho nên hóa thân Phật,

Không thường trụ mãi mãi.

Pháp thân chư Phật từ vô thủy đến nay là không hạn lượng, để được pháp thân kia không nên không siêng năng. Ở đây có kệ như sau:

Phật được không khác, vô lượng nhân,

Nếu chúng sinh bỏ tinh tiến ấy,

Mà được tức là phi nhân quả.

Đoạn nhân, thành được là phi lý.

Đến đây đã giải thích xong Phẩm: Nhiếp Đại thừa, trong Kinh Đại-thừa A-tì-đạt-ma.

A-xà-lê A-tăng-già tạo.

Giải thích: Trong này có câu hỏi là nếu pháp thân từ vô thủy là không sai biệt, không hạn lượng như vậy thì đủ làm lợi ích chúng sinh rồi, cần gì phải vì thế mà siêng năng tinh tiến? Để ngăn chận ý tưởng trong câu vấn nạn này nên hiển thị bằng bài kệ. Cái sở đắc của chư Phật là không khác nhau, không hạn lượng. Lấy đó làm nhân nên phải khởi chính cần. Cho nên nói chư Phật thời vô thủy, nói tất cả, là có lỗi. Bởi vì sao? Sự đạt được này nếu là trong tất cả mọi thời thì có lỗi là nhân bất thành. Như thế, đoạn nhân mà được quả là phi lý. Chư Bồ-tát Đại bi ở trong tâm, thương yêu tất cả chúng sinh như con, đối với việc lợi ích chúng sinh mà bảo rằng những người khác tự làm lấy chẳng phải việc ta làm, là không hợp lý. Ta đều phải làm tất cả dù những người khác có làm hay không làm. Cần phải như vậy. Luận Nhiếp Đại Thừa, trong Đại thừa bộ chế thuật rất nhiều. Bản luận này do Thắng luận giả A-xà-lê Bà-tẩu-bàn-đậu tạo.

HẾT

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10