NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN BẢN
Vô Trước Bồ-tát tạo luận
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN THƯỢNG

Phần thứ nhất: CƯƠNG YẾU

Trong Kinh Đại Thừa A-tì-đạt-ma có nói các Bồ-tát khéo ngộ nhập Đại thừa, vì muốn làm rõ cái thể to lớn của Đại thừa, căn cứ vào Đại thừa, đối trước đức Phật nói chư Phật Thế Tôn có 10 tướng ngôn ngữ thù thắng. Một là sở tri y thù thắng. Hai là tướng sở tri thù thắng. Ba là nhập tướng sở tri thù thắng. Bốn là nhập nhân quả thù thắng. Năm là tu tập sai biệt các nhân quả thù thắng. Sáu là giới tăng thượng thù thắng trong sự tu tập sai biệt. Bảy là tâm tăng thượng thù thắng. Tám là tuệ tăng thượng thù thắng. Chín là quả đoạn thù thắng. Mười là quả trí thù thắng. Do các câu được chư Phật Thế Tôn nói trong các khế kinh, rõ ràng Đại thừa chính là do Phật nói.

Thế nào là rõ ràng? Là vì 10 tướng thù thắng nói trên không hề thấy nói trong Thanh Văn thừa, chỉ trong Đại thừa mới có nhiều chỗ nói đến. Nghĩa là A-lại-da là nói cái thể của sở tri căn cứ. Ba thứ tự tính: một y tha khởi tự tính, hai biến kế sở chấp tự tính, ba viên thành thật tự tính là nói cái thể của tướng sở tri. Tính duy thức là nói về sự ngộ nhập cái thể của tướng sở tri. Sáu Ba-la-mật-đa là nói cái thể của sự ngộ nhập nhân quả. Mười địa của Bồ-tát là nói cái thể của sự tu tập các nhân quả sai biệt. Luật nghi Bồ-tát là nói cái thể của giới tăng thượng. Thủ-lăng-già-ma, Hư không tạng v.v…các Tam-ma-địa là nói cái thể của tâm tăng thượng. Trí vô phân biệt là nói cái thể của tuệ tăng thượng. Vô trụ Niết-bàn là nói cái thể của quả đoạn. Ba thứ Phật thân: một tự tính thân, hai thụ dụng thân, ba biến hóa thân, là nói cái thể của quả trí. Do 10 sự thù thắng nói trên, rõ ràng Đại thừa khác với Thanh Văn thừa. Lại còn rõ ràng rằng Thế Tôn chỉ nói rõ cho Bồ-tát. Cho nên phải biết rằng chỉ y vào Đại thừa chư Phật Thế Tôn mới có 10 tướng thù thắng được nói đến.

Lại nữa vì sao từ 10 tướng thù thắng này Như Lai nói ngôn ngữ thù thắng, lại rõ ràng Đại thừa chính thật là lời Phật nói?

Là vì để ngăn chận ý tưởng cho rằng Thanh Văn thừa là tính của Đại thừa. Do 10 tướng này chưa hề thấy trong Thanh Văn thừa nói đến, mà chỉ thấy nói nhiều trong Đại thừa. Có nghĩa là 10 thứ ngôn ngữ thù thắng này rất có năng lực dẫn khởi tính Đại Bồ-đề, thành lập sự tùy thuận rất tốt, không mâu thuẫn và có thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Ở đây có hai bài tụng như sau:

Sở tri y và sở tri tướng,

Nhập nhân quả và tu nhân quả,

Tam học quả đoạn và quả trí,

Là tối thượng thừa nên thù thắng.

Thuyết này các nơi không thấy nói,

Đây là tối thắng nhân Bồ-đề,

Cho nên Đại thừa là Phật nói,

Tức nói về mười nghĩa thù thắng.

Lại nữa vì sao 10 nghĩa được nói theo thứ tự như vậy?

Nghĩa là các Bồ-tát trước phải rõ nhân duyên của các pháp mới rõ được lý duyên sinh. Tiếp đến đối với các pháp do duyên sinh phải nhận rõ tướng trạng của chúng, phải khéo xa lìa hai cực đoan của sự thêm bớt. Tiếp đến, Bồ-tát khéo tu tập như vậy, phải thông suốt đúng đắn các tướng sở thủ, khiến tâm được giải thoát các chướng. Tiếp đến, thông suốt các tướng sở tri rồi, trước do chứng đắc 6 Ba-la-mậtđa ở gia hành vị, phải thành tựu đầy đủ tăng thượng ý lạc cho được thanh tịnh. Tiếp đến sau khi thanh tịnh ý lạc trong 6 Ba-la-mật-đa, cần phải từng phần từng phần tu tập sai biệt trong 10 địa. Nghĩa là phải trải qua ba vô số đại kiếp. Tiếp đến phải viên mãn ba sở học của Bồ-tát. Đã viên mãn rồi phải hiện chứng quả Niết-bàn và vô thượng chính đẳng Bồ-đề. Mười nghĩa đã được nói theo thứ tự như vậy, và trong đây Đại thừa đã được trình bày đầy đủ.

*******

Phần thứ hai: SỞ TRI Y

Trong 10 nghĩa thù thắng , trước tiên nói đến sở tri y, hay là nơi y cứ của các pháp sở tri, tức thức A-lại-da.

Ở đâu Thế Tôn đã nói thức A-lại-da tên là thức A-lại-da?

Trong một bài kệ trong Kinh Đại Thừa A-tì-đạt-ma, đức Bạcgià-phạm đã nói:

Nơi từ vô thủy nay,

Các pháp đồng y cứ.

Do đây có các nẻo

Và chứng đắc Niết-bàn.

Và cũng có bài kệ rằng:

Do gồm chứa các pháp,

Làm thức của chủng tử,

Nên gọi A-lại-da,

Ta dạy kẻ hơn người.

Như vậy là đã dẫn chứng trong A-cấp-ma.

Nhưng vì lý do gì thức này gọi tên là A-lại-da?

Vì tất cả các pháp sinh tạp nhiễm đều gồm chứa ở đây như tính chất của quả, rồi cũng thức này gồm chứa các pháp làm nhân, cho nên gọi là A-lại-da. Hoặc các hữu tình thâu giữ thức này làm bản ngã của mình nên gọi là A-lại-da.

Lại nữa thức này cũng gọi là thức A-đà-na. Như trong A-cấpma, Kinh Giải Thâm Mật nói:

Thức A-đà-na rất vi tế,

Chủng tử như dòng nước chảy xiết.

Ta chẳng giảng nói cho phàm phu,

Sợ chúng chấp đó làm tự ngã.

Vì lý do gì lại gọi tên là thức A-đà-na?

Vì nó nắm giữ tất cả sắc căn, lấy tự thể làm sở y. Bởi vì sao? Bởi vì các sắc căn do nó nắm giữ sẽ tùy chuyển suốt đời mà không hỏng mất. Và nó duy trì liên tục cho đến khi kết sinh thì chấp nhận làm tự thể. Vì vậy thức này còn gọi là thức A-đà-na.

Thức này cũng gọi là tâm. Như Thế Tôn nói tâm, ý, thức. Trong đây, ý có 2 thứ. Thứ nhất là cùng làm đẳng vô gián duyên, tính sở y chỉ, tức cái thức vô gián diệt có thể cùng với ý thức tạo ra sự y chỉ. Thứ hai là ý ô nhiễm, thường tương ưng cùng bốn phiền não. Đó là Tát-ca-da kiến, ngã mạn, ngã ái và vô minh. Chính đây là thức làm sở y cho các tạp nhiễm. Thức cũng do kia y chỉ mà sinh khởi, theo nghĩa thứ nhất, và nhận thức các cảnh tạp nhiễm, theo nghĩa thứ hai. Cho nên có nghĩa là đẳng vô gián và nghĩa tư lường mà thành ra ý có 2 thứ là như vậy.

Lại nữa làm sao biết có cái ý nhiễm ô?

Nghĩa là nếu ý nhiễm ô này không có thì không có cái bất cộng vô minh, thế là có lỗi. Và 5 đồng pháp cũng không có, thế là có lỗi. Sở dĩ vì sao? Vì 5 thức thân, tất phải có nhãn v.v… làm câu hữu y. Lại các huấn thích từ cũng không có, thế là có lỗi. Lại nữa sự khác nhau giữa Vô tưởng định với Diệt tận định cũng không có, thế là có lỗi. Nghĩa là Vô tưởng định thì nhiễm ý rõ ràng còn Diệt tận định thì chẳng phải như vậy. Nếu không thế, 2 thứ định sẽ không có gì khác nhau. Và như vậy thì trong suốt thời gian sinh ở trời Vô tưởng phải không có nhiễm ô, thế là có lỗi. Trong khi đó nếu không có ngã chấp ngã mạn, hoặc trong tất cả mọi lúc, ngã chấp có thể hiện hành được, nghĩa là ở trong các tâm thiện, bất thiện, vô ký. Nếu không như vậy thì chỉ tâm bất thiện tương ưng mà thôi, vì có ngã, ngã sở và phiền não hiện hành thì chẳng phải thiện chẳng phải vô ký. Cho nên nếu lập câu hữu hiện hành, không phải tương ưng hiện hành thì không có lỗi này. Ở đây có bài tụng như sau:

Nếu vô minh bất cộng,

Cùng với 5 đồng pháp,

Huấn từ, hai định khác,

Không, thì đều có lỗi.

Sinh Vô tưởng nói không

Ngã chấp, là có lỗi.

Ngã chấp thường theo đuổi

Tất cả chủng, nếu không,

Ý lìa nhiễm không có,

Hai, ba thành trái nhau.

Không đây, tất cả chỗ,

Ngã chấp cũng sẽ không.

Chân nghĩa tâm thường sinh,

Thường hay làm chướng ngại.

Có trong tất cả thức,

Là bất cộng vô minh.

Ý là nhiễm ô nên tính của nó thuộc hữu phú vô ký và thường cùng tương ưng với 4 phiền não. Như phiền não ở cõi Sắc và Vô sắc thuộc tính hữu phú vô ký. Phiền não của Sắc và Vô sắc bị Xa-ma-tha thâu tàng, nên ý này luôn luôn hiện hữu một cách vi tế.

Cái thứ ba là tâm, nếu lìa thức A-lại-da thì không thể có được. Vì vậy thành lập thức A-lại-da làm tâm thể và do tâm này làm chủng tử ý và thức chuyển sinh.

Vì nhân duyên gì thức A-lại-da cũng gọi là tâm?

Vì là nơi tích chứa các chủng tử huân tập.

Lại nữa vì sao trong Thanh Văn thừa không nói tâm này là thức A-lại-da, thức A-đà-na?

Vì đây là lĩnh vực cực kỳ vi tế. Bởi vì sao? Vì trí giác của các Thanh Văn không chuyển đổi trong tất cả đối cảnh. Cho nên đối với họ tuy tách rời thức A-lại-da không nói, mà vẫn được trí giác, thành tựu giải thoát, nên Phật không nói. Còn trí giác của các Bồtát thì quyết định chuyển đổi trong tất cả đối cảnh , vì vậy Phật nói cho Bồ-tát. Nếu lìa trí giác này không dễ gì chứng được trí Nhất thiết trí.

Lại nữa trong Thanh Văn thừa cũng có cách khác hoặc mật ý, đã nói đến thức A-lại-da. Như trong Tăng Nhất A-cấp-ma nói: Chúng sinh trong thế gian yêu A-lại-da, ưa A-lại-da, vui A-lại-da, thích A-lại-da. Để đoạn trừ những A-lại-da như thế nên khi Như Lai thuyết chính pháp cung kính lắng nghe, trụ tâm cầu pháp, tùy thuận tu hành. Như Lai ra đời vô cùng kỳ diệu như vậy, và chính pháp hi hữu xuất hiện ở thế gian. Trong Kinh Tứ Đức, bằng một cách khác, bằng mật ý cũng đã hiển lộ thức A-lại-da. Trong Kinh A-cấp-ma của Đại chúng bộ cũng dùng cách khác và mật ý gọi thức này là căn bản thức, giống như gốc rễ của một cái cây. Trong Hóa địa bộ cũng dùng cách khác và mật ý gọi thức này là cùng sinh tử uẩn. Tuy có nơi có lúc thấy sắc mất đi, tâm mất đi, nhưng chủng tử của chúng trong thức A-lại-da chẳng mất.

A-lại-da là nơi y cứ của các pháp sở tri như vậy nên nói thức A-lại-da là tính, thức A-đà-na là tính, tâm là tính, A-lại-da là tính, căn bản thức là tính, cùng sinh tử uẩn là tính v.v…Do cách trình bày khác và mật ý mà thức A-lại-da thành một đường lối giải thích đặc biệt của Đại pháp vương.

Lại còn một loại giải thích nói rằng tâm, ý và thức tên gọi khác nhau nhưng nghĩa là một. Nói thế không đúng. Ý và thức đã có hai nghĩa khác nhau thì phải biết nghĩa của tâm cũng khác.

Lại có một loại nói rằng Đức Bạc-già-phạm có nói chúng sinh yêu A-lại-da … cho đến nói rộng hơn, đó chính là lấy 5 thủ uẩn gọi là A-lại-da.

Lại có người khác bảo tham cùng với lạc thụ là A-lại-da, những người khác thì bảo Tát-ca-da kiến là A-lại-da. Các sư này do giáo nghĩa và chỗ chứng biết của họ đối với tàng thức không được sáng tỏ nên lập ra kiến chấp như vậy. Tên A-lại-da được lập theo Thanh Văn thừa là cũng không đúng đạo lý. Nếu không mê muội, lấy tàng thức an lập, gọi tên là A-lại-da, an lập như vậy là hơn cả.

Hơn cả như thế nào?

Là vì nếu 5 uẩn là A-lại-da thì sinh trong đường ác một bề chịu khổ rất đáng chán nghịch, chúng sinh tuyệt đối không khởi yêu thích, vậy mà nói chấp tàng, là không hợp lý. Nếu tham với lạc thụ là A-lạida thì Tứ thiền trở lên đã không có, chúng sinh cõi ấy thường có sự chán nghịch, vậy mà nói chấp tàng, là không hợp lý. Nếu Tát-ca-da kiến là A-lại-da thì những người tin hiểu vô ngã trong chính pháp thường có sự chán nghịch, vậy mà nói chấp tàng, là không hợp lý. Trong thức A-lại-da có mang tính ngã, nên tuy sinh nơi đường ác một bề chịu khổ muốn rời khổ uẩn, nhưng đối với tàng thức ngã ái thường theo trói buộc, chưa từng có ý cầu mong lìa bỏ. Dẫu sinh Tứ thiền trở lên thường chán nghịch tham và lạc thụ, nhưng đối với tàng thức vẫn bị ngã ái thường theo trói buộc. Dẫu ở trong chính pháp này, người tin hiểu vô ngã chán nghịch ngã kiến, nhưng đối với tàng thức vẫn bị ngã ái thường theo trói buộc. Cho nên lập ra thức A-lại-da đặt tên A-lại-da là đúng hơn cả.

Như vậy là đã nói về sự thành lập thức A-lại-da. Vậy an lập tướng này như thế nào?

An lập tướng này, sơ lược có 3 thứ: một là an lập tự tướng, hai là an lập nhân tướng, ba là an lập quả tướng.

An lập tự tướng của thức A-lại-da nghĩa là căn cứ tất cả các pháp tạp nhiễm được huân tập làm nhân sinh ra các pháp, do khả năng thâu giữ chủng tử tương ưng.

An lập nhân tướng của thức A-lại-da nghĩa là tất cả chủng tử của thức A-lại-da lúc nào cũng cùng các phẩm loại tạp nhiễm hiện tiền kia làm nhân.

An lập quả tướng của thức A-lại-da nghĩa là căn cứ các pháp tạp nhiễm đã huân tập từ vô thủy đến nay mà thức A-lại-da liên tục sinh khởi.

Lại nữa những gì là huân tập? Huân tập là năng thuyên, vậy sở thuyên là gì?

Nghĩa là dựa vào pháp kia mà cùng sinh cùng diệt. Trong đó có tính năng sinh làm nhân cho cái khác, gọi là sở thuyên. Như trong mè có ướp hoa Mè và hoa cùng sinh cùng diệt. Tức là mè có mùi hoa. Lại như nói người tu hành tham lam, đó là cái tham huân tập, dựa vào cái tham cùng sinh cùng diệt, cái tâm này mang cái nhân sinh mà sinh. Hoặc người đa văn thì đa văn huân tập, dựa vào cái nghe tác ý rồi cùng sinh cùng diệt, cái tâm này mang cái nhân kia mà sinh. Do đó tính chất huân tập có công năng gìn giữ, nên gọi là người giữ gìn chính pháp. Nên biết ý nghĩa huân tập của thức A-lại-da cũng như vậy.

Lại nữa, chủng tử các pháp tạp nhiễm trong A-lại-da là khác và biệt lập hay không khác biệt?

Các chủng tử kia không phải thật vật và biệt lập, nhưng ở trong A-lại da cũng không phải không khác biệt. Nhưng thức A-lại-da có thể sinh các công năng sai biệt kia, nên có tên là Nhất thiết chủng tử.

Lại nữa làm sao biết được thức A-lại-da với các pháp tạp nhiễm kia đồng thời làm nhân cho nhau?

Ví như đèn sáng do ngọn lửa đèn đốt cháy tim đèn, đó là đồng thời. Cũng như đám cây lau đồng thời dựa vào nhau mà đứng. Hãy quán sát đạo lý làm nhân cho nhau ở đây cũng vậy. Như thức A-lạida là nhân của các pháp tạp nhiễm, các pháp tạp nhiễm cũng là nhân của thức A-lại-da. Chỉ như vậy mới thành lập nghĩa nhân duyên, ngoài ra không có nghĩa nhân duyên nào khác.

Vì sao huân tập thì không khác không xen tạp, mà có thể làm nhân cho các pháp có khác biệt có xen tạp?

Như tấm vải áo được nhuộm. Lúc mới nhuộm tuy chưa có gì khác biệt đa dạng, nhưng khi nhuộm xong thì màu sắc, đường nét, hoa văn hiển hiện. Thức A-lại-da cũng vậy. Các pháp được huân tập là đa dạng, trong khi huân tập tuy chưa thấy được các dạng tướng, nhưng khi sinh quả thì hiện thành vô số phẩm loại dị tạp.

Các pháp duyên khởi hiển hiện như thế trong Đại thừa lả rất sâu xa vi tế. Nếu nói sơ lược có 2 thứ duyên khởi: một là phân biệt tự tính duyên khởi, hai là phân biệt ái phi ái duyên khởi.

Trong đây các pháp y chỉ thức A-lại-da mà sinh khởi là phân biệt tự tính duyên khởi, vì có thể phân biệt các tự tính làm tính của của duyên.

Duyên khởi lại được phân tích làm 12 chi, gọi là phân biệt ái phi ái duyên khởi, vì đối với nẻo thiện nẻo ác có thể phân biệt các tự thể là ái hay phi ái làm tính của duyên.

Trong thức A-lại-da, nếu ngu mê duyên khởi thứ nhất, thì hoặc phân biệt tự tính cho là nhân, hoặc chấp túc tác là nhân, hoặc chấp tự tại biến hóa là nhân, hoặc chấp thật ngã là nhân, hoặc chấp cho là không có nhân không có duyên. Nếu ngu mê duyên khởi thứ hai, thì chấp cái ngã là kẻ tạo tác, cái ngã là kẻ nhận chịu. Ví như có nhiều người mù bẩm sinh chưa từng thấy con voi. Có người đem voi đến nói cho chúng biết. Những người mù kia người sờ được cái vòi, người sờ được ngà, người sờ tai, người sờ chân, người sờ đuôi, người sờ lưng. Có người hỏi con voi hình dáng như thế nào, người thì đáp con voi như cái chuôi cày, người nói như cái chày, , người nói như cái rổ, người nói như cái cối, người nói như cây chổi, người nói như đá núi. Nếu không hiểu rõ hai duyên khởi này thì cũng như người mù vô minh vậy. Hoặc chấp tự tính là nhân, hoặc chấp thật ngã là nhân, hoặc chấp không nhân không duyên, hoặc chấp cái ngã là kẻ tạo tác, cái ngã là kẻ lãnh chịu. Nhân tính và quả tính của tự tính thức A-lạida như tự tính con voi mà những người mù không biết.

Nếu nói sơ lược thì thức A-lại-da là thức dị thục. Tất cả chủng tử là tự tính của nó và có thể bao gồm tất cả tự thể, tất cả các nẻo trong 3 cõi. Ở đây có 5 bài tụng như sau:

Trong ngoài không hiểu rõ,

Thế tục và thắng nghĩa.

Chủng tử có 6 thứ,

Sát-na diệt, câu hữu,

Hằng tùy chuyển nên biết.

Quyết định, đợi các duyên,

Chỉ năng dẫn tự quả.

Kiên, vô ký, khả huân,

Tương ưng với năng huân.

Sở huân chẳng phải khác,

Đó là tướng huân tập.

Sáu thức không tương ưng,

Ba sai biệt khác nhau.

Trước sau không câu hữu,

Đồng loại thành sai lầm.

Các chủng tử ngoài trong,

Có năng sinh , năng dẫn.

Như cây khô, người chết,

Thời gian sau mới dứt.

Để làm rõ chủng tử trong, chẳng phải như chủng tử ngoài, ở đây có 2 bài tụng như sau:

Ngoài, hoặc không huân tập,

Chẳng phải như ở trong.

Đa văn huân tập không,

Sinh quả, là phi lý.

Làm: mất, không làm: được,

Mâu thuẫn nên thành lỗi.

Chủng tử ngoài, duyên trong,

Là do kia huân tập.

Lại nữa những chuyển thức khác, phổ biến khắp tất cả tự thể trong các nẻo gọi là thức thụ dụng. Như trong Luận Trung Biên Phân Biệt, có bài tụng nói như sau:

Một là nhân duyên thức,

Hai là thụ dụng thức.

Trong đây năng thụ dụng,

Phân biệt với tâm hành.

Như vậy hai thức lại làm duyên cho nhau, như trong Kinh Đại Thừa A-tì-đạt-ma, có bài tụng như sau:

Các pháp với tàng thức,

Như tàng thức với pháp.

Thường làm quả cho nhau,

Cũng làm nhân cho nhau.

Nếu trong duyên khởi thứ nhất, 2 thức làm nhân duyên cho nhau, thì trong duyên khởi thứ hai, duyên gì là tăng thượng duyên? Như vậy thì 6 thức được bao nhiêu duyên sinh ra?

Do tăng thượng duyên, sở duyên duyên và đẳng vô gián duyên. Như vậy 3 thứ duyên khởi là cùng sinh tử, ái phi ái thú và năng thụ dụng có đủ cả 4 duyên.

Như vậy là đã an lập các tướng và tự tướng sai biệt của thức A-lại-da. Nhưng làm sao biết là tự tướng sai biệt và tướng ấy quyết định chỉ ở thức A-lại-da mà không ở các chuyển thức?

Bởi vì nếu xa lìa cái thức A-lại-da đã được an lập thì tạp nhiễm và thanh tịnh không thành. Nghĩa là phiền não tạp nhiễm, nghiệp tạp nhiễm, sinh tạp nhiễm không thành thì thế gian thanh tịnh, xuất thế gian thanh tịnh cũng không thành.

Vì sao phiền não tạp nhiễm không thành?

Vì các phiền não và tùy phiền não do huân tập thành chủng tử, nếu nói ở trong 6 thức thân thì không hợp lý. Bởi vì sao? Nếu nói nhãn thức với tham v.v…phiền não và các tùy phiền não cùng sinh cùng diệt, thì chủng tử là do nhãn thức này và các phiền não tùy phiền não kia huân tập chứ không do gì khác. Vậy nếu nhãn thức này đã diệt rồi, các thức khác xen vào huân tập, thì chỗ sở y của huân tập không thể có được. Như vậy khi các thức khác xen vào thì thức trước hiện không có thật thể. Như vậy nói nhãn thức cùng với tham v.v… cùng sinh là không hợp lý. Bởi vì nhãn thức kia đã thuộc quá khứ, hiện tại không còn thật thể. Như nói cái nghiệp từ quá khứ, hiện không còn thật thể mà sinh quả dị thục là không hợp lý. Lại nữa nói nhãn thức với tham v.v…cùng sinh nên có huân tập cũng không đúng. Nhưng sự huân tập này không y nơi tham vì tham dục kia là năng y, không kiên trụ, cũng không thể nói trụ ở các thức khác vì các thức khác có sở y riêng biệt, và cũng không quyết định cùng sinh cùng diệt, cũng không thể trụ nơi tự thể được vì tự thể kia quyết định không có cùng sinh cùng diệt. Cho nên nói nhãn thức với tham v.v… các phiền não và tùy phiền não có sự huân tập là không hợp lý, mà thức này cũng không phải do thức khác huân tập. Nên biết rằng nhãn thức như vậy thì các chuyển thức khác cũng vậy.

Lại nữa, từ các cõi trên như trời Vô tưởng chết rồi sinh xuống cõi này, bấy giờ các phiền não và tùy phiền não nhiễm cái thức ban đầu, cái thức này lúc phát sinh đúng ra phải không có chủng tử, vì chỗ y chỉ và những gì thức kia được huân tập đã thành quá khứ, hiện tại không còn thật thể.

Lại nữa, cái thức đối trị phiền não nếu sinh thì tất cả các thức thế gian đều diệt. Bấy giờ nếu tách rời thức A-lại-da mà nói các chủng tử phiền não và tùy phiền não ở trong thức đối trị là không hợp lý, vì tự tính của thức đối trị là giải thoát, nó không cùng sinh diệt với các phiền não và tùy phiền não. Rồi sau đó cái thức thế gian sinh ra lại. Bấy giờ nếu tách rời thức A-lại da thì các thức huân tập và chỗ y chỉ đã thành quá khứ từ lâu, hiện không còn thật thể thì cái thức thế gian được sinh lại, phải không có chủng tử. Vì vậy cho nên nếu tách rời thức A-lại-da thì mọi phiền não tạp nhiễm đều không thành.

Vì sao nghiệp tạp nhiễm không thành?

Vì hành là tương ưng duyên với thức, nếu không có thức A-lạida này thì thủ duyên hữu cũng không phù hợp.

Vì sao sinh tạp nhiễm không thành?

Vì kết sinh liên tục không hợp lý. Như có người, không phải ở trong định, khi chết sinh về cõi này, ở trong thân trung hữu, khởi ý thức nhiễm ô, kết sinh liên tục, cái ý thức nhiễm ô ấy ở thân trung hữu diệt thì thành cái thức hòa hợp với Yết-la-lam trong thai mẹ. Như vậy tức là ý thức hòa hợp với Yết-la-lam kia, sau khi hòa hợp rồi thì y chỉ vào thức này, trong thai mẹ có ý thức khác chuyển sinh. Nếu vậy tức phải có 2 ý thức đồng thời chuyển sinh trong thai mẹ. Lại nữa, cái thức cùng với Yết-la-lam hòa hợp kia là ý thức thì không hợp lý, vì y vào nhiễm ô, vì thời gian không gián đoạn, vì sở duyên của ý thức không có. Giả sử cái thức hòa hợp là ý thức thì cái ý thức hòa hợp ấy tức là y chỉ của nhất thiết chủng tử thức, hay thức này sinh các ý thức khác nên gọi là nhất thiết chủng tử thức? Nếu cái thức hòa hợp này là nhất thiết chủng tử thức thì đó tức là thức A-lại-da mà ông dùng tên khác gọi là ý thức. Nếu năng y chỉ thức là nhất thiết chủng tử thức, như vậy tức là sở y nhân thức, chứ không phải nhất thiết chủng tử thức năng y quả thức là nhất thiết chủng tử thức. Vậy là không hợp lý. Cho nên cái thức hòa hợp được thành lập này chẳng phải là ý thức, mà đó là dị thục thức, là nhất thiết chủng tử thức.

Lại nữa sau khi kết sinh liên tục rồi, nếu không có thức dị thục thì sự chấp thụ sắc căn cũng không thể có được. Vì các thức khác đều có chỗ sở y riêng biệt và không kiên trụ. Các sắc căn không thể tách rời thức.

Nếu không có thức dị thục thì thức và danh sắc nương tựa vào nhau mà chuyển như đám cây lau tựa vào nhau mà đứng cũng không thành.

Nếu tách rời thức dị thục thì loài hữu tình sinh ra rồi sẽ không tồn tại bằng thức thực. Bởi vì sao? Bởi vì trong 6 thức , tùy lấy một thức nào cũng không thể làm việc thức thực cho hữu tình đã sinh trong 3 cõi.

Nếu từ cõi này chết, chính khi thụ sinh ở các cõi trên, do không phải ý thức nhiễm ô cõi trên kết sinh tương tục, nó không phải tâm nhiễm ô của cõi trên. Đây không phải tâm nhiễm ô cõi trên nên lìa thức dị thục thì không có được thể của một chủng tử nào khác.

Lại nữa, sinh cõi Vô sắc nếu lìa thức dị thục tất cả chủng tử, thì sẽ không có chủng tử thiện tâm ô nhiễm, thiện tâm ô nhiễm không có chỗ nương tựa và duy trì.

Lại nữa, ở cõi Vô sắc kia, khi tâm xuất thế hiện tiền thì các tâm thế gian diệt hết. Bấy giờ đáng lẽ lại phải diệt và rời khỏi cõi Vô sắc kia.

Nếu sinh Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Vô sở hữu xứ, khi tâm xuất thế gian hiện tiền thì hai cõi ấy đều phải diệt và rời khỏi. Cái thức xuất thế gian này không lấy Phi tưởng phi phi tưởng xứ làm cõi sở y, cũng không lấy Vô sở hữu xứ làm cõi sở y, cũng không phải Niết-bàn là cõi sở y.

Lại nữa người khi sắp chết, do tạo thiện tạo ác, thân thể sẽ lạnh dần từ dưới lên hoặc từ trên xuống. Nếu không tin có thức A-lại-da thì sự thể như vậy không thể có được. Vì vậy nếu không có thức dị thục tất cả chủng tử thì tạp nhiễm trong đời này cũng không thành.

Vì sao sự thanh tịnh của thế gian không thành?

Nghĩa là người chưa lìa bỏ cái tham dục ràng buộc với cõi Dục, chưa được cái tâm gắn bó với cõi Sắc thì lấy cái thiện tâm ràng buộc với cõi Dục làm cái ham muốn gắn bó với sự lìa dục mà siêng năng gia công tu hành. Vì cái tâm tu hành ràng buộc với cõi Dục và cái tâm gắn bó với cõi Sắc không cùng sinh cùng diệt, nên không phải được kia huân tập và nói là chủng tử của kia là không hợp lý. Lại nữa, cái tâm gắn bó với cõi Sắc nhiều đời trong quá khứ bị các tâm khác xen cách không thể làm chủng tử cho cái định tâm ngày nay, vì không còn nữa. Vì vậy nên làm thành định tâm gắn bó với cõi Sắc, quả thức dị thục tất cả chủng tử lần lượt truyền lại làm nhân duyên cho hiện nay, còn cái thiện tâm gia hạnh tu hành thì làm duyên tăng thượng. Phải biết lìa dục trong tất cả các địa đều như vậy. Như vậy là thanh tịnh thế gian. Nếu lìa thức dị thục thì tất cả chủng tử sẽ không thành.

Vì sao thanh tịnh xuất thế gian không thành?

Nghĩa là như Thế Tôn nói, y theo lời nói từ người khác và trong tâm tác ý đúng như lý, do đó làm nhân sinh ra chính kiến.

Cái tác ý đúng như lý do lời nói từ người khác là huân tập vào nhĩ thức hay huân tập vào ý thức hay huân tập cả hai?

Nếu tư duy pháp ấy đúng như lý thì bấy giờ nhĩ thức không khởi, ý thức cũng bị các thứ tán động của các thức khác xen vào, nếu khi tương ưng sinh khởi cùng với cái tác ý đúng như lý thì cái ý thức được sự nghe huân tập và sự huân tập kia đã diệt thành quá khứ chắc chắn không còn thật thể, làm sao còn làm chủng tử để sinh ra cái tâm tương ưng với tác ý đúng lý sau này?

Lại nữa cái tương ưng với tác ý đúng lý này là tâm thế gian, còn cái tương ưng với chính kiến là tâm xuất thế, hai cái chưa từng có lần cùng sinh cùng diệt. Vì vậy cái tâm này không phải do cái tâm kia huân tập. Đã không bị huân tập mà nói là chủng tử của tâm kia là không hợp lý. Cho nên thanh tịnh xuất thế, nếu lìa quả thức dị thục tất cả chủng tử , cũng không thành. Vì trong đây cái nghe, huân tập, nhiếp thụ không tương ưng với chủng tử kia.

Lại nữa, vì sao quả thức dị thục tất cả chủng tử là nhân tạp nhiễm, lại có khả năng đối trị xuất thế, còn chủng tử tịnh tâm kia lại là tâm xuất thế, vì từ xưa chưa từng huân tập nên chắc chắn kia không huân tập. Đã không huân tập thì từ chủng tử nào sinh ra?

Vì vậy nên trả lời rằng do chủng tử huân tập bởi chính văn, từ pháp giới rất thanh tịnh đẳng lưu sinh ra.

Cái văn huân tập này là tự tính của thức A-lại-da hay chẳng phải tự tính của thức A-lại-da? Nếu là tự tính của thức A-lại-da thì vì sao là chủng tử đối trị A-lại-da? Nếu không phải tự tính của A-lại-da thì làm sao thấy được chỗ sở y của chủng tử văn huân tập, cho đến chứng được Bồ-đề của chư Phật?

Cái văn huân tập này tùy chuyển ở một chỗ sở y, trú ngụ trong thức dị thục và hòa hợp cùng chuyển như nước với sữa. Nhưng nó không phải là thức A-lại-da vì nó là chủng tử có tính đối trị với A-lạida. Trong đây do huân tập bậc thấp thành huân tập bậc trung, do huân tập bậc trung thành huân tập bậc cao vì do nghe, suy nghĩ và tu tập mà đa phần thành tựu do tu tập. Lại nữa phải biết chủng tử của chính văn huân tập bậc thấp, bậc trung, bậc cao đều là chủng tử của pháp thân, trái nghịch với thức A-lại-da, và không bao gồm trong thức A-lại-da. Bởi vì nó là tính đẳng lưu của pháp giới rất thanh tịnh xuất thế gian. Tuy là thế gian mà có tính của chủng tử tâm xuất thế. Lại nữa cái tâm xuất thế này tuy khi chưa sinh, đã có công năng đối trị các phiền não trói buộc, có công năng đối trị các nẻo hiểm ác, có khả năng đối trị làm hủ mục các ác nghiệp, lại có thể tùy thuận phụng sự tất cả chư Phật Bồ-tát. Phải biết tuy ở thế gian nhưng cũng là pháp thân đạt được của sơ nghiệp Bồ-tát, và đối với Thanh Văn Độc Giác chỉ mới là giải thoát thân.

Lại nữa cái huân tập này không phải là thức A-lại-da, mà thuộc về pháp thân và giải thoát thân. Nếu như sự huân tập này cứ tuần tự tăng dần từ bậc thấp đến bậc trung, bậc cao thì cũng như vậy quả thức dị thục tuần từ giảm dần tức chuyển cái sở y. Sở y của chủng tử đã chuyển hết rồi, tức quả thức dị thục và tất cả chủng tử chuyển đến không còn chủng tử nữa, tức tất cả chủng tử vĩnh viễn đã hết.

Lại nữa, thế nào gọi là như sữa với nước?

Nghĩa là không phải thức A-lại-da nhưng đồng một chỗ cùng chuyển với thức A-lại-da. Tất cả chủng tử thức A-lại-da hết thì tất cả chủng tử không phải thức A-lại-da tăng. Ví như con ngỗng uống sữa trong nước. Lại như thế gian khi lìa dục thì những huân tập không phải đẳng dẫn địa giảm dần và các huân tập thuộc đẳng dẫn địa tăng dần mà được chuyển y.

Lại nữa nhập Diệt tận định, thức không rời thân như Phật đã nói. Ở đây thức dị thục thành ra phải không rời thân, chứ không phải vì đối trị Diệt tận định này mà sinh.

Cũng không phải xuất định thì thức này sinh trở lại. Do thức dị thục đã gián đoạn, đã lìa kết sinh tương tục nên không sinh lại.

Nếu có người chấp cho rằng vì có ý thức nên nói Diệt tận định có tâm thì cái tâm này không thành định vì không thể thành, vì không có hành tướng sở duyên, vì sẽ có lỗi tương ưng với thiện căn, vì bất thiện và vô ký thì không hợp lý, vì sẽ có lỗi hiện hành của tưởng và thụ, vì có xúc, vì có công năng đối với Tam-ma-địa, vì sẽ có cái lỗi chỉ diệt tưởng mà thôi, vì sẽ có cái lỗi hiện hành của các thiện căn như tư, tín v.v…, vì đánh bật năng y khiến lìa sở y là không hợp lý, vì có thí dụ, vì như đây không có phi biến hành.

Lại nữa do nói trong định này có ý thức nên chấp có tâm, thì tâm này là thiện, bất thiện hay vô ký đều không thành nên không hợp lý.

Nếu lại chấp sắc với tâm phát sinh không gián đoạn là chủng tử của các pháp thì không thành, như trước đã nói.

Lại nữa từ các cõi trời Vô sắc, Vô tưởng chết, từ Diệt tận định, Vô tưởng định xuất định thì sẽ không hợp lý. Lại nữa tâm sau cùng của A-la-hán không thành mà chỉ có thể chấp nhận là đẳng vô gián duyên.

Như vậy nếu lìa quả thức dị thục tất cả chủng tử thì tạp nhiễm và thanh tịnh đều không thành. Vì vậy như trước đã nói về tướng, thức A-lại-da quyết định là thật hữu. Ở đây có 3 bài tụng như sau:

Bồ-tát trong tịnh tâm,

Xa lìa khỏi năm thức.

Không các tâm chuyển y,

Thì lấy gì ra làm.

Nếu đối trị chuyển y,

Nếu chẳng đoạn, không thành.

Nhân quả không sai biệt,

Vĩnh đoạn thành sai lầm.

Không chủng tử, không thể,

Nếu cho là chuyển y,

Không hai kia, vì không,

Chuyển y thành phi lý.

Lại nữa, sai biệt của thức A-lại-da là như thế nào?

Nói tổng quát có 3 thứ hoặc 4 thứ. Trong đây 3 thứ tức 3 thứ huân tập sai biệt: một là danh ngôn huân tập sai biệt, hai là ngã kiến huân tập sai biệt, ba là hữu chi huân tập sai biệt; 4 thứ là: một là dẫn phát sai biệt, hai là dị thục sai biệt, ba là duyên tướng sai biệt, bốn là tướng mạo sai biệt.

Trong đây dẫn phát sai biệt là sự huân tập mới khởi. Nếu cái này không, thì hành duyên thức, thủ duyên hữu sẽ không thành. Dị thục sai biệt là do hành và hữu làm duyên nên có thức dị thục sai biệt trong các nẻo đường sinh tử. Nếu không có cái này thì không có chủng tử, sẽ không có các pháp phát sinh về sau. Duyên tướng sai biệt là cái tướng ngã chấp nơi ý. Nếu không có cái này thì trong ý ô nhiễm sẽ không có ngã chấp sở duyên. Tướng mạo sai biệt là thức này có tướng chung, có tướng không chung, có tướng chủng tử không thụ sinh và có tướng chủng tử thụ sinh. Tướng chung là chủng tử thế gian như cái đồ đựng. Tướng không chung là các chủng tử riêng biệt chứa đựng bên trong. Tướng chung tức chủng tử không thụ sinh. Tướng không chung tức chủng tử có thụ sinh. Khi có sự đối trị sinh khởi thì chỉ tướng không chung bị diệt, còn tướng chung thì được người khác duy trì nên chỉ thấy thanh tịnh. Như các sư Du-già, trong một vật có nhiều chỗ thấy và biết khác nhau. Ở đây có hai bài tụng như sau:

Khó diệt khó biết hết,

Nên gọi là cộng kết.

Sư Du-già bất đồng,

Do tướng ngoài rộng lớn.

Người thanh tịnh chưa diệt,

Mà vẫn thấy thanh tịnh.

Và cõi Phật thanh tịnh,

Do Phật thấy thanh tịnh.

Lại có bài tụng khác nói về các thấy biết khác nhau nói trên:

Các sư Du-già nơi một vật,

Có nhiều kiến giải không đồng nhau.

Các thứ kiến giải đều thành tựu,

Nên biết sở thủ chỉ có thức.

Nếu không có cái này thì sự sinh khởi sai biệt của khí thế gian và hữu tình thế gian sẽ không thành.

Lại có tướng thô nặng và tướng nhẹ nhàng. Tướng thô nặng là chủng tử của phiền não và tùy phiền não. Tướng nhẹ nhàng là chủng tử của thiện pháp hữu lậu. Nếu không có cái này thì sở cảm dị thục là không kham năng, còn cái kham năng sở y sai biệt thì không thành.

Lại có hữu thụ tận tướng và vô thụ tận tướng. Hữu thụ tận tướng là chủng tử thiện bất thiện đã thành quả báo dị thục. Vô thụ tận tướng là chủng tử danh ngôn huân tập, các thứ chủng tử hý luận trôi nổi từ vô thủy đến nay. Nếu không có cái này thì 2 nghiệp thiện ác đã tạo với quả báo thụ hết là không thành. Lại nữa sự sinh khởi các danh ngôn mới huân tập sẽ không thành.

Lại có các tướng thí dụ. Nghĩa là thức A-lại-da có những thí dụ như ảo hóa, sóng nắng, chiêm bao, đau mắt. Nếu không có cái này thì những chủng tử biến kế không thật điên đảo duyên tương ưng không thành.

Lại nữa có tướng đầy đủ, có tướng không đầy đủ. Nghĩa là đầy đủ các trói buộc gọi là tướng đầy đủ. Lìa dục thế gian gọi là tướng tổn giảm. Hàng Thanh Văn hữu học và các Bồ-tát đã đánh bật vĩnh viễn một phần các tướng. A-la-hán, Độc Giác là hoàn toàn vĩnh viễn đánh bạt các tướng phiền não chướng, và chư Như Lai là hoàn toàn vĩnh viễn đánh bạt các tướng phiền não sở tri. Thích ứng đúng như vậy. Nếu không cái này thì sự tạp nhiễm và hoàn diệt tuần tự như trên sẽ không thành.

Vì nhân duyên gì các pháp thiện bất thiện có thể cảm dị thục trong khi quả dị thục là vô phú vô ký?

Vì do quả dị thục là vô phú vô ký, không mâu thuẫn với thiện hoặc bất thiện, nên không trái chống với thiện hay bất thiện. Nếu tính của quả dị thục là thiện hay bất thiện thì tác dụng tạp nhiễm hay hoàn diệt sẽ không thành. Vì vậy nên thức dị thục chỉ là vô phú vô ký.

QUYỂN THƯỢNG HẾT

Pages: 1 2 3