LUẬN NHIẾP ĐẠI THỪA
Vô Trước Bồ-tát tạo luận
Chân Đế Tam tạng dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN HẠ

Nhập nhân quả tu sai biệt thắng tướng 5

Như vậy là đã nói về nhập nhân quả thắng tướng.

Thế nào là nhập nhân quả tu sai biệt?

Đây là do 10 địa, tức 10 thứ bậc tu chứng của Bồ-tát. Mười địa là những gì? 1. Hoan hỷ địa, 2. Vô cấu địa, 3. Minh diệm địa, 4. Thiêu nhiên địa, 5. Nan thắng địa, 6. Hiện tiền địa, 7. Viễn hành địa, 8. Bất động địa, 9. Thiện tuệ địa 10. Pháp vân địa.

Làm sao biết nghĩa của sự thành lập 10 địa này?

Là vì đối trị 10 thứ vô minh chướng ngại ở các địa. Có 10 thứ vô minh che chắn, nên 10 tướng của pháp giới không hiển lộ được.

Những gì là 10 tướng có khả năng làm hiển lộ pháp giới? Ở địa đầu tiên, do nghĩa phổ biến khắp tất cả nên biết pháp giới. Ở địa thứ hai do nghĩa tối thắng, ở địa thứ ba do nghĩa thắng lưu, ở địa thứ tư do nghĩa không nhiếp thụ, ở địa thứ năm do nghĩa tiếp nối không khác, ở địa thứ sáu do nghĩa không nhiễm tịnh, ở địa thứ bảy do nghĩa các pháp không sai biệt, ở địa thứ tám do nghĩa không tăng giảm, ở địa thứ chín do nghĩa định tự tại y chỉ, độ tự tại y chỉ, trí tự tại y chỉ, ở địa thứ mười do nghĩa nghiệp tự tại y chỉ, do Đà-la-ni môn, Tam-ma-đề môn tự tại y chỉ, nên biết pháp giới. Ở đây có bài kệ như sau:

Nghĩa biến khắp, tối thắng,

Thắng lưu và không nhiếp,

Không khác, không nhiễm tịnh,

Các pháp không sai biệt,

Không tăng giảm bốn thứ,

Nghĩa tự tại y chỉ,

Nghiệp tự tại y chỉ,

Tổng trì, Tam-ma-đề.

Nên biết đây là 2 bài kệ trong Luận Trung Biên Phân Biệt. Lại nữa nên biết vô minh này đối với Nhị thừa thì không phải nhiễm ô nhưng đối với Bồ-tát đó là nhiễm ô.

Vì sao địa đầu tiên gọi là Hoan hỷ? Vì do mới có được công năng làm lợi ích cho mình và người. Vì sao địa thứ hai tên là Vô cấu? Vì ở địa này xa lìa hết mọi sự vi phạm nhơ bẩn đối với giới Bồ-tát. Vì sao địa thứ ba gọi là Minh diệm? Vì do không thoái chuyển Tamma-đề và y chỉ Tam-ma-bạt-đề, y chỉ ánh sáng chính pháp. Vì sao địa thứ tư gọi là Thiêu nhiên? Vì do các pháp trợ Bồ-đề có khả năng đốt cháy tất cả chướng ngại. Vì sao địa thứ năm gọi là Nan thắng? Vì khiến tương ưng nhau hai trí chân và tục thường trái nghịch khó kết hợp. Vì sao địa thứ sáu gọi là Hiện tiền? Vì do 12 nhân duyên sinh trí y chỉ, có khả năng làm Bát-nhã Ba-la-mật hiển hiện trước mắt. Vì sao địa thứ bảy gọi là Viễn hành? Vì ở địa vị này, Bồ-tát đã đi đến giới hạn cuối cùng của hạnh có dụng công. Vì sao địa thứ tám gọi là Bất động? Vì công dụng của tất cả các tướng và tác ý đều không còn hoạt động. Vì sao địa thứ chín gọi là Thiện tuệ? Vì y chỉ nơi trí tuệ và biện tài vô ngại vượt trội. Vì sao địa thứ mười gọi là Pháp vân? Vì duyên cảnh chung, biết tất cả pháp, tất cả Đà-la-ni và Tam-ma-đề môn là bao trùm tất cả như mây trong hư không che trùm các chướng ngại, có thể viên mãn pháp thân.

Làm sao biết được tướng các địa?

Biết được do 4 thứ tướng: Một là do đã được tướng tín lạc. Tức đối với mỗi địa mỗi địa quyết định sinh tin và yêu thích. Hai là do đã được tướng chính hành. Tức được cùng các địa tương ưng với 10 pháp chính hành. Ba là do đã được tướng thông đạt. Tức trước ở địa đầu tiên khi thông suốt chân như pháp giới thì đều có thể thông suốt tất cả địa. Bốn là đã được tướng thành tựu. Tức tu hành đã đến chỗ cứu cánh của 10 địa này.

Làm sao biết chư Bồ-tát tu như thế nào đối với tướng của các địa?

Trước hết trong mỗi địa mỗi địa chư Bồ-tát tu tập Xa-ma-tha và Tì-bát-xá-na. Mỗi thứ đều tu tập 5 tướng mới thành. Những gì là 5? Một là tu tập chung tất cả. Hai là tu vô tướng. Ba là tu không dụng công. Bốn là tu với tất cả sự mạnh mẽ. Năm là tu không cảm thấy đủ. Nên biết ở tất cả các địa đều có 5 pháp tu này. Năm pháp tu này sinh ra 5 quả. Những gì là 5? Một là mỗi sát-na có thể hoại diệt tất cả chỗ dựa của các pháp thô nặng. Hai là có được pháp lạc, có thể thoát ra khỏi các thứ loạn tưởng. Ba là có thể thấy mọi nơi, vô lượng, tướng không phân biệt, của ánh sáng thiện pháp. Bốn là tướng phân biệt các pháp, chuyển thành phần thanh tịnh, thường xuyên liên tục sinh, làm thành tựu viên mãn pháp thân. Năm là ở trong thượng phẩm, chuyển tăng làm nhân duyên tụ họp cho thượng thượng phẩm.

Ở trong 10 địa, Bồ-tát theo thứ tự tu 10 Ba-la-mật. Ở 6 địa trước có 6 Ba-la-mật như đã nói. Ở 4 địa sau có 4 Ba-la-mật. Một là Âu-hòa-câu-xá-la Ba-la-mật. Đây là công đức thiện căn do 6 Bala-mật sinh ra và nuôi lớn. Tất cả đem thí cho chúng sinh một cách bình đẳng, hồi hướng cho tất cả chúng sinh đến vô thượng Bồ-đề. Hai là Ba-ni-tha-na Ba-la-mật. Pháp ba-la-mật này có thể dẫn phát tất cả các nguyện, cảm đến sinh duyên Lục độ đời vị lai. Ba là Bà-la Ba-la-mật. Tức do năng lực tư duy lựa chọn và năng lực tu tập làm cho các Ba-la-mật có sức đối trị, có thể liên tục sinh trưởng không gián đoạn. Bốn là Nhã-na Ba-la-mật. Ba-la-mật này có khả năng thành lập trí của 6 Ba-la-mật trước, có thể khiến chư Bồ-tát được thụ pháp lạc trong Đại pháp hội và thành thục chúng sinh. Nên biết 4 Ba-la-mật sau này là phần đạt được sau của trí vô phân biệt, tóm thâu tất cả Ba-la-mật. Và trong tất cả các địa không tu tập đồng thời. Nên biết các nghĩa của pháp môn này được hiển thị rộng từ trong Kinh Ba-la-mật Tạng.

Qua bao nhiêu thời gian chính hành tu tập, 10 địa được viên mãn?

Có 5 hạng người tu hành trong 3 A-tăng-kì kiếp thì viên mãn. Hoặc cũng có 7 A-tăng-kì kiếp, hoặc 33 A-tăng-kì kiếp.

Năm hạng người là những người nào?

Người tu hành nguyện, mãn 1 A-tăng-kì kiếp. Người tu hành thanh tịnh ý, người tu hành hữu tướng, người tu hành vô tướng, trong địa thứ 6 đến địa thứ 7, mãn A-tăng-kì kiếp thứ hai. Từ đây về sau người tu hành vô công dụng, cho đến địa thứ 10, mãn A-tăng-kì kiếp thứ ba.

Lại nữa thế nào là 7 A-tăng-kì kiếp?

Địa tiền có 3 địa, giữa có 4 địa. Trước 3 đó là: một Bất định A-tăng-kì, hai Định A-tăng-kì, ba Thụ ký A-tăng-kì. Giữa có 4 đó là: một Y thật đế A-tăng-kì, hai Y xả A-tăng-kì, ba Ytịch tĩnh A-tăng-kì, bốn Y trí tuệ A-tăng-kì.

Lại nữa thế nào là 33 A-tăng-kì?

Đó là, trong Phương tiện địa có 3 A-tăng-kì: 1. Tín hành A-tăngkì, 2. Tinh tiến hành A-tăng-kì, 3. Thú hướng hành A-tăng-kì. Trong 10 địa, mỗi địa mỗi địa đều có 3 A-tăng-kì là Nhập, Trụ và Xuất. Trải qua các A-tăng-kì tu hành 10 địa như vậy thì chính hành viên mãn.

Có thiện căn, nguyện lực,

Kiên tâm, tiến, tăng thượng.

Ba thứ A-tăng-kì,

Là chính hành thành tựu.

Y giới học thắng tướng 6

Như vậy là đã nói về nhập nhân quả tu sai biệt.

Thế nào là y giới học sai biệt?

Nên biết như được nói trong Phẩm: Bồ-tát địa chính thụ Bồ-tát giới. Nói đại lược có 4 thứ sai biệt về giới Bồ-tát. Những gì là 4? 1. Sai biệt về phẩm loại, 2. Sai biệt về chỗ học có chung và không chung, 3. Sai biệt về sự rộng lớn, 4. Sai biệt về tính sâu xa.

Sai biệt về phẩm loại có 3 thứ: 1. Giới nhiếp chính hộ, 2. Giới nhiếp thiện pháp, 3. Giới nhiếp lợi ích chúng sinh. Trong đây nên biết giới nhiếp chính hộ là y chỉ vào 2 giới: giới nhiếp thiện pháp là y chỉ Phật pháp mà sinh khởi, giới nhiếp lợi ích chúng sinh là y chỉ vào sự làm thành thục chúng sinh. Giới về chỗ học chung là giới Bồ-tát phải xa lìa tính tội. Giới về chỗ không học chung là giới Bồ-tát phải xa lìa các chế tội được lập ra. Trong giới này hoặc có trường hợp với Thanh Văn thì có tội nhưng với Bồ-tát thì không tội. Hoặc có trường hợp với Bồ-tát thì có tội nhưng với Thanh Văn thì không tội.

Bồ-tát có 3 phẩm đối trị thân, miệng và ý làm giới. Thanh Văn chỉ có đối trị thân và miệng làm giới. Vì vậy Bồ-tát có phạm tội nơi tâm địa. Còn Thanh Văn thì không có chuyện này.

Nếu nói đại lược các nghiệp về thân, miệng, ý có thể tạo lợi ích cho chúng sinh mà không có tội lỗi thì đó là những nghiệp mà Bồtát phải học tập và tu hành. Như vậy là phải biết sự sai biệt giữa giới chung và không chung.

Sai biệt về rộng lớn, có 4 thứ cần phải biết, vì đó là 4 thứ rộng lớn: 1. Rộng lớn vì học xứ có nhiều loại và nhiều vô lượng, 2. Rộng lớn vì có thể gồm thâu vô lượng phúc đức, 3. Rộng lớn vì gồm thâu tất cả những gì làm an lạc lợi ích chúng sinh, 4. Rộng lớn vì là chỗ dựa để đi đến vô thượng Bồ-đề.

Sai biệt về tính sâu xa là Bồ-tát do thực hành trí phương tiện thù thắng mà làm 10 việc như sát sinh v.v…mà không nhiễm ô trược tội lỗi, sinh vô lượng phúc đức, mau được quả vô thượng Bồ-đề, lại còn có các biến hóa nơi thân khẩu nghiệp. Nên biết đó là giới sâu xa của Bồ-tát. Do giới này có khi Bồ-tát ở ngôi vị quốc vương, hoặc hiện các hình thức bức bách làm khổ não, để đặt chúng sinh vào trong giới luật, hoặc hiện các chuyện bản sinh, làm bức bách khổ não người khác và bị bức não đối oán, để khiến chúng thương yêu nhau, an tâm làm việc lợi ích. Trước tiên làm cho chúng phát khởi tín tâm, sau khiến chúng thành thục thiện căn trong ba thừa Thánh đạo. Đó gọi là giới sai biệt sâu xa của Bồ-tát.

Do 4 thứ sai biệt đây, nên biết đó là nói sơ lược về Bồ-tát trì giới sai biệt. Lại nữa do 4 thứ sai biệt này lại còn có số sai biệt không thể tính kể của giới Bồ-tát, như có nói trong Kinh Tì-na-da-cù-sa Tìphật-lược.

Y tâm học thắng tướng 7

Như vậy là đã nói về y giới học sai biệt.

Thế nào là y tâm học sai biệt?

Nói sơ lược là do 6 thứ sai biệt. Những gì là 6? 1.Cảnh sai biệt, 2.Chủng loại sai biệt, 3.Đối trị sai biệt, 4.Tùy dụng sai biệt, 5.Tùy dẫn sai biệt, 6.Sự sai biệt.

Cảnh sai biệt là do duyên pháp Đại thừa làm cảnh mà khởi.

Chủng loại sai biệt là như Đại thừa quang, Tập phúc đức vương Tam-ma-đề, Hiền hộ Tam-ma-đề, Thủ-lăng-già-ma Tam-ma-đề v.v… gồm thâu các thứ phẩm loại Tam-ma-đề.

Đối trị sai biệt là do duyên tất cả pháp làm cảnh chung của trí tuệ. Như dùng một cây nêm để làm phương tiện lấy cây nêm khác ra. Như rút tất cả các chướng thô trọng trong bản thức ra vậy.

Tùy dụng sai biệt là trong đời hiện tại an lạc trụ trong Tam-mađề đã lâu, có thể tùy ý thụ sinh nơi thắng xứ.

Tùy dẫn sai biệt là có thể dẫn xuất vô ngại các thứ thần thông trong tất cả thế giới.

Do sự sai biệt là khiến phát ra ánh sáng đầy khắp, thị hiện chuyển biến đi về, xa làm gần, chuyển thô thành tế, biến tế thành thô, khiến tất cả sắc đều nhập vào trong thân, tựa như đồng loại nhập vào trong đám đông, hoặc hiện hoặc ẩn, đủ 8 thứ tự tại chống lại thần lực của người khác, hoặc làm cho người khác có tài hùng biện và nghĩ nhớ niềm vui, hoặc phóng ra ánh sáng có khả năng dẫn xuất đủ các tướng đại thần thông, có thể hướng dẫn tất cả các chính hạnh khó làm, vì có thể gồm thâu 10 thứ chính hạnh khó tu.

Mười thứ chính hạnh khó tu ấy là những gì? Một là tự nhận lấy những điều khó tu, vì tự nhận thiện nguyện Bồ-đề. Hai là không thể tránh thoát những điều khó tu, do các khổ sinh tử không làm thoái chuyển. Ba là không làm trái những điều khó tu, do đối trị các chúng sinh chuyên làm ác. Bốn là những điều khó tu trước mắt, như kẻ thù oán mà vẫn phải làm tất cả những việc lợi ích cho họ. Năm là khó tu không ô nhiễm, nghĩa là Bồ-tát sinh trong thế gian, không bị pháp thế gian làm ô nhiễm. Sáu là khó tu tín lạc, nghĩa là thực hành Đại thừa sâu thẳm, mà có thể tin và yêu thích nghĩa lý rộng sâu. Bảy là khó tu thông đạt, vì khó thông suốt được nhân và pháp cả hai là vô ngã. Tám là khó tu tùy giác, tức đối với các kinh không liễu nghĩa sâu xa của chư Phật Như Lai, có thể phán đoán đúng như lý. Chín là khó tu vì không lìa bỏ mà không nhiễm, tức không bỏ sinh tử mà không bị sinh tử làm nhiễm ô. Mười là khó tu gia hành, như chư Phật Như Lai giải thoát tất cả chướng, trụ trong chỗ không dụng công, có thể làm việc lợi ích tất cả chúng sinh, gia công tu hành cho đến tận cùng sinh tử.

Trong khó tu tùy giác có nói chư Phật Như Lai nói kinh không liễu nghĩa. Ý ấy như thế nào?

Nghĩa là Bồ-tát phải tùy theo lý, quán sát mà hiểu. Như kinh nói: Thế nào là Bồ-tát không tốn một vật, không thí cho một người?

Là nếu Bồ-tát thực hành tốt việc bố thí vô lượng vô số, trong mười phương thế giới hạnh tu bố thí liên tục sinh khởi.

Thế nào là Bồ-tát thích làm việc bố thí?

Là nếu Bồ-tát không thích làm tất cả bố thí.

Thế nào là Bồ-tát hành tâm tín thí?

Là nếu Bồ-tát không hành tín tâm chư Phật Như Lai.

Thế nào là Bồ-tát phát hạnh bố thí?

Là nếu Bồ-tát đối với việc bố thí không tự mình sách tiến.

Thế nào là Bồ-tát hằng vui vẻ tự tại trong việc bố thí?

Là nếu Bồ-tát không có lúc bố thí.

Thế nào là Bồ-tát làm việc đại bố thí?

Là nếu Bồ-tát đối với bố thí lìa tưởng Sa-la.

Thế nào là Bồ-tát thanh tịnh đối với bố thí?

Là nếu Bồ-tát tham tiếc Uất-ba-đề..

Thế nào là Bồ-tát có thể trụ nơi bố thí?

Là nếu Bồ-tát không trụ cứu cánh sau cùng.

Thế nào là Bồ-tát tự tại đối với bố thí?

Là nếu Bồ-tát không được tự tại đối với bố thí.

Thế nào là Bồ-tát vô tận đối với thí?

Là nếu Bồ-tát không trụ trong vô tận, như Thí Kinh nói. Đối với giới cho đến Bát-nhã đúng lý nên biết như vậy.

Lại có kinh nói:

Thế nào là Bồ-tát hành sát sinh?

Là nếu Bồ-tát có thân mạng, chúng sinh đoạn dứt sự tương tục ấy.

Thế nào là Bồ-tát đoạt lấy, không phải được người cho.

Là nếu Bồ-tát tự đoạt lấy, không phải người khác và chúng sinh.

Thế nào là Bồ-tát hành tà dâm?

Là nếu Bồ-tát khởi ý tà đối với dục trần v.v… Thế nào là Bồ-tát có thể nói vọng ngữ?

Là nếu Bồ-tát là vọng thì có thể nói là vọng.

Thế nào là Bồ-tát nói hai lưỡi?

Là nếu Bồ-tát thường trụ nơi không tịch cùng cực.

Thế nào là Bồ-tát có thể trụ Ba-lưu-sư?

Là nếu Bồ-tát trụ sở tri bỉ ngạn.

Thế nào là Bồ-tát có thể nói lời không tương ưng?

Là nếu Bồ-tát có thể phân phá các pháp, tùy loại giải thích.

Thế nào là Bồ-tát hành A-tì-trì-ha-lâu?

Là nếu Bồ-tát thường thường khiến tự thân được các định vô thượng.

Thế nào là Bồ-tát khởi tâm ganh ghét làm hại?

Là Bồ-tát đối với tâm địa mình và người có thể làm hư hại các hoặc.

Thế nào là Bồ-tát khởi tà kiến?

Là nếu Bồ-tát như lý quán sát khắp các nơi hành tà tính.

Lại có kinh nói:

Phật pháp rất sâu. Rất sâu như thế nào?

Trong luận này tự phân biệt rộng:

-Tất cả Phật pháp, thường trú là tính, vì pháp thân thường trú.

-Tất cả Phật pháp đều đoạn là tính, vì tất cả chướng đều đoạn hết. -Tất cả Phật pháp, sinh khởi là tính, vì hóa thân hằng sinh khởi.

-Tất cả Phật pháp, năng đắc là tính, vì năng đắc cùng hành với đối trị 8 vạn 4 ngàn phiền não của chúng sinh.

-Tất cả Phật pháp, hữu dục là tính, vì chúng sinh hữu dục yêu thích giữ lấy khiến thành tự thể.

-Tất cả Phật pháp, có sân giận là tính.

-Tất cả Phật pháp, có si là tính.

-Tất cả Phật pháp, phàm phu là tính.

-Tất cả Phật pháp, không nhiễm trước là tính, vì thành tựu chân như, tất cả chướng không thể nhiễm.

-Tất cả Phật pháp, không thể nhiễm trước. Chư Phật xuất hiện ra đời, chẳng có pháp thế gian nào có thể nhiễm.

Vì vậy nói Phật pháp là rất sâu. Vì tu hành Ba-la-mật. Vì thành thục chúng sinh. Vì thanh tịnh cõi Phật. Vì dẫn khởi và thâu giữ tất cả Phật pháp. Bồ-tát nên biết nghiệp Tam-ma-đề sai biệt.

Y tuệ học thắng tướng 8

Như vậy là đã nói về y định học sai biệt.

Thế nào là nên biết về y tuệ học sai biệt?

Là do tự tính của trí vô phân biệt, như y chỉ tướng mạo cảnh giới duyên khởi, lập cứu nạn, nhiếp trì, trợ bạn, quả báo, đẳng lưu, xuất ly, cứu cánh, hành thiện, gia hành, công đức trí vô phân biệt, trí hậu đắc, gia hành không sai biệt, trí vô phân biệt hậu đắc, thí dụ, uy đức, không công dụng, tác sự, nghĩa sâu xa. Vì vậy phải biết y tuệ học sai biệt.

Do y tuệ học sai biệt, phải biết trí vô phân biệt sai biệt. Tự tính của trí vô phân biệt là phải biết lìa 5 thứ tướng. Năm tướng là: 1.Lìa phi tư duy, 2.Lìa chỗ phi giác quán, 3.Lìa diệt tưởng thụ định vắng lặng, 4. Lìa tự tính của sắc, 5.Trong nghĩa chân thật, lìa phân biệt khác. Đó là 5 tướng tách rời khỏi trí. Phải biết đó là trí vô phân biệt. Những điều nói đây là tính của trí vô phân biệt. Cho nên có bài kệ như sau:

Tự tính các Bồ-tát,

Tách rời năm thứ tướng.

Tính trí vô phân biệt,

Chân như vô phân biệt.

Y chỉ các Bồ-tát,

Phi tâm, phi phi tâm.

Là trí vô phân biệt.

Chẳng thuộc loại tư lường.

Nhân duyên các Bồ-tát,

Có nói nghe huân tập,

Là trí vô phân biệt.

Như lý chính tư duy.

Cảnh giới các Bồ-tát,

Là pháp tính ly ngôn.

Là trí vô phân biệt.

Chân như , hai vô ngã.

Tướng mạo các Bồ-tát,

Ở trong cảnh chân như,

Là trí vô phân biệt.

Không tướng, không sai biệt.

Tương ưng nghĩa tự tính,

Sở phân biệt, chẳng khác.

Chữ chữ kết hợp nhau,

Làm thành nghĩa tương ưng.

Trí tuệ ly ngôn thuyết,

Đối sở tri không khởi.

Không giống như ngôn thuyết,

Tất cả đều ly ngôn.

Nhiếp trì của Bồ-tát,

Là trí vô phân biệt.

Hành trì hậu đắc này,

Làm sinh trưởng cứu cánh.

Trợ bạn của Bồ-tát,

Là nói ra 2 đạo.

Là trí vô phân biệt.

Của 5 ba-la-mật.

Quả báo của Bồ-tát,

Hai Phật hội viên mãn.

Là trí vô phân biệt,

Do gia hành đạt tới.

Quả đẳng lưu Bồ-tát,

Sinh trong các đời sau.

Là trí vô phân biệt,

Do lần lần tăng lên.

Chư Bồ-tát xuất ly,

Vì được thành tương ưng.

Là trí vô phân biệt,

Nơi 10 địa nên biết.

Chư Bồ-tát cứu cánh,

Do được tịnh 3 thân.

Là trí vô phân biệt,

Được tự tại tối thượng.

Như hư không chẳng nhiễm,

Trí vô phân biệt này,

Các thứ ác nghiệp nặng,

Nhờ tín lạc được chuyển.

Như hư không thanh tịnh,

Trí vô phân biệt này,

Giải thoát tất cả chướng,

Do được và thành tựu.

Như hư không chẳng nhiễm,

Là trí vô phân biệt,

Nếu xuất hiện ra đời,

Pháp thế gian chẳng nhiễm.

Như người câm muốn biết,

Như người câm có biết,

Như người không câm biết,

Ba trí ví như vậy.

Như người ngu muốn biết,

Như người ngu có biết,

Như người không ngu biết,

Ba trí ví như vậy.

Như 5 thức muốn biết,

Như 5 thức được biết,

Như ý thức được biết,

Ba trí ví như vậy.

Như chưa biết muốn biết,

Như khi đọc được biết,

Như biết được ý nghĩa,

Ba trí ví như vậy.

Như người lúc nhắm mắt,

Vô phân biệt cũng vậy,

Như người lúc mở mắt,

Trí hậu đắc cũng vậy.

Hư không vô phân biệt,

Không nhiễm ngại khác bên,

Như hư không sắc hiện,

Trí hậu đắc cũng vậy.

Như Ma-ni, trống trời,

Vô tư thành tự sự.

Không phân biệt như thế,

Các thứ Phật sự thành.

Chẳng phải đây mà đây,

Chẳng phải trí mà trí.

Với cảnh không sai biệt,

Trí là vô phân biệt.

Phật nói tất cả pháp,

Tự tính không phân biệt.

Sở phân biệt: không,

Vô phân biệt cũng không.

Trong đây có 3 thứ vô phân biệt: 1.Gia hành vô phân biệt, 2.Trí vô phân biệt, 3.Hậu trí vô phân biệt.

Gia hành vô phân biệt có 3 thứ là do nhân duyên, dẫn thông và sức tập nhiều lần mà sinh khởi sai biệt.

Trí vô phân biệt cũng có 3 thứ là biết đủ, không điên đảo và không hý luận. Đó là sai biệt của vô phân biệt. Trí vô phân biệt hậu đắc có 5 thứ là thông đạt, ức trì, thành lập, tương tạp và như ý hiển thị sự sai biệt để thành lập trí vô phân biệt. Lại nói kệ như sau:

Ngạ quỷ, súc sinh, người,

Chư thiên, tùy thích ứng.

Một cảnh do tâm khác,

Mà thành cảnh giới kia.

Trong quá khứ, vị lai,

Như hai ảnh chiêm bao.

Trí duyên cảnh phi hữu,

Đây không chuyển làm cảnh.

Nếu trần thành ra cảnh,

Không trí vô phân biệt.

Như vậy không Phật quả,

Không có chuyện như thế.

Bồ-tát được tự tại,

Do thực thi nguyện lực,

Muốn gì cũng như ý,

Người được định cũng vậy.

Người thành tựu giản trạch,

Người có trí được định.

Trong tư duy các pháp,

Như nghĩa được hiện tiền.

Khi tu vô phân biệt,

Các nghĩa không hiển hiện.

Phải biết không có trần,

Do đó thức cũng không.

Trí vô phân biệt này tức là Bát-nhã Ba-la-mật. Khác tên mà nghĩa như nhau. Như kinh nói: Nếu Bồ-tát trụ Bát-nhã Ba-la-mật, do phi xứ tu hành có thể tu tập viên mãn các Ba-la-mật khác.

Thế nào là phi xứ tu hành có thể viên mãn các Ba-la-mật khác?

Nghĩa là lìa 5 chỗ: 1.Lìa chỗ chấp ngã của ngoại đạo, 2.Lìa chỗ phân biệt của Bồ-tát chưa thấy chân thật, 3.Lìa hai đối lập của sinh tử và Niết-bàn, 4.Lìa ý tưởng chỉ diệt trừ hoặc chướng là đủ, 5.Lìa chỗ trụ vô dư Niết-bàn không thấy việc lợi ích chúng sinh.

Trí tuệ Thanh Văn với trí tuệ Bồ-tát khác biệt nhau thế nào?

Phải biết khác biệt là do không phân biệt uẩn và các pháp môn, do chẳng phải một phần, mà khác biệt về thông suốt hai không chân như, nhập vào tướng nhất trí sở tri, y chỉ vào tất cả việc lợi ích chúng sinh, do không trụ nơi sai biệt, mà trụ ở Niết-bàn vô trụ xứ, do thường khác biệt về Niết-bàn vô dư, không rơi vào đoạn diệt cùng tận, do khác biệt về nghĩa vô thượng, thật không có một thừa nào khác vượt hơn Đại thừa này. Ở đây có bài kệ như sau:

Do trí, 5 sai biệt,

Y đại bi tu phúc.

Phú lạc thế xuất thế,

Nói đây là chẳng xa.

Nếu trên thế gian này thật có Bồ-tát thì cũng có thể biết được. Nếu Bồ-tát y vào giới đinh tuệ học, nhóm họp công đức, nên có 10 thứ tự tại, đối với tất cả việc lợi tha có khả năng đạt được sự thù thắng vượt trội.

Trong thế gian, làm sao thấy chúng sinh gặp khổ nạn nặng?

Do Bồ-tát thấy chúng sinh kia tạo nghiệp có thể cảm khổ báo, chướng ngại quả vui thù thắng. Do Bồ-tát thấy thế, nếu thí cho chúng điều kiện an vui thì sẽ chướng ngại việc phát sinh thiện pháp. Do Bồtát thấy chúng không an vui thì có thể hiện ra cảnh chán ghét sinh tử. Do Bồ-tát thấy nếu thí cho chúng sự an vui thì đó là nhân duyên làm hại bao nhiêu vô lượng chúng sinh khác.

Cho nên chẳng phải Bồ-tát không có năng lực làm được như vậy. Và trong thế gian cũng có hiển hiện những chúng sinh như vậy.

Ở đây có bài kệ như sau:

Thấy nghiệp chướng ngại thiện,

Hiện ra điều chán ghét.

Sợ hại chúng sinh kia,

Mà Bồ-tát chẳng thí.

Học quả tịch diệt thắng tướng 9

Như vậy là đã nói về y tuệ học sai biệt.

Thế nào là tịch diệt sai biệt? Chư Bồ-tát diệt hoặc, tức là Niếtbàn vô trụ xứ. Tướng ấy như thế nào?

Lìa bỏ hoặc và không lìa bỏ sinh tử. Chuyển y hai chỗ dựa làm tướng. Trong đây sinh tử là tính y tha, một phần bất tịnh phẩm làm thể. Niết-bàn là tính y tha, một phần tịnh phẩm làm thể.

Còn bản y là tính y tha, gồm đủ hai phần tịnh phẩm và bất tịnh phẩm. Chuyển y là tính y tha lúc khởi lên sự đối trị. Do phần bất tịnh phẩm thì luôn luôn biến đổi bản tính. Do phần tịnh phẩm thì luôn luôn thành bản tính. Chuyển y này, nếu nói đại lược có 6 thứ: Một là chuyển y bằng cách tăng thêm sức mạnh làm tổn giảm năng lực. Nghĩa là do sức mạnh của tùy tín, lạc vị trụ, văn, huân tập, lại thêm có sự hổ thẹn, làm cho phiền não tổn giảm, hiện hành yếu ớt hoặc vĩnh viễn không hiện hành.

Hai là chuyển y do sự thông suốt. Nghĩa là các Bồ-tát đã đăng địa, do chân thật hư vọng hiển hiện làm năng lực chuyển từ sơ địa đến địa thứ sáu.

Ba là chuyển y bằng sự tu tập. nghĩa là người chưa lìa chướng thì tất cả các tướng không hiển hiện chân thật. Y hiển hiện thì đây chuyển từ địa thứ bảy đến địa thứ mười.

Bốn là chuyển y bằng quả viên mãn. Nghĩa là người đã lìa chướng thì tất cả tướng không hiển hiện, thanh tịnh chân thật hiển hiện đến được tất cả tướng tự tại.

Năm là chuyển hạ liệt. Nghĩa là do Thanh Văn thông suốt nhân vô ngã cho nên cứ một mực nghịch sinh tử mà vĩnh viễn lìa bỏ sinh tử.

Sáu là chuyển một cách rộng lớn. Nghĩa là Bồ-tát thông suốt pháp vô ngã, quán công đức vắng lặng cho nên là xả bỏ mà không xả bỏ.

Nếu Bồ-tát chuyển vị thành thấp kém thì có lỗi gì?

Lỗi không quán sát sự lợi ích chúng sinh, xa lìa pháp Bồ-tát, chỉ được giải thoát như những kẻ hạ thừa thấp kém.

Các Bồ-tát nếu chuyển vị ở chuyển y rộng lớn thì có công đức gì?

Đó là ở trong pháp sinh tử, do tự chuyển y làm chỗ dựa nên được tự tại. Trong tất cả các nẻo đường sinh tử , có thể hiện tất cả thân hình. Trong sự giàu có lạc thú thế gian và trong ba thừa, do phương tiện giáo hóa thù thắng có thể an lập chúng sinh vào trong chính giáo. Đó là công đức của chuyển y rộng lớn. Ở đây có bài kệ như sau:

Phàm phu, chân thật che, Còn hư vọng hiển lộ.

Bồ-tát chỉ một bề,

Bỏ hư, hiển chân thật.

Không hiển hiện, hiển hiện,

Hư vọng và chân thật,

Là Bồ-tát chuyển y,

Giải thoát được như ý.

Với sinh tử, Niết-bàn,

Nếu như khởi trí tuệ,

Sinh tử tức Niết-bàn,

Hai, không có đây kia.

Cho nên với sinh tử,

Không bỏ, không không bỏ.

Với Niết-bàn cũng vậy,

Không được, không không được.

Trí sai biệt thắng tướng 10

Như vậy đã nói về tịch diệt sai biệt.

Thế nào là nên biết trí sai biệt?

Do Phật có ba thân nên biết trí sai biệt. Ba thân là tự tính thân, thụ dụng thân và biến hóa thân.

Tự tính thân là pháp thân của chư Như Lai. Y chỉ tự tại đối với các pháp.

Thụ dụng thân là các cõi quốc độ của chư Phật, hiển hiện nơi y chỉ của bậc giác ngộ. Thụ dụng thân này lấy pháp thân làm y chỉ, là cõi thanh tịnh của chư Phật, là nhân thụ dụng thụ lạc pháp Đại thừa.

Biến hóa thân là lấy pháp thân làm y chỉ, từ trời Đâu-suất-đà hiện thân thụ sinh, thụ học, thụ dục trần, xuất gia, đến tu khổ hạnh với ngoại đạo, chứng vô thượng Bồ-đề, chuyển pháp luận, nhập Đại Niết-bàn các việc.

Chư Phật Như Lai có tướng pháp thân như thế nào?

Nếu nói sơ lược có 5 thứ. Ở đây có nói bài kệ Uất-đà-na như sau:

Tướng, chứng đắc, tự tại,

Y chỉ và nhiếp trì,

Sai biệt, đức, rất sâu,

Phật thân niệm, nghiệp, rõ.

Năm tướng là: Một là pháp thân chuyển y làm tướng. Tức tất cả chướng và phần bât tịnh phẩm, tính y tha diệt rồi, giải thoát tất cả chướng, được tự tại đối với tất cả pháp, là phần tính thanh tịnh, tính y tha chuyển y làm tướng.

Hai là pháp bạch tịnh làm tướng. Nghĩa là do Lục độ viên mãn, nơi pháp thân được 10 thứ tự tại làm tướng. Những gì là mười? 1.Thọ mạng tự tại, 2.Tâm tự tại, 3.Của cải tự tại, ba tự tại này do Thí độ viên mãn mà thành tựu, 4.Nghiệp tự tại, 5.Sinh tự tại, hai tự tại này do Giới độ viên mãn mà thành tựu, 6.Dục lạc tự tại, đây do Nhẫn độ viên mãn mà thành tựu, 7.Nguyện tự tại, do Tinh tiến độ viên mãn mà thành tựu, 8.Thông tuệ tự tại, đây gồm trong ngũ thông, do Định độ viên mãn mà thành tựu, 9.Trí tự tại, 10.Pháp tự tại, hai tự tại này do Bát-nhã Ba-la-mật viên mãn mà được thành tựu.

Ba là không hai làm tướng, do không có hai tướng có không, tất cả pháp là vô sở hữu, không tướng chẳng không làm tướng. Lại nữa hữu vi vô vi không hai làm tướng, vì chẳng phải hoặc nghiệp họp lại sinh ra, do được tự tại có thể hiển hiện làm tướng. Lại nữa, một khác không hai làm tướng, vì chư Phật Như Lai y chỉ không khác, do vô lượng y chỉ có thể chứng. Ở đây có bài kệ như sau:

Vì không còn ngã chấp,

Trong không có y khác.

Như trước nhiều y chứng

Giả nói là chẳng một.

Tính hành khác, chẳng rỗng,

Viên mãn không có đầu.

Vì chẳng một, không khác,

Chẳng nhiều, y chân như.

Bốn là thường trụ làm tướng. Nghĩa là vì chân như thanh tịnh, vì nguyện xưa dẫn phát rất mạnh, vì việc đúng phải làm chưa rốt ráo.

Năm là không thể nghĩ bàn làm tướng. Vì chân như thanh tịnh chỉ có trí tự chứng mới biết, không có thí dụ, chẳng phải chỗ thực hành giác quán.

Lại nữa pháp thân này làm sao chứng đắc?

Được từ tiếp xúc đầu tiên, do duyên tạp tướng của Đại thừa làm cảnh. Trí vô phân biệt, trí vô phân biệt hậu đắc tu 5 tướng thành thục, ở tất cả các địa khéo tập họp tư lương, có thể phá các chướng vi tế khó phá. Kim cương thí Tam-ma-đề tức sau Tam-ma-đề này diệt lìa tất cả chướng. Lúc bấy giờ do y chỉ chuyển thành chứng đắc.

Pháp thân này trong đó có bao nhiêu tự tại được tự tại?

Nói đại lược trong đó có 5 tự tại được tự tại:

Tự tại thứ nhất là Tịnh độ, hiển thị tự thân, tướng hảo, âm thanh vô biên, vô kiến đỉnh tướng, do y chuyển sắc uẩn.

Tự tại thứ hai là không mất vô lượng đại an lạc trụ, do chuyển y thụ uẩn.

Tự tại thứ ba là chính thuyết tất cả danh, cú văn thân, do chuyển y sự chấp tướng sai biệt của tưởng uẩn.

Tự tại thứ tư là biến hóa, cải đổi, dẫn nhiếp đại hội, dẫn nhiếp bạch tịnh phẩm, do sự chuyển y của hành uẩn.

Tự tại thứ năm là hiển rõ trí bình đẳng, trí diệu quan sát, trí thành sở tác, do chuyển y thức uẩn.

Pháp thân này y chỉ bao nhiêu pháp?

Nếu nói đại lược chỉ có ba. Đó là chỗ y chỉ các trụ xứ của chư Phật Như Lai. Ở đây có bài kệ như sau:

Chư Phật Như Lai năm tính hỷ,

Đều do đẳng chứng pháp giới tính.

Nhị thừa không có do không chứng,

Muốn được thì phải chứng Phật giới.

Do hay vô lượng làm Phật sự,

Do pháp mỹ vị muốn được thành.

Đạt được tối thắng mà không mất,

Chư Phật hằng thấy bốn vô tận.

Các thứ thụ dụng thân y chỉ là thiện căn thành thục chư Bồtát. Các thứ hóa thân y chỉ là nhiều thiện căn thành thục Thanh Văn, Độc Giác.

Có bao nhiêu thứ Phật pháp gồm trong pháp thân này?

Nếu nói đại lược có 6 thứ:

Một là pháp thanh tịnh do chuyển y thức A-lê-da, do chứng được pháp thân.

Hai là quả báo, do chuyển y hữu sắc căn, do chứng được quả báo thắng trí.

Ba là trụ loại, do chuyển y thụ hành dục trần, do trụ vô lượng trí tuệ.

Bốn là tự tại, do chuyển y các nghiệp, thâu nhiếp bình đẳng tự tại, do trí lục thông tự tại vô ngại trong tất cả mười phương thế giới.

Năm là ngôn ngữ, do chuyển y ngôn ngữ của tất cả sự thấy nghe hay biết, do trí tuệ tự tại có thể nói đúng đắn khiến thỏa mãn tất cả tâm chúng sinh.

Sáu là cứu tế, do chuyển y ý cứu giúp tất cả tai họa lỗi lầm, do trí tuệ tự tại cứu giúp tai họa lỗi lầm tất cả chúng sinh.

Như thế 6 pháp này được gồm thâu trong pháp thân chư Phật Như Lai.

Pháp thân chư Phật có thể nói là có sai biệt hay không sai biệt?

Do chỗ y chỉ, ý lạc, dụng nghiệp thì không khác, nên phải biết là không sai biệt. Nhưng do về sự, có vô lượng chính giác, nên phải biết là có sai biệt.

Như pháp thân, thụ dụng thân cũng vậy, do y chỉ nghiệp không khác nên phải biết là không sai biệt. Không do y chỉ sai biệt nên không sai biệt, vì vô lượng y chỉ chuyển y. Nên biết ứng hóa thân như thụ dụng thân.

Pháp thân này tương ưng với bao nhiêu công đức?

Tương ưng với 4 vô lượng cực kỳ thanh tịnh, với 8 giải thoát, 8 chế, 8 thập nhất thiết nhập, vô tránh Tam-ma-đề, nguyện, trí, 4 vô ngại giải, 6 thông tuệ, 32 tướng của đại nhân, 80 tiểu tướng, 4 thứ nhất thiết tướng thanh tịnh, 10 lực, 4 vô úy, 4 vô hộ, 3 niệm xứ, nhổ trừ tập khí, pháp không quên mất, đại bi, 18 pháp không chung, các pháp tương ưng tất cả tướng tối thắng trí v.v…Ở đây có bài kệ như sau:

Đại bi với chúng sinh,

Lìa các ý trói buộc.

Ý không lìa chúng sinh,

Kính lễ ý lợi lạc.

Giải thoát tất cả chướng,

Hàng phục người thế trí.

Trí tuệ biến mãn khắp,

Kính lễ tâm giải thoát.

Các chúng sinh không sót,

Diệt trừ hết hoặc chướng.

Hại, hoặc có nhiễm ô,

Kính lễ thường xót thương.

Không dụng công, không chấp,

Không ngại, thường vắng lặng.

Chúng sinh có vấn nạn,

Kính lễ vì giải thích.

Năng y và sở y,

Ngôn ngữ và trí tuệ,

Giảng giải không trở ngại,

Kính lễ đấng đạo sư.

Tùy ngôn ngữ âm thanh,

Đi về rồi xuất ly.

Chứng biết các chúng sinh,

Kính lễ bậc giáo hóa.

Các chúng sinh tôn trọng,

Tin kính Vô thượng sĩ.

Do thấy được năng sinh,

Kính lễ tâm thanh tịnh.

Tiếp thụ, giữ và bỏ,

Biến hóa và thay đổi.

Được định trí tự tại,

Kính lễ đấng Thế Tôn.

Phương tiện, quy y, tịnh,

Trong các chúng sinh chướng.

Pháp Đại thừa xuất ly,

Kính lễ đấng phá ma.

Trí diệt và xuất ly,

Nói rõ các chướng sự.

Mình người đều được lợi,

Kính lễ đấng phá tà.

Không cấm không lỗi lầm,

Không ô nhiễm không trụ.

Với các pháp, không động,

Kính lễ không hý luận.

Giảng thuyết điều phục chúng,

Xa lìa hai hoặc chướng.

Không giữ không quên mất,

Kính lễ đấng nhiếp hóa.

Vì sự nghiệp lợi tha,

Thế Tôn không chờ thời.

Việc làm không trống rỗng,

Kính lễ đấng không mê.

Trong tất cả cử động,

Đều tròn đủ trí tuệ.

Biến khắp cả ba đời,

Kính lễ đấng thật thể.

Ngày đêm sáu thời quán,

Chúng sinh trong các cõi.

Tương ưng tâm đại bi,

Kính lễ đấng lợi lạc.

Do tu và do chứng,

Do trí và do nghiệp,

Hơn tất cả Nhị thừa,

Kính lễ đấng cao tột.

Ba thân rất tôn quý,

Đủ tướng Vô thượng giác.

Tất cả pháp nếu nghi,

Kính lễ đấng năng trừ.

Không buộc, không lỗi lầm,

Không thô trược, không trụ,

Đối các pháp không động,

Kính lễ không hý luận.

Pháp thân chư Phật không phải chỉ thường xuyên tương ưng với các công đức này mà còn tương ưng với các công đức khác như tự tính, nhân quả, nghiệp, hành sự. Cho nên phải biết pháp thân chư Phật có công đức vô thượng. Ở đây có bài kệ như sau:

Phật thành tựu chân như,

Tu vượt khỏi các địa.

Đến địa vị vô đẳng,

Giải thoát các chúng sinh.

Công đức là vô tận,

Tương ưng hiện thế gian.

Nơi tam luận dễ hiện,

Trời người chẳng ai bằng.

Lại nữa pháp thân Như Lai là rất sâu xa, cực kỳ xâu xa. Làm sao thấy được chỗ sâu xa này? Ở đây có bài kệ như sau:

Phật không sinh mà sinh,

Bởi không trụ mà trụ.

Việc làm không dụng công,

Thụ thực: pháp thứ tư.

Không khác, khác vô lượng,

Vô số cũng là một.

Nghiệp rất chắc, không chắc,

Vô thượng ứng ba thân.

Không một pháp hiểu được,

Không pháp nào không hiểu.

Mỗi một niệm vô lượng,

Hiển hiện có không có.

Không dục, không lìa dục,

Y dục được xuất ly.

Biết dục là không dục,

Ngộ nhập dục như pháp.

Chư Phật vượt năm uẩn,

Mà trụ trong năm uẩn.

Uẩn chẳng một chẳng khác,

Không xả uẩn Niết-bàn.

Chư Phật sự tướng hòa,

Như nước trong biển lớn.

Việc ta đã nên làm,

Thì không nghĩ chuyện khác.

Thế Tôn không xuất hiện,

Như bình vỡ không trăng.

Phổ biến khắp thế gian,

Pháp sáng như mặt trời.

Hoặc hiện Đẳng chính giác,

Hoặc như lửa Niết-bàn.

Hai pháp thật chẳng có,

Vì chư Phật thường trú.

Như Lai đối việc ác,

Trong nhân loại, nẻo ác,

Đối pháp phi phạm hạnh,

Trụ tự thể tối thắng.

Phật hiện hành khắp nơi,

Không hiện hành nơi nào.

Hiện tất cả loài sinh,

Không cảnh giới sáu căn.

Các hoặc đã diệt hết,

Như bị các chú độc.

Từ hoặc đến hết hoặc,

Phật chứng nhất thiết trí.

Biến hoặc thành giác phần,

Sinh tử là Niết-bàn.

Được thành phương tiện lớn,

Nên Phật khó nghĩ bàn.

Do nghĩa này nên biết có 12 sự sâu xa, tức là sự sâu xa về sinh, không trụ, nghiệp trụ, về an lập số nghiệp, về chính giác, về ly dục, về uẩn diệt, về thành thục, về hiển hiện, về Bồ-đề Bát-niết-bàn hiển hiện, về trụ, về hiển tự thể, về diệt hoặc, về không thể nghĩ bàn.

Các Bồ-tát duyên pháp thân, nghĩ nhớ đến Phật. Sự nghĩ nhớ này duyên bao nhiêu tướng?

Nếu lược nói về Bồ-tát y pháp thân, tu tập niệm Phật, có 7 tướng. Những gì là bảy? Một là chư Phật hoàn toàn tự tại trong tất cả pháp, nên tu tập như vậy. Chư Phật có 6 trí thông vô biên vô ngại trong tất cả thế giới. Cho nên ở đây có bài kệ như sau:

Đủ chướng nhân không đủ,

Tất cả cõi chúng sinh.

Trụ trong hai thứ định,

Chư Phật không tự tại.

Hai là thân Như Lai thường trú, do chân như giải thoát tất cả cấu uế không gián đoạn.

Ba là Như Lai rất mực không tội lỗi, vì vĩnh viễn lìa xa tất cả hoặc chướng và trí chướng.

Bốn là việc làm của Như Lai là vô công dụng, vì thường do không khởi dụng công mà việc làm không bao giờ bỏ.

Năm là Như Lai ở địa vị rất phong phú an lạc, vì đó là tất cả cõi Phật rất mực thanh tịnh vi diệu.

Sáu là Như Lai rất mực không nhiễm trước, xuất hiện thế gian không bị tất cả pháp thế gian làm ô nhiễm. Như bụi trần không thể làm nhiễm hư không.

Bảy là Như Lai có sự nghiệp lớn trong thế gian, do hiện thành vô thượng Bồ-đề và Đại Bát-niết-bàn, chúng sinh chưa thành thục thì khiến cho thành thục, chúng sinh đã thành thục thì khiến được giải thoát. Ở đây có bài kệ như sau:

Tùy thuộc tâm Như Lai,

Viên đức thường không mất.

Thường làm vô công dụng,

Vui đại pháp cho đời.

Biến khắp không trở ngại,

Bình đẳng lợi nhiều người.

Tất cả tất cả Phật,

Người trí nghĩ như vậy.

Lại nữa cái tướng thanh tịnh của Tịnh độ của chư Phật Như Lai như thế nào?

Như trong Kinh Hoa Nghiêm có nói về duyên khởi Bồ-tát tạng như sau:

Phật Thế Tôn ở cung điện 7 báu trang nghiêm rực rỡ sáng chói khắp nơi, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp vô lượng thế giới , vô lượng cõi trang sức vi diệu, mỗi mỗi đều thành lập những khu vực rộng lớn không ước lượng đến đâu là biên giới, vượt quá ba cõi nơi được tạo thành bởi thiện pháp xuất thế gian, công năng sinh ra thanh tịnh tự tại cùng cực của duy thức làm tướng. Đó là nơi Như Lai đặt làm trụ xứ an lạc cho Bồ-tát. Là nơi có vô lượng rồng trời, Dạ-xoa, A-tu-la, Calâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, người, phi nhân v.v…hành trì hỷ lạc đại pháp vị. Là nơi có diệu dụng lợi ích tất cả chúng sinh, nơi xa lìa tất cả phiền não tai ương, nơi không không có tất cả các ma hoành hành, nơi trang nghiêm hơn tất cả, nơi sở y trang nghiêm của Như Lai, nơi lấy đại niệm, đại tuệ, đại hạnh làm xuất ly, nơi lấy đại Xama-tha, Tì-bát-xá-na làm thừa giáo, nơi vào cửa ngõ đại không, vô tướng, vô nguyện, giải thoát, nơi được trang nghiêm bằng nhóm hợp vô lượng công đức, nơi y chỉ của Đại liên hoa vương, nơi Như Lai ở trong lầu gác báu lớn. Đó là nơi nói lên sắc tướng và hình mạo viên mãn thanh tịnh của Tịnh độ này. Nhân quả, chủ trợ, quyến thuộc, trì nghiệp, lợi ích, vô bố úy, trụ xứ, lộ, thừa, môn, y chỉ, viên tịnh, những câu văn trên như thế đều hiển hiện sự viên tịnh.

Lại nữa thụ dụng Tịnh độ thanh tịnh như thế, hoàn toàn thanh tịnh, hoàn toàn an vui, hoàn toàn không sai lầm, hoàn toàn tự tại.

Lại nữa pháp giới chư Phật thường xuyên có 5 nghiệp:

Một là cứu vớt tai họa làm nghiệp, do chỉ hiện có thể diệt trừ các tai họa như đui, điếc, điên dại v.v…

Hai là cứu vớt đường dữ làm nghiệp. Nghĩa là cứu vớt ra khỏi chỗ hung dữ đưa đến nơi hiền lành.

Ba là cứu vớt những hành vi phi phương tiện làm nghiệp. Đó là các hành vi sai trái của của ngoại đạo, hàng phục họ đưa họ về với chính giáo của Phật.

Bốn cứu vớt các kiến chấp về thân làm nghiệp. Nghĩa là trao cho phương tiện thấy rõ Thánh đạo siêu thoát ba cõi.

Năm là cứu vớt bằng thừa giáo làm nghiệp. Nghĩa là như Bồtát có ý muốn nghiêng về một thừa khác, hay Thanh Văn chưa quyết định căn tính, thì an lập họ vào con đường tu hạnh Đại thừa.

Phải biết 5 năm nghiệp này chư Phật Như Lai đều đồng thực hiện như nhau.Ở đây có bài kệ như sau:

Nhân theo sự, ý và các hạnh,

Thế gian khác nên nghiệp cũng khác.

Năm nghiệp này chư Phật không khác,

Cho nên đời gọi đồng một nghiệp.

Nếu vậy Thanh Văn, Độc Giác không được các đức tướng này tương ưng với pháp thân chư Phật, vậy vì ý gì chư Phật nói về Nhất thừa?

Ý nói chư vị kia đều hướng đến Nhất thừa tức đồng với Phật thừa. Ở đây có bài kệ như sau:

Thanh Văn chưa định tính,

Và các Bồ-tát khác,

Dắt dẫn vào Đại thừa,

Định tính, nói Nhất thừa.

Pháp vô ngã giải thoát,

Đồng đẳng, tính không đồng.

Đắc hai ý Niết-bàn,

Cứu cánh nói Nhất thừa.

Nếu ba đời chư Phật đồng một pháp thân, sao số không như nhau? Ở đây có bài kệ như sau:

Trong một thế giới không có hai,

Đồng thời, nhân đó không thể lường.

Lần lượt thành Phật thì phi lý,

Vì vậy đồng thời có nhiều Phật.

Thế nào là pháp thân chư Phật chẳng phải hoàn toàn rốt ráo Niết-bàn, cũng chẳng phải chẳng hoàn toàn rốt ráo Niết-bàn? Ở đây có bài kệ như sau:

Do lìa tất cả chướng,

Vì việc làm chưa xong,

Phật rốt ráo Niết-bàn,

Khác thì không rốt ráo.

Vì sao thụ dụng thân không phải chính là tự tính thân?

Vì có 6 nguyên nhân: 1. Do sắc thân và thân hiện hành trông thấy. 2. Do thị hiện trong vô lượng đại tập hội khác nhau. 3. Do tùy ý kia muốn được trông thấy mà thị hiện, vì tự tính chúng không đồng nhau. 4. Do tự tính biến động nên trông thấy khác nhau. 5. Trong các đại tập hội gồm Bồ-tát, Thanh Văn, chư thiên v.v..nhiều tướng khác nhau họp lại, nên hiển hiện tướng khác nhau. 6. Do A-lê-da thức và các sinh khởi thức thấy chuyển y là phi lý, nên thụ dụng thân mà thành tự tính thân cũng phi lý.

Vì sao biến hóa thân không là tự tính thân?

Vì 8 nguyên nhân: 1. Chư Bồ-tát từ xa xưa đã được Tam-ma-đề không thoái chuyển nên thụ sinh nơi trời Đâu-suất-đà và sinh trong cõi người thì không đúng lý. 2. Các Bồ-tát từ xa xưa hằng nhớ đời trước, vậy văn chương tính toán kỹ nghệ v.v…cũng như hành trần dục, hưởng thụ trần dục mà Bồ-tát không biết là không đúng lý. 3. Các Bồ-tát từ xa xưa đến nay đã phân biệt hiểu biết tà giáo chính giáo mà còn đến theo học ngoại đạo là không đúng lý. 4. Các Bồ-tát từ xa xưa đến nay đã thông suốt chính lý Thánh đạo ba thừa mà vì khổ hạnh cầu đạo là không đúng lý. 5. Các Bồ-tát bỏ năm trăm câu-chi Diêm-phù-đề , mà chỉ ở một chỗ được vô thượng Bồ-đề và chuyển pháp luân là không hợp lý. 6. Nếu tách rời phương tiện hiển thị vô thượng Bồ-đề, chỉ dùng hóa thân làm Phật sự ở phương khác, vậy thì nên thành chính giác trên trời Đâu-suất-đà. 7. Nếu không như vậy thì tại sao Phật không xuất hiện bình đẳng trong tất cả Diêm-phù-đề? Nếu không xuất hiện nơi phương khác thì không có A-hàm hay đạo lý nào có thể chứng minh nghĩa này. 8. Hai Như Lai cùng xuất hiện trong một thế giới, đây cũng không trái, bởi nếu chấp nhận hóa thân thì sẽ thành nhiều. Do 4 thiên hạ gồm một thế giới, như Chuyển luân vương trong một thế giới hoặc một chủ, hoặc có chủ khác cùng sinh là không đúng lý. Chư Phật cũng vậy. Ở đây có bài kệ nói như sau:

Phật vi tế hóa thân,

Đa nhập thai bình đẳng.

Vì hiển đủ tướng giác,

Thị hiện nơi thế gian.

Có 6 thứ nhân, chư Thế Tôn không được vĩnh viễn trụ trong hóa thân: 1. Vì chính sự cứu cánh, bởi đã giải thoát thành thục chúng sinh. 2. Nếu đã được giải thoát cầu Bát-niết-bàn, vì khiến kia bỏ ý tưởng Bát-niết-bàn muốn cầu được Phật thân thường trú. 3. Vì trừ tâm khinh mạn của người kia đối với Phật, vì khiến kia thông suốt pháp chân như sâu xa và chính thuyết pháp. 4. Vì khiến chúng sinh đối với Phật thân khởi tâm khát vọng chiêm ngưỡng mãi không chán. 5. Vì khiến kia hướng về chính mình khởi cực tinh tiến, vì biết chính thuyết là không thể được. 6. Vì khiến kia sớm được địa vị thành thục, hướng về chính mình rất mực tinh tiến không bỏ gánh nặng. Ở đây có bài kệ như sau:

Do chính sự cứu cánh,

Vì trừ vui Niết-bàn,

Khiến không khinh mạn Phật,

Phát khởi tâm khát vọng,

Hướng về mình tinh tiến,

Và vì mau thành thục,

Đối chư Phật hóa thân,

Không rốt ráo thường trú.

Vì độ tất cả chúng sinh do phát nguyện và tu hành tìm cầu vô thượng Bồ-đề, rốt ráo Niết-bàn, điều này không đúng lý, vì bản nguyện và tu hành trái nhau không có quả.

Lại nữa, thụ dụng thân và biến hóa thân là vô thường, sao chư Phật lấy thường trú làm pháp thân?

Do ứng thân và hóa thân hằng y chỉ vào pháp thân. Do ứng thân không lìa bỏ. Do hóa thân thường hiện khởi, như thường thụ lạc, thường thi thực. Phải biết thường trú của hai thân là như vậy. Nếu pháp thân thời vô thủy không sai biệt, không số lượng, thì để được pháp thân không nên không dụng công. Ở đây có bài kệ như sau:

Chư Phật chứng đắc nhiều vô lượng.

Do chúng sinh.

Nếu bỏ siêng năng

Vĩnh viễn không thành nhân chứng đắc.

Đoạn trừ chính nhân là phi lý.

Tên Nhiếp Đại Thừa là trong Kinh A-tì-đạt-ma, Đại thừa tạng, giải thích xong./.

HẾT

Pages: 1 2 3