SỐ 1582/9
KINH BỒ TÁT THIỆN GIỚI
Hán dịch: Đời Lưu Tống, Đại sư Cầu Na Bạt Ma
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 1

Phẩm thứ 1: MỞ ĐẦU CỦA ĐỊA BỒ TÁT

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật trú tại khu vườn rừng Kỳ Đà – Cấp Cô Độc, nơi Tinh xá Tu-đạt-đa thuộc nước Xá-vệ, cùng với năm trăm Đại Tỳkheo Tăng hội đủ, Bồ-tát gồm một ngàn vị.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo vô lượng chư Đại Bồ-tát:

–Ai có thể ở trong đời ác về sau này thọ trì ủng hộ đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng? Ai có thể ủng hộ giáo pháp? Ai có thể giáo hóa tất cả chúng sinh?

Lúc ấy, Bồ-tát Di-lặc liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai phải, gối phải chấm đất, quỳ dài chấp tay bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể ở trong đời ác sau này xin thọ trì ủng hộ đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, có thể hộ trì chánh pháp, có thể giáo hóa chúng sinh.

Bồ-tát Sư Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con cũng có thể dùng các phương tiện để thâu giữ chúng sinh.

Bồ-tát Kim Cang thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sinh sẽ bị đọa vào ba đường ác, con có thể ngăn lại khiến không bị đọa lạc.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sinh mong cầu điều gì, con đều khiến tất cả được đầy đủ.

Bồ-tát Trí Tràng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể ban trí tuệ lớn cho chúng sinh.

Bồ-tát Pháp Tràng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể đem pháp ban khắp cho chúng sinh.

Bồ-tát Nhật Quang thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể ban mọi sự an lạc cho chúng sinh.

Bồ-tát Nguyệt Quang thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể giáo hóa tất cả chúng sinh khiến tu tập phước đức.

Bồ-tát Thiện Hộ thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể giáo hóa tất cả chúng sinh khiến họ không phóng dật.

Bồ-tát Vô Tận Ý thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể giáo hóa tất cả chúng sinh khiến được tri kiến vô tận.

Bồ-tát Nguyệt Tử thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể ban sự an lạc vô thượng cho tất cả chúng sinh.

Bồ-tát Thiện Nguyệt thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể ban nhân an lạc cho tất cả chúng sinh.

Bồ-tát Quan Thế Âm thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể cứu hộ cho những chúng sinh sợ hãi.

Bồ-tát Đắc Đại Thế thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến cho những người chưa độ đều được độ.

Bồ-tát Chúng Thiện thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến người chưa điều phục được điều phục.

Bồ-tát Thiện Ý thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sinh đọa trong đường súc sinh, con có thể giáo hóa khiến họ được điều phục.

Bồ-tát Bất Lạc thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể ban trí tuệ cho người ngu.

Bồ-tát Quang Tụ thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến cho kẻ hạ căn có được thượng căn.

Bồ-tát Bất Đế thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể chỉ bày chánh đạo cho kẻ cuồng loạn.

Bồ-tát Lạc Kiến thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể ban vô lượng an lạc cho vô lượng chúng sinh.

Bồ-tát Thích Tràng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến chúng sinh thọ khổ thường nhớ đến sự việc khổ.

Bồ-tát Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến chúng sinh trong đường ngạ quỷ xa lìa sự khổ về đói khát.

Bồ-tát Thánh Quang thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến người chưa điều phục được điều phục.

Bồ-tát Duy Ma Cật thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể phá tan tâm nghi ngờ của chúng sinh.

Bồ-tát Quang Minh thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể đóng kín cửa ba đường ác.

Bồ-tát Kim Cang Công Đức thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến các chúng sinh hiểu biết sai khác thành một sự hiểu biết.

Bồ-tát Vô Lượng Hạnh thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể ban đạo vô lậu cho chúng sinh.

Bồ-tát Vô Sở Úy thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể phá tan những sự sợ hãi.

Bồ-tát Bảo Công Đức thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể hiển bày tạng báu công đức cho tất cả chúng sinh.

Bồ-tát Thiện Ý thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể dùng lời vi diệu hòa nhã để điều phục chúng sinh.

Bồ-tát Tịnh Quang thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể đem sự thương yêu nhằm điều phục các chúng sinh.

Bồ-tát Bảo Hiền thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến tất cả chúng sinh nhớ đến đời quá khứ.

Bồ-tát Cao Quý Đức Quang thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến chúng sinh tinh tấn siêng tu.

Bồ-tát Thiện Công Đức thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến những chúng sinh khổ não đều được giải thoát.

Bồ-tát Bảo Thủ thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể ban các thứ báu cho vô lượng chúng sinh.

Bồ-tát Ý Châu thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể xua tan sự bần cùng của chúng sinh.

Bồ-tát Phá Kiết thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể diệt trừ mọi phiền não của chúng sinh.

Bồ-tát Kim Quang Minh thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể chỉ bày đạo chân thật cho chúng sinh tà vạy.

Bồ-tát Công Đức Sắc thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến chúng sinh ở các thừa đều trụ vào nhất thừa.

Bồ-tát Pháp Ý thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến chúng sinh được pháp nhãn.

Bồ-tát Kim Cang Tử thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể phá trừ mọi nghiệp ác của chúng sinh.

Bồ-tát Pháp Tăng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể thâu giữ chúng sinh đúng như pháp. Bồ-tát Vô Danh thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể khiến tất cả chúng sinh xa lìa ba độc.

Bồ-tát Nguyệt Thắng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể chỉ bày phương tiện thiện cho chúng sinh.

Bồ-tát Sư Tử Ý thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể đem pháp thí cho chúng sinh.

Bồ-tát Sư Tử Hống thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể phá tan lưới nghi của chúng sinh.

Bồ-tát Hương Tượng Vương thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con có thể ở trong đời ác về sau này chỉ bày cho chúng sinh tỉnh mộng khiến trừ hết phiền não.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất suy nghĩ: “Kỳ thay! Lạ thay! Việc của các Bồ-tát thật không thể nghĩ bàn” và bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như có Bồ-tát siêng năng tinh tấn tu tập đầy đủ phương tiện có thể tạo vô số lợi ích cho chúng sinh. Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát Ma-ha-tát như vậy, chúng sinh làm sao từ vị ấy để xin đầu, mắt, tủy, não, máu, thịt, cho đến các thứ cần dùng. Bạch Thế Tôn! Con nay biết chắc chắn người như vậy tức là Bồ-tát Ma-ha-tát.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Thật như lời ông nói, chỉ có các Bồ-tát mới biết Bồ-tát, thật chẳng phải cảnh giới của hàng Thanh văn, Duyên giác đạt đến. Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát Ma-ha-tát tuy hiện các thứ thần lực của Phật mà trọn không xả bỏ tâm Bồ-tát.

Này Xá-lợi-phất! Nếu có trưởng giả sinh tâm kiêu mạn, Bồ-tát liền hiện tướng trưởng giả để phá trừ tâm kiêu mạn kia. Cho đến Nala-diên và người đoan nghiêm có tâm kiêu mạn, Bồ-tát liền hiện các thân ấy để phá bỏ sự kiêu mạn. Nếu chứng đắc Thánh pháp thì dùng Đại thừa để chỉ bày. Vì sao? Vì lìa một pháp giải thoát ấy lại không có pháp giải thoát khác, nên gọi là Như Lai.

Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát tại gia tu tập hai thứ thí: Một là pháp thí. Hai là tài thí. Bồ-tát xuất gia tu tập bốn thứ thí: Một là bút thí. Hai là mực thí. Ba là kinh thí. Bốn là thuyết pháp thí. Bồ-tát xuất gia thành tựu đầy đủ bốn thứ thí này rồi, có thể điều phục tâm, phá trừ kiêu mạn và tu tập nhẫn nhục.

Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát xuất gia có đủ nhẫn nhục thì có thể thọ trì giới cấm của Bồ-tát, lại đầy đủ ba thứ bố thí mới có thể thọ trì giới cấm của Bồ-tát: Một là thí. Hai là đại thí. Ba là vô thượng thí. Thí: Nghĩa là đối với vật lớn bằng bốn thiên hạ còn không tiếc lẫn huống hồ là vật nhỏ. Đại thí: Nghĩa là có thể xả bỏ vợ con. Vô thượng thí: Nghĩa là xả bỏ đầu mắt, tủy não, xương thịt, máu mủ. Bồ-tát đầy đủ ba pháp thí như vậy mới đầy đủ nhẫn nhục, có đủ nhẫn nhục rồi mới có thể thọ trì giới cấm của Bồ-tát.

Này Xá-lợi-phất! Lúc Bồ-tát muốn thọ giới Bồ-tát, trước hết phải điều phục các căn, đối với chốn sinh khởi dục không sinh tâm dục, ở chỗ sinh sân hận không sinh tâm sân, ở chỗ sinh ngu si không sinh tâm si, ở chỗ sinh sợ sệt không sinh tâm sợ sệt. Nếu tự biết đầy đủ bốn việc như vậy thì đó là chỗ biết của mười phương chư Phật. Người này cũng có thể nhận biết mười phương chư Phật.

Này Xá-lợi-phất! Nếu biết không đủ bốn việc như vậy, thì lúc thọ giới Bồ-tát, người ấy không đắc giới Bồ-tát, cũng là lừa dối mười phương chư Phật và chư Bồ-tát hiện tại.

Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát này có hai thứ: Một là từ nhân duyên sân. Hai là từ nhân duyên si. Này Xá-lợi-phất! Vì sân có thể tạo ra nhân duyên của tám địa ngục lớn, do si có thể làm nhân duyên cho các phiền não xấu ác. Vì hai nhân duyên sân và si nên có thể hủy hoại giới Bồ-tát.

Này Xá-lợi-phất! Nếu người muốn thọ trì giới Bồ-tát, trước hết nên xa lìa bốn việc là dục, sân, si và sợ hãi. Trong sáu tháng, ngày đêm một mình ở chỗ vắng lặng sám hối các tội và xưng: Con tên là v.v… quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, quy y chư Phật và Bồ-tát Tăng hiện tại trong mười phương, quy y Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai, nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng, nam mô thập phương Phật và Bồ-tát Tăng, nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật, nam mô Kim Cang Vô Hoại Thân, nam mô Bảo Quang, nam mô Vô Lượng Tự Tại Vương, nam mô Vô Thượng Lâm Vương, nam mô Vô Thượng Hoan Hỷ, nam mô Bảo Hỏa, nam mô Bảo Nguyệt Quang, nam mô Thanh Tịnh, nam mô Thủ Cần Tinh Tấn, nam mô Phạm Đức, nam mô Thiện Công Đức, nam mô Chiên Đàn Công Đức, nam mô Quang Công Đức, nam mô A Thúc Dà Công Đức, nam mô Na La Diên Lực, nam mô Hoa Công Đức, nam mô Liên Hoa, nam mô Tài Công Đức, nam mô Niệm Công Đức, nam mô Thiện Danh, nam mô Thích Chủng Vương, nam mô Vô Thắng, nam mô Vô Biên Thân Quang, nam mô Vô Biên Thân, nam mô Vô Động, nam mô Đại Sơn Vương. Như vậy, vô lượng chư Phật, Bồtát trong thế gian thường trụ tại thế, tuyên thuyết pháp giáo hóa, xin nguyện thương xót lưu tâm thấy, nghĩ, như con đã tạo các tội ác bất thiện trong vô lượng đời quá khứ và hiện tại, hoặc tự làm hoặc thấy người khác làm sinh tâm tùy hỷ, hoặc lấy vật của Phật Pháp Tăng, vật của Tăng bốn phương, vật của Tăng hiện tại, hoặc tự lấy hoặc thấy người khác lấy sinh tâm tùy hỷ, hoặc tự tạo tội ngũ nghịch hoặc thấy người khác tạo sinh tâm tùy hỷ. Do nhân duyên của nghiệp bất thiện này mà sẽ bị đọa vào đường ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, hoặc làm người sinh nơi biên địa, hoặc làm thân trời Trường thọ, hoặc làm người các căn không đủ, gần gũi tà kiến, không gặp Phật xuất thế. Các tội như vậy, ngày nay thành tâm cầu xin sám hối. Như trước Phật Thích-ca hiện tại, Đức Như Lai Thế Tôn với tri kiến chân thật, trí tuệ vô ngại, tịnh nhãn vô chướng, thường vì tất cả chúng sinh mà chứng biết, xin nguyện quán xét tâm thành sám hối của con, từ nay trở đi con không dám tạo tác. Lại nữa, xin mười phương chư Phật, Bồ-tát chú tâm lắng nghe! Như trong vô lượng đời quá khứ và hiện tại, con có làm việc bố thí cho đến ban cho hàng súc sinh một nắm cơm, bó cỏ, hoặc con trì giới cho đến nhất niệm, các công đức có được như vậy đều xin hồi hướng nơi Bồ-đề Vô thượng, như chư Phật chư Bồ-tát trong đời quá khứ đã hồi hướng, như chư Phật chư Bồ-tát trong đời vị lai phát nguyện hồi hướng, như chư Phật chư Bồ-tát hiện tại trong mười phương phát nguyện hồi hướng.

Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát chí tâm lễ bái cung kính chư Phật như vậy trong sáu tháng rồi, hoặc đi hoặc đứng, hoặc làm hoặc ngồi, mười phương chư Phật thị hiện trước mặt, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Tuy thị hiện tướng tốt trước Bồ-tát như vậy, nhưng ở nơi pháp giới ban đầu không có động chuyển. Vì sao? Vì Đức Như Lai biết rõ chân thật về tâm ấy, mười phương chư Phật biết chắc chắn người này có thể thọ trì giới cấm của Bồ-tát và tu tập từ bi có thể phá trừ các ma, chuyển bánh xe chánh pháp, có thể điều phục chúng sinh, tuyên thuyết giáo pháp. Do nghĩa này mà mười phương chư Phật vì Bồ-tát này mà thị hiện thân.

Này Xá-lợi-phất! Như sư tử gầm rống, loài chồn cáo có thể làm được không?

–Thưa Thế Tôn! Không được.

–Này Xá-lợi-phất! Nếu có người không ở chỗ vô lượng Phật trong vô lượng đời quá khứ gieo trồng cội đức thì có thể thọ trì giới Bồ-tát được không?

–Thưa Thế Tôn! Không được.

–Này Xá-lợi-phất! Như những vật mà voi chúa quý mang vác, loài lừa có thể làm được không?

–Thưa Thế Tôn! Không được.

–Này Xá-lợi-phất! Như ánh sáng của mặt trời mặt trăng, ánh lửa đom đóm có thể sánh kịp không?

–Thưa Thế Tôn! Không được.

–Này Xá-lợi-phất! Như chim Cánh vàng bay, loài quạ có thể theo kịp không?

–Thưa Thế Tôn! Không được.

–Này Xá-lợi-phất! Nếu có người ở nơi vô lượng chư Phật trong vô lượng đời gieo trồng cội đức, người này mới có thể thọ giới Bồtát, thấy rõ ràng mười phương chư Phật.

Này Xá-lợi-phất! Lúc thọ giới Bồ-tát rồi, nếu có nhân duyên của khách trần phiền não làm cho phạm pháp đáng sám hối, thì nên hướng đến chư Phật sám hối, Bồ-tát trọn đời không được tạo tội ngũ nghịch. Nếu tâm tham chưa dứt cho đến sinh con, thì nên đối trước Phật hiện tại trong mười phương, ngày đêm chí thành cầu xin sám hối đủ trong hai năm. Nếu vì tâm tham mà lấy vật của Phật Pháp Tăng thì ở trước Phật sám hối trong hai năm.

Này Xá-lợi-phất! Nếu Bồ-tát vì nhân duyên sân hận mà hủy phá giới cấm thì không có điều ấy. Do nhân duyên giận dữ phá hủy giới cấm mà được sám hối cũng không có điều ấy.

Bấy giờ, vào sáng sớm, Tôn giả Ưu-ba-ly ra khỏi thiền định, liền đến chỗ Thế Tôn làm lễ, đi nhiễu ba vòng rồi ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như trong Giới Kinh nói: “Nếu đệ tử của Ta có tâm tin, thì đối với giới đã thọ dù mất mạng cũng không hủy phạm”. Bạch Thế Tôn! Hiện tại nếu Ngài nhập Niết-bàn, con làm sao để phân biệt hiểu biết giới cấm của Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát? Bạch Thế Tôn! Ngài nói con là Tỳ-kheo trì luật bậc nhất, nay con không biết phương tiện của Tỳ-ni sẽ nói như thế nào? Hiện nay có nhiều Đại Tỳ-kheo Tăng cùng chư Bồ-tát Tăng muốn biết, xin nguyện Như Lai rộng nói đầy đủ.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này Tôn giả Ưu-ba-ly! Hãy chí tâm lắng nghe và khéo suy nghĩ, nay Ta sẽ vì ông mà giảng nói.

Này Ưu-ba-ly! Nhân duyên của giới Thanh văn khác, nhân duyên của giới Bồ-tát khác, tâm của giới Thanh văn khác, tâm của giới Bồ-tát khác, trang nghiêm của giới Thanh văn khác, trang nghiêm của giới Bồ-tát khác, phương tiện của giới Thanh văn khác, phương tiện của giới Bồ-tát khác.

Này Ưu-ba-ly! Giới tịnh của Thanh văn không phải là giới tịnh của Bồ-tát, giới tịnh của Bồ-tát không phải là giới tịnh của Thanh văn. Hàng Thanh văn cho đến một niệm không cầu về Hữu gọi là Thanh văn giới tịnh. Bồ-tát nếu không cầu về Hữu thì gọi là đại phá giới, gọi là giới bất tịnh. Thanh văn cầu về Hữu thì gọi là phá giới, gọi là giới bất tịnh.

Này Ưu-ba-ly! Bồ-tát Ma-ha-tát trong vô lượng kiếp thường ở nơi Hữu, tâm không sinh hối hận thì gọi là Bồ-tát tịnh giới, không phải là Thanh văn tịnh giới.

Này Ưu-ba-ly! Do nghĩa ấy ông nên thuyết giảng rõ: Giới của Thanh văn gấp, giới của Bồ-tát chậm, giới của Thanh văn bít, giới của Bồ-tát mở, trong giới của Thanh văn nên nói nhân duyên, trong giới của Bồ-tát thì không nói. Này Ưu-ba-ly! Bồ-tát tùy theo tâm của chúng sinh, không phải là Thanh văn, nên Bồ-tát đối với giới thì chậm mà Thanh văn giữ gìn gấp. Này Ưu-ba-ly! Nếu Bồ-tát vào sáng sớm phạm giới, nên niệm Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, tự biết tội lỗi, ngày đêm ba thời đều như vậy nên gọi là giới Bồ-tát.

Này Ưu-ba-ly! Nếu Bồ-tát luôn luôn phạm thì không gọi là phá giới, nếu Thanh văn luôn luôn phạm thì gọi là phá giới, là mất giới, không được đạo quả Sa-môn. Vì sao? Vì hàng Thanh văn là người phá trừ phiền não, nên phải siêng năng tinh tấn, không được hủy phạm.

Này Ưu-ba-ly! Bồ-tát nếu ở trong hằng hà sa kiếp thọ năm thứ dục lạc, cũng không gọi là Bồ-tát mất giới cấm, không gọi là phá giới, không gọi là mất giới, không nói là không đắc đạo Bồ-đề.

Này Ưu-ba-ly! Bồ-tát không thể ở trong một đời mà diệt hết các phiền não, phải dùng phương tiện dần dần khiến sạch hết.

Này Ưu-ba-ly! Đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng cần phải có lực đại trang nghiêm không gì hơn, sau đó mới chứng được, chẳng phải một đời mà đạt được, nên Như Lai không nói Bồ-tát ở trong sinh tử sinh tâm hối hận, cũng không tuyên thuyết vĩnh viễn đoạn trừ tham ái mà tuyên thuyết pháp hỷ, pháp thâm diệu, pháp không nghi và pháp không. Nghe pháp này rồi Bồ-tát vui ở trong sinh tử.

Tôn giả Ưu-ba-ly bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Phạm có ba thứ: Một là tham. Hai là sân. Ba là si. Bồ-tát phạm điều nào thì gọi là nặng, phạm điều nào thì gọi là nhẹ?

Phật dạy:

–Này Ưu-ba-ly! Nếu các Bồ-tát phạm lỗi tham như hằng hà sa, Bồ-tát như vậy không gọi là hủy giới. Nếu phạm một nhân duyên sân thì gọi là hủy giới, là phá giới. Vì sao? Này Ưu-ba-ly! Vì tâm sân hận hay xả bỏ chúng sinh, tâm tham ái có thể cứu giúp chúng sinh, nếu ái chúng sinh thì không gọi là phiền não, sân hận xả bỏ chúng sinh thì gọi là phiền não nặng. Này Ưu-ba-ly! Cho nên trong kinh Như Lai có dạy, tham kết khó đoạn không gọi là nặng, sân hận dễ đoạn gọi đó là nặng.

Này Ưu-ba-ly! Khó đoạn không phải là nặng, Bồ-tát thường có điều nặng dễ đoạn, cho đến trong mộng hãy còn không làm.

Này Ưu-ba-ly! Bồ-tát ngu si không có phương tiên sợ hãi phạm ái, Bồ-tát có trí khéo biết phương tiện, sợ hãi phạm sân, không sợ phạm ái.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Tỳ-ni gọi là điều phục, tánh của tất cả các pháp rốt ráo là điều phục, vì sao Như Lai tuyên thuyết Tỳ-ni?

Phật dạy:

–Này Văn-thù-sư-lợi! Nếu người phàm phu có thể biết các pháp rốt ráo là điều phục thì Như Lai trọn không tuyên thuyết Tỳ-ni. Do hàng phàm phu không hiểu không biết, vì thế Như Lai mới giảng nói về Tỳ-ni. Này Văn-thù-sư-lợi! Ông nay vì sao không thuyết giảng Tỳ-ni, Tôn giả Ưu-ba-ly muốn được nghe.

Lúc này, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói với Tôn giả Ưu-ba-ly:

–Này Ưu-ba-ly! Tất cả các pháp rốt ráo là điều phục. Tánh của tất cả các pháp không thể nhiễm ô. Tánh của tất cả pháp là không điên đảo. Tánh của tất cả pháp là thanh tịnh. Tánh của tất cả pháp là không thể tuyên thuyết. Tất cả các pháp không có thủ chấp. Tất cả các pháp không đi không đến. Tất cả các pháp không thể nghĩ bàn. Tất cả các pháp không có chướng ngại. Tất cả các pháp vốn không có tánh. Tất cả các pháp không hành động. Tất cả các pháp không xuất không diệt. Tất cả các pháp không có ba đời. Tất cả các pháp không có lưới nghi. Các pháp như vậy Đức Phật thảy đều nhận biết rõ hết.

Tôn giả Ưu-ba-ly thưa:

–Bạch Thế Tôn! Như lời Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói chẳng phải là thuyết giảng về Liễu nghĩa?

Phật dạy:

–Này Ưu-ba-ly! Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thường ưa thuyết giảng về giải thoát như vậy.

Tôn giả Ưu-ba-ly thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là kiêu mạn?

Phật dạy:

–Nếu Bồ-tát nói: Tôi có tâm Bồ-đề. Tôi là Bồ-tát thực hành sáu pháp Ba-la-mật. Tôi là Bát-nhã tu tạo các hạnh. Bồ-đề hành sâu, Thanh văn hành cạn. Bồ-đề hành tịnh, Thanh văn hành bất tịnh. Bồđề hành rốt ráo, Thanh văn hành không rốt ráo. Nếu có phân biệt là pháp Thanh văn, là pháp Duyên giác, là pháp Bồ-tát, là pháp chư Phật, đây là tịnh, kia là bất tịnh, đây là đạo, kia không phải là đạo, như vậy gọi là Bồ-tát kiêu mạn.

********

Phẩm thứ 2: TÁNH HÀNH THIỆN CỦA ĐỊA BỒ TÁT

Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập Thánh hạnh, hành ở quả thiện, đạo Bồđề gồm mười pháp, có thể thâu giữ tất cả pháp thiện. Những gì là mười pháp? Một là chi, hai là dực (Giúp đỡ, che chở), ba là tâm tịnh, bốn là hành, năm là hữu, sáu là nhân, bảy là khí, tám là địa, chín là phương tiện, mười là trụ.

Thế nào gọi là chi? Nghĩa là tánh của Bồ-tát. Tánh của Bồ-tát tức là mới phát tâm và ba mươi bảy phẩm. Vì sao? Vì Bồ-tát Ma-hatát phát tâm Bồ-đề chính là căn bản của tất cả pháp thiện, nên gọi là chi. Nhân nơi phát tâm này mà đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, nên gọi là nhân. Nhân nơi ban đầu phát tâm quyết định tất được đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, nên gọi là tánh. Bồ-tát Ma-ha-tát nhân nơi ban đầu phát tâm nên được tu hạnh bố thí Ba-la-mật, trì giới Ba-la-mật, nhẫn nhục Ba-la-mật, tinh tấn Ba-la-mật, thiền Ba-la-mật, trí tuệ Ba-la-mật, do thực hành sáu pháp Ba-la-mật nên có thể tu hạnh trí tuệ trang nghiêm, phước đức trang nghiêm, tu ba mươi bảy pháp trợ đạo, nên Bồ-tát phát tâm Bồ-đề gọi đó là chi. Bồ-tát Ma-ha-tát tùy nơi phát tâm mà thực hành đầy đủ, đắc quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, nên gọi đó là chi.

Bồ-tát Ma-ha-tát nếu không có tánh Bồ-tát, tuy phát tâm siêng tu tinh tấn, trọn không thể chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Vì thế nên biết, không phải nhân nơi phát tâm, siêng tu tinh tấn mà phải có tánh Bồ-tát, vì nghĩa này nên tánh Bồ-tát gọi là chi.

Bồ-tát Ma-ha-tát tuy có tánh Bồ-tát, nhưng không phát tâm siêng tu tinh tấn, thì không thể nhanh chóng chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Đã có tánh Bồ-tát, lại phải phát tâm Bồ-đề siêng tu tinh tấn, mới có thể nhanh chóng chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Vì nghĩa này nên tánh Bồ-tát gọi là chi.

Lại nữa, chi gọi là nhân, cũng gọi là bậc thang, cũng gọi là tăng trưởng, cũng gọi là trang nghiêm, cũng gọi là nương dựa, cũng gọi là thứ lớp, cũng gọi là tiến tới, cũng gọi là phòng nhà. Vì nghĩa này nên tánh gọi là chi.

Thế nào gọi là tánh? Tánh có hai loại: Một là bản tánh. Hai là khách tánh.

Bản tánh: Nghĩa là năm ấm, mười tám giới, sáu nhập, lần lượt tương tục vô thỉ vô chung, pháp tánh tự như vậy, đó gọi là bản tánh.

Khách tánh: Nghĩa là chỗ tu tập tất cả pháp thiện, được tánh Bồ-tát, đó gọi là khách tánh.

Trong kinh này lấy hai thứ ấy gọi là tánh. Hai thứ tánh này gọi là chi. Lại nữa, tánh cũng gọi là chủng tử, cũng gọi là giới, cũng gọi là tánh.

Lại có hai loại: Một là tế. Hai là thô. Nói tế: Tức là không có nhân mà được, không do nhân mà được quả nên gọi là tế. Nói thô: Tức là có nhân mà được, từ nhân được quả nên gọi là thô. Bồ-tát Maha-tát đầy đủ hai tánh như vậy thì hơn tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác, huống hồ là các ngoại đạo. Vì nghĩa này nên Bồ-tát Ma-ha-tát được gọi là thắng.

Vì sao gọi là thắng? Vì thanh tịnh. Thanh tịnh có hai: Một là tịnh trí chướng. Hai là tịnh kiết chướng. Hàng Thanh văn, Duyên giác tịnh kiết chướng nên gọi là tịnh, không phải là tịnh trí chướng. Bồ-tát Ma-ha-tát đầy đủ hai thứ tịnh, vì nghĩa này nên tánh Bồ-tát được gọi là thắng.

Bồ-tát Ma-ha-tát lại có bốn việc hơn cả hàng Thanh văn, Phậtbích-chi:

  1. Căn thù thắng.
  2. Hành thù thắng.
  3. Phương tiện thù thắng.
  4. Đắc quả thù thắng.

Căn thù thắng: Nghĩa là Bồ-tát Ma-ha-tát bản tánh lanh lợi, tánh của Duyên giác trung bình, còn tánh của Thanh văn chậm kém, nên gọi là căn thù thắng.

Hành thù thắng: Nghĩa là Thanh văn, Duyên giác vì tự độ nên tu tập pháp thiện. Bồ-tát không vì mình mà chỉ vì chúng sinh nên tu tập pháp thiện, ban các sự vui, từ bi thương xót tất cả, nên gọi là hành thù thắng.

Phương tiện thù thắng: Nghĩa là Thanh văn, Duyên giác chỉ có thể hiểu biết về ấm, giới, nhập, không thể hiểu biết về mười hai nhân duyên và xứ, không phải xứ. Bồ-tát với phương tiện tức có thể khéo nhận biết tất cả các pháp, nên gọi là phương tiện thù thắng.

Quả thù thắng: Nghĩa là Thanh văn tự chứng đắc Bồ-đề Thanh văn, Duyên giác tự chứng đắc Bồ-đề Duyên giác, Bồ-tát tự chứng đắc Bồ-đề Bồ-tát, nên gọi là quả thù thắng.

Tánh Bồ-tát có sáu thứ ấn, do ấn này nên tất cả chúng sinh có thể nhận biết đây là Bồ-tát. Những gì là sáu? Đó là Bố thí Ba-la-mật cho đến Bát-nhã Ba-la-mật.

Do nghĩa nào Bố thí Ba-la-mật được gọi là tánh ấn của Bồ-tát? Do bản tánh của Bồ-tát Ma-ha-tát có thể đạt được tâm xả như vậy. Đối với các tài sản vật dụng hoặc nhiều hoặc ít tâm không tham đắm, lúc muốn thí thì thí, và khi bố thí xong tất sinh hoan hỷ, tùy theo vật được thí hoặc nhiều hoặc ít tâm không hối tiếc. Nếu khi bố thí ít cũng không xấu hổ, hoặc không có tiền của thì thường khen ngợi sự bố thí. Thấy người keo kiệt thì có thể phá bỏ tâm ấy. Thấy người bố thí thì tâm sinh vui mừng như gặp cha mẹ. Thấy người đến xin tâm tự hoan hỷ. Nếu không có tài sản thì nên dùng thân nghiệp cung cấp cho các bậc trưởng lão, cha mẹ, các sư. Nên dùng lời vui, lời nhẹ nhàng, lời pháp, lời chân chánh, để phá trừ lời nói dối, nói hai lưỡi, nói lời ác, nói lời vô nghĩa của chúng sinh. Nếu có người hỏi còn không nói chỗ tốt, xấu của người khác, huống hồ là không hỏi mà tự nói sao? Nếu có chúng sinh sợ hãi vì nạn giặc cướp, lũ lụt, hỏa hoạn, thì nên cứu giúp. Luôn biết ân, nhớ ân, thọ ân, có thể báo đáp. Nhận lời ký thác của người khác thì không để họ nghi ngờ, nếu là vật báu tâm không tham đắm, đối với vật của mình tâm không tiếc rẻ, thức ăn áo mặc luôn bố thí cho người, có thể điều phục tâm dục, tâm tham rượu, tâm hý luận, ưa tu tập hổ thẹn, tuy được báu lớn mà không sinh tham hỷ. Đó gọi là tánh ấn của Bồ-tát hành Bố thí Ba-la-mật.

Thế nào gọi là Trì giới Ba-la-mật nơi tánh ấn của Bồ-tát? Nghĩa là Bồ-tát Ma-ha-tát tánh của ba nghiệp thân khẩu ý tự thanh tịnh nhu hòa, đối với chúng sinh không khởi tâm ác độc, tâm sân hận. Nếu do nơi khách trần là các phiền não nên tạo ra tội lỗi, thì khi làm rồi tâm hối hận, sinh xấu hổ, phát lồ sám hối. Đối với chúng sinh khởi tâm thương xót xem như con mình, trọn không dùng tay hoặc gậy hoặc đá đánh đập, tâm thường tìm cầu thiện tri thức chân chánh, chí vui cúng dường các bậc cha mẹ, sư trưởng, trưởng lão, phá bỏ kiêu mạn, biết ân và nhớ ân. Nếu có người đến xin thì dùng lời nhẹ nhàng an ủi, không dùng huyễn thuật lừa dối chúng sinh, trọn đời không dùng phi pháp để tự nuôi mạng, thường ưa tu tập tất cả công đức, dạy các chúng sinh rộng tu phước nghiệp. Thấy chúng sinh lãnh thọ các khổ, hoặc dứt mạng căn, hoặc bị đánh đập, bị tù tội, đói khát, lạnh nóng, lúc ấy Bồ-tát quán xét chúng sinh thọ khổ cũng như mình không khác. Hộ trì giới luật của Phật cho đến nhỏ nhặt hãy còn không hủy phạm huống hồ là các tội nặng, có thể dùng mười điều thiện giáo hóa tất cả. Không ưa thấy nghe chúng sinh xấu ác tranh cãi, mắng nhiếc. Ba nghiệp hiện có thường vì chúng sinh trọn không vì mình. Nếu có chúng sinh đầy đủ giới, nhẫn, tuệ, thì vui cùng đồng hành, đạt tâm nhu hòa, dịu dàng, không có tâm hại, không có tâm bất nhẫn, tâm thường kính trọng các giới hiện có, không lừa dối chúng sinh, không nói hai lưỡi và lời vô nghĩa. Tuy không có người hỏi mà hãy còn khen ngợi điều thiện của người, huống hồ là có người hỏi mà không nói lời tôn trọng chân thật sao? Đó gọi là tánh ấn của Bồ-tát hành Trì giới Ba-la-mật.

Thế nào gọi là Nhẫn nhục Ba-la-mật nơi tánh ấn của Bồ-tát? Nghĩa là Bồ-tát Ma-ha-tát quán xét các chúng sinh, nếu có người đến đánh đập mình thì không nên tăng tâm báo ác. Vì sao? Vì thân ta không phải là thân. Gọi là thân đó là chân thật. Thân chân thật thì không thể đánh đập. Còn thân này của ta là thân hòa hợp, thân hòa hợp gọi là bất tịnh. Ở trong sự hòa hợp thì chỉ phần ít thấy đánh, phần nhiều thì không tổn hại. Phần nhiều đã không tổn hại thì vì sao không vui? Đối với sự giận dữ, phần ít có giận, phần nhiều không giận. Phần nhiều không giận vì sao gọi là giận? Như thân hòa hợp đánh thân thọ nhận hòa hợp, thì ai đánh, ai thọ? Ví như hai vật chạm nhau phát ra tiếng, nếu ta sân thì chính là tự sân. Vì sao? Vì do nghiệp duyên nên có thân này, vì thân này nên thọ sự khổ sở ấy. Ví như có đích thì ắt mũi tên sẽ cắm vào. Nếu ta tăng trưởng tâm sân này thì không thể quán xét các pháp thiện ác. Nếu không thể quán xét các pháp thiện ác, thì nhất định sẽ bị đọa trong ba đường ác. Vì nghĩa này cho nên khi bị đánh, bị mắng, không nên sinh tâm sân hận đối với người khác. Quán xét như vậy, đó gọi là Nhẫn nhục Ba-la-mật nơi tánh ấn của Bồ-tát. Lại nữa, nếu bị đánh hoặc mắng, nên nghĩ tưởng người ấy như con, tâm không oán hận. Đó gọi là tánh ấn của Bồ-tát hành Nhẫn nhục Ba-la-mật.

Thế nào gọi là Tinh tấn Ba-la-mật nơi tánh ấn của Bồ-tát? Nghĩa là Bồ-tát Ma-ha-tát siêng tu tinh tấn, sáng dậy tối nằm, không thích ngủ nghỉ, trọn không quán xét nóng lạnh đói khát mà sợ hãi hay hoan hỷ. Phàm làm các việc thế gian hoặc xuất thế gian, cần làm rốt ráo không nửa chừng bỏ phế, việc nếu chưa xong trọn không hối hận giữa chừng. Tuy được người khác cung kính cúng dường, nhưng đối với sự tu của mình trọn không ngừng nghỉ, đối với thân không khởi tâm khinh thường, nói không thể chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Dù thấy việc khó làm ở thế gian nhưng trọn không thoái lui. Đó gọi tánh ấn của Bồ-tát hành Tinh tấn Ba-la-mật.

Thế nào gọi là Thiền Ba-la-mật nơi tánh ấn của Bồ-tát? Nghĩa là Bồ-tát Ma-ha-tát có tâm ưa quán xét thật nghĩa của các pháp, ưa ở chỗ vắng lặng, chỗ không người, ưa xa lìa người ác, tăng trưởng pháp thiện, thấy người thích vắng lặng thì hoan hỷ cung kính, tuy có phiền não mà bản tánh nhẹ, nhỏ, có được tâm thiện, trọn không bị các giác quán (tầm tứ) ác phá hoại. Tu tập tâm từ bi, xem oán như con. Nếu thấy chúng sinh thọ đại khổ não nên sinh tâm từ, tùy theo sức mình mà trừ đoạn giúp, nguyện các chúng sinh đều được an ổn, giả sử thân có thọ khổ thì không sinh ưu não. Nếu mất thân mạng cho đến của cải, hoặc thân bị trói, bị đánh, bị đuổi, có thể tự hiểu dụ không để mất chánh niệm, sinh tâm khổ não. Chuyên tâm nghe pháp, biên chép, thọ trì, đọc tụng, giải nói, nếu người khác quên mất có thể chỉ bày cho họ, do nhân duyên chí tâm như vậy, ở trong đời sau không mất pháp giới. Đó gọi là tánh ấn của Bồ-tát hành Thiền Ba-la-mật.

Thế nào gọi là Bát-nhã Ba-la-mật nơi tánh ấn của Bồ-tát? Nghĩa là Bồ-tát Ma-ha-tát hiểu biết tất cả các việc của thế gian, biết các phương thuật và ngôn ngữ của các chúng sinh, tuy biết các việc ấy nhưng tâm không lầm lạc, cũng không phóng dật, không bị ngoại đạo làm mê hoặc, không theo tà kiến mà nói nghĩa lý. Đó gọi là tánh ấn của Bồ-tát hành Bát-nhã Ba-la-mật.

Ta nay lược nói về tướng ấn thô, tướng ấn tế thì chư Phật đều biết. Tánh của Bồ-tát là không thể nghĩ bàn, thành tựu đầy đủ các việc công đức, chân thật thanh tịnh, đầy đủ pháp tịnh, nên gọi là thượng, cũng gọi là bất động, cũng gọi là Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.

Bồ-tát Ma-ha-tát nếu không thấy rõ lỗi lầm của pháp ác, thì không được tu tất cả pháp thiện. Bồ-tát Ma-ha-tát lúc tu thiện bậc thượng, nếu vì nhân duyên của khách trần là phiền não khiến bị rơi vào ba đường ác vẫn còn hơn chúng sinh trong đường ác. Vì sao? Vì có tánh Bồ-tát, nếu bị nhân duyên của khách trần là phiền não khiến rơi vào ba đường ác, thì có thể mau chóng phá trừ để ra khỏi. Nếu không ra cũng không cùng thọ khổ dữ trong đường ác. Nếu lúc thọ khổ nhưng đối với chúng sinh vẫn sinh tâm từ bi, do nhân duyên của tánh nên được tâm bi, vì vậy Bồ-tát hơn tất cả chúng sinh trong ba đường ác.

Bồ-tát Ma-ha-tát có bốn nhân duyên của phiền não khiến phá bỏ pháp tịnh. Những gì là bốn?

1. Thường có lợi nhiều.

2. Vì hai thứ kết buộc mà thân cận bạn ác.

3. Ở nơi chỗ thầy, vua chúa, giặc oán, do sinh sợ hãi nên mất tâm thiện và khởi phiền não.

4. Vì thân mạng nên tạo các pháp ác.

Do bốn pháp này, nên tuy có tánh Bồ-tát Ma-ha-tát nhưng trọn không thể chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.

Lại có bốn việc nữa tuy có tánh Bồ-tát Ma-ha-tát, cũng không thể chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Thế nào là bốn?

1. Không gặp bạn thiện là Phật và Bồ-tát, không thuyết giảng sai nghĩa.

2. Tuy gặp bạn thiện là Phật và Bồ-tát nhưng hiểu nghĩa sai, không học giới cấm của Bồ-tát.

3. Tuy gặp bạn thiện là Phật và Bồ-tát, tùy thuận giải nghĩa, nhưng không thể học và thọ trì giới cấm của Bồ-tát.

4. Tuy gặp bạn thiện là Phật và Bồ-tát, tùy thuận giải nghĩa, học giới của Bồ-tát, nhưng căn thiện chưa thành thục, chưa được trang nghiêm Bồ-đề đầy đủ, vì thế không đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.

Bồ-tát tuy có tánh Bồ-tát, nhưng có bốn việc chướng ngại như vậy, thì trọn không chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Nếu không có bốn việc như vậy, nhưng không có tánh Bồtát, thì cũng không thể chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.

********

Phẩm thứ 3: PHÁT TÂM BỒ ĐỀ CỦA ĐỊA BỒ TÁT

Bồ-tát Ma-ha-tát lúc ban đầu phát tâm nên lập chánh nguyện lớn, nói như vầy: Khi tôi chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, phải tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh, cần đặt yên các chúng sinh trong Đại Niết-bàn, lại phải giáo hóa hết thảy chúng sinh khiến có đầy đủ đại trí Bát-nhã, đó gọi là tự lợi lợi tha. Vì thế người ban đầu phát tâm Bồ-đề gọi là nhân duyên của Bồ-đề, nhân duyên của chúng sinh, nhân duyên của chánh nghĩa, nhân duyên của ba mươi bảy pháp trợ đạo, thâu giữ tất cả căn bản pháp thiện, nên Bồ-tát gọi là đại thiện của thiện, chân thật của thật, cũng gọi là căn thiện của tất cả chúng sinh, có thể phá trừ tất cả các thứ xấu ác của ba nghiệp thân khẩu ý. Tất cả thệ nguyện ở thế gian và xuất thế gian không có gì hơn đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, thệ nguyện như vậy là vô thắng, vô thượng.

Bồ-tát Ma-ha-tát ban đầu phát ba tâm Bồ-đề gồm có năm việc:

  1. Tánh.
  2. Hành.
  3. Cảnh giới.
  4. Công đức.
  5. Tăng trưởng.

Bồ-tát nếu có thể phát tâm Bồ-đề thì được gọi là Bồ-tát Ma-hatát, nhất định chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, tu hạnh Đại thừa, cho nên ban đầu phát tâm Bồ-đề thì có thể thâu giữ tất cả pháp thiện.

Bồ-tát Ma-ha-tát phát tâm Bồ-đề, tùy sự thực hành mà dần chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, nếu không phát tâm thì trọn không thể chứng đắc, cho nên phát tâm là căn bản của đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.

Bồ-tát Ma-ha-tát thấy chúng sinh khổ tâm liền sinh thương xót, nên Bồ-tát nhân nơi tâm từ bi mà phát tâm cầu đạt đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, nhân nơi tâm Bồ-đề mà tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, nhân nơi ba mươi bảy phẩm trợ đạo mà chứng đắc quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, cho nên phát tâm gọi là chi, phát tâm Bồđề nên thực hành giới Bồ-tát, vì thế phát tâm là chi của giới Bồ-tát, phát tâm gọi là căn, là nhân, là thâu tóm, là quả, cũng gọi là chủng tử.

Bồ-tát phát tâm lại có hai thứ:

  1. Rốt ráo.
  2. Không rốt ráo.

Rốt ráo: Tức là cho đến chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng trọn không thoái thất.

Không rốt ráo: Tức có thoái thất. Thoái có hai thứ: Một là thoái rốt ráo. Hai là thoái không rốt ráo. Thoái thất rốt ráo: Nghĩa là trọn không phát tâm đạt đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, không thể tìm cầu tu tập pháp ấy. Thoái thất không rốt ráo: Nghĩa là cầu tâm Bồ-đề, tu tập pháp ấy.

Tâm Bồ-đề này gồm có bốn thứ nhân. Thế nào là bốn?

1. Nếu có thiện nam, thiện nữ hoặc thấy hoặc nghe chư Phật, Bồ-tát là không thể nghĩ bàn, lúc ấy liền sinh tâm cung kính, tin nhận và nghĩ suy: “Việc của Phật, Bồ-tát là không thể nghĩ bàn. Nếu có thể đạt được việc không thể nghĩ bàn của chư Phật, Bồ-tát, thì tôi cũng sẽ phát tâm cầu đạt đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng”. Vì thế nên chí tâm nghĩ đến Bồ-đề, phát tâm Bồ-đề.

2. Lại có người không thấy sự việc không thể nghĩ bàn của chư Phật, Bồ-tát, chỉ nghe tạng bí mật của chư Phật, Bồ-tát, nghe rồi liền sinh tâm cung kính tin nhận, do được tâm tín nên vì đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng và đại trí mà phát tâm Bồ-đề.

3. Lại có người không thấy sự việc không thể nghĩ bàn của chư Phật, Bồ-tát, cũng không được nghe pháp, nhưng khi thấy pháp diệt liền suy nghĩ pháp Phật vô thượng, có thể diệt hết vô lượng khổ não và tạo lợi ích cho chúng sinh, chỉ có chư Bồ-tát có thể khiến cho pháp Phật ở đời lâu không diệt. Tôi nay cũng sẽ phát tâm Bồ-đề, khiến các chúng sinh xa lìa phiền não cùng những sự khổ lớn, ủng hộ pháp Phật ở đời lâu dài, vì trụ ở đời phát tâm Bồ-đề.

4. Lại có người không thấy pháp Phật diệt, chỉ thấy các chúng sinh trong đời ác đầy đủ phiền não tham sân si, không biết xấu hổ, chỉ có keo kiệt, ganh ghét, ưu sầu, khổ não, biếng nhác, không tin giáo pháp. Thấy như vậy rồi liền suy nghĩ: “Vào thời đại ác, chúng sinh đại ác, không thể tu thiện, thời ác như vậy còn không thể phát tâm Nhị thừa huống là phát tâm cầu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng”. Ta nay sẽ phát tâm Bồ-đề, phát tâm này rồi sẽ giáo hóa tất cả chúng sinh khiến họ cũng phát tâm cầu đạt đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Cho nên Bồ-tát ở trong đời ác, vì chúng sinh xấu ác mà phát tâm Bồ-đề.

Lại có bốn nhân để phát tâm Bồ-đề:

  1. Tánh đầy đủ.
  2. Bạn thiện đầy đủ.
  3. Tâm từ đầy đủ.
  4. Đầy đủ Thánh hạnh, quán sinh tử khổ, không sợ Bồ-đề khó hành khổ hạnh.

Tánh đầy đủ: Nghĩa là tánh Bồ-tát tự đầy đủ.

Bạn thiện đầy đủ gồm có bốn việc: Một là bạn thiện đầy đủ căn, đủ trí tuệ lớn, có thể chỉ bày rõ về thiện ác, không hành theo đạo tà. Hai là tâm không phóng dật, hay phá trừ phóng dật, đóng cửa đường ác. Ba là tự đầy đủ giới cấm của Bồ-tát, chuyển dạy cho người khác. Bốn là không dùng đạo thấp chuyển đạo cao của người khác, không dùng Tiểu thừa chuyển Đại thừa của người khác, không dùng tu phước chuyển định tuệ của người khác.

Đầy đủ tâm tuệ lại có bốn việc: Một là hoặc có thế giới có nơi chốn khổ não. Hoặc có thế giới không có khổ não, không có nơi chốn khổ não, Bồ-tát phát nguyện vãng sinh trong ấy. Hoặc thấy người khác thọ khổ xem như mình thọ khổ, sinh tâm từ bi phá trừ sự khổ ấy. Hai là sinh trong địa ngục, thấy người thọ khổ xem như mình thọ khổ, cũng sinh tâm từ phá trừ các khổ ấy. Ba là sinh trong ngạ quỷ, thấy chúng sinh thọ khổ như mình tự thọ, cũng sinh tâm từ bi phá trừ mọi khổ ấy. Bốn là sinh trong súc sinh, hoặc thấy thọ khổ như thân mình thọ khổ, cũng sinh tâm từ bi đoạn trừ sự khổ ấy.

Tâm từ đầy đủ lại có ba bậc: Đó là thượng, trung, hạ.

Bậc thượng lại có bốn việc: Một là quán sinh tử khổ. Hai là tu tâm từ bi không có bắt đầu hay chấm dứt. Ba là tâm tánh mạnh mẽ. Bốn là được tâm trí tuệ.

(Thiếu phần (4): Đầy đủ Thánh hạnh…)

Lại có bốn việc: Một là không phóng dật. Hai là đầy đủ giới. Ba là hay nhẫn nhục. Bốn là chí tâm chuyên niệm về đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.

Lại có bốn việc: Một là xem hết thảy chúng sinh giống như con một. Hai là không phân biệt kẻ oán người thân. Ba là được tâm tin kiên cố. Bốn là tu hành Thánh hạnh.

Tu tập tâm từ lại có bốn thứ lực: Một là nội lực. Hai là ngoại lực. Ba là nhân lực. Bốn là lực trang nghiêm.

Bồ-tát Ma-ha-tát chí tâm chuyên niệm về đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đó là nội lực. Vì muốn hóa độ các chúng sinh nên phát tâm cầu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đó là ngoại lực. Có thể ở trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp tu tập hạnh thiện, phụng sự chư Phật và chư Bồ-tát, đó là nhân lực. Bồ-tát Ma-ha-tát ưa gần gũi bạn thiện, lắng nghe chánh pháp, suy nghĩ ý nghĩa và tu hành đúng như nói, đó là lực trang nghiêm.

Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát dùng nội lực và ngoại lực mà phát tâm cầu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đó gọi là tâm chánh, tâm bất động, tâm bất thoái, tâm bất chuyển. Nếu dùng ngoại lực và lực trang nghiêm mà phát tâm Bồ-đề, đó gọi là tâm bất chánh, tâm động, tâm thoái thất, tâm chuyển.

Tâm chuyển của Bồ-tát có bốn nhân duyên: Một là tánh không đầy đủ. Hai là đầy đủ bạn ác. Ba là đối với chúng sinh không đủ tâm từ. Bốn là không thể quán sát lỗi lầm của sinh tử.

Bồ-tát Ma-ha-tát mới phát tâm Bồ-đề gồm có hai việc không thể nghĩ bàn: Một là đối với các chúng sinh khởi tưởng là quyến thuộc. Hai là không có tưởng về chúng sinh, Bồ-tát thường dùng trí tuệ quán sát, ai là chúng sinh, chúng sinh thuộc về ai? Đó gọi là hai nhân. Hai tâm này có thể khiến Bồ-tát không thoái chuyển.

Ban đầu phát Bồ-đề có hai thứ tâm: Một là ban cho chúng sinh sự an ổn. Hai là ban cho chúng sinh sự an lạc. Dùng các pháp thiện giáo hóa chúng sinh khiến xa lìa pháp ác, đó gọi là an ổn. Có thể dùng tài vật cung cấp cho chúng sinh khiến họ xa lìa sự bần cùng, đó là các thứ như y phục, thức ăn, phòng nhà, thuốc men v.v…, đó gọi là an lạc.

Bồ-tát bất thoái có hai thứ tâm: Một là tánh trang nghiêm. Hai là chuyên tâm thọ trì trang nghiêm. Thường suy nghĩ muốn khiến cho chúng sinh được an lạc, đó gọi là tánh trang nghiêm. Trọn không thoái chuyển tâm Bồ-đề, nhân sinh tâm này nên có thể ban cho tất cả chúng sinh sự an lạc, đó gọi là thọ trì trang nghiêm.

Bồ-tát bất thoái phát sinh phước đức gồm có hai chốn: Một là tâm Bồ-đề. Hai là vì chúng sinh mà thọ nhận khổ. Hai việc như vậy gọi là tụ đại pháp thiện.

Bồ-tát mới phát tâm kiên cố lại có hai việc thù thắng hơn tất cả Thanh văn, Duyên giác: Một là nhân thù thắng. Hai là quả thù thắng. Bồ-tát Ma-ha-tát phát tâm Bồ-đề tu các pháp thiện, đó gọi là nhân. Nhân thực hành pháp thiện mà chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đó gọi là quả. Nhân quả như vậy thù thắng hơn tất cả Thanh văn, Duyên giác.

Bồ-tát bất thoái có hai việc lớn: Một là phát tâm rồi tức vì vô lượng chúng sinh làm ruộng phước. Vì làm các bậc cha mẹ, sư trưởng, Hòa thượng mà sinh tâm thương xót, vì thương xót nên khi đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ nghỉ thường có chư thiên hộ trì, như Chuyển luân Thánh vương thường được năm trăm quỷ thần áo xanh hộ vệ. Bồ-tát bất thoái cũng lại như vậy, vì thương xót nên nếu thọ thân thì không có bệnh khổ. Hai là Bồ-tát phát tâm thường vì sự an vui của chúng sinh, xem chúng sinh như cha mẹ, tất cả chúng sinh ở chỗ Bồtát, ba nghiệp thân khẩu ý của Bồ-tát luôn nhu hòa không có xấu ác.

Bồ-tát Ma-ha-tát phát tâm Bồ-đề không mất chánh niệm, đối với các chúng sinh không khởi tâm hại, không ăn thịt, không lừa dối, thường đem pháp thiện giáo hóa chúng sinh, khiến chúng sinh không thọ khổ, không ưu sầu, có thể tự điều phục và điều phục người khác, tùy theo chỗ ở của muôn loài đều khiến cho họ tăng trưởng phước nghiệp. Nếu vì nhân duyên của khách trần phiền não mà rơi vào ba đường ác, tất có thể được ra khỏi, tuy đồng thọ khổ mà không sinh tâm độc hại, thấy người khác thọ khổ sinh tâm thương xót.

Bồ-tát mới phát tâm Bồ-đề, thành tựu vô lượng công đức như vậy.

********

Phẩm thứ 4: LỢI ÍCH TRONG NGOÀI CỦA ĐỊA BỒ TÁT

Bồ-tát Ma-ha-tát phát tâm Bồ-đề, thế nào gọi là hành Bồ-đề? Bồ-tát ở chỗ này chỗ kia hoặc học hoặc dạy, đều vì đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, nghĩa là giữ giới, nghe và suy nghĩ. Đó gọi là hành Bồ-đề.

Bồ-tát Ma-ha-tát có bảy chỗ học: Một là nghĩa nội. Hai là nghĩa ngoại. Ba là nghĩa chân thật. Bốn là nghĩa bất khả tư nghì. Năm là nghĩa điều phục chúng sinh. Sáu là nghĩa tự thuộc pháp Phật. Bảy là chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Đó là bảy chỗ học.

Thế nào là nghĩa nội? Nghĩa nội gồm có mười thứ:

  1. Nghĩa chân thật.
  2. Nghĩa vị tha.
  3. Nghĩa điều phục.
  4. Nghĩa an ổn.
  5. Nghĩa diệu lạc.
  6. Nghĩa của nhân.
  7. Nghĩa của quả.
  8. Nghĩa hiện tại.
  9. Nghĩa đời khác.
  10. Nghĩa rốt ráo.

Bồ-tát Ma-ha-tát vì sự việc của người khác, đó gọi là nghĩa nội.

1. Thế nào gọi là nghĩa chân thật? Nghĩa là biết tánh của phiền não và pháp môn đối trị, đem sự vui của mình ban cho chúng sinh, chí thường tu tập chánh đạo vô thượng, phàm có chỗ mong cầu đều vì an ổn cho chúng sinh, đã được tài vật tâm không tham tiếc, có thể đem cúng dường Phật, Pháp, chúng Tăng, cha mẹ, sư trưởng. Đi xa ngàn vạn dặm để cầu kinh điển Phật và Tạng Bồ-tát, đã được pháp rồi liền lưu thông rộng, không sinh tâm che giấu, tuy hiểu nghĩa sâu xa nhưng không sinh tâm kiêu mạn, vì sinh thiên thượng nên thuyết giảng về lợi ích trì giới, vì phước báo của Chuyển luân vương mà thuyết giảng công đức bố thí, vì hàng Nhị thừa mà thuyết giảng việc tu tập Tam-muội, vì được quả báo lớn ở thế gian mà dạy cúng dường Phật, Pháp, Tăng bảo, rộng tu phước nghiệp, vì người tâm tham mà giảng nói việc tham, vì người lừa dối mà nói việc lừa dối, vì người hành phi pháp mà làm kẻ giúp việc, Bồ-tát Ma-ha-tát làm việc này rồi. Đó gọi là nghĩa chân thật.

2. Thế nào gọi là nghĩa vị tha? Bồ-tát Ma-ha-tát nếu có tự lợi đều vì chúng sinh. Đó gọi là nghĩa vị tha.

3. Thế nào gọi là nghĩa điều phục? Bồ-tát Ma-ha-tát nếu có diễn thuyết đều vì nhằm phá trừ các tà kiến. Vì người phá giới, không tin nhân quả, không thấy lỗi lầm, nên nói về các lỗi hủy hoại giới cấm, vì dứt trừ ba đường ác mà diễn nói chánh pháp. Nếu có người thoái thiền và pháp thiện, vì nêu bày chỗ bất thoái nên vì họ thuyết pháp. Vì muốn làm tăng trưởng các pháp thiện nên vì họ thuyết pháp. Vì muốn khiến chúng sinh được tự tại cho nên nêu giảng pháp. Vì muốn khiến chúng sinh trong mười phương thế giới đạt được thần túc thiện nên thuyết pháp. Đó gọi là nghĩa điều phục.

Nghĩa nội gọi là nghĩa ngoại. Nghĩa ngoại cũng gọi là nghĩa nội. Nghĩa nội ngoại gọi là nghĩa điều phục. Nghĩa điều phục cũng gọi là nghĩa nội ngoại. Như Lai có đủ mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng, đại bi, ba niệm xứ, năm trí, Tam-muội, đó gọi là nghĩa chân thật. Nghĩa chân thật gọi là nghĩa nội ngoại. Nghĩa nội ngoại gồm có hai thứ: Một là tự điều phục. Hai là điều phục kẻ khác. Bồ-tát Ma-ha-tát khéo nhận biết phương tiện, đó gọi là nghĩa điều phục. Bồ-tát thực hành tất cả việc thiện, đó gọi là nghĩa điều phục.

Vì sao lại gọi là nghĩa nội ngoại? Đây gồm có năm việc: Một là làm tịnh ở thân khác. Hai là nuôi lớn pháp thiện khác. Ba là hiện tại tạo lợi ích. Bốn là đời sau tạo lợi ích. Năm là phá trừ phiền não cho người. Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát tùy theo chỗ tu thiện hoặc nhiều hoặc ít, đem giáo hóa chúng sinh khiến cùng được như mình, đó gọi là nghĩa điều phục.

4. Thế nào gọi là nghĩa an ổn? Bồ-tát Ma-ha-tát đã tự mình an ổn, lại đem sự an ổn của mình ban cho chúng sinh, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc nơi cõi dục, hoặc nơi thiền định. Đó gọi là nghĩa an ổn.

Nghĩa an ổn cũng gọi là nghĩa nội ngoại, cũng gọi là nghĩa điều phục, cũng gọi là nghĩa chân thật.

Nghĩa nội ngoại của Bồ-tát Ma-ha-tát: Có lúc hiện tại vui chẳng phải đời khác vui. Có lúc đời khác vui chẳng phải hiện tại vui. Có lúc hiện tại vui, đời khác vui. Có lúc chẳng phải hiện tại vui chẳng phải đời khác vui. Nghĩa nội ngoại lại có bốn thứ: Có người thọ pháp đời hiện tại thọ vui, đời khác thọ khổ. Có người thọ pháp đời hiện tại thọ khổ, đời khác thọ vui. Có người thọ pháp đời hiện tại thọ vui, đời khác cũng vui. Có người thọ pháp đời hiện tại thọ khổ, đời khác cũng khổ.

Bồ-tát Ma-ha-tát nếu thuyết giảng về Niết-bàn và Đại Niết-bàn, tám Thánh đạo phần, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, thuyết giảng về đạo thế gian và xuất thế gian, đó gọi là nghĩa an ổn. Nghĩa an ổn gọi là nghĩa nội ngoại, nghĩa nội ngoại gọi là nghĩa chánh, nghĩa chánh gọi là nghĩa vô thượng, nghĩa vô thắng, nghĩa an ổn, nghĩa thường lạc. Bồ-tát Ma-ha-tát thọ nhận thường lạc, có thể hành trì nghĩa nội ngoại, nghĩa chánh, nghĩa điều phục, nghĩa an ổn.

5. Thế nào gọi là nghĩa diệu lạc? Nghĩa diệu lạc gồm có năm thứ: Một là lạc nhân. Hai là lạc thọ. Ba là lạc đoạn thọ. Bốn là lạc xa lìa. Năm là lạc Bồ-đề.

Thế nào là lạc nhân? Nhân nơi tiếp xúc trong ngoài. Do nhân duyên tiếp xúc nên có thọ lạc, đó gọi là lạc nhân. Nhân hành pháp thiện nên đời khác được thọ lạc, đó gọi là lạc nhân.

Thế nào là lạc thọ? Do nơi nhân duyên mà thân được tăng trưởng, tâm được an ổn, đó gọi là lạc thọ. Lạc thọ gồm có hai thứ: Một là hữu lậu. Hai là vô lậu. Vô lậu lại có hai: Một là học địa, hai là vô học. Hữu lậu có ba cõi: Một là cõi dục, hai là cõi sắc, ba là cõi vô sắc. Ba cõi có nội ngoại nhập nên có sáu xúc. Sáu xúc có hai thứ: một là thân lạc, hai là tâm lạc. Năm thức cùng hành gọi là thân lạc. Ý thức cùng hành gọi là tâm lạc.

Tu tập Thánh đạo để đoạn các thọ, đạo đức tăng trưởng không có các thọ, nên gọi là lạc đoạn thọ.

Vĩnh viễn lìa phiền não, thân tâm không khổ, gọi là lạc xa lìa.

Vì thọ nhận thường lạc nên gọi là lạc Bồ-đề.

Hoặc có người nói: Định vô tưởng gọi là lạc đoạn. nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì không đoạn thọ.

Lạc xa lìa gồm có bốn thứ: Một là lạc xuất gia. Hai là lạc tịch tĩnh. Ba là lạc đoạn. Bốn là lạc Bồ-đề. Người ở thế gian phần nhiều có ưu khổ, vĩnh viễn đoạn trừ khổ ấy, nên gọi là lạc xuất gia. Đoạn trừ tham ở cõi dục gọi là lạc tịch tĩnh. Vĩnh viễn đoạn dứt phiền não gọi là lạc đoạn. Thọ nhận thường lạc gọi là lạc Bồ-đề.

Bồ-tát thường có thể ban vui cho chúng sinh nên gọi là lạc Bồđề. Bồ-tát Ma-ha-tát tự thọ thường lạc và chuyển thí cho chúng sinh gọi là lạc Bồ-đề.

Vì sao gọi là lạc nhân? Là nhân của lạc nên gọi là lạc nhân, không gọi là lạc thọ. Lạc thọ không gọi là lạc nhân mà gọi là lạc tánh. Lạc đoạn không gọi là lạc nhân, không gọi là lạc thọ, do đoạn nhiều lạc nên gọi là lạc đoạn. Lạc xa lìa không gọi là lạc nhân, không gọi là lạc thọ, không gọi là lạc đoạn, do quán các lỗi lầm tai họa của sinh tử nên gọi là lạc trí tuệ. Lạc Bồ-đề không gọi là lạc nhân, không gọi là lạc thọ, không gọi là lạc đoạn, không gọi là lạc xa lìa, do vô biên thường nên gọi là lạc Bồ-đề, cũng gọi là lạc vô thắng, gọi là lạc vô biên, gọi là lạc vô thượng, cũng gọi là lạc thường, gọi là lạc tịch tĩnh.

6. Thế nào gọi là nghĩa của nhân? Bồ-tát Ma-ha-tát có thể dùng năm thứ lạc như trên bố thí cho chúng sinh, đó gọi là nghĩa của nhân. Bồ-tát Ma-ha-tát thường phá trừ các nghiệp ác của chúng sinh, chỉ bày chánh nghiệp, do chánh nghiệp nên chứng đắc đạo vô thượng, đó gọi là nghĩa của nhân. Bồ-tát Ma-ha-tát vì các chúng sinh nên thọ nhận khổ não lớn, vì thọ khổ nên có thể điều phục chúng sinh, đó gọi là nghĩa của nhân. Bồ-tát Ma-ha-tát quán sát thiện ác, có thể chỉ bày việc thiện ác cho chúng sinh, vì khai thị nên được trí tuệ lớn, do được trí tuệ lớn nên có thể phá trừ ác dữ. Đó gọi là nghĩa của nhân.

7. Thế nào gọi là nghĩa của quả? Bồ-tát Ma-ha-tát nhân nơi trí tuệ mà hành sáu pháp Ba-la-mật, cho đến chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Đây là nghĩa của quả.

Bồ-tát Ma-ha-tát vì hủy hoại tâm tham nên có thể ban cho chúng sinh năm thứ lạc, do các chúng sinh đạt được lạc này nên gọi là nghĩa của quả.

Bồ-tát Ma-ha-tát thương xót chúng sinh, muốn khiến cho tất cả đồng thọ lạc như mình. Đó gọi là nghĩa nội ngoại. Nghĩa nội ngoại gồm có ba thứ. Nhân cũng có ba thứ. Quả cũng có ba thứ: Nhân của báo quả của báo, nhân của phước quả của phước, nhân của trí quả của trí.

Thế nào gọi là báo? Báo có tám thứ: Một là sống lâu. Hai là được thọ thân đầy đủ. Ba là được ở nơi dòng tộc lớn. Bốn là được tự tại. Năm là ngôn ngữ vi diệu. Sáu là được thân nam tử. Bảy là được sức lực lớn. Tám là không ai có thể hơn.

Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập tâm từ nên được sống lâu. Đây gọi là báo của nhân. Bồ-tát Ma-ha-tát ưa dùng y phục, thức ăn, phòng nhà, thuốc men thí cho chúng sinh, vì thế được thọ thân đầy đủ. Bồ-tát Ma-ha-tát bỏ tâm kiêu mạn, cung kính cúng dường cha mẹ, sư trưởng và người có đức, vì thế được ở nơi dòng tộc lớn. Bồtát Ma-ha-tát theo pháp thực hành, phá bỏ phi pháp, nên được tự tại vô ngại. Bồ-tát luôn chân thật không lừa dối chúng sinh, nên được ngôn ngữ vi diệu. Bồ-tát Ma-ha-tát thường chê trách năm thứ dục, nên được thân nam tử. Bồ-tát Ma-ha-tát thường ưa thích cúng dường Phật, Pháp, Tăng bảo, nên thân có được lực dụng lớn. Bồtát Ma-ha-tát thường có thể giáo hóa tất cả chúng sinh cúng dường Tam bảo, thế nên có thể đạt được là không ai có thể hơn. Đó gọi là báo của quả.

Không hại chúng sinh, thọ mạng được tăng trưởng. Đó gọi là nhân của báo. Ưa dùng các thứ y phục, thức ăn uống, phòng nhà, thuốc men trị bệnh, thí cho chúng sinh, thế nên Bồ-tát được thân đầy đủ. Có thể phá trừ kiêu mạn hiện có của chúng sinh, nên được ở nơi dòng tộc lớn. Có thể trừ bỏ sự bần cùng khốn khổ cho chúng sinh, nên được tự tại. Có thể phá diệt các thứ nói dối, nói hai lưỡi, nói lời ác và nói lời vô nghĩa của chúng sinh nên được lời nói vi diệu. Khen ngợi thân nam, chê trách thân nữ, do hai nhân này tức được sinh trong loài người, thọ thân nam tử. Lại xa lìa tà dục phi pháp nên được thân nam tử. Bồ-tát Ma-ha-tát dùng thức ăn thanh tịnh thí cho chúng sinh, thấy người nguy nạn có thể cứu giúp, thế nên thân có được lực dụng lớn. Thọ trì chánh pháp, đọc tụng giải nói, nên có thể đạt được là không ai có thể hơn. Đây là báo có tám thứ.

Tám thứ như vậy nhân nơi ba việc nên được tăng trưởng: Một là tâm tịnh. Hai là trang nghiêm tịnh. Ba là phước điền tịnh. Bồ-tát Ma-ha-tát chí tâm chuyên cầu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đó gọi là tâm tịnh. Cúng dường chư vị đồng học, đồng pháp, đồng thầy, đó gọi là tâm tịnh. Nếu thấy hoặc nghe chư vị đồng học, đồng pháp, đồng thầy, tâm sinh hoan hỷ, đó gọi là tâm tịnh. Tu tập pháp trợ đạo Bồ-đề, thường ưa thọ trì, biên chép, đọc tụng tạng pháp Bồ-đề, lại dùng pháp này chuyển hóa cho chúng sinh, nếu có người không thọ lãnh, tâm không ưu sầu hối hận, cũng không dừng nghỉ, đó gọi là trang nghiêm tịnh. Do hai pháp trên tịnh nên gọi là phước điền tịnh.

Thế nào là quả của báo nơi Bồ-tát? Bồ-tát sống lâu gọi là quả của báo. Vì sao Bồ-tát cầu nơi sống lâu? Bồ-tát được thọ mạng dài lâu, trải qua vô lượng đời tu pháp thiện vì tự lợi lợi tha, thế nên Bồ-tát cầu nơi sống lâu. Đây gọi là quả của báo.

Vì sao Bồ-tát cầu được thân đầy đủ? Do Bồ-tát có thân đầy đủ, chúng sinh ưa nhìn, ái kính hoan hỷ, do hoan hỷ nên dễ nhận sự giáo hóa, vì thế Bồ-tát cầu thân đầy đủ. Đây gọi là quả của báo.

Vì sao Bồ-tát cầu ở nơi dòng tộc lớn? Vì dòng tộc lớn thường

được chúng sinh cung kính, do cung kính nên tin nhận lời dạy, hoặc vì dòng tộc, hoặc vì lợi ích, hoặc vì sợ sệt mà thọ nhận lời dạy, vì thế Bồ-tát cầu ở nơi dòng tộc lớn. Đây gọi là quả của báo.

Vì sao Bồ-tát cầu nơi tự tại? Vì được tự tại thì có thể giáo hóa vô lượng chúng sinh, thành tựu đầy đủ Bố thí Ba-la-mật, thế nên Bồtát cầu được tự tại. Đây gọi là quả của báo.

Vì sao Bồ-tát cầu được lời nói vi diệu? Bồ-tát nói ra ngôn từ vi diệu thì chúng sinh ưa nghe, đồng pháp đồng nghĩa đồng hành đồng sư, thường có thể giáo hóa khiến được điều phục. Đây gọi là quả của báo.

Vì sao Bồ-tát cầu nơi thân nam tử? Thân nam tử chính là vật chứa đựng tất cả pháp thiện, có thể nhẫn chịu các khổ, có thể quán sát pháp giới, ở trong bốn chúng không sợ hãi phải gặp khó khăn, đối với thời đối với nghĩa có thể nhanh chóng hiểu biết rõ, tùy theo chỗ đến không có trở ngại, thế nên Bồ-tát cầu được thân nam tử. Đây gọi là quả của báo.

Vì sao Bồ-tát cầu có lực dụng lớn? Bồ-tát thành tựu lực dụng lớn này tức có thể tu hành tất cả pháp thiện, có thể siêng năng tinh tấn cứu vớt các khổ não của chúng sinh, cho nên Bồ-tát cầu có lực dụng lớn. Đây gọi là quả của báo.

Vì sao Bồ-tát cầu đạt không ai hơn? Bồ-tát nếu được là vô thắng thì có thể ban cho tất cả chúng sinh những vật cần dùng, do nhân duyên này tức có thể khiến chúng sinh ưa thấy, nghe pháp và tin nhận lời dạy, thế nên Bồ-tát cầu được không ai hơn. Đây gọi là quả của báo.

Bồ-tát có đủ tám thứ quả của báo này thì có thể nuôi lớn pháp Phật vô thượng, đem lại lợi ích cho chúng sinh, tức thấy Phật đạo như xem quả Am-ma-lặc trong lòng bàn tay. Tuy Bồ-tát thành tựu đầy đủ tám quả như vậy, nhưng nếu không thể giáo hóa vô lượng chúng sinh khiến được điều phục, thì không thể chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Nếu giáo hóa khiến chúng sinh được điều phục, nhưng không đầy đủ tám quả như vậy, thì cũng không thể chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.

Bồ-tát Ma-ha-tát thành tựu đầy đủ tám quả như thế, dùng pháp của ba thừa giáo hóa chúng sinh, thì tự chứng đắc quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.

Bồ-tát Ma-ha-tát sở dĩ gồm đủ tám quả như thế, là vì muốn giáo hóa điều phục chúng sinh, gọi là nghĩa nội ngoại gồm đủ tám quả, gọi là nghĩa của quả. Nhân của báo quả của báo cũng gọi là nghĩa của quả.

Thế nào là phước? Thế nào là trí? Ba thứ Ba-la-mật là bố thí, trì giới, nhẫn nhục gọi là phước đức. Bát-nhã Ba-la-mật gọi là trí tuệ. Hai thứ Ba-la-mật còn lại cũng gọi là nhân của phước, cũng gọi là nhân của trí. Nếu siêng năng tinh tấn tu tập thiền định, thành tựu đầy đủ từ bi hỷ xả, do lực của bốn nhân duyên này nên được tự tại, đó gọi là nhân của phước. Nếu siêng năng tinh tấn tu tập Tam-muội, quán sát năm ấm, các nhập, các giới, quán khổ là thật khổ, quán tập là thật tập, quán diệt là thật diệt, quán đạo là thật đạo, quán thật chẳng phải thật, quán thiện chẳng phải thiện, quán pháp chẳng phải pháp, quán thượng quán hạ, quán trắng quán đen, quán mười hai nhân duyên, đó gọi là nhân của trí. Nếu siêng năng tinh tấn tu tập nhất tâm, ưa hành bố thí, thích trì giới cấm, vui tu nhẫn nhục, đó gọi là nhân của phước. Nếu siêng năng tinh tấn tu tập nhất tâm, ưa lắng nghe, thọ trì, biên chép, đọc tụng, tuyên thuyết kinh điển nơi mật tạng của Bồ-tát, do lực của nhân duyên đa văn này, nên được trí tuệ lớn, có thể phân biệt pháp giới. Phân biệt pháp giới gọi là quả của trí. Nhân của phước nơi Bồ-tát cũng là nhân cũng là quả. Nhân của trí nơi Bồ-tát cũng là nhân cũng là quả. Nhân của phước nơi Bồ-tát cũng là phước cũng là trí. Nhân của trí nơi Bồ-tát cũng là trí, cũng là phước. Cho nên nhân của phước nơi Bồ-tát gồm có sáu, nhân của trí cũng có sáu, đó là sáu pháp Ba-la-mật.

Thế nào là nhân của phước, nhân của trí? Nhân của phước, nhân của trí gồm có ba thứ: Một là tâm tín. Hai là phát tâm. Ba là gần gũi bạn thiện. Đây là ba thứ nhân của phước. Nhân của trí lại có hai thứ: Một là thiện. Hai là bất thiện. Nếu gần gũi bạn ác, tu tập tà đạo, hành thí định tuệ, gọi là phước bất thiện. Phá trừ phước tuệ bất thiện như vậy gọi là phước thiện. Nếu không có tâm tín và không do phát tâm, không gần gũi bạn thiện, thì trọn không thể đạt được phước đức trí tuệ. Nếu nói xa lìa ba sự việc như vậy mà được phước tuệ thì không có điều ấy. Đó gọi là nhân của phước đức, nhân của trí tuệ.

Thế nào là quả của phước, quả của trí? Bồ-tát Ma-ha-tát thành tựu đầy đủ phước đức như vậy, không bị sinh tử làm cho nhiễm ô, đó gọi là quả. Bồ-tát thành tựu đầy đủ trí tuệ, xa lìa đạo ác tu tập đạo thiện, đó gọi là quả. Bồ-tát Ma-ha-tát thành tựu đầy đủ hai sự việc như vậy, giáo hóa chúng sinh chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đó gọi là quả.

Bốn tâm vô lượng cũng gọi là quả của phước quả của trí nơi Bồ-tát. Bồ-tát Ma-ha-tát có nhân của báo hoặc quả của báo, đó gọi là phước đức. Nhân của phước đức, quả của phước đức cũng gọi là trí tuệ, là nhân của trí tuệ, quả của trí tuệ. Nếu trong hai pháp nay, lìa một pháp mà chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, thì không có điều ấy. Đó gọi là nghĩa của quả. Nghĩa của quả gọi là nghĩa nội ngoại.

8. Thế nào gọi là nghĩa hiện tại? Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát học tất cả các sự việc thế gian, do nhận biết khắp nên được tự tại lớn. Do được tự tại nên có thể giáo hóa chúng sinh, chúng sinh lãnh thọ rồi tu tập pháp thiện, đó gọi là nghĩa hiện tại. Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát thoái mất pháp thiện, tu tập Tam-muội, do tu định nên trở lại được pháp thiện, đó gọi là nghĩa hiện tại. Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát vì khách trần là phiền não nên tạo ra các tội, tạo rồi quán xét kỹ biết nhất định sẽ chịu quả, tức sinh tâm hối hận, xấu hổ mà phá trừ các nghiệp ác hiện tạo, đó gọi là nghĩa hiện tại. Nếu vì sức nhân duyên của nghiệp ác, hoặc bị người khác mắng nhiếc, hoặc sân giận đánh đập, thân chịu các khổ, đó gọi là nghĩa hiện tại. Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập thiền định, do nhân duyên này mà thân thọ an lạc, đó gọi là nghĩa hiện tại. Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát thân được tự tại nơi bốn đức là thường, lạc, ngã, tịnh, đó gọi là nghĩa hiện tại. Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát tu tám Thánh đạo, do nhân duyên này nên đạt được Niết-bàn, đó gọi là nghĩa hiện tại. Như Bồ-tát thì chúng sinh cũng như vậy.

9. Thế nào gọi là nghĩa đời khác? Vì nhân duyên hiện tại nên thọ thân đời khác, đó gọi là nghĩa đời khác. Nghĩa đời khác nơi hiện tại, đó gọi là nghĩa nội ngoại.

10. Thế nào gọi là nghĩa rốt ráo? Phước đức trong cõi dục không phải là nghĩa rốt ráo. Phước đức nơi cõi sắc và Vô sắc đối với thế gian tuy được tự tại nhưng cũng không phải là nghĩa rốt ráo. Như các Bồ-tát tu tám Thánh đạo đạt được Niết-bàn, thân ấy vô ngại, không có cùng tận, pháp thiện vô lượng nên gọi là nghĩa rốt ráo.

Rốt ráo có ba thứ: Một là tánh rốt ráo. Hai là thoái chuyển rốt ráo. Ba là báo tận rốt ráo. Không rốt ráo cũng như vậy.

Tánh rốt ráo: Đó gọi là tánh Niết-bàn. Không rốt ráo gọi là pháp hữu vi.

Thoái chuyển rốt ráo là Thanh văn, Duyên giác đã tu tám chánh đạo. Bất thoái rốt ráo là không thoái chuyển.

Báo tận rốt ráo là quả báo phước đức hiện có ở thế gian. Báo bất tận rốt ráo là đạo quả vô thượng.

Trên đây là mười nghĩa, Bồ-tát Ma-ha-tát thường nên tu tập giáo hóa chúng sinh. như các Bồ-tát đời quá khứ đã học, hiện tại, vị lai cũng lại như vậy. Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát không thể tu học mười pháp trên, thì không thể đạt được giới cấm của Bồ-tát.

HẾT – QUYỂN 1

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9