LUẬN ĐẠI THỪA CHƯỞNG TRÂN
Tác giả: Bồ tát Thanh Biện
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN HẠ

Như vậy là đã nói về hành giả tu quán theo tổng tướng ngộ nhập về tánh hữu vi không, nhưng chưa ngộ nhập về tánh vô vi không. Nếu không khai thị thì không do đâu để ngộ nhập. Nếu không ngộ nhập thì không có tuệ phân biệt. Nghĩa là hành hướng nhập trọn không thể thành tựu. Vì khai thị nên lại nói lời này: Vô vi không có thật, không khởi giống như hoa đốm giữa hư không. Trong đó, đã phân biệt về ngôn từ lập tông, tức chân tánh trên cần có ý phân biệt nhận xét, nên biết như trước. Căn cứ theo chân tánh nên lập vô vi là không, chẳng phải căn cứ theo thế tục, chẳng phải là hữu vi nên gọi là vô vi. Ngược đối với hữu vi là nghĩa vô vi, tức là hư không trạch diệt, phi trạch diệt và tánh chân như. Nghĩa là trừ một phần pháp xứ ở trước đã ngộ nhập sáng rõ, nên tánh không của hư không là dễ khai thị. Chỉ căn cứ theo không, không có vật chất ngại, thế gian cùng lập tên là hư không. Do đây là môn ngộ nhập tánh không của vô vi còn lại, tức là chỗ nhận biết về hư không của thế gian này. Theo chân tánh nên là không, không có thật. Đó gọi là lập tông. Tức chỗ lập này căn cứ theo chân tánh nên không thật có hư không. Do hai tông đều cho là không khởi. Hoặc giả lập là pháp không khởi, nên gọi là nhân. Vì hoa đốm giữa hư không là không thật, cũng không khởi nên lập là đồng dụ. Không nói phẩm Ngăn dứt khác lập là không đồng pháp dụ. Nên biết như trước, vì sao ở đây kiến lập tỷ lượng? Nghĩa là căn cứ theo chân tánh, hư không là không thật, do không khởi. Các thứ không khởi, kẻ ngu, người trí cùng nhận biết, tánh ấy không thật cũng như hoa đốm giữa hư không. Vì nhân đã lập này không khởi, nên chỉ lược nêu về danh tướng. Lại có nhân khác, chẳng phải là đối tượng tạo tác nên chẳng phải là chủ thể tạo tác, không hoại diệt. Các nhân như vậy có thể ngăn chận chỗ thuyết giảng về tự tánh của vô vi, cho nên như chỗ ứng hợp đều được làm nhân. Như nói ông nên giữ tô lạc này trong tay, chớ cho chim chóc đến gần, khiến cho chỗ giữ gìn không bị hao tổn cấu nhiễm, cũng phải ngăn chận các loại mèo, chuột.

Sư Tỳ-bà-sa đều nêu vấn nạn: Nếu chỗ lập tông về vô vi là không thật, là nghĩa không có, là đẳng chí không xứ, tức không có đối tượng duyên, thì vì sao có thể có? Nhưng không chướng ngại là tướng của hư không. Đây là hoặc theo phương tiện lập tỷ lượng để nói, đẳng chí không xứ thật có đối tượng duyên, hoặc cảnh thật có là đẳng chí. Hoặc cảnh nơi đối tượng duyên của đẳng chí này như đẳng chí khác, hoặc như duyên kia. Đẳng chí khác ấy và đối tượng duyên kia là hữu vi. Đã biện biệt về tánh không tức không đồng dụ. Đây là theo thắng nghĩa để biện luận về tướng hư không. Nếu theo chỗ lập của thế tục thì hư không cũng chẳng phải là thật có, do không khởi, cũng như hoa đốm giữa hư không. Do tỷ lượng này nên chỗ kiến lập thật có kia không thành. Lại, tức do đấy nên tôi đã nói về nhân. Ông nói vì cảnh nơi đối tượng duyên của đẳng chí nên nhân có quyết định lỗi lầm trái nhau. Vì vậy nghĩa đã lập trước của tôi thành tựu, vì không chướng ngại.

Tự Bộ, Tha Bộ có người nói như vầy: Nếu căn cứ theo chân tánh, hư không là không thật, do không khởi, nên nghĩa của lời nói ấy là chuẩn. Khởi là đều thật. Nếu nói người khởi cũng không có thật, tức là nhân này không hiện bày khắp nhân đồng phẩm, tánh không thành. Đây là nghĩa chuẩn. Loại lỗi tương tợ giống với lỗi không thành. Đây là lời thẩm định. Các người không khởi đều không có thật. Không phải là lời thẩm định tức các người không thật thảy đều không khởi. Tuy siêng năng dũng mãnh phát khởi không gián đoạn, nhưng không hiện bày khắp đồng phẩm cũng thừa nhận là nhân nên không có lỗi này.

Có vấn nạn nêu: Hư không có tánh, thế gian cùng nhận biết. Hoa cũng có tánh. Ốt-bát-la v.v… thế gian hiện thấy. Hoa đốm giữa hư không có hai loại, tuy không tương ưng, chẳng phải là không có tự tánh. Nên hoa đốm giữa hư không dụ cho chỗ đã lập không thành. Vấn nạn ấy không đúng. Hoa đốm này là dụ cho cách giải thích thứ sáu: Chuyển y sĩ huấn. Vì hoa của hư không nên gọi là không hoa. Đây đã là không phải có nên dụ cho không phải không.

Do đạo lý này nên Hành giả tu quán nên ngộ nhập đúng tánh không của hư không. Đối với ba loại vô vi như trạch diệt v.v… theo đạo lý tánh không cũng phải ngộ nhập.

Các Sư Tỳ-bà-sa không nỡ ngăn phá trạch diệt vô vi. Họ lại nêu vấn nạn: Đức Phật nói trạch diệt là để đối trị hữu vi nên gọi là xuất ly. Nếu hủy báng cho là không thì các ông liền có lỗi lầm là trái với tông. Lại, Đức Thế Tôn nói: Các thọ của hỷ, tham cùng hành tận diệt gọi là Niết-bàn tịch tĩnh vi diệu. Vì sao nói là không? Ở đây, Đức Thế Tôn muốn khiến các hữu tình được giáo hóa, ở nơi cảnh hữu vi siêng tu chán lìa, ở nơi cảnh vô vi tùy thuận an lạc. Căn cứ theo thế tục nói có trạch diệt xuất ly, Niết-bàn tịch tĩnh vi diệu. Như Đức Phật nói có hữu tình hóa sinh, nên nói có Niết-bàn vô vi cũng như vậy. Vì cho điều này là có nên không có lỗi trái với tông. Song căn cứ theo chân tánh ngăn phá trạch diệt. Nên Đức Thế Tôn nói: Các hữu tình tìm cầu Niết-bàn có tánh, Ta nói là người si mê đệ tử của ngoại đạo, cho đến nói rộng. Lại nói: Như Lai không thấy có sinh tử và Niết-bàn. Nói Niết-bàn là Như Lai giả lập, trong ấy đều không có tự tánh của Niếtbàn, cho đến nói rộng. Cũng không có lỗi lầm phỉ báng Thánh đế. Do căn cứ theo thế tục nói có ái khổ rốt ráo không sinh, nên xuất ly đạt Niết-bàn tịch tĩnh vi diệu không điên đảo. Chẳng phải theo thắng nghĩa nói có ái khổ rốt ráo không sinh, nên bản tánh tịch diệt gọi là diệt đế. Do Thánh giáo này và lý đã được thuyết giảng căn cứ theo chân tánh nên nói không có trạch diệt, không có lỗi này.

Có Luận giả Chánh lý bất thiện khác nói như vầy: Chỗ lập tông ngôn về vô vi là không thật. Vô vi đã không, thì chỗ lập không thành. Chỗ dựa không thành, vì hoa đốm nơi hư không là không, nên pháp có không thành, tức nhân dụ lập tông đều có lỗi lầm. Vấn nạn này không đúng. Sức của tưởng được nêu bày ở nơi chỉ không có nhưng có vật chất ngại lập làm hư không. Do tuệ phân biệt lựa chọn, ở nơi chỉ không có phiền não sinh khởi lập làm trạch diệt. Do thiếu các duyên, ở nơi chỉ không có các pháp sinh khởi lập làm phi trạch diệt. Ở nơi chỉ không có tất cả chỗ chấp lập làm chân như. Sức của tưởng được nêu bày cho là có giả lập về hư không v.v… nên không làm rõ sai biệt. Do sức cùng thừa nhận nên lập chung là pháp có. Sai biệt được ngăn chận loại trừ chẳng phải là chỗ cùng nhận biết, lập làm pháp tông. Không khởi kia v.v… cùng với chỗ nhận biết rõ lập làm pháp nhân, thế nên không có lỗi nhân lập tông.

Đã nói về không hoa, tuy là sự không có, là pháp có của pháp không khởi v.v… có tánh vô tánh, do đó lập nghĩa của chủ thể thành, đối tượng thành, nên pháp không có, không thành lỗi.

Sư Tỳ-bà-sa lại nói: Điều này cũng không đúng. Trạch diệt là thật có, vì là đối tượng duyên của đạo, vì trái với phiền não, chẳng phải là pháp không thật có thể có sự việc này. Lời này chỉ có ngăn chận Phẩm Dị, như ngăn chận tánh thật có của hư không. Trước đã phá đầy đủ, không nên chấp nữa.

Các Sư thuộc Kinh Bộ đều nói: Lập hư không v.v… đều chẳng phải thật có. Tỷ lượng như vậy là lập rồi liền thành lỗi. Nếu theo nghĩa này để nói thì sắc có ngăn ngại cùng vô tánh làm thể, chẳng phải lập rồi biện luận cho tánh kia là không, nên chỗ lập tông ngôn là vô vi không thật. Lời này chính là để loại trừ chấp trước về tánh thật có, cũng lại dựa vào đấy để loại bỏ chấp trước về tánh thật không.

Sư Đồng Diệp Bộ lại nói: Các sắc trong khe hở gọi là hư không. Vì tông của tôi lập chúng là hữu vi. Ông đã loại bỏ vô vi, lập rồi thành lỗi, vì tự tánh của hữu vi như trước đã loại trừ nên cũng không đúng. Sư Tỳ-bà-sa và Độc Tử Bộ chỗ chấp phần nhiều là đồng, nên phá bỏ như tông kia.

Các Sư Luận Tương ưng lại nói: Ở trên thắng nghĩa lại không có thắng nghĩa. Chân như tức là thắng nghĩa của các pháp, nên căn cứ theo thắng nghĩa để nói chân như là không. Lời này xứng hợp với lý. Nhưng nói chân như chẳng phải là thật có, điều này không xứng lý. Vì sao trí không phân biệt xuất thế cùng với thế trí hậu đắc thanh tịnh này duyên nơi cảnh vô vi là ứng hợp chánh lý? Thật không hợp lý. Như nói thế trí duyên nơi cảnh vô vi là không hợp chánh lý. Trí này như vậy duyên nơi cảnh hữu vi cũng không hợp lý. Chẳng phải chấp chân như thật có là ứng hợp lý. Tánh thật có này vì khó thành lập, nên trí duyên nơi chân như, chẳng phải là trí không phân biệt xuất thế đích thật. Vì có đối tượng duyên và vì cùng với hữu vi nên như thế trí duyên này. Cho nên kinh nói: Này Mạn-thù-thất-lợi! Tuệ nhãn làm sao thấy? Đáp: Tuệ nhãn đều không có đối tượng thấy. Lại nói: Vì sao gọi là thắng nghĩa đế? Đáp: Ở trong đó trí hãy còn không hành huống chi là các danh tự. Lại nói: Phạm chí! Bồ-đề của Như Lai không phải có thể hiện quán. Khế kinh lại nói: Này Mạn-thù-thất-lợi! Thế nào là kiến đế? Đáp: Trong đó không có một pháp nào có thể thấy để nhớ giữ. Các Khế kinh này, không thừa nhận trí không phân biệt ấy là có thể hiện quán và duyên nơi chân như. Lại, chân như kia chẳng phải là chân thắng nghĩa, vì là đối tượng duyên, cũng như sắc v.v… Lại, ông đã nói ở trên thắng nghĩa lại không có thắng nghĩa. Những lời như vậy, nếu cho ở trên ấy là không, không có pháp ấy nên gọi là không, thì trên các thứ vải lụa lại không có vải lụa, những người chăn dê cũng cùng nhận biết rõ. Những người kia cũng nên gọi là người thấy chân lý. Lại vì để đối trị các ác kiến, nên nói về không như vậy. Ở trên thắng nghĩa lại có thắng nghĩa, vì loại ác kiến này chưa từng có, tức không nên ngăn chận người kia thuyết về không như vậy. Lại, chân như kia tánh chẳng phải là thật có, trái với thuyết như trước đã nói, vì lý của tỷ lượng. Như nói Như Lai không thấy sinh tử cùng cho là Niết-bàn, đã nhận biết rõ đúng chẳng phải có chỗ khởi phiền não điên đảo, vì bản tánh rốt ráo là tự tánh không sinh. Bản tánh rốt ráo đã nhận biết đúng như vậy, chẳng phải là nhận biết đúng, chẳng phải là không nhận biết đúng. Do Thánh giáo này nên biết chân như chính là sự diệt trừ vĩnh viễn tất cả phân biệt, chẳng phải là tánh thật có, chẳng phải là lìa không phải có. Thật tánh nơi chân như, chuyển y là tướng, thành tựu pháp thân. Do đắc quán không là đạo đối trị chân thật. Tất cả chủng tử của biến kế sở chấp phân biệt các thứ phân biệt là chỗ dựa trong thức dị thục vĩnh viễn đoạn trừ không còn sót. Do nhân duyên không nên rốt ráo không sinh. Bản tánh không sinh, bản tánh thường trụ, đó gọi là Pháp thân chuyển y của Như Lai. Như Khế kinh nói: “Này Mạn-thù-thất-lợi! Nói Như Lai tức là gốc rốt ráo không sinh, pháp thường không sinh đó gọi là Như Lai, cho đến nói rộng”. Nếu nói chân như tuy lìa ngôn thuyết, nhưng là thật có, tức là ngã của ngoại đạo với danh tưởng sai biệt, nói là chân như. Như chân như kia, tuy là thật có, nhưng theo thắng nghĩa thì những phân biệt về có không phải có là không thành. Ngã cũng như vậy, ngoại đạo kia cũng chấp ngã. Tuy là thật có, hiện bày khắp, thường trụ nhưng tác giả, thọ giả đều lìa phân biệt. Do chẳng phải là xứ hành của ngôn ngữ, vì không duyên với giác tuệ phân biệt nên gọi là lìa phân biệt. Trong giáo kia nói: Ngôn thuyết không hành, tâm ý không chứng, nên gọi là ngã. Tướng của ngã đã như vậy nhưng lại nói: Trí duyên chân như có thể được giải thoát, chẳng phải là duyên nơi trí của ngã. Điều này có khác biệt gì? Đều là vô ngôn thuyết, vì có thật tánh, nên chỉ chấp nơi bè nhóm. Nói lời như vầy: Vì ngã không thể tin nhận như thế nên giống ngã, chân như là thật có chẳng phải có. nên dừng lại sự tranh luận rộng, vì có các hữu tình chán sợ đối với văn nghĩa quảng diễn khó thọ trì. Đã hội nhập chân cam lồ là phân biệt đầy đủ. Lại có người thuộc thừa yếu kém, thừa đồng loại nói như vầy: Mười hai xứ gồm thâu hữu vi, vô vi nhất định là có tự tánh. Do có mười sáu hành Thánh như khổ v.v…, quán bốn Thánh đế, nên siêng năng tinh tấn tu tập hai đạo là kiến đạo, tu đạo, nên có thể diệt trừ tất cả lửa dữ phiền não thuộc ba cõi do kiến đạo tu đạo đoạn, cùng khiến các khổ nơi ba cõi chấm dứt. Nếu không mở bày chỉ rõ tánh không của các pháp, thì ai có thể xả bỏ lỗi lầm như vậy. Ai lại có thể tu các công đức như thế? Ba cõi tuy có tư lương nhưng căn tánh thắng giải có sai biệt, nên hiện quán Thánh đạo cần phải không sai biệt. Tất cả như vậy tôi đều tin nhận, vì nhằm đoạn trừ phiền não chướng. Nương vào lý của thế tục nên đạo kia có sai biệt. Nếu lìa sự chứng nhập tánh vô ngã của pháp thì không thể đoạn dứt vĩnh viễn sở tri chướng. Đại sư nên thành phần ít giải thoát vì không nêu, cho giải thoát không sai biệt với giải thoát chăng? Thật có thuyết này, vì đều đồng với giải thoát phiền não chướng. Lại nói như vầy: Chẳng phải là tất cả chủng loại. Ví như lỗ chân lông cùng với hư không rộng lớn, tánh tuy đồng nhưng chẳng phải là không có sai biệt. Nếu không như vậy thì không thể phát khởi tác dụng của quả thù thắng là thần thông như ý đã chứng đắc nên chẳng phải là cứu cánh chân thật. Nên dừng lại sự bàn luận phụ để biện biệt về chánh luận.

Hành giả tu quán như đã ngộ nhập nơi chỗ suy lường về không như hư không v.v… của tự tông, cũng sẽ ngộ nhập nơi chỗ suy xét về các câu nghĩa không như tự tánh, sĩ phu, cực vi, tự tại, thời, phương, thọ mạng.

Trong đó, Luận giả Tự tánh, Sĩ phu nói lời vấn nạn như vầy: Tông của tôi cho tất cả ba cõi đều chuyển biến như hoa đốm nơi hư không, chẳng phải là không có hoa đốm nơi hư không. Do các tông kia là có đồng dụ không thành, trái với chỗ lập. Nay nên cật vấn: Ông nói tất cả ba cõi đều chuyển biến tợ như hoa đốm nơi hư không. Ba cõi như vậy là không hoa hay chẳng phải là không hoa? Nếu nói ba cõi đều là không hoa, thì trái hại với tự tông và sự nhận biết chung nên không hợp đạo lý. Nếu nói ba cõi chẳng phải là không hoa, thì đó là không có đồng dụ thành tựu, làm mất bản tông của ông. Nếu nói không hoa không mất, thì chỗ nêu về vô thanh nơi ba cõi là có tánh lại nên quán xét kỹ. Ông cho là tôi nói về không hoa là không đồng pháp dụ hay nói về không hoa là đồng pháp dụ? Nếu ông cho tôi nói về không hoa là không đồng pháp dụ, là sự xét kỹ sai, xấu, vì tôi nói không hoa là đồng pháp dụ. Nếu nói không hoa là đồng pháp dụ, tức chẳng phải là ba cõi. Không nên nói: Vì ba cõi là có, nên pháp dụ kia cũng là có. Lời này làm rõ tuệ của chính ông là nhẹ, kém. Lại, sự giải thích bằng phủ định nói: Ngăn chận, dứt bỏ là hơn hết. Ngăn chận nơi đối tượng được ngăn chận rồi, công năng liền hết, không thể lại nêu sự sai biệt của đối tượng được ngăn chận. Những ngôn từ vấn nạn như vậy đã giải thích đầy đủ ở trước, nên chẳng phải là chỗ tin nhận theo tâm của bậc trí.

Các Sư Số Luận lại nói như vầy: Ngã tuy không thể hiện bày sự thân gần, thành lập sĩ phu tối thắng, nhưng căn cứ theo phương tiện thành lập các tụ biến dị cùng nhận biết, thì thể kia là thật có, đó là các sự hiển bày, tánh có làm nhân, có chủng loại. Tất cả các chủng loại có đều thấy, tánh có làm nhân, như mảnh gỗ đàn v.v…. Sự hiển bày vì đã có chủng loại này nên tánh có làm nhân. Sự hiển bày như vậy có chủ thể thọ dụng và đối tượng thọ dụng. Hết thảy các đối tượng thọ dụng đều thấy có chủ thể thọ dụng, như sự thọ dụng thức ăn uống của Bà-la-môn. Vì sự hiển bày đã là đối tượng thọ dụng nên có chủ thể thọ nhận. Tỷ lượng như nói ở trước liền là chỗ trái hại của lượng đối địch. Ở đây là căn cứ theo thế tục, nếu dùng tổng tướng lập các sự hiển bày, tánh có làm nhân, không biện luận sai khác, tức lập đã thành. Nếu lập sự hiển bày như vui v.v… làm nhân, tức không đồng dụ, nhân cũng không thành. Chủng loại như an lạc v.v… chẳng phải là cùng thừa nhận. Nếu dùng tỷ lượng thành lập nhân nơi ngôn từ thì bốn uẩn đều là tánh si của vui, khổ. Tánh uẩn này như thọ uẩn, ở đây đã nói si chẳng phải thọ uẩn gồm thâu nên đồng dụ không thành. Lại, sĩ phu của ông có nhiều thể tướng hiện bày khắp, có nghĩa tích tụ, tức là nghĩa của uẩn. Do sĩ phu này nên nhân thành bất định. Lại, an vui v.v… của ông đều khác biệt, không thể mỗi mỗi lập tông, là tánh của uẩn nên nghĩa nhân không thành. Nếu căn cứ theo thắng nghĩa, có thật mảnh gỗ đàn, tánh có làm nhân, vì chẳng phải cùng thừa nhận nên đồng dụ không thành. Lại, căn cứ theo thế tục, nếu dùng tổng tướng lập các sự hiển bày, có chủ thể thọ nhận, nên không biện luận về sự sai biệt, liền lập đã thành, thế gian cùng nhận biết, vì người thọ nhận là có. Nếu lập sự hiển bày là có thật, người thọ nhận thường trụ hiện bày khắp, tư duy là tự tánh, đồng dụ không thành. Thể tướng như vậy, các Bà-la-môn chẳng phải là cùng chấp nhận. Nếu căn cứ theo thắng nghĩa thì đồng dụ không thành, người thọ dụng ăn uống đều thật có tánh. Vì chẳng phải là cùng chấp nhận, nên tỷ lượng như trước nói không có lượng dối địch có thể làm trái hại.

Các Sư Thắng luận nói như vầy: Các hơi thở ra vào, nhắm mắt, mở mắt đều khiến cho ý hành động. Tướng như căn biến chuyển nhất định có tướng đối tượng là tướng chủ thể như thấy khói v.v… Đây là căn cứ theo thế tục, nếu dùng tổng tướng lập các tướng kia thì nhất định có tướng đối tượng, nên không luận về sai biệt, liền lập đã thành, vì thế tục cùng nhận biết về ngã, chẳng phải là không. Nếu lập tướng kia thì có tướng đối tượng ngã thường trụ hiện bày khắp. Chỗ dựa như an lạc v.v… tức không đồng dụ, vì trái với chỗ lập. Nếu theo thắng nghĩa cũng có dụ như vậy là lỗi không thành. Thời, phương, không v.v… do đạo lý này cũng nên ngăn, phá.

Các Sư Thắng luận lại nếu vấn nạn như vầy: Cực vi cùng với ý ngã lập vô vi, thành lập nhân không vì không khởi là nhân tự chẳng thành. Nếu cho hai việc ấy là thuộc hữu vi, thì thành lập nhân duyên sinh của không tức nhân khác chẳng thành, nên thành một phần ít ngộ nhập tánh không. Nếu ý cực vi theo thế tục cũng cho là vô vi, thì có thể có vấn nạn này. Nhưng ý đã lập lại chẳng phải là nhân sinh của trí vô vi, cũng như sắc v.v… Vì câu nghĩa có tánh đồng dị như vậy, là nhân của niệm trụ, nên những nhân khác này, như sẽ phải nói. Lại, các cực vi cũng chẳng phải là vô vi, vì có thể thành nhân, giống như sợi tơ v.v… Ngoài ra, có các nhân hợp, ly, đồng, dị v.v… như vậy tùy theo chỗ thích ứng nên nói. Hoặc có hai cực vi đã thành vật thô, chẳng phải là thường làm nhân, là chỗ thành cũng như bình v.v… Như thế, ngoài ra đều là chỗ tạo tác nên có thể hoại diệt, là nhân có, các nhân này, tùy chỗ thích ứng nên nói. Do đạo lý này, nên chỗ vọng chấp cái khác, ý cùng cực vi đều là tự tánh không, cho nên không có lỗi như đã nêu.

Như trên đã nói dùng vô số đạo lý để ngăn phá câu nghĩa Số luận, Thắng luận. Chỗ chấp nơi câu nghĩa của các luận như không áo, bình v.v… cũng tùy theo chỗ thích ứng nên lập làm không.

Như thế là đã trừ bỏ lỗi của các vấn nạn rồi, Hành giả tu quán, nhờ sức của chánh tỷ lượng, ngộ nhập chỗ nắm giữ tánh không của vô vi nơi hai tông tự, tha. Tuy trí do văn tạo thành theo sức mạnh của thứ bậc đã nhập tánh không, nhưng nếu thiếu sức tu thù thắng thì chưa có thể vĩnh viễn đoạn trừ chướng ngại cần đoạn. Nên lại tinh cần hành tập sức tu hơn hết. Nếu ở trong đây tùy có một loại là tướng vô vi, hữu gián vô gián, thì khi lại hiện hành tức nên như lý quán tánh không kia. Trừ bỏ tướng ấy, khiến không hiển hiện để ngộ nhập các pháp, là lìa tự tánh. Tánh ấy vốn không, vì tánh không nên tướng không thành thật, tức là vô tướng. Do vô tướng nên không có đối tượng nguyện cầu, tức là vô nguyện. Do lìa mọi cấu uế của tướng nên thành xa lìa. Lại, tánh lìa nên duyên nơi phiền não kia rốt ráo không sinh tức thành tịch tĩnh. Vì tự tánh không khởi nên thành không sinh. Do không sinh nên tức không có vô thường, cũng không có khổ, cũng không vô ngã. Lại, vì không sinh nên tức không có tướng. Do vô tướng nên có thể hành một tướng là vô tướng, quán tất cả pháp ngộ nhập không hai. Do hành tướng này nên siêng năng hành tập thắng tu. Nhờ tăng trưởng sức thắng tu như vậy, nên trừ bỏ tướng thô khiến không hiển hiện. Do đấy nên khiến cho hành tướng là không chỗ hành. Nghĩa là nắm giữ hành tướng hữu vi, vô vi. Như người bị hoa mắt, do mắt nhặm, nếu bệnh của mắt được trị thì mắt trở lại thanh tịnh. Do không thấy các tướng được nắm giữ trước nay, tuy ở trong đó đã được vô trụ. Nhưng do phân biệt như không hiện hành, nên tâm có công dụng cũng nối tiếp trụ. Vì chưa đạt được chỗ phân biệt như nhận biết rõ về không vô động hiện hành, nên tuệ không phân biệt xuất thế bị chướng ngại. Vì nhằm trừ bỏ chướng ngại kia, nên chánh cần dũng mãnh quan sát như thế. Theo thắng nghĩa nên cảnh của tánh không trên không v.v…, phân biệt cũng chẳng phải là thật có, vì từ duyên sinh, cũng như huyễn v.v… Siêng tu như vậy lại có thể trừ bỏ sự phân biệt như không có. Nhờ trừ bỏ điều ấy nên xa lìa hai biên là không và bất không, chẳng còn dùng hành tướng như không, chẳng không để quán xét các pháp. Như nói Bát-nhã Ba-lamật-đa, lúc đang hiện hành, đối trên sắc ấy không quán là thường, cũng không phải là vô thường. Không quán là vui cũng không phải là khổ. Không quán là ngã cũng không phải là vô ngã. Không quán là tịch tĩnh cũng chẳng phải là không tịch tĩnh. Không quán là không cũng không phải là bất không. Không quán là tướng cũng chẳng phải là vô tướng. Không quán là nguyện cũng chẳng phải là vô nguyện. Không quán là xa lìa cũng chẳng phải là không xa lìa. Như vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức ấy, tất cả sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp hiện có, nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn lực, giác chi, đạo chi, tĩnh lự vô sắc, đẳng chí, thần thông, mười lực, vô úy, các vô ngại giải, pháp bất cộng của Phật, các Tam-ma-địa, môn Đà-la-ni, Nhất thiết trí nêu trên đều không quán là thường cũng chẳng phải là vô thường, cho đến nói rộng.

Đã có thể xa lìa hai biên như vậy, tức hành diệu có thể sinh trưởng trung xứ. Đây là đạo lý trong xứ lìa hai biên, do như trên nói về hai thứ tỷ lượng hữu vi, vô vi, vì sắc loại là không nên nói là vô sắc. Do vô sắc nên cũng không có các thứ cùng phân biệt, nên không có một ít pháp có thể cùng biểu thị. Nói điều kia đã như thế thì điều này cũng như vậy nên gọi là không biểu thị. Do vô tánh nên đối tượng dựa và chủ thể dựa đều không thành tựu. Vì không có trụ giữ nên gọi là vô trụ. Hoặc tướng hữu vi, hoặc tướng vô vi, hoặc đối tượng phân biệt chẳng phải là đối tượng phân biệt, hoặc chủ thể phân biệt chẳng phải là chủ thể phân biệt, các tướng như thế, vì giác tuệ không hành nên gọi là không hiện. Xa lìa tất cả tướng có, tướng không, do cảnh giới này thức đều không sinh nên gọi là không liễu biệt. Vì vô sắc nên không có hình chất, tức mọi biểu thức của phương hướng đều không có, nên gọi là không biểu thức. Như Đức Thế Tôn nói với Tôn giả Ca-diếp-ba: Thường là một biên, vô thường là biên thứ hai. Trung gian của hai biên này là không sắc, không biểu thị, không trụ, không hiện, không có đối tượng liễu biệt, không có biểu thức, đó gọi là hành diệu của trung xứ (trung đạo). Quán sát như thật về tất cả pháp tánh, nói rộng cho đến hữu vi là một biên, vô vi là biên thứ hai.

Lại như Đức Phật bảo Tôn giả Ca-diếp-ba: Minh và vô minh đều không có hai, không có hai sai biệt. Trong đó chánh trí gọi là hành diệu của trung xứ. Đã có thể xa lìa hai biên như vậy, nên có thể an trụ trên tưởng không hai, là chỗ khởi phân biệt của tưởng không hai. Cũng có thể nhận biết rõ về chướng ngại nơi tuệ xuất thế không phân biệt đã vắng lặng, an trụ. Như nhân đã nêu, có thể mau chóng đoạn trừ vĩnh viễn, vì đoạn trừ vĩnh viễn chướng ngại kia, tức không còn phân biệt như thế như thế. Hai nẻo ngữ, ý đều cùng ngưng dứt, chứng đắc vô động, vô hiện, vô tướng, lìa các hý luận, chứng nhập thật tánh của các pháp nơi đối tượng duyên vô động, tự tướng nơi diệu trí tương tục an trụ. Tuy siêng năng tu tập quán không thuận hợp nhưng đối với tánh không trọn không tác chứng. Như vậy gọi là tĩnh lự của thắng nghĩa. Như Đức Thế Tôn nói: Tuy tu tĩnh lự nhưng không dựa nơi sắc để tu tĩnh lự. Như thế cũng không dựa nơi thọ, tưởng, hành, thức để tu tĩnh lự. Không dựa nơi nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý để tu tĩnh lự. Không dựa nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp để tu tĩnh lự. Không dựa nơi thân phân biệt an trụ để tu tĩnh lự. Không dựa nơi tâm phân biệt an trụ để tu tĩnh lự. Không dựa nơi đất, nước, lửa, gió để tu tĩnh lự. Không dựa nơi hư không, mặt trăng, mặt trời, tinh tú để tu tĩnh lự. Không dựa nơi Đế thích, Phạm vương thế chủ để tu tĩnh lự. Không dựa nơi Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới để tu tĩnh lự. Không dựa nơi đời này và đời khác để tu tĩnh lự. Không cao không thấp, chứng trụ vô động để tu tĩnh lự. Không dựa vào ngã kiến để tu tĩnh lự. Như vậy là không dựa nơi các kiến của hữu tình, mạng giả, dưỡng dục, sĩ phu, Bổ-đặc-già-la, ý sinh, Ma-nạp-bà để tu tĩnh lự. Không dựa nơi các kiến chấp đoạn, thường, có, không có để tu tĩnh lự. Không vì lậu dứt hết để tu tĩnh lự. Không vì nhập chánh tánh ly sinh để tu tĩnh lự. Không vì chứng đắc quả để tu tĩnh lự. Không vì rốt ráo không có chỗ tạo tác để tu tĩnh lự. Tuy vì tu tập quán không không điên đảo để tu tĩnh lự, nhưng đối với tánh không, không vì tác chứng để tu tĩnh lự.

Luận giả Tương ưng nói có định chấp: Tất cả đối tượng được chấp giữ và chủ thể chấp giữ đều xa lìa, là trí xuất thế gian không phân biệt. Tức ở trong đó khởi tưởng chắc thật, siêng năng tu tập. Đối với sự xét kỹ đúng đắn ấy, có kẻ khác nói trí sinh như vậy, tuy không phân biệt như trên đã nói, nhưng vì tùy theo cảnh vô tướng cùng khởi nên phân biệt về tự tánh luôn theo đuổi vì hữu vi. Như hiện lượng khác có nhận biết phân biệt, nên không thành trí xuất thế không phân biệt. Lại, như chỗ suy tính kia là lìa tướng lìa ngôn từ nơi thắng nghĩa của chân như, là đối tượng duyên nên như đối tượng duyên khác không thành thắng nghĩa, tức do nhân này nên đều chẳng phải là tối thắng. Như Khế kinh nói: Vì sao ở đấy gọi là thắng nghĩa đế? Nghĩa là ở trong đó trí cũng không hành. Lại như hỏi Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi: Nói tuệ nhãn là nên quán như thế nào? Đáp: Nếu có một ít đối tượng quán tức chẳng phải là tuệ nhãn. Do tuệ nhãn này không phân biệt nên không quán hữu vi, cũng lại không thể quán nơi vô vi, vì các vô vi không phải là chỗ nên hành của tuệ nhãn ấy. Do lý giáo này tức Luận giả kia cũng nên đoạn dứt định chấp về pháp này. Lại nên xét kỹ nói: Căn cứ theo thắng nghĩa đế thì trí xuất thế không phân biệt như vậy cũng chẳng phải là thật có, vì từ duyên sinh, cũng như người huyễn. Đối với những trở ngại, vấn nạn tạo lỗi lầm hiện có, phải như lý quán thấy để trừ bỏ đúng đắn. Nếu trí có thể dứt trừ định chấp như thế thì ở đây cũng như kia đều có lỗi lầm, nếu không còn siêng năng tinh tấn xét kỹ để khai thị. Những chấp trước như thế đã diệt rồi, đối với tánh nơi cảnh vô tướng của đối tượng nên nhận biết cũng không hành giải, vì thiếu nhân duyên. Trí khác không sinh, do không hành giải, cho nên gọi là hành giải chân thật. Như Đức Thế Tôn nói: Thế nào gọi là hành giải chân thật? Nghĩa là đối với các pháp đều không hành giải, đó gọi là hành giải chân thật. Lại như kinh nói: Bồ-đề của Như Lai đều không hiện quán. Lại như hỏi Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi: Các người kiến đế là nên thấy về những gì? Đáp: Không có một chút pháp có thể thấy. Vì sao? Vì phàm có đối tượng thấy biết đều là hư vọng. Nếu không có đối tượng thấy biết mới gọi là kiến đế.

Lại hỏi: Thế nào là siêng năng tinh tấn nên tu hiện quán? Đáp: Nếu nhận biết không có một chút pháp nào để tư duy phân biệt như thế là siêng năng tinh tấn nên tu hiện quán.

Lại hỏi: Thế nào là đã chứng hiện quán? Đáp: Nếu có thể quán tánh của tất cả pháp đều bình đẳng. Lại hỏi: Có thể thấy tánh bình đẳng của tất cả pháp chăng? Đáp: Không thể thấy tánh bình đẳng. Nếu có đối tượng thấy biết tức nên thành thấy biết không bình đẳng. Hiện quán, kiến đế, hành giải chân thật đều đồng một nghĩa. Hành giả tu quán bấy giờ trí của tâm, ý, thức không hành, đó gọi là tuệ chánh hành không phân biệt. Nếu có thể hành không chốn hành như thế thì được Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thọ ký chân thật. Như Khế kinh nói: Bạch Đức Thế Tôn! Bồ-tát làm thế nào tu hành nơi đạo quả Chánh đẳng Bồ đề Vô thượng để được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thọ ký chân thật? Này Phạm chí! Bồ-tát nếu bào lúc này không hành nơi sinh, không hành nơi diệt, không hành nơi thiện, không hành nơi bất thiện, không hành thế gian, không hành xuất thế gian, không hành hữu lậu, không hành vô lậu, không hành có tội, không hành vô tội, không hành hữu vi, không hành vô vi, không hành tương ưng, cùng bất tương ưng, không hành nơi đoạn, không hành nơi bất đoạn, không hành nơi sinh tử cùng Niết-bàn, không hành nơi kiến, văn, giác, tri, không hành nơi thí và xả bỏ, không hành nơi giới và luật nghi, không hành nơi nhẫn, không hành nơi tinh tấn, không hành nơi tĩnh lự, không hành nơi đẳng trì, không hành nơi tuệ, không hành nơi giải, không hành nơi trí, không hành nơi chứng. Bồ-tát hành không chốn hành như vậy, đối với đạo quả Chánh đẳng Bồ đề Vô thượng tức được chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thọ ký chân thật.

Tuệ hành như thế gọi là Thánh im lặng. Như Khế kinh nói: Đối với ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề, như Đức Phật đã thuyết giảng, khai thị như thật, đó gọi là thuyết pháp. Lại, đối với pháp này, tuy dùng thân chứng nhưng không quán xét lìa thân có pháp. Cũng không quán xét lìa pháp có thân. Quán xét như vậy, nghĩa là quán không hai, cũng không không hai. Lúc quán như thế không tùy theo trí kiến quán xét hiện lượng, vì không quán xét nên gọi là Thánh im lặng. Do lý giáo này, nên lúc quán xét kỹ tự tánh của tất cả pháp hữu vi, vô vi, không có chủ thể hành tác hoặc tâm, hoặc tuệ, hoặc có phân biệt, hoặc không phân biệt về tự tánh của cảnh giới. Nhận biết như vậy rồi thì ánh sáng của mặt trời minh tuệ có thể soi chiếu trừ diệt tất cả ngu si tối tăm.

Cảnh các tâm, tuệ hiện

Người trí do không chấp

Tuệ hành không phân biệt

Hành nơi không chỗ hành.

Ở đây có thể tập hợp chủng tử của các hành, hoặc vì chủng tử của các hành đã tập hợp nên gọi là tâm. Có thể nắm giữ thắng đức, hoặc nhờ sự nắm giữ ấy khiến không tán mất, nên gọi là tuệ. Đối tượng hành của tâm tuệ gọi là cảnh của tâm tuệ. Đối tượng hành nơi cảnh địa gọi là sai biệt. Cảnh của tâm tức là các tướng hữu vi, vô vi hiện có. Cảnh của tuệ tức là tánh không của hữu vi, vô vi hiện có. Như Khế kinh nói: Tuệ vô tướng phân biệt trọn không chuyển. Hiện là hiển hiện, tức giống như tuệ của tâm. Là nghĩa tánh tướng hiện bày nơi cảnh giới của đối tượng hành. Chư nghĩa là các địa. Tùy theo một loại của chúng hoặc chung, hoặc riêng. Như thế, mắt và sắc tùy theo một loại của chúng hoặc chung, hoặc riêng. Cũng vậy sắc, thọ, tưởng, hành, thức tùy theo một loại của chúng hoặc chung, hoặc riêng. Cũng thế, niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn lực, giác chi, đạo chi, Ba-lamật-đa, tất cả thần thông, mười lực, vô úy, pháp Phật bất cộng, các Tam-ma-địa, môn Đà-la-ni, Dự lưu, Nhất lai và Bất hoàn, hoặc đạo quả A-la-hán hiện có, tùy theo một loại của chúng hoặc chung, hoặc riêng, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí. Đối với tất cả pháp có thể nhận biết rõ đúng về tánh không điên đảo, nên gọi là người trí. Do nghĩa là nói về nhân duyên xả bỏ tướng. Nói không giữ lấy nghĩa là không chấp, không thấy, tức là nghĩa giác tuệ không lường xét. Do nhân không giữ lấy là đối tượng chứng đắc gì? Là tuệ hành không phân biệt, tuệ hành nơi không chốn hành tức là trí không phân biệt. Tuy lại vĩnh viễn lìa tất cả phân biệt, nhưng giác tuệ tăng ích, giả gọi là trí. Giống như cảnh giới không ảnh tượng, vô tướng, vô ngôn, khởi tự tánh của tướng phân biệt, cũng không có nên gọi là không phân biệt. Tuy vô trụ, nhưng căn cứ theo phần vị khác giả gọi là kiến lập. Như nói đèn tắt, A-la-hán diệt, giác tuệ tăng trưởng là dựa vào thế tục để nói, nói nơi sự nối tiếp này gọi là không phân biệt, như trí phân biệt gọi là có phân biệt. Ở đây ý giữ lấy trí không sinh hành được gọi là hành. Do trí này hành tánh của pháp tự tha nơi tất cả chủng tướng, chẳng phải là đối tượng nhận thức nên không gọi là chủ thể nhận thức. Tức chẳng phải là chủ thể nhận thức nên gọi là chân kiến, như chỗ chứng đắc. Phi phi đối tượng nhận thức tạo tướng của đối tượng nhận thức, hoặc có phân biệt, hoặc không phân biệt, chân kiến được thành. Chân như nếu là tánh của đối tượng nhận thức, thì không nên nói là chẳng phải tánh có thể thấy biết. Tuy dựa nơi thế tục có nhận thức bình đẳng gọi là chân kiến, nhưng không nên chấp vào nhận thức không bình đẳng này gọi là chân kiến. Các thứ có thể nhận thức đều không chân thật, vì khởi hiểu biết về nhân. Như nước của dợn nắng (dương diệm), tất cả có thể thấy nhưng đều chẳng phải chân thật. Chân như nếu là tánh có thể thấy biết, thì tướng có thể thấy biết đã chấp giữ nên không thành chân kiến. Nếu chẳng phải là có thể thấy biết thì không nên nói là chứng đắc thấy chân như. Thấy biết không có thể thấy biết há gọi là bình đẳng. Lại, trí hữu vi, chân như vô vi là tánh không bình đẳng. Nếu thấy biết tức nên thành thấy biết không bình đẳng. Lại, tánh của các pháp đều chẳng phải là chủ thể nhận thức, thấy biết cũng phải vậy, vì cùng lấy không sinh làm tự tánh. Như vậy chẳng phải thấy biết giả gọi là thấy biết chẳng phải là không bình đẳng.

Lại, một sát-na chứng tất cả pháp, đều không hiện quán gọi là hiện quán đích thực. Không nên nêu vấn nạn: Vì tự thể phản chiếu khó thành lập, tức trí không cần chứng đắc thật tánh của trí. Cả hai loại đều chẳng phải có thể nhận thấy tánh của cảnh. Do không sai biệt nên đồng thời cùng chứng. Nếu căn cứ theo thắng nghĩa thì giống như trí nơi cảnh tướng, vì bản tánh không sinh nên không hiện quán, cũng không chứng đắc. Như Khế kinh nói: Ông không nên dùng hiện quán để chứng đắc, quán nơi thể của Như Lai là vô vi, vì vượt quá tất cả đối tượng hành của mắt. Phạm chí như vậy, lúc Đức Như Lai an tọa nơi tòa Bồ-đề chứng tất cả pháp đều không vô sở đắc, vĩnh viễn dứt trừ tất cả phiền não phát khởi điên đảo hư vọng. Những kinh như vậy thảy đều tùy thuận.

Nên dừng sự bàn luận các việc phụ để biện giải về chánh luận. Du hóa gọi là hành, không du hóa gọi là không chốn hành, là nghĩa không hành giải không sinh khởi nơi tuệ không phân biệt. Dùng tướng không hành để hành, tức không chốn hành gọi là hành. Đây tức là lược nêu, như quả của chánh cần được thành lập ở trước.

Hành giả tu quán, nhờ tuệ hành không phân biệt như thế, không hành mà hành, hành tức là không hành, xa lìa tất cả tác ý của đối tượng duyên. Đối với tất cả pháp đều không chỗ trụ, cũng như hư không. Trừ bỏ tất cả phân biệt của biến kế. An nhiên tịch tĩnh như nhập diệt định quán tánh của các pháp. Pháp thân của chư Phật là không thể nghĩ bàn, không thể phân biệt, không hai, không cất chứa, không tướng không thấy biết, không thể biểu thị, không sinh, không diệt, không có khởi tận, hoàn toàn vắng lặng không có sai biệt, không tướng không ảnh, lìa các cấu uế, vượt quá tất cả cảnh giới, đạo lộ của ngữ ngôn giác tuệ. Tuy quán như vậy nhưng không có đối tượng thấy biết, không thấy mà thấy, thấy tức không thấy. Là chỗ thâu nhận của diệu kiến như vậy, nên có thể tăng trưởng vô lượng phước tụ chân chánh, có thể chiêu cảm vô biên quả an lạc vi diệu, một vị thanh tịnh có thể diệt trừ khổ cho kẻ khác. Như cây thuốc chúa tạo lợi ích cho tất cả sự cầu nguyện chính đáng.

Chánh quán Pháp thân của Như Lai như vậy, vì không thấy tướng có không của các pháp nên gọi là chánh kiến. Vì dứt bặt tất cả biến kế phân biệt nên gọi là chánh tư duy. Do chứng các pháp, lìa các hý luận, tất cả ngôn ngữ thảy đều lặng dừng nên gọi là chánh ngữ. Do tất cả pháp chẳng phải là tánh tạo tác, không tạo nhân nơi nghiệp thân, ngữ ý kia nên gọi là chánh nghiệp. Vì hết thảy các pháp đều là pháp tánh không tăng không giảm, mọi sự tăng giảm hiện có đều vĩnh viễn không sinh nên gọi là chánh mạng. Do tất cả pháp đều là phương tiện dũng mãnh không phát khởi, không tạo tác nên gọi là chánh tinh tấn. Vì đối với các pháp rốt ráo không chứng đắc tánh nơi cảnh có không, không nhớ nghĩ, không có đối tượng tư duy nên gọi là chánh niệm. Do tất cả chủng tử không giữ lấy các pháp, không chỗ nương trụ nên gọi là chánh định. Chánh quán như vậy tức có thể tu tám Thánh đạo này. Nghĩa ấy rộng như xứ xứ tuyên thuyết trong tạng Bồ-tát.

Chánh quán như thế chẳng phải chỉ có thể tu tám chi Thánh đạo mà cũng có thể lược nêu trọn đủ sáu loại Ba-la-mật-đa. Tuy không gia hạnh, nhưng có sự việc này. Nghĩa ấy là thế nào? Nghĩa là có thể dứt bỏ tất cả thứ tướng cùng có thể trừ diệt hết thảy phiền não, đó gọi là Thí Ba-la-mật-đa. Có thể ngừng dứt tất cả tác ý của đối tượng duyên, tu vô sở đắc, đó gọi là Giới Ba-la-mật-đa. Đối với các đối tượng duyên đều có thể không nhẫn thọ, đó gọi là Nhẫn Ba-la-mậtđa. Không lấy không bỏ, lìa tất cả hành, đó gọi là Tinh tấn Ba-la-mậtđa. Hết thảy tác ý đều không hiện hành, đều không chỗ trụ, đó gọi là Tĩnh lự Ba-la-mật-đa. Nơi tất cả pháp, không khởi hý luận, xa lìa hai tướng, đó gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nghĩa này xứ xứ tuyên thuyết rộng như nơi Kinh Phạm Vấn. Sự an trụ vi diệu có vô lượng môn như thế, trong vô lượng kinh, Đức Thế Tôn đã nói rộng, có nghĩa lợi lớn tạo nhiều lợi ích. Các bậc trí giả nên nhận biết như thật, lìa các phóng dật, nên siêng năng tu học.

Ghi chú: Luận này rất khó đọc, rất khó lãnh hội (trừ đoạn cuối). Chúng tôi đã Việt dịch hàng mấy ngàn trang Hán tạng của Pháp sư Huyền Tráng (Các Luận thuộc Bộ A Tỳ Đàm nơi các Tập 26, 27, 29 và Luận Du Già Sư Địa nơi Tập 30 này) nhưng chưa hề gặp một kiểu Hán dịch như nơi Luận này. Rất nhiều câu, quá nhiều đoạn – nếu không nói là phần lớn của Luận – văn nghĩa hoặc không rõ, hoặc tối nghĩa, hoặc vô nghĩa. Người dịch chỉ biết dựa vào nghĩa của chữ của câu để dịch, thêm một vài liên tự, giới tự để tạo sự nối kết, như thể có sự thuận hợp, chứ thật ra không hiểu Luận muốn nói gì! Đại Từ Điển Phật Quang (Trang 4957A) ghi nhận: “Luận Đại Thừa Chưởng Trân… nội dung có liên quan với luận thuật của nghĩa không, dùng luận pháp của nhân minh, luận phá các kiến chấp sai lầm của ngoại đạo, Tiểu thừa, Đại thừa hữu tông, nhằm chứng đắc thật nghĩa của Đại thừa không tông. Ra sức đề xướng việc xa lìa các phân biệt về có không nơi không trí, hoàn thành tám chánh đạo, sáu Ba-la-mật v.v…”. Đại thể là như thế. Ý hướng là như thế. Nhưng sự diễn đạt, biện giải, lý giải phải nói là hoàn toàn bất thành. Điều mà Đại Từ Điển Phật Quang gọi là “Hoàn thành tám chánh đạo, sáu Ba-la-mật” thật ra chỉ được nêu dẫn ở đoạn cuối. Cũng trong đoạn cuối ấy, Luận đã khẳng định các tính chất siêu việt nơi Pháp thân của Như Lai, nhưng trong toàn Luận đâu có chỗ nào bàn đến Pháp thân của Như Lai, hoặc nói đến sáu Ba-la-mật, tám chánh đạo??? Thỉnh thoảng Luận có nêu dẫn kinh, hoặc ngắn hoặc khá dài. Những đoạn kinh ấy, tuy thuyết giảng về các vấn đế cao siêu vi tế, nhưng văn nghĩa đều rõ, đều có thể lãnh hội, khác xa với lối diễn đạt lòng vòng, tối nghĩa vô nghĩa của Luận! (Tất nhiên cũng có một vài chỗ văn nghĩa tương đối rõ, người đọc có thể lãnh hội được). Đây chắc chắn không phải là lỗi của người Hán dịch, mà là của tác giả. Tác giả đã hoàn toàn bất thành trong việc dùng ngôn từ để diễn giảng, biện giải, lý giải về mảng giáo pháp có thể gọi là vi tế, phức tạp. (Điều này cũng có thể thấy phần nào nơi N0 1566/15 cùng tác giả, qua bản Hán dịch của Đại sư Ba La Phả Mật Đa La, chúng tôi cũng đã cố hết sức để Việt dịch!). Vậy các độc giả cần có những hiểu biết bước đầu như thế trước khi đọc Luận này. Nếu có người nghi ngờ về khả năng Việt dịch của chúng tôi thì xin tìm đọc bản Hán dịch. (ĐTK/ĐCTT, Tập 30, N0 1578/2 trang 268A-278B) (ND).

HẾT – QUYỂN HẠ

Pages: 1 2