SỐ 1532/4
LUẬN KINH THẮNG TƯ DUY PHẠM THIÊN SỞ VẤN
Tác giả: Bồ tát Thiên Thân
Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, Đại sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 1

Quy mạng Phật Thích-ca Mâu-ni v.v…: Nghĩa của bốn câu nơi phần đầu của các kinh đều có luận giải thích. Như chỗ giải thích đó, nên biết.

Ở trong đại chúng giảng nói pháp môn này: Là nhằm chỉ rõ pháp thù thắng thuộc về đại chúng nơi trụ xứ giảng nói pháp, vì dựa vào xứ thù thắng như núi kia để giảng nói.

Sáu vạn bốn ngàn Tỳ-kheo Tăng: Đây là chỉ rõ tính chất trang nghiêm nơi đại chúng của Như Lai.

Pháp môn của kinh này rất sâu xa, vi diệu, hoàn toàn vượt quá cảnh giới của hàng Thanh văn: Là chỉ rõ Đức Như Lai có thể giảng nói nghĩa thù thắng.

Bảy vạn hai ngàn các Bồ-tát: Vì sao số lượng các Bồ-tát nhiều hơn Thanh văn? Do kinh điển này vì các Đại Bồ-tát giảng nói pháp hết mực thâm diệu.

Đều là chỗ nhận biết của bậc trí: Đã nhận biết rồi vì sao phải nói lại? Vì dựa vào pháp thế gian. Thế gian nói thù thắng trong sự thù thắng. Như nói đoan nghiêm tột bậc trong sự đoan nghiêm, mới có thể hướng đến vị lai. Đối với người có đức tốt đẹp trong những người có đức, mới có thể tạo dựng cho vị lai.

Các Bồ-tát kia đều có trí riêng, không phải là có chung. Lại còn có nghĩa: Đều là chỗ nhận biết của bậc trí. Nhận biết: Là nhập vào địa nơi đối tượng được nhận biết của Bồ-tát. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do các Đại Bồ-tát này trước đã từng hành hạnh Bồ-tát, nên biết được Bồ-tát kia. Vì thế nên nói: Đều là chỗ nhận biết của bậc trí.

Các Bồ-tát kia là bậc trí, về đối tượng được nhận biết có 7 thứ đức, đều dựa vào biện tài lạc thuyết, nên biết. Những gì là bảy?

  1. Biện tài lạc thuyết vô số thứ loại.
  2. Biện tài lạc thuyết lưu loát.
  3. Biện tài lạc thuyết kiên cố.
  4. Biện tài lạc thuyết rõ ràng, dễ hiểu.
  5. Biện tài lạc thuyết không khiếp nhược.
  6. Biện tài lạc thuyết tương ưng.
  7. Biện tài lạc thuyết tùy ý mở rộng.

Các biện tài ấy như kinh nói: “Chứng đắc đầy đủ Đà-la-ni, cho đến chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh”.

Bảy câu như thế theo thứ lớp giảng nói, nghĩa này nên biết.

Nên biết như thế nào? Đà-la-ni là do tuệ đa văn, ưa giảng nói đủ các pháp môn, nên gọi là Biện tài lạc thuyết vô số thứ loại.

Vì giảng nói rất nhanh nhẹn, không dừng lại, nên gọi là Biện tài lạc thuyết lưu loát.

Vì đã thâu nhận được các Tam-muội nên không hề quên mất, do đó gọi là Biện tài lạc thuyết kiên cố.

Do các Đại Bồ-tát v.v… đã trụ trì, dựa vào diệu lực thần thông thù thắng nên không sợ tất cả các ma v.v…, vì vậy gọi là Biện tài lạc thuyết rõ ràng, dễ hiểu.

Bồ-tát đã đạt được bốn pháp không sợ hãi, uy đức thắng diệu, đối với chúng của mình, của người đều không sợ hãi, nên gọi là Biện tài lạc thuyết không khiếp nhược.

Dựa vào giả danh, nhờ oai lực Phật gia bị, nên Bồ-tát đã thành tựu thể tướng của ba pháp, không điên đảo, do đó gọi là Biện tài lạc thuyết tương ưng.

Chứng được pháp Nhẫn vô sinh trong tám địa, tùy ý giảng nói pháp, lìa hết thảy các chướng ngại khi nói pháp, nên gọi là Biện tài lạc thuyết tùy ý mở rộng.

Bậc Thánh: Là chỉ cho các vị Bồ-tát như Văn-thù-sư-lợi v.v…

Do nghĩa gì gọi là Pháp vương tử? Do từ khi mới phát tâm trở về sau, thường đoạn pháp dâm dục. Ngay lúc mới phát tâm đã chứng nhập chánh vị nơi tâm định của Bồ-tát, nên nhận biết như thế.

Tất cả Bồ-tát đều là Đại Hiền sĩ. Vì sao chỉ nói Thánh giả Bạtđà-bà-la v.v… gọi là Đại Hiền sĩ? Vì nhằm chỉ rõ về tâm hành thù thắng. Các Bồ-tát như Bạt-đà-bà-la v.v… đều có tâm niệm như thế này: Ta đã giáo hóa chúng sinh, đều khiến họ phát tâm Bồ-đề, cầu đạt quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Đã được như thế, lại hóa độ chúng sinh, khiến chứng đắc quả vị Bồ-đề Vô thượng. Thế nên hành tự lợi, lợi tha là sự tu hành như thật thù thắng, vì tự cầu Bồđề, cũng hóa độ chúng sinh khiến chứng được Bồ-đề. Vì thế nên nói Bạt-đà-bà-la v.v… kia là Đại Hiền sĩ.

Có trăm ngàn vạn đại chúng vây quanh: Là nhằm chỉ rõ về quyến thuộc lớn của Như Lai.

Tất cả đều là những vị đạt được tâm định: Đây là do Đức Như Lai có thể thống lĩnh đại chúng, là bậc tối thắng trong đại chúng. Dùng trăm ngàn vạn chúng nhằm chỉ rõ về đại sự, thế nên vây quanh.

Nói vây quanh: Là chỉ rõ đại chúng thảy đều khéo điều phục các phiền não.

Nên gọi là giảng nói pháp: Là chỉ rõ Đức Như Lai thường xuyên giảng nói pháp, không đoạn dứt, vì đã lìa các lỗi lầm.

Đầu gối bên phải chấm đất: Là chỉ rõ tướng oai nghi khi sắp thưa hỏi Phật. Lại nhằm chỉ ra tướng nhất tâm của các đại chúng v.v…

Hai gối đều chấm đất: Là tướng không thành lễ bái, cũng không thành tướng thưa hỏi Phật, vì theo các thế gian, gối bên phải chạm đất là tướng cung kính, tôn trọng.

Làm chấn động cả ba ngàn đại thiên thế giới này: Là do các ma thường gây trở ngại cho người nói pháp, nhằm khiến các ma sinh hoảng sợ. Lại, khi Phật giảng nói pháp, đại chúng không khởi tâm tán loạn.

Lại vì có thể hóa độ chúng sinh. Nếu là người phóng dật, khiến tự hiểu biết. Lại khiến chúng sinh nhớ nghĩ đến tướng của pháp.

Lại còn có nghĩa: Gây chấn động nơi các chúng sinh v.v… trong ba ngàn đại thiên thế giới này, khiến họ quan sát được các đại chúng này đang hiện diện nơi xứ giảng nói pháp.

Lại vì giáo hóa chúng sinh đã thuần thục, khiến được giải thoát. Lại nhằm khiến tùy thuận hỏi về nghĩa đúng đắn.

Phật nói với Bồ-tát Võng Minh: Tùy ý Bồ-tát thưa hỏi, Ta sẽ giải nói khiến tâm ông vui thích. Đức Như Lai nghe hỏi, chỉ rõ tự thân Ta là người Nhất thiết trí, vì khiến người nghe, nghe Như Lai giảng nói pháp, sinh tâm tôn trọng.

Có thể thấy được thân Phật: Là tùy thuận quán phần thân nào của Như Lai không thể lìa bỏ, lại quán phần thân khác của Như Lai, vì thân tướng của Như Lai là vi diệu.

Vượt hơn ánh sáng của trăm ngàn vạn mặt trời, mặt trăng: Là chỉ rõ tướng thù thắng tương ưng với tướng vi diệu.

Chỉ rõ tướng xuất thế gian của Như Lai, vì thân Như Lai có tướng như thế. Như Lai vì ban cho chúng sinh niềm vui và sự an ổn, nên thị hiện sự nhận biết tương ưng với tâm ngay thẳng và sự tu hành tương ưng với quả của trí, nên biết.

Nên biết như thế nào? Nên biết Đức Như Lai dựa vào sắc tướng kia, phát ra các hào quang, có thể tạo nên hai thứ lợi ích cho chúng sinh. Nghĩa là chư Phật ban cho chúng sinh sự an ổn và niềm vui, tương ưng với trí, soi sáng quốc độ của chư Phật.

Ta tự nhớ nghĩ: Nếu có chúng sinh có thể trông thấy thân Phật và tư duy. Ở đây, thấy là đầu tiên thấy sắc tướng của Phật. Nói tư duy tức tiếp sau quan sát.

Nói các hào quang tỏa sáng: Là dựa vào ba thứ pháp sai biệt, nên biết. Ba pháp đó là Nhân, DanhHoàn thành.

Gọi là Nhân: Tức chư Phật ban cho chúng sinh niềm vui và sự an ổn, tu hành tương ưng với trí, nghĩa này nên biết.

Danh: Tức như kinh nói là sự vắng lặng, trang nghiêm, cho đến gọi là thị hiện tất cả các thứ sắc như thế. Dựa vào chính mình, mỗi mỗi chúng sinh tạo nghiệp sai biệt, về nghĩa này nên biết.

Hoàn thành: Tức sự việc đều đã hoàn thành, nêu tóm lược có bốn thứ. Dựa nơi nghĩa kia nên lược nói tức có bốn thứ hào quang tỏa sáng. Đó là thọ dụng, tăng trưởng công đức, dứt điều ác, khiến tin tưởng.

Nói: Thọ dụng: Nghĩa là chư Phật Như Lai có thể hóa độ chúng sinh, cùng thọ nhận pháp lạc. Chúng sinh thọ dụng niềm vui, nghĩa là được thấy Như Lai, cúng dường Như Lai, lễ bái Như Lai, thưa hỏi Như Lai, nên biết.

Được thấy Như Lai, cúng dường Như Lai là dựa vào hào quang tỏa sáng thứ nhất, được thấy Như Lai, tư duy về Như Lai. Được thấy, cúng dường Như Lai là hào quang tỏa sáng thứ nhất.

Lễ bái Như Lai là chỉ rõ nghiệp thân cúng dường. Thấy Như Lai, không phải là cúng dường, nên biết.

Thưa hỏi Như Lai là hào quang tỏa sáng thứ hai, là nói trong phần đã hỏi, vì có thứ lớp sai biệt về quả báo của thế gian và xuất thế gian.

Lại có sáu thứ hào quang tỏa sáng, soi rọi về sự sai biệt của quả báo thắng diệu nơi thế gian, dựa vào 2 thứ địa:

  1. Địa không phải định.
  2. Địa dựa vào định.

Địa không phải định: Nghĩa là do thệ nguyện nên thâu nhận 2 thứ quả báo: (a) Quả báo thắng diệu của Chuyển luân Thánh vương. (b) Quả báo thắng diệu của vua trời Đế thích.

Địa dựa vào định: Nghĩa là quả báo thắng diệu của vua Phạm thiên. Vì sao không nhận lấy các quả báo của trời Dạ-ma v.v…? Do các kinh nơi thế gian đều không nói đến. Đức Phật phóng hào quang tỏa sáng, cũng nên soi sáng cõi trời đó, nhưng vì trong các kinh không có, nên không nêu rõ.

Nói: Quả báo xuất thế gian có sai biệt: Nghĩa là dựa vào ba thứ sai biệt của ba Thừa, nghĩa này nên biết.

Nói: Tăng trưởng công đức: Nghĩa là tăng trưởng 3 thứ công đức.

1. Chúng sinh ở trong nẻo ác, khiến lìa khỏi nơi đó, nơi đời vị lai được sinh nơi đường thiện.

2. Chúng sinh đang thọ khổ, Bồ-tát liền hiện thân trong cảnh đó, ban cho họ an vui, khiến được hoan hỷ.

3. Có thể khiến những chúng sinh phóng dật sinh nơi pháp thiện.

Nói: Dứt điều ác: Nghĩa là khiến các chúng sinh lìa các nẻo, lìa các cảnh giới, lìa các nạn, lìa các chướng, đó gọi là dứt điều ác.

Các nẻo có 2 thứ: (1) Nẻo ác. (2) Nẻo thiện.

Nẻo ác có 3 thứ: (a) Khiến các chúng sinh lìa các nạn, nghĩa là khiến chúng sinh lìa vô số các thứ khổ nạn nơi ba nẻo ác. (b) Khiến các chúng sinh lìa các chướng, nghĩa là khiến chúng sinh lìa vô số các chướng như: các căn không đầy đủ, tạo nghiệp ác, mù, điếc, tâm thức mê lầm trong nẻo thiện. (c) Lìa vô số chướng ngại trong các Địa.

Các Địa có 3 thứ: Một là Địa Bồ-tát. Hai là Địa Thanh văn. Ba là Địa phàm phu.

Trong Địa Bồ-tát: Nghĩa là khiến chúng sinh xa lìa sáu thứ chướng do các Ba-la-mật đối trị.

Trong Địa Thanh văn: Nghĩa là khiến chúng sinh lìa ba thứ chướng, chướng không cung kính và chướng không có trí. Phiền não tăng thượng không thể ngăn cấm, còn dấy khởi phiền não, nên gọi là chướng. Lại, không cung kính là chướng do không tin. Lại, không có trí là chướng do không có tuệ đa văn. Lại như phiền não tăng thượng, không thể ngăn cấm, còn để chúng dấy khởi, nên gọi là chướng, tức chướng do không biết hổ thẹn.

Trong Địa phàm phu: Nghĩa là khiến chúng sinh lìa bốn thứ chướng, dựa vào gốc tu tập. Chướng do các phiền não như tham sân si hiện hành, nghĩa là các thứ hiện hành như tà niệm. Chướng do tất cả phiền não hiện hành, nghĩa là các thứ phiền não xen tạp hiện hành.

Đây là dứt điều ác.

Dựa vào thứ lớp của hai mươi mốt thứ hào quang tỏa sáng để nói, nên biết.

Nói: Khiến tin tưởng: Nghĩa là trông thấy thân Như Lai, hào quang tỏa sáng vi diệu, thù thắng, thế nên sinh khởi tin tưởng, hy vọng muốn được trông thấy.

Vô số các thứ sắc dị biệt: Là trông thấy các màu sắc.

Thấy: Là hy vọng muốn được thấy.

Lại, vô số sắc dị biệt: Là các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng v.v…, mỗi thứ đều khác nhau.

Vô lượng các thứ sắc: Là các màu sắc xanh, vàng v.v…, mỗi màu đều có vô lượng thứ.

Vượt quá trăm, ngàn, vạn sắc: Tức là hào quang tỏa sáng thù thắng, vượt quá nơi các sắc xanh v.v… khác.

Vượt quá: Nghĩa là lại vượt quá vô lượng vô biên trong các sắc như xanh, vàng v.v…

Hoặc kiếp còn lại: Là nói vượt qua một kiếp, cho đến vô lượng vô biên kiếp.

Công đức vô lượng vô biên của hào quang tỏa sáng không thể cùng tận: Là công đức của hào quang tỏa sáng vô lượng vô biên, không thể dùng toán số, thí dụ để có thể diễn đạt, cho đến cảnh giới Niết-bàn vô dư cũng không cùng tận, nên biết.

Tất cả hào quang tỏa sáng, cho đến A-tăng-kỳ kiếp, vô số vô lượng ánh sáng vẫn không ra ngoài sự tương ưng của bốn thứ hào quang tỏa sáng như thọ dụng v.v…

Như thế, nhận biết là Đức Như Lai đã thị hiện vô lượng vô biên hào quang tỏa sáng trang nghiêm, phương tiện thiện xảo không thể nghĩ bàn, tương ưng với việc giảng nói pháp: Tức thị hiện người thuyết pháp, pháp được giảng nói khiến chúng sinh có thể hóa độ, sinh tâm tôn trọng. Thị hiện sự việc hy hữu khiến chúng sinh phát khởi nhân thù thắng với tâm cung kính, tôn trọng.

Bạch Đức Thế Tôn! Con chưa nghe nói đến danh hiệu của các hào quang tỏa sáng này: Là chỉ rõ về vô lượng vô biên công đức nơi hào quang của Như Lai. Mọi sự nêu bày đều được tán thán!

Nếu như thế, vì sao nay lại nói: Chỉ rõ nhân của công đức vô thượng. Do đấy nên tiếp theo, nói: Bạch Đức Thế Tôn! Như con lãnh hội được nghĩa nơi pháp Phật đã giảng nói. Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có chúng sinh nào được nghe danh hiệu của các thứ hào quang tỏa sáng như thế, có thể sinh khởi tin tưởng thanh tịnh với tâm cung kính, thì các chúng sinh đó nhất định sẽ được thân có hào quang tỏa sáng như vậy của Đức Như Lai.

Trước hết là phóng hào quang tỏa sáng. Bồ-tát Võng Minh đã nhận biết việc làm đem lại lợi ích cho chúng sinh của tất cả Như Lai, khiến họ thọ nhận vô số pháp lạc, nên Bồ-tát này muốn cùng với vô lượng các Bồ-tát khác nhận lấy pháp lạc, do vậy đã thỉnh Đức Như Lai phóng hào quang tỏa sáng. Như kinh nói: Bạch Đức Thế Tôn! Kính mong hôm nay phóng hào quang thỉnh mời các Bồ-tát, giác ngộ các Bồ-tát. Hào quang này không ra ngoài hào quang đã thọ nhận pháp lạc trong bốn thứ hào quang trước.

Khiến chư vị Bồ-tát ở thế giới khác đều hay biết: Tức hào quang này nhập với hào quang phân tán trước, cũng nhập nơi hào quang tỏa sáng tăng trưởng công đức, nên nhận biết như thế.

Dùng các hào quang tỏa sáng nào soi chiếu vô lượng vô biên thế giới? Ở đây, chỉ rõ vượt khỏi sự việc có thể tính đếm, nên gọi là vô lượng. Đi tới phương khác cũng như hư không, biên vực không thể đạt được, nên gọi là vô biên.

Nói hiện trụ: Là không đi đến thế giới khác, xứ khác, nên gọi là hiện trụ.

Không nhập Niết-bàn nên gọi là hiện thọ mạng. Do không có các bệnh gọi là hiện tại.

Lại nói các pháp tương ưng với thanh tịnh, thế nên gọi là không có bệnh, nên biết.

Được trông thấy Đức Phật kia: Là do hiện thấy Đức Phật Thích-ca Mâu-ni.

Cúng dường Đức Phật kia: Là tất cả các phẩm loại vật dụng, nên cúng dường, đều đem cấp thí.

Thưa hỏi Đức Phật kia: Là thỉnh hỏi như pháp.

Đáp lại Đức Phật kia: Là trả lời đúng như pháp.

Ý của câu hỏi sâu xa vi tế: Là nhằm đoạn dứt các lưới nghi.

Lại còn có nghĩa: Vì hiện tại được diện kiến, được cúng dường Phật, vì dựa vào oai nghi của bản hạnh, nghe hỏi không cố ý.

Như thế, theo thứ lớp dựa nơi pháp, nơi nghĩa để hỏi về pháp, về nghĩa.

Từ đây trở xuống: Dựa nơi nghĩa để hỏi đáp, nên nhận biết như thế.

Mười thứ tâm kiên cố thanh tịnh: Lược nêu là dựa vào 2 thứ tâm:

  1. Dựa nơi tâm không nhiễm để nói.
  2. Dựa nơi tâm cung kính để nói.

Dựa nơi tâm không nhiễm: Là dựa vào 7 thứ sai biệt nơi pháp nhiễm, lìa nhiễm của thế giới nhiễm tịnh, nên biết. Những gì là bảy thứ sai biệt?

1. Pháp sai biệt: Sai biệt do pháp tịnh và pháp không tịnh.

2. Thọ nhận sai biệt: Do thọ nhận khổ và thọ nhận lạc có sai biệt.

3. Nghiệp sai biệt: Do sai biệt về nơi sinh trong gia đình, tộc họ theo thượng, trung, hạ. Sai biệt giữa hành ác, hành thiện, hành xen tạp.

4. Tâm sai biệt: Do các chúng sinh đối với pháp Phật có tin không tin sai biệt.

5. Hành sai biệt: Do có hành chánh, hành tà khác nhau.

6. Tâm tu hành sai biệt: Do hạnh nguyện của ba thừa có sai biệt.

7. Đạo sai biệt: Do đạo thiện, đạo ác có sai biệt.

Các thứ nhiễm như tâm ác như thế, nên dùng tướng không nhiễm để đối trị.

Nói tám thứ tâm kiên cố thanh tịnh, về nghĩa này nên biết. Nên biết như thế nào? Là pháp nhiễm có sai biệt. Ở đây có hai loại:

1. Dựa nơi nghĩa: Là khéo nói về tướng và không khéo nói về tướng, phân biệt như thế.

2. Dựa nơi pháp: Là nghe tướng thiện, nghe tướng không thiện, phân biệt như thế.

Đối trị: Tức câu thứ nhất dùng tâm không giận dữ đối trị tâm giận dữ: Nghĩa là tâm không dấy khởi đối với lời nói thiện hay lời nói không thiện. Trước lời nói thô ác, không khởi tâm niệm: Ta có thể nhẫn chịu. Về nghĩa này nên biết.

Câu thứ hai nói dùng tâm từ: Là dùng tính chất của các văn tự như thế, để giảng nói pháp không điên đảo, khiến các chúng sinh trụ nơi xứ yên ổn. Đối trị với thọ nhiễm có sai biệt là các thọ hiện có thảy đều là khổ. Như vậy, trong tất cả sự việc, nên cùng sinh tâm bi thương xót chúng sinh.

Đối trị nghiệp nhiễm có sai biệt: Là tu hành chân chánh, như thế nơi tất cả xứ, tâm đều bình đẳng cùng với trí tu hành ban cho an lạc.

Đối trị tâm nhiễm có sai biệt: Là đối với việc cúng dường, đều lìa tâm khinh chê có cao, thấp.

Đối trị hành nhiễm có sai biệt: Là không thấy các lỗi lầm nên không sinh tâm tạo lợi ích.

Đối trị tâm tu hành nhiễm có sai biệt: Là bình đẳng một vị, do đối với ba Thừa, không có tâm đây kia, phải trái.

Đối trị đạo nhiễm có sai biệt: Là không sinh sợ hãi, tùy thuận nghiệp của mình. Khéo nhận biết như thế do quan sát thể của pháp.

Trên đây gọi là tám thứ tâm kiên cố thanh tịnh, là dựa vào bảy thứ tâm không nhiễm để nói, nên nhận biết như thế.

Dựa nơi tâm cung kính:2 thứ:

1. Đối với hết thảy Bồ-tát sinh tưởng về Đức Thế Tôn. Đây là làm sáng tỏ về nghĩa gì? Là tưởng nghĩ về Đức Như Lai do các Bồtát đã phát sinh khi sống trong thế giới có đủ năm trược này. Trong cõi nước của Phật như thế, thấy các Bồ-tát hành khổ hạnh, mong cầu Đại Bồ-đề không biết mệt mỏi, hoàn toàn tu hành như thật. Do vậy, Bồ-tát sinh tưởng về Đức Như Lai. Vì vậy nên nói sinh tưởng nghĩ về Đức Thế Tôn. Lại sinh tưởng hy hữu, nghĩa này nên biết. Nên biết về những gì? Như việc Phật xuất hiện ở đời là rất hy hữu. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy. Do không bỏ việc phát tâm Bồ-đề cũng gọi là hy hữu. Thế nên nói đối với các Bồ-tát đã tưởng đến Đức Thế Tôn.

2. Đối với Phật sinh tưởng hy hữu. Đây là nói về nghĩa gì? Như ở thế giới không cấu nhiễm, chúng sinh sinh nơi chốn ấy thọ mạng vô lượng trăm ngàn vạn kiếp, chư Phật Như Lai luôn tạo lợi ích cho họ. Như vậy, khi Đức Phật sinh vào thế giới có nhiều lỗi lầm của phiền não này, nơi thời gian ngắn, có thể tạo vô lượng lợi ích cho chúng sinh. Ở đây, thấy Phật sinh tưởng hy hữu, nghĩa này nên biết. Nhờ vậy, tâm kiên cố thanh tịnh có thể tăng trưởng và thành tựu, nghĩa này nên biết.

Nhập nơi hành tịch tĩnh, dựa nơi tâm kiên cố thanh tịnh, cùng với Bồ-tát nhớ nghĩ về Bồ-tát nhận lấy. Ở thế giới thanh tịnh kia, trăm ngàn vạn kiếp, Phật không lìa chánh niệm, luôn tu phạm hạnh. Còn nơi thế giới Ta Bà, từ sáng tới trưa, luôn giữ vững giới cấm, tâm hành không nhiễm, thị hiện sự thù thắng. Ở đây nhằm làm sáng tỏ nghĩa gì? Như chữa trị bệnh nặng, khiến bệnh mau khỏi, chỉ có cách cho thuốc hay, khiến uống mới giảm. Vì vậy chúng sinh có nhiều lỗi lầm của phiền não tức mau được diệt trừ, khiến đạt được các pháp thù thắng, đối trị là khỏi ngay, nghĩa ấy nên biết. Đây là chỉ rõ chúng sinh sống ở cõi nước xấu ác, có nhiều các khổ, có nhiều phiền não, là thế giới cấu nhiễm. Để khiến các Bồ-tát khác được thấy Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni Phật, lễ bái cúng dường, nên đã hỏi đáp với Như Lai.

Bậc Thánh giả: Là Phạm Thiên Thắng Tư Duy, là vị thượng thủ, thưa hỏi. Hỏi đáp dựa nơi Phạm Thiên Thắng Tư Duy, để đại chúng sinh tâm cung kính. Chỉ rõ Phạm Thiên Thắng Tư Duy rốt cùng đạt được những biện tài lạc thuyết gì? Được những quả gì của biện tài lạc thuyết? Dựa vào hai cách giảng nói ấy là bậc nhất hơn hết trong sự thưa hỏi đúng đắn, nghĩa này nên biết.

Đầu tiên là nói: Đạt được những biện tài lạc thuyết gì? Là hỏi về sự tương ưng của tất cả xứ, do năng lực thiện xảo khiến chúng sinh lãnh hội, do ngôn ngữ tối thắng, do lời lẽ tôn trọng, do giảng nói về nhân chính, vì dựa vào nghĩa thật mà nói, dựa vào sự an ổn mà nói. Đó gọi là điều hay đẹp, do có tình người, do ở bên cạnh vị trời, người lớn, được tâm thanh tịnh hành cúng dường, do các thứ ma oán đối đều không thể quấy nhiễu, vì giảng nói ý nghĩa sâu kín. Tức tám câu ấy là nói về biện tài lạc thuyết của Phạm Thiên Thắng Tư Duy, với những ngôn ngữ hay, đẹp. Nghĩa đó nên biết. Nên biết về những gì? Đó là:

  1. Tương ưng.
  2. Khiến lãnh hội.
  3. Tôn trọng.
  4. Yên ổn.
  5. Tình người.
  6. Thanh tịnh lớn đến cùng cực.
  7. Không thể hàng phục.
  8. Hết mực thâm diệu.

Kế tiếp là nói về nhân của biện tài lạc thuyết, chỉ rõ khi giảng nói pháp với ngôn ngữ như thế, có nhiều thứ công đức. Nếu các chúng sinh có người không tu tập hạnh chân chánh như thật, nhưng vẫn không rời bỏ họ. Do cùng với sự an lạc thù thắng khéo tương ưng. Do mong cho các chúng sinh lìa mọi khổ, được an vui hơn hết. Do ban cho công đức thù thắng như an lạc v.v… khi hoan hỷ, chúc mừng. Do cầu mong đạt tâm an ổn không cấu nhiễm cùng sự an lạc tột bậc.

Dùng năm câu này để nói về nhân nơi biện tài lạc thuyết, với ngôn ngữ hay đẹp của Phạm Thiên Thắng Tư Duy. Về nghĩa này nên nhận biết. Nên nhận biết những gì? Là chỉ rõ ba thứ tâm:

  1. Tâm không bỏ.
  2. Tâm ban vui
  3. Tâm yên ổn.

Như thế, nói theo thứ tự một, ba, một, nên biết.

Tiếp theo là nói về: Được những quả gì của biện tài lạc thuyết? Đó là khả năng đoạn dứt những nghi ngờ của hết thảy chúng sinh trong tất cả nghĩa.

Về nghĩa của kệ: Như trong kinh.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi Phạm Thiên Thắng Tư Duy: Lành thay! Lành thay! Phạm Thiên!

Lại nêu: “Lành thay, Phạm Thiên!”: Vì Phạm Thiên đã mở ra nghi thức đến trước Phật để thỉnh vấn, tương ưng với sự việc trong ba thời gian này.

Nên biết: Lành thay, Phạm Thiên! Nay ông nên chí tâm lắng nghe, Ta sẽ vì ông nêu giảng: Tức thứ lớp như thế là tâm không điên đảo, tâm chánh niệm.

Tâm ấy kiên cố, không mệt mỏi: Là tâm chánh trực. Trong đây, đối với Đại Bồ-đề, tâm tin tưởng làm gốc, là tạo ra tướng nguyện dựa nơi nguyện ấy, nên có thể đạt đầy đủ tất cả công đức của Địa Như Lai.

Dựa vào phương tiện kiên cố của tâm Bồ-đề, nên có câu hỏi thứ nhất.

Ở trong Đại thừa lược nói có bốn sự việc mệt mỏi. Do bốn sự việc mệt mỏi đó, nên Bồ-tát tuy có phát tâm Bồ-đề, tạo nên nguyện Bồ-đề, nhưng vẫn làm mất tâm ấy:

  1. Vì các chúng sinh không tu hành như thật.
  2. Vì tạo tác nhiều sự việc.
  3. Vì tốn nhiều thời gian trong hành hữu vi.
  4. Trong sự giải thoát bình đẳng, tâm thường muốn được mau chóng giải thoát, vì Bồ-tát ấy có lực dụng.

Pháp đối trị bốn chướng này, nghĩa là khởi tâm đại bi đối với hết thảy chúng sinh.

Bốn pháp như thế, theo thứ lớp sẽ nói đến, nghĩa này nên biết. Nên biết như thế nào? Nghĩa là các Bồ-tát dựa nơi tâm đại bi, khi nhận thấy chúng sinh như thế, như thế không thể tu tập hạnh chân chánh như thật, chuyển biến tăng trưởng như thế, như thế, sinh tâm thương xót vì các chúng sinh đó khiến đạt được giải thoát. Càng chuyển biến tăng trưởng thêm lên như thế như thế, tạo nên nguyện.

Lại, các Bồ-tát thường siêng năng tinh tấn, không hề mệt mỏi đối với các công việc đã hành tác nhiều và đều có thể hoàn thành.

Lại, các Bồ-tát với các khổ trong quá khứ, từ đời vô thỉ đến nay, đều tin hiểu như giấc mộng, không chấp về khổ trong đời vị lai ở thời gian sau.

Lại, các Bồ-tát vì Nhất thiết trí, tuy đồng với hàng Nhị thừa giải thoát các phiền não, tuy nhận lấy vô lượng công đức không chung, nhưng vì Bồ-tát có lực dụng đoạn dứt mọi phiền não, với tâm muốn được nhanh chóng giải thoát.

Nói không cùng: Tức không chung về công đức, vì không có cùng.

Nói là cùng: Tức một phần ít của hàng Nhị thừa cùng đoạn phiền não, thế nên gọi là cùng. Vì ý nghĩa ấy, nên gọi là không cùng, không gì hơn.

Bốn thứ tâm không mệt mỏi như thế là đối trị bốn thứ chướng ngại khiến tâm mệt mỏi.

Do đấy, đối với Đại thừa, tâm Bồ-tát luôn vững chắc, không mệt mỏi. Tâm như thế nương dựa nơi pháp Phật, tự thân thuần thục tu hành như thật.

Chính thức nói pháp xong, sau đấy, dựa vào phần vì người khác tu hành như thật, lược nói về bốn pháp: Là nói về sự quyết định, không khiến nửa chừng phải hối tiếc. Ở nơi hai nghĩa:

  1. Không nghĩa.
  2. Có nghĩa.

Nói không nghĩa: Là do vô ngã. Do vô ngã nên lìa nơi pháp.

Nói không pháp: Vì không có tướng của pháp đó, tức Bồ-tát nói các pháp này hoàn toàn là vô ngã. Các Bồ-tát đều hoàn toàn nói tất cả pháp đều là vô ngã.

Nói có nghĩa: Có ba thứ nghĩa:

  1. Nghĩa có lỗi.
  2. Nghĩa công đức.
  3. Nghĩa có cả hai.

Do sai biệt nên là nghĩa có lỗi: Tức là tất cả xứ sinh đều thâu nhận hết thảy phiền não. Vì không muốn sinh vào xứ đó nên không vui thích giảng nói. Thế nên Bồ-tát đều nói một cách trọn vẹn: Tất cả xứ sinh đó đều không an vui. Các Bồ-tát cùng nói như thế, tức các xứ sinh không có an lạc.

Nghĩa công đức: Là tán thán pháp vô thượng của Đại thừa, do các công đức đều tương ưng với tất cả. Thế nên Bồ-tát hoàn toàn quyết định thường ca ngợi Đại thừa, tức các Bồ-tát đều hoàn toàn tán thán pháp Đại thừa như thế.

Nghĩa có cả hai: Tức Bồ-tát đã vượt quá hai pháp công đức chẳng không. Thế nên Bồ-tát hoàn toàn nói hai pháp đó là chẳng không. Các Bồ-tát đều hoàn toàn nói hai pháp tội, phước kia là chẳng không. Điều này nêu rõ về nghĩa gì? Tuy trải qua vô lượng thời gian, khi nhân duyên tương ưng thì có thể dẫn đến quả báo.

Như thế, nương dựa vào tự lợi lợi tha, tu hành như thật, nói pháp đầy đủ xong. Tiếp đến là nói về việc các căn thiện tăng trưởng, là nói dựa vào nhân của quả báo thế gian và xuất thế gian, nói về căn thiện được lớn mạnh thêm.

Nhân của quả báo thế gian: Có hai thứ:

  1. Nhân tự thân thành tựu tốt đẹp.
  2. Nhân thành tựu vật dụng cho đời sống.

Nhân tự thân thành tựu tốt đẹp: Có hai thứ: (a) Nhân tự thân thành tựu tốt đẹp trong Địa bất định: Nghĩa là căn thiện của giới được tăng trưởng. (b) Nhân tự thân thành tựu tốt đẹp trong Địa định: Nghĩa là căn thiện của trí được tăng trưởng. Do vượt quá công đức của trí thuộc các Địa dưới trên, vì dựa vào trí căn bản, dựa vào lìa dục nên thành trí ấy.

Nhân thành tựu vật dụng cho đời sống: Là bỏ tất cả vật, đó là nhân bố thí, nên căn thiện được tăng trưởng.

Nhân của quả báo xuất thế gian: Nghĩa là nhân giải thoát, là tướng xuất gia, nhân lìa tham chấp. Do nhân nơi đó nên được nhân giải thoát.

Tất cả căn thiện của công đức đã tăng trưởng, lại tăng trưởng là các căn thiện này dựa vào các biện luận của thế gian mà nói, có 5 nghĩa tăng thượng, nên gọi là tăng trưởng:

1. Các căn thiện hàng phục tăng thượng, nên gọi là tăng trưởng. Do căn thiện này vượt hơn hẳn các căn thiện của hàng Thanh văn, Phật-bích-chi v.v…

2. Do tăng thượng không trái ngược, nên gọi là tăng trưởng. Do không thoái chuyển, do được vững chắc.

3. Do sự không sợ hãi tăng thượng, nên gọi là tăng trưởng. Chính vì nương vào căn thiện này, nên vượt quá mọi sợ hãi về nẻo ác như địa ngục v.v…

4. Do không thiên lệch được tăng thượng nên gọi là tăng trưởng. Vì có khả năng phá bỏ hết các thứ pháp bị đối trị.

5. Do sự không khác biệt tăng thượng, nên gọi là tăng trưởng.

Vì làm lợi mình, lợi người, không có tướng khác.

Các căn thiện tăng trưởng như thế, nên đối với người không tin pháp Phật, không tu hành như thật, cũng không sinh tâm giận họ. Ở trong phần khéo hành trì như đọc tụng v.v… nêu bày đúng như pháp không chút sợ hãi, oai nghi không thay đổi. Thế nên, theo thứ lớp giảng nói về tướng của pháp Phật. Nghĩa là đối với các chúng sinh không tin pháp Phật, không tu hành như thật, cũng không chút e sợ vì oai nghi không thay đổi.

Có ba hạng sợ hãi là hạng kém, trung bình, bậc thượng.

Yếu kém là lo sợ về mạng sống không có được của cải.

Hạng trung bình có hai:

1. Thường sợ bị hủy nhục.

2. Thường sợ bị tiếng xấu ác, nói xấu ngay trước mặt và lúc vắng mặt.

Sợ hãi bậc thượng là thường sợ thân phải chịu khổ não.

Không chút sợ hãi, oai nghi không thay đổi, như thế là tùy thuận nơi pháp trắng. Vì thế, sau đó là nói về các pháp trắng tăng trưởng.

Nương vào bốn thứ pháp trắng để nói:

  1. Pháp trắng mong muốn.
  2. Pháp trắng của hành.
  3. Pháp trắng đầy đủ công đức.
  4. Pháp trắng chứng đắc.

Pháp trắng mong muốn: Là các Bồ-tát dùng Đại Bồ-đề giáo hóa chúng sinh khiến sinh tâm mong muốn kia. Các Bồ-tát khiến chúng sinh mong muốn tướng tự thể trong các pháp trắng ở đời vị lai.

Pháp trắng của hành: Là các Bồ-tát từ bỏ đời sống giàu có về tiền của, châu báu v.v… tất cả đều dùng vào việc bố thí, không mong cầu quả báo cho thân mình trong vị lai.

Pháp trắng đầy đủ công đức: Là các Bồ-tát đều dựa vào nhân từ bỏ các thứ của cải châu báu, nên thành tựu được pháp vi diệu, tâm không tham vướng, lại dốc tu hành pháp trắng, thâu nhận pháp diệu. Do tương ưng với đa văn, nên tất cả pháp trắng đều được huân tập đầy đủ, vì thế các công đức của Bồ-tát đều viên mãn.

Pháp trắng chứng đắc: Là các Đại Bồ-tát đều nương vào trí để chứng đắc, vì đối với Đại Bồ-đề của tự thân, nên nói là trí phương tiện đạt được pháp thù thắng của trí chứng nhập các pháp trắng kia.

Các pháp trắng tăng trưởng như thế xong, Bồ-tát tùy thuận để khéo nhận biết từ Địa này đến Địa khác. Do đấy, nên tiếp theo là nói đến tướng của pháp đó. Nghĩa là dựa nơi bốn thứ pháp để nói.

  1. Công đức đầy đủ.
  2. Các chướng đều thanh tịnh.
  3. Tâm thành tựu.
  4. Tu hành đầy đủ.

Tập hợp các căn thiện: Vì được các công đức đầy đủ từ Địa này đến Địa khác.

Lìa các lỗi lầm: Vì tất cả các chướng ngại đều được thanh tịnh.

Phương tiện hồi hướng: Là lìa mọi thứ của cải, từ bỏ tâm muốn giải thoát mau chóng của hàng Tiểu thừa. Tất cả căn thiện hiện có đều hồi hướng, nhận lấy Đại Bồ-đề nên siêng năng tinh tấn, chí tâm tu hành, nơi tất cả thời thường không đoạn dứt, vì nương vào chỗ căn bản nên nhận lấy xứ thù thắng.

Như thế là đã nói về phương tiện xong. Tiếp theo là nói về phương tiện nơi pháp tướng, khéo nhận biết về phương tiện giáo hóa chúng sinh.

Dựa nơi 4 thứ pháp để nói:

  1. Có khả năng giáo hóa chúng sinh.
  2. Tập hợp vô lượng công đức của trí.
  3. Tập hợp vô lượng trí tuệ.
  4. Tạo phương tiện.

Có khả năng giáo hóa chúng sinh: Là nương vào bố thí, ái ngữ v.v… tùy thuận các chúng sinh, để thâu giữ họ. Thế nên Bồ-tát có khả năng giáo hóa chúng sinh.

Tập hợp vô lượng công đức của trí: Là tuy lìa được địa định, bất định, nhưng do nương vào các hành như bố thí v.v…, nên đối với hết thảy các thứ công đức của tất cả chúng sinh trong ba đời đều tùy hỷ. Thế nên Bồ-tát được vô lượng công đức của trí.

Tập hợp vô lượng trí tuệ: Là tuy không có đối trị chướng ngại nơi trí, nhưng do thường xuyên tu hành, pháp lồ sám hối, nên Bồ-tát tập hợp được vô lượng trí tuệ.

Tạo phương tiện: Là dựa vào tất cả pháp tu hành, đối trị của Bồ-tát nên khuyến thỉnh chư Phật. Dựa vào vì các chúng sinh ban cho trí tuệ sáng suốt, tập hợp các trí tuệ vì dùng phương tiện thiện xảo làm căn bản, nên gọi là tạo phương tiện.

Như thế là đã nói về phương tiện tu hành. Sau đấy là nói về việc vì chúng sinh, Bồ-tát giảng nói tướng của pháp.

Tùy thuận các chúng sinh: Là giảng nói pháp cho họ. Nghĩa là dựa vào bốn hạng các chúng sinh để nói.

  1. Dựa vào chúng sinh trung gian.
  2. Dựa vào chúng sinh nhập pháp.
  3. Dựa vào chúng sinh hủy báng pháp.
  4. Dựa vào chúng sinh đã tôn trọng.

Do tùy thuận chúng sinh đó nên dùng phương tiện của oai nghi.

Dựa vào chúng sinh trung gian: Là dựa vào các chúng sinh chưa tin pháp Phật, Bồ-tát tu hành, tùy theo những chúng sinh đã tin tưởng pháp Phật, Bồ-tát giảng nói pháp, trao cho họ mọi sự yên ổn, không những chỉ cho họ sự cung kính cúng dường mà còn không lừa dối họ. Bồ-tát luôn hành trì như thế.

Dựa vào chúng sinh nhập pháp: Là tâm của các Bồ-tát, vì khiến cho chúng sinh được nhập nơi nghĩa của pháp, nên cung cấp cho họ, khiến các chúng sinh còn tham đắm lợi dưỡng, được gần gũi nơi Bồ-tát để có thể hội nhập nơi nghĩa của pháp. Đối với pháp như thế, người nào chưa được hóa độ, Bồ-tát sẽ khiến họ được hóa độ. Bồ-tát không hề mệt mỏi trong việc bố thí, chu cấp y phục, thức ăn uống, tiền của cho những ai cần. Hành tác như vậy, Bồ-tát không vì tự thân tham đắm nơi thú vui cho mình. Bồ-tát luôn hành trì như thế.

Dựa vào chúng sinh hủy báng pháp: Là Bồ-tát tự hành không có các lỗi lầm. Nương vào sự nhu hòa, nhẫn nhục, không chấp tội của chúng sinh, chỉ dạy khiến sám hối, Bồ-tát luôn hành hóa như thế.

Dựa vào chúng sinh đã tôn trọng: Bồ-tát đối với các chúng sinh đã được điều phục thuận hợp, theo lời nói mà thọ nhận. Bồ-tát luôn hành hóa như thế.

Như vậy là đã nói Bồ-tát tùy thuận chúng sinh, tu hành như thật, giảng nói pháp cho họ không biết mệt mỏi. Sau đây là nói về việc không làm mất tâm Bồ-đề. Do không mất tâm Bồ-đề nên mới tùy thuận giảng nói pháp, thấy rõ quả vị Phật mầu nhiệm, biết là tối thắng.

Nương nơi 4 thứ pháp để nói:

  1. Nương vào việc không xâm đoạt vật của người khác.
  2. Nương vào nhân của định.
  3. Nương vào lực của duyên.
  4. Nương vào lực của nhân.

Thường xuyên nhớ nghĩ Phật: Là tâm thường xuyên nhớ nghĩ đến quả của tâm Bồ-đề nơi Phật, do nhận thấy quả vị Phật đã thành tựu vô lượng công đức không chung. Đây là dựa vào việc không chiếm đoạt vật của người khác, thế nên không mất tâm Bồ-đề.

Hết thảy căn thiện đã làm không lìa tâm Bồ-đề: Tức các căn thiện đều lấy tâm Bồ-đề làm gốc. Do nương vào tâm Bồ-đề là nhân lâu dài trong vô lượng đời.

Vì dựa vào nhân của định, nên không bị lôi kéo để chịu nơi chốn quả báo ở thế gian. Đây là dựa vào nhân của định đưa tới đâu thì ở đó, nên không mất tâm Bồ-đề.

Gần gũi tri thức thiện: Là do tu hành chân chánh, nương vào duyên lực bên ngoài là tri thức thiện v.v… Đây là nương vào lực của duyên, nên không mất tâm Bồ-đề.

Tán thán Đại thừa: Là do các chúng sinh nên phát tâm Bồđề tán thán Đại thừa, nên đời đời kiếp kiếp đều tăng trưởng tất cả chủng tử của căn thiện làm lực nơi nhân cho thân mình. Đó là lực của nhân to lớn vững chắc. Nhờ dựa vào lực của nhân này nên không mất tâm Bồ-đề. Vì không mất tâm Bồ-đề như thế và hoàn toàn nhất tâm hành hạnh Bồ-tát, do đấy theo thứ lớp giảng nói tướng của các pháp kia.

Người có khả năng buộc giữ tâm mình vào một chỗ khiến không tán loạn, là do dùng đối trị bốn thứ chướng ngại khiến tâm tán loạn, nên nói bốn thứ tâm không tán loạn.

Những gì là bốn thứ chướng ngại khiến tâm tán loạn?

  1. Chướng ngại nơi thừa.
  2. Chướng ngại nơi việc giáo hóa chúng sinh.
  3. Chướng ngại nơi việc tích tập đầy đủ công đức của pháp Phật.
  4. Chướng ngại nơi việc tích tập trọn vẹn tất cả pháp Phật.

Những gì là bốn thứ tâm không tán loạn? Đối trị như thế nào? Đó là:

1. Tâm xa lìa hàng Thanh văn: Là đối trị chướng ngại nơi thừa, vì không rơi vào tâm Tiểu thừa của Thanh văn, nên Bồ-tát ở trong Đại thừa, tâm không tán loạn.

2. Từ bỏ tâm niệm về Phật-bích-chi: Là đối trị chướng ngại nơi việc giáo hóa chúng sinh, vì không vướng mắc vào việc ưa thích hành Tam-muội của tự thân. Thế nên Bồ-tát giáo hóa chúng sinh, tâm không tán loạn.

3. Cầu pháp không hề biết chán đủ: Là đối trị chướng ngại nơi việc tích tập đầy đủ công đức của pháp Phật. Do cầu đạt pháp Phật không hề chán đủ, vì nhằm tập hợp tất cả pháp của chư Phật, vì tăng trưởng vô số các thứ căn thiện, vì tạo đầy đủ các công đức của pháp Phật, nên Bồ-tát tụ tập đầy đủ công đức của pháp Phật, tâm không tán loạn.

4. Như chỗ pháp đã được nghe, nên vì mọi người giảng nói rộng: Là nhằm đối trị chướng ngại nơi việc tích tập trọn vẹn tất cả pháp Phật. Theo như chỗ lãnh hội pháp như thế như thế, chánh niệm quán xét, do nhận biết đúng đắn, tích tập rốt ráo tất cả pháp Phật, do vậy, Bồ-tát đã tích tập hết thảy pháp Phật một cách trọn vẹn, tâm không tán loạn.

Đó gọi là bốn thứ tâm không tán loạn, đối trị bốn thứ chướng ngại khiến tâm tán loạn, nghĩa này nên biết.

Đạt được nhất tâm hoàn toàn như thế, là nhờ khéo mong cầu pháp. Vì vậy sau đấy là nói về việc khéo cầu nơi pháp, đối trị bốn thứ quả báo thành tựu ở thế gian, giống như nói về sự thành tựu của bốn thứ quả báo xuất thế gian.

Nên biết là chỉ rõ việc Bồ-tát chỉ cầu thành tựu quả báo xuất thế gian.

Mong cầu nơi các pháp nào gọi là thành tựu bốn thứ quả báo thế gian? Đó là:

  1. Thành tựu sự đoan nghiêm, vui thích vi diệu.
  2. Thành tựu không bệnh tật.
  3. Thành tựu sự giàu sang.
  4. Thành tựu việc không sợ người khác.

Thế nào là cùng đối trị? Như người thế gian cho là thành tựu tự thân đoan nghiêm làm nhân hy hữu nên cầu châu báu.

Như thế, Bồ-tát cho là thành tựu các tướng tốt đẹp, vui thích vi diệu: Là từ nhân của pháp thiện, sinh tưởng quý báu, tưởng hy hữu, nên cầu các pháp. Như người thế gian vì muốn không bệnh, nên mong cầu cỏ thuốc vi diệu. Bồ-tát cũng như vậy, vì đoạn trừ tất cả bệnh phiền não, ở trong pháp Phật sinh tưởng là thuốc mầu nhiệm nên cầu các pháp.

Như người thế gian, vì muốn được giàu sang nên mong cầu của cải, lợi lộc. Bồ-tát cũng như thế, vì mong cầu các thần thông thành tựu, không thoái chuyển, vì mong cầu tướng nghĩa khiến được không mất, ở trong pháp Phật sinh khởi tưởng về của cải, lợi ích, nên cầu các pháp.

Như người thế gian đã xa lìa giặc v.v… không còn lo sợ gì, nên họ mong cầu của báu. Bồ-tát cũng như thế, vì đã xa lìa tất cả phiền não chướng, khiến chúng không thể ràng buộc, nên Bồ-tát không sợ bất cứ nơi chốn nào.

Bồ-tát không sợ bất cứ nơi chốn nào: Đó là tất cả khổ ở thế gian. Vì nhằm vượt qua tất cả thế gian, xa lìa tất cả tướng khổ của thế gian, được tướng tịch tĩnh, vì đạt được Niết-bàn, thành tựu vô úy, ở trong pháp Phật sinh tưởng không có khổ nên mong cầu các pháp.

HẾT – QUYỂN 1

Pages: 1 2 3 4