LUẬN KINH THẮNG TƯ DUY PHẠM THIÊN SỞ VẤN
Tác giả: Bồ tát Thiên Thân
Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, Đại sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 4

Bồ-tát như thế, hội nhập quả vị Bồ-tát rồi, vì muốn đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh, nên tâm sinh khởi về cõi, dẫn đến sinh trong các nẻo. Do đó, tiếp đến là nói về Đại Bồ-tát, do tâm tự tại nên sinh nơi ba cõi, vì vậy gọi là công đức do thâu giữ.

Bốn câu chỉ rõ: Do lực tự tại nên gồm thâu sinh vào thắng xứ. Tuy sinh vào xứ đó, nhưng không bị cấu nhiễm theo cảnh giới ấy. Vì trong thời gian lâu dài, Bồ-tát đã thâu nhận xứ sinh không mệt mỏi vì không bị lực khác là nghiệp, phiền não khiến sinh, nhưng là tự tại như ý nhận lấy sự sinh. Do các Bồ-tát nơi tất cả xứ sinh đều không hề sợ hãi đối với việc phải thọ nhận vô số khổ não của xứ ấy.

Bồ-tát như thế, vì tạo lợi ích cho tất cả các loài nên tu hành các hạnh, thường làm bậc thượng thủ của hết thảy chúng sinh. Vì vậy, sau đấy là nói Bồ-tát có khả năng làm thượng thủ, có khả năng lãnh đạo đại chúng, có thể hoàn thành công đức (Công đức do khéo luyện tập). Có mười lăm câu chỉ rõ về nghĩa này.

Tự thân Bồ-tát, theo như pháp Phật đã giảng nói để tu hành, siêng năng học tập, dạy bảo người khác, không phạm lỗi, do trong thời gian lâu dài đã hành tập giới cấm, thọ trì, không hủy phạm, giữ gìn cẩn thận vững chắc. Như thế, do có hai thứ công đức nơi thời gian trước sau, nên tự khéo an trụ. Vì nghĩa ấy, Bồ-tát có khả năng lãnh đạo đại chúng. Nghĩa này nên biết.

Vì các chúng sinh, Bồ-tát có khả năng làm bậc thượng thủ khiến họ quy phục. Do vậy, Bồ-tát có khả năng lãnh đạo đại chúng, các ma không thể gây tạo trở ngại, nên xa lìa tất cả các nghiệp ma. Do đã đạt được hoàn toàn “Bất Hộ” nơi các nghiệp thân, miệng, ý, nên Bồ-tát không sợ người khác nói lỗi của mình. Do hiện thấy được pháp sâu xa, nên có thể giải đáp các vấn nạn, không hề khiếp nhược, do dùng phương tiện thiện xảo để giảng nói pháp, do lãnh đạo đại chúng hành tác những việc lớn, tu hành các hạnh là phần căn thiện của tự thân không thoái chuyển.

Hai câu chỉ rõ về các chúng sinh đáng được hóa độ, sinh nơi sáng, nên Bồ-tát có khả năng làm nhân duyên để hóa độ chúng sinh lìa bỏ vô minh, theo thứ lớp như thế, nghĩa này nên biết. Do các chúng sinh có người tùy thuận, kẻ không tùy thuận, nhưng tâm Bồ-tát luôn kiên cố. Tuy các phiền não v.v… có chống trái hay không chống trái, mâu thuẫn, tâm Bồ-tát vẫn không đổi khác. Đối với các chúng sinh, Bồ-tát không có tâm sai biệt, luôn giúp họ thành tựu tất cả các thứ công đức, do có khả năng thọ nhận tất cả số lượng công đức. Tạo ân cho người khác, không cầu báo ân, vì mọi chướng ngại không trói buộc được tâm. Do vì diệt trừ tất cả các sử cùng với pháp đối trị tất cả chúng sinh, nên tuy được đại chúng vây quanh, nhưng tâm Bồ-tát không hề tự cao.

Bồ-tát tu tập các hành tự lợi, lợi tha như thế, là tu tập thành tựu pháp Phật. Do vậy, tiếp theo là nói đến Công đức tu hành thành tựu pháp Phật (Công đức do tu hành có thể tập hợp pháp Phật). Có hai mươi chín câu chỉ rõ về nghĩa ấy.

Nên biết người này như núi Tu-di, kiên cố không thể lay động: Là do nương vào tất cả các công đức thù thắng nơi trí không phân biệt. Những phân biệt của bảy địa còn lại đều không thể làm động. Do dựa vào pháp đó, vì tính chất kiên cố, nên mọi ý niệm của hàng Thanh văn, Phật-bích-chi đều không thể hủy hoại được. Vì dựa vào nội pháp của Như Lai để tu hành, nên những gì đi ngược với pháp Phật đều không thể phá hoại. Do có được lực thù thắng, nên chứng nhập pháp vô ngã của nghĩa sâu xa bậc nhất.

Người này do được chuyển thân với pháp thù thắng, dựa nơi pháp đó nên được thắng giải thoát diệt trừ phiền não. Vì dựa vào sự tu hành, chuyển thân, được thân, nên mọi chủng tử phiền não cấu nhiễm dựa vào thân đều diệt hết. Do thường nghe chánh pháp của tất cả các Đức Như Lai không chán đủ, nên chứng nhập thật tế không còn cảnh giới. Chưa chứng nhập tức có thể chứng nhập lại không mong cầu. Vì các chúng sinh nên chuyển pháp luân, diễn nói chánh pháp. Do các tướng tốt trang nghiêm nơi thân, trụ giữ an lạc thích hợp, như vua Đế thích được các chúng sinh ưa thích do đạt được mười lực tự tại trong tám Địa.

Hai câu chỉ rõ ở trong chín Địa do dựa vào biện tài lạc thuyết để giảng nói pháp giúp các chúng sinh tương ưng với chánh niệm. Như thứ lớp được nêu bày, nghĩa này nên biết.

Do ở trong Địa thứ mười của Bồ-tát đạt được pháp của chủ thể đối trị, khéo tăng trưởng, nên xa lìa được pháp chướng của đối tượng cần đối trị.

Gọi là yếu kém: Là pháp của đối tượng cần đối trị nên nói là yếu kém.

Do các Bồ-tát đã an trụ nơi xứ như thế, gọi là Phật địa. Do Bồtát này tuy là Địa có chướng, nhưng không bị chướng ngại. Vì Bồ-tát này trụ nơi chốn thù thắng, hơn các Bồ-tát khác, do Bồ-tát ấy an trụ nơi Địa không gì bằng thuộc Bồ-tát bình đẳng.

Lại nữa, không gì bằng, không sai biệt, ngang đồng, lại có sai biệt, nói pháp như Tu-đa-la, cùng với pháp vô ngã bình đẳng, vì chứng nhập một vị.

Do các Bồ-tát an trụ nơi xứ đó, người khác không thể dùng giác, quán để lường xét.

Vì biện tài lạc thuyết, giảng nói tất cả các pháp, không ngưng trệ, nên Bồ-tát có khả năng thọ trì hết thảy các pháp do vô lượng Như Lai đã giảng nói, không để quên mất. Tức tiếp sau là nói về văn tuệ, thọ nhận trận mưa pháp lớn. Sau đó, do nhận biết như thật, nên hội nhập nơi đối tượng được nhận biết. Do hiểu rõ pháp kia, tùy thuận đi sâu vào các pháp một cách đúng đắn, nên hội nhập tám vạn bốn ngàn môn hành của chúng sinh, do như hành kia cùng pháp đối trị không mệt mỏi, thế nên Bồ-tát tuy thấy rõ thế gian nhưng luôn tách biệt với thế gian. Do các pháp ghét, yêu, tham, giận của thế gian luôn được mất v.v…, nên các thứ sử phiền não không thể tăng trưởng. Do Bồtát kia tuy có đạt được các sự việc lợi ích lớn, nhưng đối với phần tu tập các căn thiện không thể bị diệt hoại.

Bồ-tát tu tập các pháp Phật như thế, tu tập đúng đắn các hành, nên được các thứ quả thù thắng. Do vậy, sau đấy là nói đến Công đức do chứng đắc quả, gồm hai mươi sáu câu chỉ rõ về nghĩa ấy.

Nương nơi phần chưa thắng giải thành tựu, nương nơi sắc thành tựu, nương nơi nghiệp thành tựu. Nương nơi địa Bồ-tát thành tựu hoàn toàn đầy đủ. Nương nơi chỗ chứng nhập Phật địa thành tựu hoàn toàn. Nghĩa này theo thứ lớp như thế, nên biết.

Nên biết người này có được sự vui thích, đáng yêu mến do các bậc thông tuệ đều mến mộ. Vì Bồ-tát này chứng đế như thật, nên làm bè bạn đồng hành với tâm cung kính, mến mộ, nhớ nghĩ. Do dựa theo pháp cú, dựa nơi sự lãnh hội về pháp tướng, nhận biết pháp kia nên trân trọng cúng dường.

Như thứ lớp giảng nói, do tôn trọng pháp Phật tức có thể cúng dường, do dựa nơi người trung gian, do dựa nơi người không tin pháp Phật, thấy Bồ-tát kia có sự nghiệp thù thắng lớn lao nên quy y với Bồ-tát, lễ bái v.v… do hết sức tinh tấn tu tập hạnh Bồ-tát, nên các Bồ-tát khác đối với Bồ-tát này cũng cúng dường. Người của hàng Nhị thừa, tuy vẫn tinh tấn tu tập, chứng đắc đạo quả, nhưng do Bồtát này có công đức hơn hẳn nên người Nhị thừa kia cũng cầu đạt công đức ấy. Vì thế, Bồ-tát này nương nơi hành thù thắng của mình, không cầu Tiểu thừa. Đây là tâm thành tựu, đạt được tướng công đức của quả.

Nên biết người này là không dua nịnh, tà vạy, do không chút cấu nhiễm theo pháp dua nịnh, vì đã xa lìa pháp tướng hữu vi của thế gian, như các thứ xu phụ quanh co. Do có khả năng sinh khởi sự hoan hỷ của thế gian, vì các oai nghi như đi, đến, ngồi, nằm, đã thành tựu với các hình tướng sắc diệu cao thấp. Do đầy đủ oai nghi, nên được các thế gian sinh tâm cung kính, tôn trọng, vì thân tướng của Bồ-tát đầy đủ ba mươi hai tướng.

Do tất cả thân của Bồ-tát kia có tám mươi vẻ đẹp tùy theo đều hiển hiện, nên đây là sắc tướng thành tựu, đạt được tướng công đức của quả. Dựa nơi sự hành hóa trụ trì của Phật, Pháp, Tăng v.v… là nghiệp thành tựu nên đạt được tướng công đức của quả. Chư Phật đã trông thấy người này: Do tất cả Phật đều hiện thấy, tức là các công đức của chư Phật ấy nên nhận biết đúng như thật.

Do được hiện thấy Pháp thân của Như Lai, do đạt được vô lượng pháp chứng nhập, nhận lấy quả vị, do có được pháp nhẫn hạ, trung, thượng. Nói nhẫn bậc hạ là thuộc trong bảy Địa. Nói nhẫn bậc trung là ở trong các Địa tám, chín. Nói nhẫn bậc thượng là ở trong Địa thứ mười. Đây là Địa Bồ-tát hoàn toàn thành tựu đầy đủ, đạt được tướng công đức của quả.

Người này an tọa nơi đạo tràng đầy đủ: Là chứng đắc nhất thiết chủng, tất cả công đức đều đầy đủ. Người này có khả năng hàng phục các thứ ma, cho đến có thể hoàn thành những sự việc Đức Phật đã làm. Do hàng phục ma, theo thứ lớp như thế, dựa vào đấy để hành trì, đem lại lợi ích cho chúng sinh. Nên biết người này đã thành tựu việc chứng nhập Phật Địa, đạt được tướng công đức của quả.

Không sợ hãi: Vì sao sợ hãi? Vì nghe pháp sâu xa, cho là đạo dị biệt, nên gọi là sợ hãi. Do nơi sợ hãi đó càng chuyển tăng thêm, nối tiếp không dứt, nên gọi là sợ hãi tăng thượng. Sự sợ hãi không đoạn dứt, tương ưng với chấp trước, gọi là sợ hãi tăng thượng tột bậc. Do rơi trong sự sợ hãi, do gắn liền với sự sợ hãi, do sợ hãi cả không vật, thứ lớp như thế, cho thấy người kia không sợ hãi, không có sợ hãi tăng thêm, không có các sự sợ hãi tăng thượng tột bậc. Nghĩa này nên biết.

Nói về các công đức kia vẫn không thể hết: Là dựa vào sự tu hành như lời Phật đã giảng nói, gồm bảy thứ công đức với vô số các thứ sai biệt không thể tính kể.

Bồ-đề Phật: Như trước đã nói, do Bồ-đề đó khó có thể nhận biết, nên có hai câu nêu bày sự khó thấy, khó biết, chỉ rõ vì là trí xuất thế gian, dựa nơi trí xuất thế gian, đạt được cảnh giới của trí, còn các thứ trí thế gian khác thì không thể nhận biết được cảnh giới đó.

Nói có thể tin tưởng: Là nương vào sự nhận lấy, thọ trì, đọc tụng, giải thích, có thể tự tùy thuận pháp, tu hành như lời giảng nói, giúp người khác nhận biết, nên gọi là tin. Đó là khiến người khác có trí phương tiện thiện xảo, tu hành đúng như thật, nghĩa này nên biết. Tin, giữ, thọ trì, đọc tụng, diễn nói v.v… thì công đức hiện có là không thể lường tính, vì đấy là cảnh giới của Nhất thiết trí.

Tiếp theo: Là nương vào việc Phạm Thiên không thể nhận biết trọn vẹn về trí đầy đủ kia, như kinh nói: Bấy giờ, Đức Như Lai bảo Đại Phạm Thiên Thắng Tư Duy: Này Phạm Thiên! Ông chỉ nhận biết một phần ít về sắc thân và công đức của các Đại Bồ-tát kia để tán thán họ. Đây là dựa vào nghĩa gì? Là dựa vào sự tán thán, dựa nơi công đức và dựa nơi sự việc hành hóa, theo thứ lớp như thế, dựa vào nghĩa thâm diệu mà nói. Nghĩa là ở trong từng chữ, câu, nghĩa đều thâm diệu, nên biết, là chỉ rõ việc nhận biết nơi chốn đi tới, hướng đến thấy rõ ý nghĩa sâu xa.

Đây là do nghĩa gì? Là biết được ý sâu xa: Tức biết ý của người có khả năng giảng nói pháp, là chỉ rõ dựa nơi lượng pháp tương ưng nên nghĩa pháp trước sau đều khế hợp, nên biết.

Do không thuận theo nghĩa của văn tự, do dựa nơi nghĩa không dựa nơi chữ, do dựa vào câu hỏi chân chánh, lời nói chân chánh, do năm thứ lực tu hành để nói, thế nên, tức nói năm lực nơi ngôn ngữ gọi là ưa thích giảng nói, nghĩa này nên biết.

Năm lực: Vì sao gọi là lực? Do có bốn thứ lực tương ưng:

  1. Lực trụ giữ công việc Phật đã làm.
  2. Lực hàng phục tất cả các ngoại đạo.
  3. Lực có thể nhận biết tất cả nghiệp ma. Nhận biết rồi, tức có thể xa lìa chúng.
  4. Lực nhận lấy hoàn toàn về ba thừa.

Ở trong pháp kia, mỗi mỗi lực đều tương ưng. Do nương vào pháp đó, nên Đức Như Lai có thể giảng nói về chỗ khéo tương ưng.

Năm lực này dựa vào năm pháp thâm diệu để nói:

  1. Dựa vào tướng thâm diệu.
  2. Dựa vào ý thâm diệu.
  3. Dựa vào thời xứ thâm diệu.
  4. Dựa vào nẻo tiến thủ thâm diệu.
  5. Dựa vào việc thường giảng nói pháp tùy thuận thâm diệu.

Dựa vào tướng thâm diệu: Là do tướng sai biệt rất khó nhận biết của tất cả các pháp trong ba đời. Các pháp như quá khứ v.v… nương nơi bốn thứ để nói.

  1. Nương nơi sự việc để nói.
  2. Nương nơi chỗ đối lập với pháp đối trị để nói.
  3. Nương nơi nghĩa của Thế đế để nói.
  4. Nương nơi sự tiến thủ theo Thừa có sai biệt để nói.

Đây là làm rõ về nghĩa gì?

Nương nơi sự việc để nói: Là nương vào sự việc của ba đời để nói về pháp tướng của các sự việc kia. Sự việc của ba đời là quá khứ, hiện tại, vị lai, tức ở đây gọi là nói về việc nơi ba đời. Vì nương nơi trí không chướng ngại của Đức Như Lai, để nói về sự việc ba đời, nên gọi là ghi nhớ về ba đời.

Nương nơi chỗ đối lập với pháp đối trị để nói: Tức phiền não cấu nhiễm là đối tượng được đối trị, còn pháp thanh tịnh là chủ thể đối trị. Pháp thanh tịnh và phiền não kia có hai thứ sai biệt là thiện, bất thiện. Lại, pháp thiện cũng có hai thứ sai biệt là thế gian và xuất thế gian. Thế gian lại có hai thứ sai biệt là hữu lậu và vô lậu. Hữu lậu cũng có hai thứ sai biệt là có lỗi và không lỗi. Không lỗi cũng có hai thứ sai biệt là hữu vi và vô vi.

Nương nơi nghĩa của Thế đế để nói: Là nương vào danh, tự giả danh để nói về tướng sai biệt của ngã, chúng sinh v.v…

Nương nơi sự tiến thủ theo Thừa có sai biệt để nói: Là đạt được nghĩa đệ nhất, chứng nhập chân như, vì chánh trí dựa vào sự thanh tịnh.

Chứng nhập theo thứ lớp như thế là tiến tới nhận lấy Niết-bàn của thế gian. Đây là biện minh về nghĩa gì? Người của thế gian nhằm tiến tới tức là hàng Nhị thừa của thế gian thâu nhận pháp chứng nhập của Địa khác, cho là Niết-bàn, do giữ lấy biên vực tịch diệt nơi Niếtbàn. Các Đại Bồ-tát không trụ nơi hai xứ đó.

Do nói về lực thứ nhất của Bồ-tát không chấp trước, không có lỗi lầm, nên nói dụ về huyễn v.v… Đây là làm rõ về nghĩa gì? Như các huyễn thuật tạo ra thân thể voi v.v… đều không thành tựu.

Như thế, ngôn ngữ nêu bày về các pháp, với những thân tướng như sắc v.v đều không thành tựu, như trong mộng thấy thọ dụng các thứ cảnh giới, nhưng những cảnh giới trong mộng đó đều là điên đảo. Thấy ngôn thuyết như thế về nghĩa thọ dụng pháp lạc thì nẻo ấy chỉ là sự phân biệt hư vọng.

Ngôn ngữ, tiếng vang, là có khi thân nghe trong hư không, nhưng tiếng ấy không có trụ xứ. Như vậy, nói pháp với ngôn ngữ, âm thanh trong Đệ nhất nghĩa đế là khéo trụ nơi vô trụ. Cũng như ảnh kia hiện trông thấy chỉ có tướng, tuy thấy chúng có các thứ hình tướng như sắc v.v…, nhưng các hình tướng đó đều không tương ưng với thể của pháp. Mà nương vào pháp đó, tùy thuận để sinh, nên nói như thế, là nói tất cả các pháp cũng chỉ là tướng. Tuy có vô số danh tự sai biệt, nhưng các danh, tự đó không tương ưng với pháp đã giảng nói, vì dựa vào pháp ấy để thuận theo tướng. Như dùng các dấu in, in vào bùn đất v.v… thấy rõ dấu in thứ hai, nhưng thể của các dấu in vẫn không chuyển, không hòa nhập. Nói về các pháp với thấy như thế, ngôn ngữ như thế, tuy nhân nơi lời nói, nghe về nghĩa như sắc v.v… có sai biệt nơi tướng khác, nhưng mọi ngôn ngữ đều không ở trong nghĩa của pháp mà vẫn nghe như vậy.

Như sóng nắng kia thật sự không có nước, nhưng cũng thấy có nước. Như vậy, ngôn ngữ nói về các pháp thì thể tướng của các pháp không phải như lời nói, nhưng cũng nhận thấy thể tướng của pháp đó. Như hư không kia, xưa nay vốn không sinh, không diệt, tuy có dùng ngôn ngữ để nói về hư không, nhưng hư không kia vẫn không có tự thể để có thể nêu bày.

Như vậy, ngôn ngữ nói về nghĩa của pháp nơi Đệ nhất nghĩa đế là không thể nói về thể do tất cả pháp không có ngôn ngữ có thể diễn đạt.

Thế nên nói pháp là không có một pháp nào để nói cả, vì lời nói về pháp kia đều như huyễn, nên Đức Như Lai đã dùng dụ về huyễn để chỉ rõ.

Như thế, không vướng mắc vào lời khi nói về nghĩa pháp, là được trí không chướng ngại nơi biện tài lạc thuyết, đó gọi là lợi ích, nghĩa này nên biết. Đây là làm rõ về nghĩa gì? Tất cả pháp ngôn ngữ không lìa nơi pháp giới để nói, không sai biệt với pháp giới để nói. Đây là do nghĩa gì? Do tất cả pháp được nêu bày như sắc v.v… có những sai biệt, không lìa nơi pháp giới để nói, vì pháp giới luôn hòa hợp. Do nói về các pháp có sai biệt như sắc v.v… nhưng không chấp trước.

Dựa vào ý thâm diệu: Là nương vào sáu thứ mật ý của Đức Như Lai, Bồ-tát có thể nhận biết là Như Lai có ý rất sâu xa. Nghĩa này nên biết. Sáu thứ mật ý là:

  1. Mật ý về sự nhớ nghĩ.
  2. Mật ý không nêu bày.
  3. Mật ý đối với đối trị.
  4. Mật ý về pháp.
  5. Mật ý về tâm.
  6. Mật ý về chữ chuyển biến.

Phạm thiên! Như Lai hoặc pháp nhiễm nói là tịnh v.v…: Đây là chỉ rõ Mật ý về sự nhớ nghĩ. Nghĩa này là thế nào? Là do không thấy Thể của pháp phiền não cấu nhiễm. Nếu có thấy là do chấp chặt vào thể của pháp tịnh, do nhiễm nơi chánh niệm, vì nhiễm tịnh đều không có tự Thể. Do không dao động, chấp trước, đây là thể tướng của pháp nhiễm. Do tâm dao động, chấp trước đây là thể tướng của pháp tịnh. Vì pháp nhiễm kia tuy không phải là chánh niệm, nhưng nó không thành pháp nhiễm. Đó gọi là Mật ý về sự nhớ nghĩ của Đức Như Lai.

Lại nữa, Phạm Thiên: Ta nương vào bố thí, tức chỉ rõ về Niếtbàn v.v…: Đây là chỉ rõ về Mật ý không nêu bày. Nghĩa này là thế nào? Là do Phật không khởi tâm khi giảng nói các pháp. Tất cả pháp đều không có lực như thế để có thể từ đời này chuyển biến đến đời kia. Pháp của Ta là vô thể, thế nên không có một pháp nào có thể chuyển đổi. Do từ nghĩa ấy, nên không có một mảy may pháp nào chuyển đến đời khác. Vì vậy nương vào bố thí, nói đạt được Niếtbàn là không có điều ấy. Đó gọi là Mật ý không nêu bày của Đức Như Lai.

Từ trì giới cho đến Bát-nhã là để chỉ rõ về Niết-bàn. Đây là biện minh về nghĩa gì? Đây là chỉ rõ về Mật ý đối với đối trị. Nghĩa này là thế nào? Là pháp của đối tượng được đối trị như sự dứt bỏ giới. Là nương vào hành Ba-la-mật, ưa thích hành trì.

Nói trì giới v.v… gọi là Niết-bàn, do đoạn dứt khả năng dấy khởi phiền não phá giới nơi thân, miệng, ý v.v… không hành theo hành ác. Do lìa tất cả tâm giết hại v.v… dựa vào tâm hại kia là không, do không còn sinh tâm nhẫn nhục. Do lìa biếng trễ, thường hành tinh tấn, là tăng trưởng thiện, là diệt hành ác. Không có tâm như thế thì hành thiện không tăng trưởng, hành ác không diệt.

Lại nữa, tâm không còn dao động, do không có giác, quán. Đây là do nơi nghĩa gì? Do lìa tất cả tâm dao động, do không còn tâm phân biệt tán loạn, do lìa bỏ tất cả cảnh giới của đối tượng được nhận biết nên không sinh.

Ta đã được tâm, do không thủ đắc, nên gọi là được, vì không thấy pháp: Đó gọi là Mật ý đối với đối trị của Đức Như Lai.

Tham dục là pháp tánh của thật tế không có tướng dục. Cho đến ngu si là pháp tánh của thật tế không có tướng ngu si. Lìa nơi chân như thì thật tế như tham v.v… là không có pháp để có thể nói, nên chỉ rõ Mật ý về pháp. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Pháp tánh của thật tế không có tướng si, nên đây là chỉ rõ Mật ý về pháp. Điều ấy là do nghìa gì? Do lìa chân như, thì thật tế như tham v.v… là không có pháp để có thể nói. Nghĩa này nên biết. Đó gọi là Mật ý về pháp của Đức Như Lai.

Thế gian là Niết-bàn, không thoái chuyển, không sinh, cho đến hư vọng là lời nói thật, vì người tăng thượng mạn. Đây là chỉ rõ Mật ý về tâm. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do hiểu thế gian xưa nay không sinh, không diệt, tức là Niết-bàn. Chấp trước nơi Niết-bàn, nơi thể tướng của Niết-bàn, chấp giữ tướng như thế là do lỗi lầm của tâm ấy, tức là thế gian. Ngôn ngữ thật: Là nương vào môn ngôn ngữ để nói. Nếu chấp cho là thật tức là hư vọng. Nói hư vọng là người ngã mạn phân biệt hư vọng, cho đó là thật, chấp lấy tướng thật nhưng là không thật. Đó gọi là Mật ý về tâm của Đức Như Lai.

Lại nữa, Phạm thiên! Như Lai do tùy ý, hoặc tự nói ngã là nói thường biên (Chấp thường): Đây là chỉ rõ Mật ý về chữ chuyển biến. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do nói Niết-bàn v.v… là pháp thường. Do nói các pháp nhiễm như phiền não v.v… Do nói đoạn trừ các kiết sử phiền não như tham v.v… Do nói không tạo tác hành ác. Do nói không có hành nghiệp như thân v.v… Do thấy rõ hết thảy tà kiến, hý luận. Do Nhất thiết trí là không tùy thuộc vào nhân duyên của người khác. Do chứng nhập pháp giới của Niết-bàn vô vi. Do không dựa nơi nghiệp phiền não, nên sinh trong mọi nẻo không dấy khởi trói buộc. Do hoàn toàn có thể đoạn dứt nghiệp ái. Do không trụ nơi ba cõi, nên không hệ thuộc ba cõi. Như kinh nói: “Nhưng Như Lai không có các sự việc như thế”. Đây là do nơi nghĩa gì? Đây là do Như Lai dựa nơi biên thường nên thấy hết thảy là vô thường v.v… Lại nói không có các sự việc như thế, là do trong pháp Phật không nêu bày như thế, vì mọi nơi chốn được thuyết giảng đều không thể nhận thấy.

Phạm Thiên nên biết! Đó là tùy ý của Như Lai: Do nương nơi ý nào? Là chúng sinh kiêu mạn có thể trừ bỏ ngã mạn. Đây là biện minh về nghĩa gì? Tức chỉ rõ nghĩa khác trong pháp đã nói như thế. Chấp trước nơi danh, nghĩa cũng như vậy.

Phạm Thiên! Nếu Bồ-tát nhận biết Như Lai tùy theo phương tiện để giảng nói: Là lìa chỗ chấp trước nơi danh nghĩa như thế, nên tiếp sau lại nêu dẫn. Đây là do nơi nghĩa nào? Là do trong việc giảng nói pháp có hai thứ hành:

  1. Hành của chữ.
  2. Hành của nghĩa.

Đây là làm rõ về nghĩa gì? Là danh, tự hiện hành trong nghĩa như thế, là nghĩa hiện hành trong danh, tự như thế. Đây là ý thâm diệu của Như Lai. Nương nơi ý thâm diệu này, khéo nhận biết về trí, hành, nghĩa, chữ, tướng của phương tiện thiện xảo như thế, nên biết hành này tức gọi là hành nơi Bồ-tát, đi đến hành như ý. Như ý thâm diệu của Đức Như Lai đã nói, thì phương tiện thiện xảo đã tập hợp các pháp, tức có thể khéo nhận biết về vô số thứ pháp đã nói, thế nên Bồ-tát có khả năng không sợ, không hãi trước các âm thanh, ngôn ngữ giảng nói pháp của chư Phật. Nên biết như thế. Do các chúng sinh tùy theo vô số thứ tâm, thế nên Bồ-tát nương vào phương tiện kia là có thể tin nhận. Nghe Phật xuất thế, không xuất thế v.v… do không giống với tướng khác, nên như sự việc Như Lai xuất thế, không xuất thế v.v… mỗi mỗi đều chỉ rõ không chấp, không vướng nơi phương tiện thiện xảo, khiến các chúng sinh tin nhập nơi các pháp. Do có thể hóa độ các chúng sinh, thân không thuần thục khiến được thuần thục, vì họ giảng nói pháp cạn dựa vào chỗ ưa thích chỉ rõ điều ưa thích. Vì chúng sinh thân thọ lạc, thân đã thuần thục thì giảng nói pháp sâu xa.

Thế nên, theo thứ lớp dựa vào thời gian để giảng nói pháp, nghĩa này nên biết. Nên biết như thế nào? Trước hết vì chúng sinh giảng nói pháp cạn thô. Đây là biện minh về nghĩa gì? Là thâu giữ nhân quả, là thâu nhận nẻo quán xét, là dẫn dắt nghiệp của chúng sinh, dùng phương tiện để giáo hóa thâu giữ họ, dẫn dắt tu hành nơi quả: Bố thí sẽ được giàu, cho đến có tuệ để trừ bỏ các phiền não. Nương nơi pháp thiện tu hành để thâu giữ nhân quả. Dùng nhẫn để đối trị đối với các thứ xấu xa, thô bỉ, do nhẫn có thể sinh tâm hoan hỷ, do nhẫn có thể làm nhân cho sự đoan nghiêm. Siêng tu các hành của văn tuệ v.v…, nên có thể làm nhân cho trí. Do có thể vượt qua nhân của khổ khổ, do tuệ quán như thật, nên có thể lìa các phiền não, khiến nhân của các phiền não tan diệt, không thể tích tập.

Lại nữa, hành của văn tuệ này là tu tập, quán các pháp thiện. Vì sao nhân của quán này lại do tuệ đa văn dẫn dắt? Vì nó thâu giữ quán kia, tiếp nhận mười nghiệp đạo thiện tu hành của thân v.v… Nương nơi mười thứ nghiệp thiện ấy để dẫn dắt hàng trời, người thành tựu các công đức, đều do sự thâu giữ của nghiệp kia. Thâu nhận vô lượng nghiệp do thương xót chúng sinh, nên Bồ-tát dùng phương tiện để giáo hóa, thâu nhận họ. Theo phương tiện thâu nhận chúng sinh thuần thục là do Bồ-tát dựa nơi pháp Xa-ma-tha, tu hành tất cả pháp thiện, do đó, từ Xa-ma-tha nên đạt được Tỳ-bát-xá-na. Đây là tu hành để thâu nhận.

Do nương nơi ba thừa, đạt được Niết-bàn của ba thừa, là quả của sự tu hành thâu nhận.

Vì nhận lấy việc khất thực, ít ham muốn, hành Đầu-đà, vì các chúng sinh tạo ít lợi ích, không có khả năng giảng nói pháp, vì khiến cho mọi người tùy thuận hội nhập.

Như Lai giảng nói pháp cạn như thế xong, sau đó mới giảng nói pháp sâu xa. Đây là biện minh về nghĩa gì? Giảng nói pháp cạn thô là làm rõ về nhân quả. Vì căn chưa thuần thục thì có thể giáo hóa khiến tự tâm hiểu biết rõ về sự việc nhân quả. Chúng sinh được thâu nhận gồm chủ thể tạo tác, đối tượng được tạo tác, Như Lai đều cùng thấy rõ. Do vậy, Như Lai trước hết là làm rõ về nhân quả, tiếp theo mới nói đến pháp đối trị gồm chủ thể đối trị và đối tượng được đối trị, chỉ rõ tự thân lìa bỏ tà kiến kia. Như Lai thật sự không có tưởng về ngã, chúng sinh, thọ mạng và trượng phu v.v… Nghĩa này là thế nào? Nghĩa về ngã, chúng sinh, thọ mạng, trượng phu như trước đã nói, nên nhận biết như thế. Do không nhận thấy pháp nhân quả của chủ thể đối trị và đối tượng được đối trị, nên lược nói là dựa theo quả báo của thế gian. Do không thấy chỗ thọ nhận quả báo của bố thí v.v… Do không thấy sự keo kiệt v.v… không thọ nhận quả báo. Do đã xa lìa pháp tu hành của chủ thể đối trị, đối tượng được đối trị. Do không thấy quả của việc lìa thế gian, quả của việc đạt được Niết-bàn, theo tướng của pháp có, không.

Phạm thiên! Như Lai thường giảng nói pháp cho chúng sinh và các chúng sinh đã nương theo lời dạy của Như Lai, như pháp đã nêu bày, tu hành như thật, siêng tu các hành. Do nghĩa gì mà tu tập, siêng hành các hành, cho đến không thủ đắc Niết-bàn, không thấy có Niếtbàn? Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Như giảng nói pháp cạn, chúng sinh thâu nhận, thấy tướng của các pháp, tu hành như vậy về quả xuất thế gian, nhưng không chấp giữ quả vị đó.

Như Lai thị hiện giảng nói pháp như thế là nhân của thế gian.

Đây là nói về nghĩa gì? Là dựa vào pháp Phật giảng nói để tu hành. Đó là tùy thuận nơi pháp thiện căn bản.

Tu các hành: Là giải thích do nương vào pháp không thủ đắc, nương vào pháp không kiến chấp, theo thứ lớp như thế để nói.

Pháp không thủ đắc: Là dùng tuệ quan sát, không thể thủ đắc.

Pháp không chấp giữ: Là do thân không thể chứng nhập Niết-bàn.

Vì khiến chúng sinh thâu nhận pháp diệu, đây là biện minh về nghĩa gì? Giảng nói pháp cạn, sâu, là Như Lai giảng nói để cho các chúng sinh đều được hội nhập cả hai thứ pháp sâu, cạn kia. Vì nhằm chỉ rõ sự chứng nhập pháp tướng. Đây là do nơi nghĩa nào? Khiến hội nhập pháp, là dựa nơi bốn thứ nhập. Vì có thể hóa độ chúng sinh, nên chỉ rõ sự giải thoát, khiến chứng được pháp đó. Nghĩa này nên biết.

Bốn thứ hội nhập: Là nói về hành tướng, được các căn như mắt v.v… lìa ngã, ngã sở, vì thể của hai tướng ấy đều là không, nên hiểu được tướng đó rồi tức không thể lừa dối, vì được hội nhập nơi giải thoát, nên gọi là tướng. Hội nhập, dựa vào tướng như mắt v.v… tức có thể hội nhập nơi giải thoát, do vậy gọi là hội nhập nơi tướng giải thoát.

Như thế, trong tướng không kia tu tập hành chánh, nên được nhập nơi tướng giải thoát, đều không lừa dối vì trái ngược với tướng lừa dối.

Do nơi nghĩa này, nên dựa vào sự tu hành để nói các chúng sinh hội nhập tướng giải thoát. Thế nên, nương nơi hành tướng của hai pháp này, chỉ rõ các môn không v.v… là để đối trị nghiệp phiền não cấu nhiễm và nhiễm sinh khởi v.v… Đây là biện minh về nghĩa gì? Là đối trị chỗ cần được đối trị. Là pháp đối trị các nhiễm của tướng, nguyện bị chấp giữ do nghiệp phiền não nhiễm cùng các nhiễm đang sinh khởi. Đây là làm rõ: Do các môn không, vô tướng, vô nguyện, là đối trị nghiệp nhiễm và phiền não nhiễm. Do môn không hành đối lập với sinh tử, nên đối trị phần nhiễm của sinh. Môn không sinh, không diệt, là biện minh: Tức trong phần nhiễm của sinh có pháp đối trị những sai biệt. Nghĩa là đối tượng được đối trị kia lại có đối trị. Do môn không từ đâu đến và không đi về đâu, lại có đối trị. Do môn không thoái chuyển, không đi tới đã hội nhập tướng giải thoát.

Như thứ lớp đó, môn tự tánh thanh tịnh mới là tịch tĩnh. Đây là biện minh về nghĩa gì? Do tự tánh của pháp thoái chuyển kia là tịch tĩnh, tức chỉ rõ sự cấu nhiễm kia thảy đều vắng lặng. Do đâu mà nói tự tánh tịch tĩnh? Do nương vào tánh tịnh để nói về pháp chứng nhập. Thế nên phần tiếp theo nói: Lại nữa, này Phạm thiên! Từ nơi tất cả danh, tự, Như Lai chỉ cho biết đó là cửa giải thoát.

Như thế v.v… đấy là do nơi nghĩa nào? Do có lần lượt cùng không tương ưng, vì tự tánh tối, độn. Đây là do nghĩa gì? Là do nương vào nhiều thứ pháp khác, nói về nhiều thứ danh, tự khác. Do các danh tự, chữ trước, chữ sau không đi đôi với nhau, nên lại có sai biệt do ý nghĩa của ngôn ngữ không cùng tương ưng.

Nói như thế là nêu rõ về nghĩa gì? Do nói các pháp không có ngôn ngữ nào có thể dùng để nêu bày. Nương nơi pháp tướng của chỗ không có ngôn ngữ, danh tự để nói như thế rồi, là chỉ rõ tất cả ngôn ngữ, danh tự do Đức Như Lai nói ra, là nhân của giải thoát. Đây là biện minh cho nghĩa gì? Là nói về đế thật. Dựa nơi như thật của đế thật ấy, chính thức giảng nói các pháp xong, làm thế nào để được giải thoát? Do vậy, phần tiếp theo nêu: “Phạm thiên! Như Lai nói pháp, không có pháp nhiễm”. Đây là làm rõ: Do thân thuần thục, nên Như Lai nói pháp cạn rồi, vì tùy thuận sự đoạn trừ nhân của các pháp phiền não cấu nhiễm, nương vào pháp môn chứng nhập, nên nói trong tất cả các pháp được nêu giảng, đều chỉ rõ về môn giải thoát. Đây là chỉ rõ nơi nghĩa gì? Tức chỉ rõ về Niết-bàn. Là chỉ rõ người tu học kiến đế, thấy rõ các thứ phiền não tàn dư, chỉ rõ kẻ tu học lìa phiền não, đạt được giải thoát. Người chưa thấy đế thật thì giúp khiến họ hội nhập nơi tất cả pháp chân như bình đẳng, dùng phương tiện giảng nói pháp chỉ rõ về Niết-bàn.

Có hai thứ nghĩa nên biết về đại bi:

  1. Hoàn toàn đối trị pháp của đối tượng được đối trị.
  2. Tâm đại bi của Nhất thiết chủng.

Đây là làm sáng tỏ về nghĩa gì? Là xa lìa tất cả pháp của đối tượng được đối trị và dứt bỏ các tập khí phiền não, do đạt được thân Như Lai, đạt được Nhất thiết chủng.

Lược nương vào bốn thứ tâm đại bi:

  1. Tâm đại bi xa lìa tương ưng.
  2. Tâm đại bi tương ưng.
  3. Tâm đại bi của tâm.
  4. Tâm đại bi tu hành.

Xa lìa tương ưng: Là dùng thức lìa thức, không tương ưng, vì nhận thấy ngã cùng tâm tương ưng. Đây là chỉ rõ về nghĩa: Chỉ rõ tâm đại bi xa lìa tương ưng, chỉ rõ tâm đại bi tương ưng.

Như thế theo thứ lớp, các pháp đều không ngã, cho đến tất cả các pháp đều không trượng phu. Dựa vào người, vô ngã để nói tất cả pháp là không thật có. Dựa vào pháp vô ngã để nói, tức là hai thứ tướng người vô ngã, tướng pháp vô ngã kia gọi là vô trụ.

Nói vô trụ: Là không chấp trước nơi thể v.v… của các pháp, nên không trụ vào tất cả các pháp. Nên biết như thế. Đây là biện minh về nghĩa: Gọi là trụ, là trụ nơi các nhập. Dựa nơi môn ái của ngã kiến, rồi trụ nơi xứ đó. Phàm là vô trụ thì không có nơi chốn quay về. Đã không có chốn quay về thì làm sao có sự quay về. Quy về nơi ba cõi, quy về nơi sáu đường. Do nương nơi nhập kia để thâu nhận thân, từ đó nên sinh, do nơi xứ ấy nên luôn chìm đắm.

Nói chìm đắm: Là nơi ngã, ngã sở, do nơi xứ xứ kia sinh ra thân, tâm, nên có sinh tử.

Không có nơi chốn quay về: Tức không có tưởng ngã. Không có tưởng về ngã thì không có ngã sở.

Có nơi chốn quay về: Tức chấp giữ nơi tưởng ngã. Vướng mắc nơi tưởng về ngã tức có ngã sở. Chấp nơi ngã sở thì các pháp cùng sinh ra. Nhưng các chúng sinh phân biệt hư vọng nên ngã càng gia tăng. Đây là biện minh về nghĩa: Là nương vào sự việc để thâu nhận mọi chấp trước.

Nói nương vào sự việc: Là nương vào ruộng nương, nhà cửa, vườn rừng v.v… nương vào cha mẹ, vợ con v.v… nương vào y phục, thức ăn uống, giường nằm v.v…

Nương vào sự thâu nhận: Là nhận lấy mọi sự thọ dụng.

Nương vào chấp trước: Là chấp giữ cho là tự mình hiện có, là ruộng nương, nhà cửa v.v… là sở hữu riêng của ta. Chấp trước như thế sinh ra vướng mắc nơi cuộc sống thoái chuyển.

Nói vướng mắc nơi cuộc sống: Là từ xứ này đến xứ khác, đều do chấp giữ cả. Nghiệp phiền não cấu nhiễm luôn tăng thượng hiện bày khắp. Thời gian, nơi chốn đến đi, đã sinh đầy cấu nhiễm. Dựa nơi ba thứ tham, giận, si đã trói buộc cấu nhiễm, đi theo những gì đã cấu nhiễm. Nghĩa này là thế nào? Tham, sân, si theo chỗ bị nhiễm là do nghĩa gì? Hai thứ tên gọi nêu bày, là nương vào nhiễm căn bản. Nghĩa là từ đời quá khứ đến đời này, từ đời này đến đời kia đều cho những thứ ấy là đứng đầu.

Nói như thế là chỉ rõ đời đời kiếp kiếp nối tiếp nhau không đoạn dứt. Có sự tạo tác là chúng sinh cứ sống như vậy, không đoạn dứt, luân chuyển mãi. Học theo các thứ kỹ thuật, các thứ ngành nghề, đều do sức của trượng phu làm nên pháp hữu vi, hý luận tích tập thành cảnh giới có cảnh giới thọ dụng.

Chúng sinh phân biệt hư vọng như thế, tất cả sự việc như vậy đều dựa vào phần hạn của người thế tục, nghĩa này nên biết.

Lại nữa, có người dựa nơi phần vị xuất gia, chỉ là hình tướng theo tà kiến của ngoại đạo, tà kiến tướng nguyện. Đây là làm rõ về nghĩa gì?

Nói tà kiến: Là chấp ngã v.v…

Gọi tướng: Là phân biệt hư vọng về đủ loại tướng của nghĩa ấy.

Gọi nguyện: Là tâm thường ưa thích cầu được sinh nơi thế gian v.v… Tức trên đây đã nói tâm bi xa lìa, tâm bi không xa lìa, là chỉ rõ về tâm bi của tâm. Nghĩa này nên biết.

Vì tâm bi xa lìa hay không xa lìa đều nhằm nói về pháp tu hành. Dựa vào dục để mong cầu. Dựa vào hữu để mong cầu. Dựa vào phạm hạnh để mong cầu các đạo điên đảo, là pháp của chủ thể đối trị, đối tượng được đối trị. Thế nên phần tiếp theo là nói về việc tu hành tâm bi. Đây là biện minh về nghĩa gì?

Dựa vào dục để mong cầu các đạo điên đảo: Là do thâu giữ nên lần lượt cùng tranh chấp. Vì các dục nên từ nơi cha mẹ và vợ con cùng nhau tranh chấp. Nương nơi lỗi lầm của giận dữ nên kiện thưa, thứ lớp như thế.

Dựa nơi hữu để mong cầu các đạo điên đảo: Là tương ưng với điên đảo. Cầu Phạm thiên v.v… là cùng với chấp thường điên đảo. Do chấp giữ điên đảo nên gọi là điên đảo. Vì điên đảo là lìa bỏ đạo điên đảo, khiến được nhập nơi đạo không điên đảo. Lại, dựa nơi hữu để cầu đạo điên đảo: Là trụ nơi dị đạo. Vì nhằm giáo hóa các chúng sinh của dị đạo kia khiến nhập nơi Phật đạo, là đạo không thể thủ đắc.

Dựa nơi phạm hạnh để cầu các đạo điên đảo: Lược nêu có ba loại: Là cầu không được, cầu tà vạy và cầu thấp kém. Đây lại có nghĩa gì?

Tất cả thế gian đều có lỗi là không tự tại, lỗi do tà mạng, lỗi lầm đối với người thân. Các pháp phiền não cấu nhiễm, nghiệp khổ cấu nhiễm là ngôi nhà an vui của người thế tục. Vì vậy nên chúng sinh không cầu phạm hạnh. Không cầu phạm hạnh là không cầu đạo giải thoát. Đây có nghĩa là sự bỏn sẻn đã khiến con người chìm đắm nơi hành tham, dối và tập khí của biếng nhác.

Theo thứ lớp như thế, Bồ-tát hành hóa để cứu vớt chúng sinh không hề biết chán đủ.

Chiếm đoạt tài sản của kẻ khác là tự tạo của cải theo phi pháp. Bố thí cho các chúng sinh thiếu thốn, do họ luôn vì các thứ tài sản, vật dụng, nhà cửa, vợ con, ân ái để làm tôi tớ. Đây chỉ rõ là tâm của chúng sinh không được tự tại.

Đối với các thứ vật dụng nguy khốn, không vững chắc này lại sinh khởi tưởng vững chắc: Là mọi thứ tiền của, vật dụng đều là vô thường lại sinh tưởng thường còn.

Cung kính cúng dường, đây là nói về nghĩa gì? Là sự trói buộc của ăn uống, không thành tựu. Chúng sinh tuy cho là tri thức thiện nhưng là tri thức ác của họ, chỉ rõ đó là oán gia.

Tự sống theo tà mạng là sử dụng cân, hộc v.v… để lừa dối người khác.

Trong tất cả các pháp, luôn siêng năng tu tập các hành mới có thể chứng được Đại Bồ-đề trọn vẹn. Nhưng các chúng sinh đó lại biếng nhác, mệt mỏi.

Cảnh giới giải thoát tối thắng của Thánh nhân là do người tu hành với nhân không điên đảo đạt được. Nhưng vì các chúng sinh mong cầu phạm hạnh tà vạy, lại dựa vào nhân điên đảo tu tập các hành, hy vọng chứng đắc, ấy là kẻ cầu giải thoát của ngoại đạo.

Nhằm khiến họ không hành theo đạo tà kia. Vì sao? Vì họ không đạt được pháp giải thoát của Thánh nhân.

Chúng sinh đã từ bỏ Đại thừa tối thượng, không ngăn ngại: Là chỉ mong cầu phạm hạnh thấp, như bỏ Đại thừa vô thượng bậc nhất để chỉ cầu được phần thấp của pháp Tiểu thừa.

HẾT – QUYỂN 4

Pages: 1 2 3 4