LUẬN KINH THẮNG TƯ DUY PHẠM THIÊN SỞ VẤN
Tác giả: Bồ tát Thiên Thân
Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, Đại sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 2

Lại có nghĩa khác: Dựa vào bốn thứ công đức của châu báu thế gian, tương đối tương tợ để nói về pháp bảo xuất thế gian, nên biết.

Những gì gọi là bốn thứ công đức của châu báu thế gian? Vì sao gọi là tương đối tương tợ?

1. Giá trị quý trọng to lớn hơn hết. Như người thế gian được vật báu kia có thể xuất sinh vô lượng tài sản quý báu. Bồ-tát cũng như thế, được pháp báu xuất thế gian của Phật, nên có khả năng sinh ra vô lượng căn thiện.

2. Tương ưng với pháp tối thắng. Như người thế gian được vật báu kia, nên có khả năng chữa lành vô số chứng bệnh. Bồ-tát cũng như thế, vì được pháp báu xuất thế gian của Phật, nên có thể đoạn trừ tất cả bệnh phiền não, như thuốc vi diệu kia.

3. Như ý. Như người thế gian được thể của ngọc báu Ma-ni Như ý kia, dựa nơi ngọc báu ấy, như tâm cần cầu điều gì đều được. Bồ-tát cũng như vậy, do được pháp báu xuất thế gian của Phật, nên dựa vào pháp, tư duy về hết thảy công đức đầy đủc căn thiện.

4. Thể báu. Như người thế gian được ngọc báu Ma-ni kia, theo tâm cần cầu điều gì cũng đều được, không cùng tận. Bồ-tát cũng như vậy, vì vượt quá tất cả các khổ nơi thế gian, được pháp bảo xuất thế gian của Phật, nên có được quả không cùng tận, có thể vì chúng sinh nói pháp báu không sinh, không tử.

Lại còn có nghĩa: Chúng sinh ở thế gian được vô lượng của báu. Có của báu trong tay nên có thể tùy ý thành tựu vô lượng sự việc thù thắng. Bồ-tát cũng như thế, được pháp bảo xuất thế gian của Đại thừa, nên có thể tùy ý thành tựu tất cả quả báo thù thắng nơi tất cả công đức của thế gian và xuất thế gian. Như thế, được vô lượng vật báu, đối trị các chứng bệnh v.v…, dựa vào câu đầu để giải thích câu khác, nên biết.

Cầu pháp như thế, tùy thuận nơi việc học rộng nghe nhiều, có phương tiện thiện xảo, có khả năng lìa các lỗi lầm. Thế nên theo thứ lớp giảng nói tướng của pháp kia, khéo ra khỏi tội hủy phạm giới cấm. Tức nương vào pháp quán như thật, không lấy, không bỏ. Nương vào không sinh, không diệt, không đi, không đến. Nương vào đời vị lai, không còn làm điều ác. Nương vào khả năng xa lìa tất cả những nghi hoặc.

Đạt được nhẫn vô sinh: Là nhẫn nội tâm, khiến các pháp nhẫn vắng lặng, quán như thật không lấy, không bỏ.

Được nhẫn không diệt: Là quan sát như thật về thể của tội lỗi là do phân biệt hư vọng, vì nó không sinh, không diệt, nên không đi, không đến.

Được nhẫn nhân duyên: Là quan sát nhân duyên xưa nay không sinh vì thuộc về thể tánh khác. Quan sát như thật về thể nhiễm do hủy phạm giới cấm, là lìa nhân phát sinh, nơi đời vị lai, không còn làm ác nữa.

Chứng được nhẫn vô trụ: Là tâm đổi khác lần lượt sinh khởi ăn năn. Quan sát như thật về căn bản của các tội tức ở trong thân, không lìa nơi tâm. Không thấy tội lỗi kia, như thế là không thấy tất cả tội lỗi, xa lìa tất cả những gì đã nghi trong tâm, vì có khả năng diệt bỏ hối tiếc nên khéo vượt khỏi tội lỗi.

Như vậy, căn bản của các lỗi là pháp nhiễm hư vọng. Nếu muốn chấm dứt lỗi, cần phải đoạn trừ gốc của lỗi. Thế nên, sau đấy là nói đến việc đoạn trừ gốc của lỗi.

Khéo đoạn trừ các phiền não: Là nương vào ba đời để nói.

Quan sát đúng đắn: Là như thật chánh niệm. Dựa vào hành của niệm tà nên phiền não khởi lên. Do quán đúng đắn như thật nên không thấy thể của lỗi kia, xa lìa các chướng ở vị lai.

Tăng trưởng các pháp trắng: Là trong đời vị lai không còn tạo ác, do chí tâm không tạo điều ác ấy, nên được tâm thanh tịnh.

Được sức mạnh của pháp thiện: Là quan sát các lỗi của phiền não hư vọng, không thấy tất cả phiền não trong quá khứ, đó là do có được sức mạnh của pháp trắng.

Ở riêng một mình, xa lìa: Là do đã đạt được chủng tử của tâm tịch tĩnh.

Như thế, theo thứ lớp nơi căn thiện tăng thượng, tùy thuận, không sinh cảnh giới phiền não, không che giữ các phiền não, là do được sức mạnh của nhân duyên, nên phiền não không khởi lên trong đời vị lai.

Như vậy, điều phục các phiền não xong, Bồ-tát khéo đến với các đại chúng, thế nên theo thứ lớp nêu bày về tướng của pháp kia.

Khéo đến với các đại chúng:2 thứ sai biệt:

  1. Dựa vào sự sai biệt về người.
  2. Dựa vào sự sai biệt của tâm.

Dựa vào sự sai biệt về người: Là đến với những người nào? Đến đó để làm gì? Đến do nghĩa gì? Vì sao lại phải đến? Đây là làm rõ về nghĩa nào? Người tôn quý xuất gia, có tuệ đa văn vì cầu pháp, nên sinh tâm quý trọng, đi đến chỗ kẻ kia không tìm kiếm lỗi của họ. Người này vì không tìm kiếm lỗi lầm của người kia như thế, đến với người thấp kém xuất gia, có tuệ đa văn, vì cầu pháp nên sinh tâm tôn trọng, đi tới chỗ người kia với tâm không kiêu mạn. Người này tâm không kiêu mạn như vậy, đi đến với người nơi A-lan-nhã, là người không có tuệ đa văn, nhưng không có tâm khinh khi, chỉ mong cầu một ít pháp thiện, nên đến nơi ấy, không tự đề cao mình. Như vậy, người này không tự đề cao mình, nên đi đến chỗ kẻ kia là xứ ồn ào náo nhiệt, là người không có tuệ đa văn, nhưng Bồ-tát không khinh thường họ, không đề cao mình, cho ta là người hơn hết, sao lại đi tới đó, chỉ cho thân mình vì đối với thân người khác, vì cầu đạt căn thiện nên đi đến chỗ người kia, không vì thân mình được cung kính cúng dường, tiếng khen, tán thán. Người này như thế là không vì thân mình được cung kính cúng dường, tiếng khen, tán thán, nên đến chỗ người kia.

Dựa vào sự sai biệt của tâm: Là do nương vào bốn thứ tâm thành tựu:

1. Tâm cầu pháp thành tựu: Là do thấy pháp thù thắng, cũng như chân thật, vì cầu đạt pháp đó, nên đến với đại chúng.

2. Tâm oai nghi thành tựu: Là cởi bỏ mão vàng, dép, dù quý báu v.v… với oai nghi dịu dàng thuận hợp, đến với đại chúng.

3. Tâm căn thiện mong cầu nghĩa tối thượng thành tựu: Là tuy đạt được pháp vô thượng, nhưng không cho là đủ, lại cầu pháp thù thắng trong sự tối thắng, vì pháp thí nên đến với đại chúng.

4. Tâm bản nguyện thành tựu: Là không mong cầu thân mình được cung kính cúng dường, tôn xưng, tán thán, vì lợi mình, lợi người, nên đến với đại chúng.

Như thế, khéo đến với các đại chúng, nên hành pháp thí, do vậy, theo thứ lớp nói tướng của pháp đó.

Khéo mở bày pháp thí: Là dùng pháp nào để nói? Dùng nghĩa gì để nói? Nương vào sự việc gì để nói? Nói như thế nào? Vì nhân nơi sự việc kia nên nói.

Dùng pháp nào để nói: Là dùng pháp để thâu nhận pháp, như được văn tuệ để giảng nói pháp như thế.

Dùng nghĩa gì để nói: Là do được nghĩa, nên tự lập thệ nguyện xong, hoàn toàn nên bên trong tự tư duy, giảng nói cho kẻ khác.

Nương vào sự việc gì để nói: Là tạo sự việc vi diệu của bậc Hiền. Như pháp đã giảng nói, hành tác như thế do điều mình giảng nói không hư dối.

Nói như thế nào: Là chỉ rõ pháp nhiễm, tịnh, chỉ rõ theo thứ lớp tướng của hai pháp với hai đế.

Như thế, giảng nói pháp cho người khác, khiến sinh căn thiện. Tăng trưởng lực nơi nhân vững chắc của thân mình, do đó theo thứ lớp giảng nói tướng của pháp kia.

Trước hết là được lực của nhân, không mất căn thiện: Là nương vào 4 thứ pháp để nói:

  1. Giáo hóa chúng sinh.
  2. Có thể nhẫn chịu các khổ.
  3. Xa lìa tà kiến.
  4. Tu hành tất cả căn thiện của công đức, do nương vào lực vững chắc của nhân mà nói.

Nơi sai lầm thiếu sót của kẻ khác, không thấy lỗi của họ, là không thấy lỗi của người khác nhưng luôn phòng hộ lỗi nơi thân mình, nên đối với lỗi lầm của chúng sinh, giáo hóa được là nhờ sức mạnh kiên cố của các nhân, đời đời kiếp kiếp thường có thể giáo hóa tất cả chúng sinh, là nhờ nương vào lực của nhân tăng trưởng vững chắc hiện tiền. Do lực của nhân vững chắc như thế, nên giáo hóa chúng sinh trong đời vị lai một cách bền vững, tăng trưởng và được thành tựu. Đó gọi là Bồtát được lực của nhân từ trước do không mất căn thiện.

Đối với người giận dữ, Bồ-tát thường tu tập tâm từ: Là ưa thích tu tập tâm đại từ, nên có khả năng nhẫn nhục đối với sự giận dữ của người kia. Chúng sinh gây khổ não, Bồ-tát có thể nhẫn chịu các khổ. Vì lực của nhân kiên cố nên đời đời, kiếp kiếp Bồ-tát ưa thích tu tập đại từ, nên thường có khả năng nhẫn chịu mọi sân giận. Chúng sinh sân hận gây khổ não, nhưng với lực của nhân tăng trưởng, vững chắc hiện tiền, Bồ-tát nương vào đó, nương vào lực của nhân vững chắc như thế, nên có thể nhẫn chịu mọi khổ trong đời vị lai, nhờ sự tăng trưởng kiên cố mà được thành tựu. Đó gọi là Bồ-tát được lực của nhân từ trước do không mất căn thiện.

Thường nói nhân duyên của các pháp: Là ở trong các pháp chỉ rõ cho kẻ khác về nhân không điên đảo, chỉ sức mạnh của nhân đạt được quả là lìa tà kiến, ưa chuộng chánh kiến. Do sức của nhân kiên cố, nên đời đời, kiếp kiếp ở trong các pháp, vì người khác chỉ rõ nhân không điên đảo. Lực của nhân đạt được quả, vì lìa tà kiến, ưa thích chánh kiến, nên sức của nhân tăng trưởng vững chắc hiện tiền. Bồ-tát nương vào sức của nhân kiên cố đó, nên thân mình trong đời vị lai ưa chuộng chánh kiến, không thích tà kiến, do sự kiên cố tăng trưởng nên được thành tựu. Đó gọi là Bồ-tát được lực của nhân từ trước do không mất căn thiện.

Thường nhớ nghĩ Bồ-đề: Là không bỏ nguyện lực của tâm Bồđề, thường xuyên không lìa bỏ tâm Bồ-đề, tu hành tất cả căn thiện của công đức. Thấy tâm của Đại Bồ-tát với nguyện lực kiên cố, nên Bồ-tát đời đời, kiếp kiếp thường tu tập tất cả sức nhân nơi căn thiện của công đức, được tăng trưởng vững chắc hiện tiền. Nương vào sức của nhân kiên cố đó, Bồ-tát tu hành tất cả công đức nơi căn thiện trong đời vị lai, nên sự kiên cố tăng trưởng đều được thành tựu. Đó gọi là Bồ-tát được lực của nhân từ trước do không mất căn thiện.

Như thế, do có lực của nhân từ trước, tuy chưa có người giảng nói về hành Ba-la-mật, nhưng Bồ-tát có phương tiện hành Ba-la-mật. Thế nên, sau đây là nói đến việc không do người khác dạy bảo nhưng có khả năng tự hành pháp hạnh Ba-la-mật.

Vì dùng bố thí làm người dẫn đường: Nghĩa là bố thí ở trong Ba-la-mật là đứng đầu. Đầu tiên tự tu hành sau mới dạy người khác, khiến họ hội nhập nơi sự tu hành. Bồ-tát tu hành bố thí như thế sẽ thành tựu hạnh bố thí trong đời vị lai, nên đời đời, kiếp kiếp không do người khác chỉ dạy, Bồ-tát vẫn có khả năng tự hành Bố thí Bala-mật.

Không nói tội hủy phạm giới cấm của người khác: Là chỉ rõ không thấy lỗi lầm của người khác, tức Bồ-tát khéo an trụ nơi trì giới. Do khéo trụ nơi trì giới như thế, nên nơi đời vị lai không làm mất tất cả các hành của giới cấm, đời đời kiếp kiếp không do người khác dạy bảo, nhưng Bồ-tát vẫn có khả năng tự hành Trì giới Ba-la-mật.

Khéo nhận biết thâu giữ pháp giáo hóa chúng sinh: Là giáo hóa các chúng sinh, khiến họ được nhẫn yên ổn. Các chúng sinh kia không tu tập các hành, Bồ-tát siêng năng giảng nói các pháp, không hề mệt mỏi, biết tâm, biết sai khiến, để thâu nhận chúng sinh. Bồ-tát tu hành nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định như vậy, nên nơi đời vị lai tức thành tựu được tinh tấn, nhẫn nhục và thiền định. Đời đời, kiếp kiếp theo thứ lớp như thế, không do người khác chỉ dạy, nhưng Bồ-tát vẫn có khả năng tự hành nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định Ba-la-mật.

Hiểu thấu pháp sâu xa: Là khéo nhận biết tất cả các pháp không có ngã. Bồ-tát vì tin hiểu pháp sâu xa như thế, nên thành tựu trí tuệ nơi vị lai, đời đời kiếp kiếp không do người khác chỉ dạy, nhưng vẫn có khả năng tự hành Bát-nhã Ba-la-mật. Bồ-tát tu hành Ba-la-mật như thế, thực hành được hạnh thù thắng, hòa dịu, có thể xoay chuyển các thiền định, trở lại hóa sinh trong cõi Dục.

Thế nên theo thứ lớp giảng nói tướng của pháp ấy. Tâm hòa dịu là do Bồ-tát chứng được Tam-muội, Tam-ma-bạt-đề nên có lực tự tại, lại nhờ nơi phương tiện thiện xảo nên có khả năng chuyển biến, khởi hiện cảnh giới thắng diệu. Bồ-tát kia đã được lực tự tại trong thiền định, nhưng không vì thiền định để sinh lên cõi Sắc. Được sức mạnh của các căn thiện, nghĩa là các Bồ-tát có thể lìa bỏ thắng xứ, không chấp lấy thắng xứ, tuy sinh nơi cõi dưới, nhưng đối với thiền định kia Bồ-tát vẫn không thoái chuyển.

Khéo tu tập sức mạnh của phương tiện trí tuệ: Là các Bồ-tát do có lực của phương tiện Bát-nhã nên khéo tu tập các hành, nên không thoái chuyển nơi Địa dưới. Ở trong nhàm chán, không thọ nhận Địa đó, cũng không tu hành hạnh gì để sinh vào xứ ấy.

Chỉ rõ về chánh nhân, nên không bỏ tất cả các chúng sinh: Nghĩa là các Bồ-tát vì không rời bỏ chúng sinh, nên đã rời bỏ xứ thắng diệu, chấp nhận sinh vào chốn thấp kém, chỉ rõ là nhằm giáo hóa các chúng sinh.

Như thế, Bồ-tát không tham chấp nơi an lạc riêng mà đem niềm vui cho người khác, chỉ rõ ban vui cho chúng sinh, vì đã được pháp luân không thoái chuyển, nên theo thứ lớp nói đến tướng của pháp đó.

Chứng được Địa của pháp luân không thoái chuyển: Vì đối với ba thứ pháp thoái thất cần đối trị nên nói bốn thứ pháp đối trị. Nghĩa này nên biết. Nên biết như thế nào? Đó là trong việc tu tập hạnh Bồtát, có ba thứ pháp khiến Bồ-tát thoái chuyển:

1. Thời gian lâu xa vô lượng. Do không thể nhẫn chịu mọi thứ khổ não như sinh v.v… nên sinh tâm thoái chuyển.

2. Vì công đức trí tuệ ít ỏi, nên sinh tâm thoái chuyển.

3. Lìa bỏ tất cả chúng sinh, vì không có tâm từ bi, nên sinh tâm thoái chuyển.

Có thể thọ nhận vô lượng sinh tử: Là Bồ-tát có tâm hoàn toàn chấp nhận thời gian lâu xa vô lượng, nên tuy có vô số các khổ như sinh v.v… vẫn có thể chịu đựng, không sợ hãi, không sinh mệt mỏi.

Cúng dường vô lượng chư Phật Như Lai: Là Bồ-tát cung kính cúng dường vô lượng chư Phật, theo Phật nghe pháp, đạt được vô lượng công đức trí tuệ. Thế nên Bồ-tát thành tựu được công đức trí tuệ thượng diệu.

Tu hành vô lượng tâm đại từ, đại bi: Là Bồ-tát theo thứ lớp như thế, ban cho tất cả chúng sinh sự yên ổn, đem niềm vui đến cho hết thảy chúng sinh, vì Bồ-tát không hề lìa bỏ họ.

Như thế, do chứng được Địa không thoái chuyển, nên không đoạn dứt chủng tử Phật, tu hành như thật, do vậy, theo thứ lớp sẽ nói đến pháp tướng đó. Không mất giống Phật, tu hành như thật, là do chứng được Phật Địa nơi đệ nhất nghĩa, vì chứng được Phật Địa nơi thế gian.

Phật Địa nơi đệ nhất nghĩa do ba thứ nhân nên chứng được:

  1. Tâm mong muốn căn bản.
  2. Chí tâm mong muốn chứng đắc.
  3. Tâm mong muốn tối thượng.

Bản nguyện không thoái chuyển: Là vì không mất phần căn bản. Đó gọi là tâm mong muốn căn bản, chỉ rõ về tâm mong muốn căn bản như thế, là làm rõ về tướng nơi sức mạnh của nguyện gốc.

Tu hành như lời nói: Là theo pháp Như Lai đã giảng nói để tu hành, như thế gọi là tu hành như lời nói, chỉ rõ các Bồ-tát chí tâm muốn được chứng đắc.

Đối với các pháp thiện có sự tinh tấn mong muốn lớn: Là tâm mong muốn tăng thượng, tuy được một phần ít vẫn không cho là đủ, vì còn mong cầu pháp thù thắng.

Tâm sâu xa hành trì Phật đạo: Là chỉ rõ sự giả gọi về nhân của Phật Địa.

Giả gọi Phật: Là chỉ rõ về sinh Phật khi Ngài nhập Niết-bàn.

Nói tâm sâu xa: Là chỉ rõ việc tâm cầu sinh Phật đó.

Hành nơi Phật đạo: Là tu hành như thật, là sinh Phật thị hiện Phật trụ trì. Lại vì thị hiện nên sinh Phật ấy lại có nói pháp, chuyển pháp luân, thâu nhận chúng sinh.

Vì thọ nhận an lạc của các nghĩa pháp nào? Đức Phật phóng ra hào quang tỏa sáng để dẫn dắt, tiếp nhận. Vì Thánh giả Phạm Thiên Thắng Tư Duy muốn thọ nhận vô số pháp lạc kia. Nương vào lời hỏi trước của Phạm Thiên về sự thù thắng, Thánh giả Bồ-tát Võng Minh Đồng tử hỏi Phạm Thiên về vô số pháp tướng nổi bật đã nêu bày.

Từ đây trở xuống: Là nói rộng về Phạm Thiên Thắng Tư Duy, nên biết.

Phần hỏi của Phạm Thiên có tám thứ câu hỏi về tà và chánh được ghi nhận để giảng nói về pháp đó. Như kinh nêu: Phạm Thiên nói: Này Võng Minh! Nếu Bồ-tát thấy có ngã nên hỏi, đó là hỏi tà, không phải là hỏi chánh, như thế v.v… Những gì là tám thứ? Đó là:

  1. Nương vào.
  2. Thể.
  3. Nương dựa.
  4. Nương vào sự.
  5. Lỗi lầm.
  6. Lợi ích.
  7. Dấy khởi.
  8. Căn bản.

Nương vào: Nghĩa là nương nơi Đại thừa, do nương vào thừa đó nên ở đây là câu hỏi chánh.

Thể: Hỏi tà là thể. Thể ấy có ba thứ: Là ngoại đạo, Thanh văn và Bồ-tát mới phát tâm.

Nương dựa: Có ba thứ không trí: Thô, trung bình, vi tế. Ba thứ ấy là tối tăm. Nghĩa là theo thứ lớp như ngoại đạo v.v… nên biết. Nên biết như thế nào? Nên biết người ngoại đạo dựa vào thứ không trí thô. Vì thế nên không nhận thức được thể tướng của vô ngã trong thân mình và thân người, chấp trước có ngã, vì không thể nhận biết tướng của các pháp. Nương vào tâm mình, nhận thấy luận tà đã giảng nói, theo nghĩa câu của luận đó, chấp trước nơi pháp tướng. Như vậy theo thứ lớp nơi thân mình, thân người, nhận thức hư vọng mà hỏi.

Hết thảy như thế đều không phải là hỏi của chánh niệm, nên đều là hỏi tà.

Thanh văn phân biệt nhận biết tướng của pháp vô ngã, còn có điều không biết. Thế nên gọi là hạng không trí, tối tăm trung bình. Dựa vào chỗ không trí trung bình ấy, nhận lấy việc tạo tác các nghiệp như nghiệp của mình v.v… tức nhân nơi nghiệp đó nên nhận quả báo, chứ không phải đâu khác. Và vướng chấp nơi tự thể theo đồng tướng, dị tướng, thành tựu các pháp tất có như sắc v.v.

Thưa hỏi như thế là chấp trước nơi pháp của thân mình và thân kẻ khác. Do có tùy thuận việc đoạn trừ phiền não chướng, dựa vào thừa mình gọi là chánh niệm. Dựa vào việc đoạn trừ phiền não chướng, nhưng không tùy thuận nơi việc đoạn trừ chướng của trí, nên gọi là tà niệm. Căn cứ theo Đại thừa nên gọi là hỏi tà.

Bồ-tát mới phát tâm một phần ít có khả năng nhận biết các pháp vô ngã. Lại do không nhận biết về chỗ không có trí vi tế, dựa vào đấy, nương vào chỗ vật có không, lìa bỏ tướng có, giữ lấy tướng không.

Ở trong hai pháp, một mực giữ lấy pháp không, duyên nơi tướng của pháp không để hỏi, là hỏi không chân chánh.

Nói dựa vào sự việc: Sự việc có sáu thứ:

  1. Ấm, giới, nhập.
  2. Nhân duyên tập hợp.
  3. Đế (Chân lý).
  4. Chứng trí.
  5. Đối với đối trị.
  6. Pháp Phật.

Dựa vào sự việc của ấm, giới, nhập: Là dựa vào ngã để hỏi về ngã.

Dựa vào sự việc của nhân duyên tập hợp: Là dựa vào nẻo thuận nghịch mà hỏi. Do sinh nên hỏi. Do diệt nên hỏi. Do thị xứ phi xứ nên hỏi. Tức hỏi về nhân duyên tập hợp kia. Sinh, diệt tức là thị xứ phi xứ. Như trong kinh nói: “Nghiệp của thân, miệng v.v… tu hành các điều thiện, nếu sinh vào đường dữ thì không có điều đó”.

Dựa vào sự việc của Đế: Là thuận với nhân duyên tập, nghịch với nhân duyên tập.

Thuận với nhân duyên tập: Là hai Đế với thể cấu nhiễm có nhân, có quả, vì là thể của pháp hành hữu lậu. Nghịch với nhân duyên tập: Là hai Đế với thể tịnh, nương vào đạo có khả năng diệt trừ, thế nên Đạo đế gọi là Diệt đế.

Như thế, nương vào hai Đế với hai thứ nhiễm, tịnh để hỏi. Dựa vào hai Đế với thể của pháp nhiễm đó nên hỏi về thế gian có sinh tử. Dựa vào hai Đế với thể của pháp tịnh nên hỏi về Niết-bàn tịch diệt. Như thế, theo thứ lớp sinh trong thế gian, vượt quá thế gian, chứng được Niết-bàn.

Như thế Niết-bàn và thế gian hai thứ có sai biệt, là nương vào Niết-bàn hữu dư và Niết-bàn vô dư. Như vậy, hỏi những sự việc thế gian, là dựa vào thật đế mà hỏi, nghĩa này nên biết. Do ý nghĩa đó, dựa vào bốn thứ sự việc của đế ngăn chận pháp vô ngã.

Dựa vào sự việc của chứng trí: Là dựa vào sự hiểu biết, dựa nơi xa lìa mà hỏi, vì chứng đắc, vì tu tập mà hỏi. Theo thứ lớp như thế, trí đó, khi kiến đạo được gọi là trí.

Đã chứng trí, nên từ đây trở lên được gọi là tu đạo. Vì có được sự chứng biết đó, nên dựa vào trí chứng đắc để hỏi, được tên trí, gọi là tu hành, nghĩa này nên biết.

Vì xa lìa tập kia, nên được quả của chánh đạo xuất thế gian, do lìa khỏi các kiết sử phiền não nơi thân, nên dựa vào chỗ xa lìa sự việc đó mà hỏi. Như kinh nói: Thế nên Võng Minh! Dùng những nơi chốn không thủ đắc, không nhận lấy, không chứng nhập, không phân biệt, không nhận biết, không nương dựa, không tu tập, không tu kiến mà hỏi, đó là hỏi chân chánh. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Ở trong chân như đã nói về câu chữ, là nói không có trí như thế, là để ngăn chận xứ chân như không có pháp như thế. Như nơi mỗi mỗi câu có xứ phân biệt cũng là để ngăn chận vị trí của chúng không có pháp như thế.

Không nhận lấy: Là không còn phân biệt hư vọng cho là ta đã chứng được.

Không phân biệt: Là không phân biệt hư giả là ta đã chứng nhập.

Không nương dựa: Là không phân biệt hư vọng là ta đã nhận biết Niết-bàn.

Không phân biệt: Là đệ nhất nghĩa.

Nói nương dựa: Là nương vào kiến đạo. Kiến đạo này dựa vào tu đạo mà nói.

Không tu kiến: Là không còn chấp ta tu đạo. Nói pháp như thế tức gọi là chánh.

Dựa vào sự việc của đối với đối trị: Là các pháp thiện, bất thiện

v.v… Pháp bất thiện gọi là đối, pháp thiện gọi là đối trị.

Lại, pháp thiện có hai thứ khác nhau là hữu lậu và vô lậu có sai biệt.

Lại, các ngoại đạo do gắn với tà kiến ô trược, nên trong cõi sinh tử luôn có lỗi lầm, nghĩa này nên biết.

Không có lỗi lầm cũng có hai thứ sai biệt là hữu vi và vô vi.

Pháp thiện lại có hai thứ sai biệt là thế gian và xuất thế gian.

Kẻ kia có phân biệt, lấy không phân biệt, dựa vào đó để hỏi về các sự việc của chủ thể đối trị và đối tượng cần đối trị.

Này Võng Minh! Nếu Bồ-tát không thấy có hai, không thấy không hai, là không thấy hai số, không thấy một số. Đó là để ngăn chận có thể chấp giữ pháp vô ngã.

Hỏi về vô minh, vô tướng, hành bình đẳng, gọi là hỏi chánh: Là do giữ lấy tướng của pháp kia nên phải ngăn chận khả năng chấp giữ, có thể chấp giữ tướng đó.

Lại, hỏi về vô tướng, hành bình đẳng vô tướng: Là để ngăn chận chủ thể nói, có thể nói về tướng.

Lại, chủ thể nói gọi là bình đẳng, có thể nói gọi là tướng, vì nhận biết tất cả sự bình đẳng.

Pháp kia có thể nói, cũng gọi là bình đẳng, nhiều thứ pháp tướng đồng gọi là nói.

Dựa vào sự việc của pháp Phật: Là dựa vào Phật, dựa vào pháp, dựa vào sự tu hành, dựa vào xứ, dựa vào chúng sinh có thể hóa độ, dựa vào sự tinh tấn, giữ lấy chứng trí.

Theo thứ lớp về Phật v.v… như thế: Là thị hiện nhân nơi sự sai biệt đó, nên hỏi.

Đủ chủng loại Phật v.v…: Nên biết.

Đủ chủng loại Phật: Là sự sai biệt về thời kỳ, gia đình, dòng họ, đời sống.

Đủ chủng loại Pháp: Là sự sai biệt nơi các thể loại của Kinh, Kỳ-dạ v.v…

Đủ chủng loại Tăng: Là toàn bộ sự sai biệt ít nhiều về Bồ-tát, Thanh văn, Tăng xen tạp.

Đủ chủng loại quốc độ: Là toàn bộ sự sai biệt về quốc độ tịnh và nhiễm.

Đủ chủng loại chúng sinh: Là sự sai biệt về các thứ phiền não như tham, giận, si xen tạp v.v…

Đủ chủng loại thừa: Là sự khác nhau về các thừa như Thanh văn v.v…

Gọi là lỗi lầm: Là các ngoại đạo v.v… hỏi về pháp sinh, pháp diệt, thị xứ phi xứ. Thấy pháp sinh hỏi. Thấy pháp diệt hỏi. Thấy pháp nhiễm hỏi. Thấy pháp tịnh hỏi. Các câu hỏi như thế đều là hỏi nhiễm, thế nên gọi là lỗi lầm.

Người của hàng Thanh văn nơi tất cả câu hỏi cũng như vậy, vì diệt, vì tịnh, vì thành tựu Niết-bàn nhưng không đạt được Đại Bồ-đề, do đó gọi là lỗi lầm.

Bồ-tát mới phát tâm Bồ-đề cũng hỏi không chánh niệm. Do không thành tựu trí thanh tịnh như thật, nên gọi là lỗi lầm.

Gọi là lợi ích: Là nếu không có người hỏi như thế tức gọi là lợi ích, nghĩa này nên biết.

Các câu hỏi như vậy đều không phải là những câu hỏi chân chánh. Còn các câu hỏi khác, gọi là những câu hỏi chân chánh vì nhằm chỉ rõ nghĩa lợi ích.

Gọi là dấy khởi: Tức không phải câu hỏi đúng đắn, các câu hỏi đúng đắn do đã chỉ rõ nghĩa lợi ích kia. Như kinh nói: “Lại nữa, này Bồ-tát Võng Minh! Tất cả các pháp là chánh, tất cả các pháp là tà”.

Điều này có ý nghĩa gì? Các ấm, giới, nhập v.v… thảy đều được gồm thâu trong pháp Phật để nói, như trước đây đã nói các sự tướng của ấm, giới, nhập v.v…

Các pháp như đã giảng nói, không thể nghĩ bàn gọi là chánh. Nhưng dấy lên sự nghĩ bàn gọi là tà: Là sự việc hỏi không chân chánh và hỏi chân chánh. Như kinh nêu: “Phạm Thiên nói: Này Võng Minh! Do nghĩa nào nên các pháp là không thể nghĩ bàn?”. Tất cả pháp gọi là chánh. Nếu không thể nghĩ bàn mà nghĩ bàn, nên tất cả các pháp đều gọi là tà. Do nghĩa gì? Do hết thảy các pháp là không thể nghĩ bàn. Như kinh nói: “Tất cả pháp tịch tĩnh gọi là chánh tư duy, vì thể luôn xa lìa mọi phân biệt hư vọng, nên gọi là tịch tĩnh, do lìa hý luận, nên cũng gọi là tịch tĩnh”. Vì không tin pháp tịch tĩnh là vô ngã nên rơi vào biên tăng thượng mạn. Phân biệt hư vọng là có thể phân biệt pháp, để tu tập các hạnh, do phân biệt bốn đại, nên khởi lên câu hỏi về pháp, chỉ rõ không phải hỏi chân chánh.

Pháp chánh tánh: Là lìa cảnh giới của mình, lìa biên vực mong muốn khác, gọi là pháp tánh. Đây là chỉ rõ về nhân của hỏi chân chánh.

Đây là do nghĩa nào, dùng các pháp quán nào có thể lìa dục? Do các trí nào để phân biệt về pháp đó? Hai pháp không hai kia gọi là chân như, trong đó, trí không phân biệt như thế là tướng cuả trí chân như, gọi là thật tế.

Nói thật tế: Là lìa biên vực hơn hẳn của mong muốn khác. Nói thật tế: Là lìa khỏi các thứ dục, do tướng của trí chân như là không phân biệt. Đây là tướng quán của Địa, quán sát như thật trong tự cảnh giới của nội tâm.

Theo thứ lớp như thế là nêu rõ về pháp tánh tịch tĩnh, nên biết.

Địa: Là cảnh giới của tự tâm thành tựu, cùng quán chân như là Địa của đối tượng được quán.

Các pháp nào nêu trên nghĩa là như đã nói về sự việc của ấm, giới v.v… Sự việc của ấm v.v.. đó lìa chân như, do chân như không có hý luận. Trí không phân biệt quán chân như. Trí đó tĩnh lặng, vì chân như lìa mọi nơi chốn có thể giữ lấy và chủ thể giữ lấy.

Nói pháp hết mực sâu xa như thế, nên biết chánh pháp này rất thâm diệu, khó hiểu. Như kinh nói: “Bồ-tát Võng Minh nói: Phạm Thiên, ít có chúng sinh có thể hiểu được về tánh chánh của các pháp như thế”.

Như ở đây nói tánh chánh của các pháp, tức lìa tánh của pháp chánh mà cầu trí thì không thể được. Vì pháp tánh kia vượt quá số lượng một, khác nơi thế gian, ngăn che thể của pháp hữu vi. Gọi là ít, vì nương vào một số. Lìa một số kia lại không có phần ít. Như thế là để ngăn chận sự chấp có về thể của vật. Thể của pháp đó không phải hoàn toàn là không. Không hay, không biết, là nhằm ngăn chận cho là không có tướng pháp. Đó là biện minh về nghĩa gì? Ở đây, nói tin tưởng các pháp căn bản của ba đời, không thấy pháp tướng, không phải cho là ngăn chận chứng thật. Các Đại Bồ-tát đều có pháp chứng thật, chỉ rõ về nghĩa này vì thuận theo nghĩa ấy, nên gọi là tin không phải là chứng.

Chứng nhập pháp ấy: Gọi là không nhận thấy một sự việc. Này Võng Minh! Nếu có thiện nam, thiện nữ được nghe tánh chánh của các pháp như thế, siêng năng, tinh tấn hành trì, đây gọi là tu hành như thật, tức nương vào văn tuệ, tư tuệ, ở trong trí tuệ giảng nói về pháp tướng kia.

Như trước đã nói: Là do nương vào tâm nào? Nương vào ý nào, Đức Như Lai thuyết giảng pháp? Về nghĩa này nên biết. Vì không hý luận nơi tất cả pháp, nên gọi là chứng pháp. Vì nhận biết như thật, nên Bồ-tát không trụ nơi thế gian, không trụ nơi Niết-bàn. Do nơi thế gian có phiền não cấu nhiễm không một pháp nào xả bỏ, thế nên không giảm. Do trong Niết-bàn, không một pháp nào được nhận lấy, thế nên không thêm. Đó là chỉ rõ các Đại Bồ-tát không trụ nơi tướng Niết-bàn, thế gian.

Nghe giảng nói về tướng của chánh pháp như thế: Là theo thứ lớp, theo người khác nghe pháp, sau đó nội tâm tự chánh tư duy. Theo thứ lớp có thể phát sinh chánh kiến xuất thế gian, đạt được quả đó. Lìa các tướng là chỉ rõ về thật thể không trụ nơi tướng, là chỉ rõ nhân của Niết-bàn không trụ. Ấy là do Đức Như Lai nhận thấy pháp vô ngã đồng một vị, chỉ rõ các Bồ-tát đối với các lỗi nơi công đức của Niết-bàn, thế gian không có phân biệt, vì tướng bình đẳng.

Như thế là các Bồ-tát chứng được lý không trụ thế gian, không trụ Niết-bàn.

Nói pháp theo thứ lớp đến đây đã xong. Lại dựa vào nghĩa khác, nên tiếp sau đây lại hỏi. Đây là biện minh về nghĩa gì? Đức Như Lai nói pháp không thể vượt quá sự dị biệt, tức không thể vượt quá chỗ khác với thân, không thể vượt quá chỗ khác với thời gian. Lại có một pháp, vì vậy nên không một pháp nào giảm ở thế gian, không một pháp nào thêm lên ở trong Niết-bàn để ngăn chận việc lìa bỏ một vật, hay lấy một vật. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Không phải cho là hoàn toàn không vượt quá thế gian, có vượt quá thế gian. Đó là để ngăn chận kẻ chấp thấy không có vật gì cả. Đây là chỉ rõ về nghĩa gì? Là chỉ rõ việc vượt quá hai tướng. Nghĩa này là thế nào? Nói hai tướng là:

  1. Hành của thế gian.
  2. Niết-bàn.

Phân biệt lỗi lầm ở thế gian, phân biệt lỗi lầm nơi công đức, Đại Bồ-tát hoàn toàn xa lìa hai thứ lỗi lầm đó. Nghĩa này là thế nào? Là trong pháp bình đẳng, không có nhiễm, tịnh, vì dựa trên pháp tánh của thật tế để lìa dục. Nói như thế vì thật tế kia hoàn toàn không đồng với sinh tử. Vì thế gian cho sinh tử là thường, thế nên không có người chứng nhập Niết-bàn. Do nghĩa này nên là không nhiễm, không tịnh.

Theo thứ lớp như thế, bất tất phải nói pháp, nên yên lặng an trụ, cũng được tu tập các hành như pháp.

Nếu muốn giảng nói, phải nên như Phạm Thiên kia đã nói. Thế nên Đức Như Lai khen: Lành thay! Lành thay! Pháp không thể giảng nói mà có thể giảng nói, thế nên Đức Như Lai lại khen: Lành thay! Ta không vướng mắc nơi sinh tử, không chứng đắc Niết-bàn.

Như thế v.v… nhận lãnh nghĩa trước đã nêu, lại không có pháp nào để có thể nói. Vì sao Đức Như Lai lại nói pháp này? Do năm trăm Tỳ-kheo khi nghe nói pháp này sinh khởi hoảng sợ, Đức Như Lai vì muốn khiến các Tỳ-kheo kia đều hoàn toàn quyết định trong nghĩa ấy. Đây là hiển bày về nghĩa nào? Là chỉ rõ ý của Như Lai cũng như thế, không phải riêng gì Phạm Thiên. Chúng sinh đều rơi vào biên không có vật, thế nên Đức Như Lai và Phạm Thiên đều nói lý không, nhưng người tu phạm hạnh không hiểu ý nghĩa sâu xa nên phân biệt hư vọng.

Thế nào là phạm hạnh? Nghĩa là thọ trì giới, tu hành như thật và không hủy phạm.

Tu hành chánh đạo: Là tu hành, quán xét về bốn Đế có sai biệt.

Các thiền: Là bốn thiền như thiền thứ nhất v.v…

Tam-muội: Là vô số các hành có giác, có quán v.v…

Tam-ma-bạt-đề: Là bốn định của cõi Vô sắc.

Các Tỳ-kheo kia do thấy có pháp, thấy không pháp, nên vừa nghe nói như trên, vội cho Đức Như Lai nói hoàn toàn không có vật, cũng không có tu hành phạm hạnh, như thế nên sinh hoảng sợ, vì họ chấp pháp là có, là không. Vì nhằm đoạn trừ chấp có, chấp không của các Tỳ-kheo ấy, nên đối với những người ấy, Phật không xuất hiện ở đời v.v… nên Niết-bàn họ cũng cho là vật có, nên mong cầu chứng Niết-bàn. Đối trị chấp có vật, như kinh nói: “Hạng người kia cho đến mong cầu tướng quyết định. Như thế là dựa vào không danh, tướng để giảng nói pháp đúng đắn rồi, Đức Như Lai dùng hai ví dụ để quở trách số Tỳ-kheo sinh tâm sợ hãi kia”.

Hai thí dụ này khiến phát sinh hai thứ nhân nhớ nghĩ, nghĩa là phát sinh nhân nhớ nghĩ nhàm chán, và phát sinh nhân nhớ nghĩ quán xét vui mừng. Do hai nhân ấy nên đạt được Niết-bàn, vì thế Đức Như Lai quở trách. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Tức chỉ rõ từ chỗ dựa nơi đấy để cầu pháp, thấy tâm bị lỗi lầm bức bách, nên khởi quán về nhàm chán.

Dụ thứ nhất giống như pháp đối trị tướng, chỉ rõ quán về lợi ích, là vui cùng thân chuyển, nên sinh quán hoan hỷ. Dụ thứ hai tương tợ như pháp đối trị tướng.

Tiếp theo là làm sáng tỏ người kia, tuy hành tướng chánh nhưng lại là tướng của hành tà vì khởi lên tướng sinh, tướng diệt, để được tướng Niết-bàn, để chứng tướng đạo.

Từ trước đến giờ, nghe Đức Như Lai giảng nói pháp, các Tỳkheo được giảm thiểu các hành xấu ác. Từ đây trở xuống, vì khiến cho các Tỳ-kheo hội nhập nơi pháp, nên Bồ-tát Võng Minh nói với Phạm Thiên Thắng Tư Duy, giúp họ có thể chứng nhập pháp. Ở đây chỉ rõ hai thứ pháp tướng:

  1. Chỉ rõ về thể thật.
  2. Chỉ rõ về đắc quả.

Nói thể thật: Là khiến tin pháp. Gọi là quả: Tức khiến các Tỳkheo lìa tà kiến đạt được giải thoát, hoàn toàn chỉ rõ tướng chánh kiến. Vì thân Tỳ-kheo, trong khi nghe giảng nói pháp, có thể sinh khởi chủng tử. Do chư Phật Như Lai ở quốc độ khác cũng đều giảng nói pháp này, chỉ rõ cho các Tỳ-kheo kia biết sợ nơi chốn nào, không thể bỏ nơi chốn đó mà đi, không thể xa lìa pháp tướng đã giảng nói, do tất cả nơi chốn đều không lìa pháp, vì không thể tránh khỏi. Chỉ rõ tướng như thế, để khiến các Tỳ-kheo kia không ra đi.

Nói hư không là dùng để thí dụ, chỉ rõ về nghĩa này, là sợ hãi nơi chốn nào, bỏ nơi chốn đó mà đi, chung quy vẫn không xa lìa khỏi nơi chốn sợ hãi. Như người sợ hãi hư không, không thể vượt quá hư không, đến một nơi không có hư không để có thể tìm cầu.

Nương vào pháp chứng kia là để chỉ rõ tướng chứng đắc.

Không, vô tướng, vô nguyện: Là chân như, nên biết.

Muốn cầu Niết-bàn, hành trong Niết-bàn, nhưng không chứng đắc Niết-bàn: Vì Niết-bàn là tướng thanh tịnh của chân như. Đây là do nghĩa nào? Do chân như kia trong tất cả pháp thảy đều bình đẳng, nên gọi là Niết-bàn. Miệng nói ra vì không thể giữ lấy. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Vì để ngăn chận quan niệm cho Thể thật có thể giữ lấy.

Như thế là xa lìa pháp vật có, không, có thể nhận biết đúng như thật về thể tướng của các pháp.

Các Tỳ-kheo kia nhận thấy như thế rồi, tâm được giải thoát. Được tâm giải thoát rồi, tức được pháp thật. Được pháp thật rồi, tự nói về pháp tướng. Các Tỳ-kheo kia, trước đây là phàm phu, sau đó làm học nhân, kế đến là chứng thành La-hán. Do nghĩa này, nên sau ba thời, dựa như trước đây không thành, họ nói lên lời này: Bạch Đức Thế Tôn! Hôm nay chúng con đây không phải là phàm phu, không phải hàng hữu học, không phải là bậc vô học, không phải là A-la-hán.

Không ở nơi thế gian: Là vĩnh viễn đoạn dứt tất cả xứ thọ sinh trong cảnh giới Niết-bàn vô dư.

Không ở nơi Niết-bàn: Là trong Niết-bàn hữu dư tướng thủ ấm chưa dứt hết. Như thật chỉ rõ là có Phật ra đời, hiện bày tướng giác tri.

Gọi là động: Tức là tâm tán loạn.

Nói ngã tưởng: Tức là ngã kiến.

Nói phát khởi: Là có khả năng khởi tạo hành nơi tướng của tâm. Gọi là hý luận: Là tâm phân biệt về ba trường hợp như động v.v…

Nhân quả như thế hoặc hoàn toàn chỉ rõ cho người kia là có Phật ra đời. Thánh giả Xá-lợi-phất nương vào đạo, nương vào sự chứng đắc, nương vào diệt, nương vào sự chứng nhập để hỏi các Tỳkheo. Các Tỳ-kheo nên trả lời như thế. Như Tôn giả Xá-lợi-phất nói, nhưng các Tỳ-kheo lại nói: Tôi đã được bảy điều không thể tạo tác mà có thể tạo tác nói năng, vấn đáp. Đó là chỉ rõ câu trả lời thật bằng cách đáp ngược lại. Đây có hai thứ:

  1. Trả lời về chỗ chứng đắc.
  2. Trả lời về sự giảng nói.

Do có người như thế, nên thiết lập sự ghi nhận.

Các Tỳ-kheo đồng hành, nói pháp, nhưng không thể đạt đến chỗ cùng cực, càng sinh tâm tôn trọng. Do Tỳ-kheo kia nói về thể của pháp, nên sinh tâm tôn trọng.

HẾT – QUYỂN 2

Pages: 1 2 3 4