SỐ 1529
LUẬN KINH DI GIÁO
Tác giả: Bồ tát Thế Thân
Hán dịch: Đời Trần, Đại sư Chân Đế
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

Đảnh lễ Tôn ba đời
Biển công đức vô thượng
Thương xót độ chúng sinh
Thế nên con quy mạng.
Kho pháp thanh tịnh, sâu
Tăng trưởng người tu hành
Thế cùng xuất thế gian
Chúng con đều quy kính.
Con kiến lập Luận này
Giải thích nghĩa kinh Phật
Vì các Bồ-tát kia
Khiến biết đạo phương tiện.
Do nhận biết đạo đó
Pháp Phật được trụ lâu
Diệt trừ lỗi phàm, Thánh
Thành tựu lợi mình người.

Trong Kinh này, kiến lập pháp tu hành của Bồ-tát gồm có bảy phần:

Phần 1: Phần Tự (Mở đầu).

Phần 2: Tu tập công đức thế gian.

Phần 3: Thành tựu công đức của bậc Đại nhân xuất thế gian.

Phần 4: Hiển bày công đức thâm diệu rốt ráo.

Phần 5: Hiển bày quyết định nhập chứng.

Phần 6: Phân biệt chưa nhập chứng bậc tối thượng là đoạn trừ nghi.

Phần 7: Vô ngã thanh tịnh, lìa các thứ tự tánh.

Kinh nói:Trong lần chuyển pháp luân đầu tiên, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã độ A-nhã Kiều-trần-như, sau cùng là giảng nói pháp độ Tu-bạt-đà-la. Những người nên được độ, đều đã hóa độ xong. Đến khi sắp vào Niết-bàn, Đức Thế Tôn ở nơi Sa-la song thọ, lúc này vào giữa đêm, yên tĩnh không một tiếng động, Ngài đã vì các đệ tử lược nói về pháp yếu”.

– Luận nêu: Trong Phần Tự (Mở đầu) Kinh này hiển bày về lợi ích được thành tựu trọn vẹn. Ở đây, sự thành tựu trọn vẹn có 6 thứ công đức:

1. Công đức của Pháp sư thành tựu trọn vẹn.

2. Công đức mở bày pháp môn thành tựu trọn vẹn.

3. Công đức của đệ tử thành tựu trọn vẹn.

4. Công đức của tướng chung lớn thành tựu trọn vẹn.

5. Công đức của tự tướng nhân quả thành tựu trọn vẹn.

6. Công đức của tổng tướng phân biệt thành tựu trọn vẹn.

Thành tựu trọn vẹn thứ nhất: Có ba tướng:

  1. Tướng chung.
  2. Tướng riêng.
  3. Tướng chung, riêng.

Tướng chung: Như kinh nói: “Mâu-ni”. Tướng riêng: Như kinh nói: “Thích-ca”. Tướng chung, riêng: Như kinh nói: “Phật”.

Trong ấy, Thích-ca là chỉ rõ về phương tiện thiện xảo giáo hóa chúng sinh, lại thuộc về tộc họ tôn quý. Mâu-ni là chỉ cho công đức của tất cả chư Phật cùng tự thể thanh tịnh.

Công đức mở bày pháp môn thành tựu trọn vẹn: Có hai pháp cú “bạch tịnh”:

  1. Pháp cú về Đạo tràng bạch tịnh.
  2. Pháp cú về Niết-bàn bạch tịnh.

Hai câu trước sau của hai pháp bạch tịnh này là nói rõ về nghĩa chuyển pháp luân, nên biết.

Pháp cú về Đạo tràng bạch tịnh, như kinh nói: “Lần chuyển pháp luân đầu tiên”.

Pháp cú về Niết-bàn bạch tịnh, như kinh nói: “Lần thuyết pháp sau cùng”.

Công đức của đệ tử thành tựu trọn vẹn: Là chỉ rõ có khả năng thọ trì hai pháp môn bạch tịnh. Thành tựu hành tự lợi ích hiển bày rõ Đức Như Lai rất hài lòng khi nói đến công đức của pháp môn. Như kinh nói: “Độ A-nhã Kiều-trần-như và Tu-bạt-đà-la”. Hai câu kinh này chỉ rõ tám thứ thành tựu là: Hai thứ thọ trì thành tựu. Hai thứ pháp môn bạch tịnh thành tựu. Hai thứ hành tự lợi ích thành tựu. Hai thứ Như Lai hài lòng khi nói đến công đức của pháp môn thành tựu.

Công đức của tướng chung lớn thành tựu trọn vẹn: Là thành tựu chung hai phần thứ hai, thứ tám. Như kinh nói: “Những người nên được độ, đều đã hóa độ xong”.

Công đức của tự tướng nhân quả thành tựu trọn vẹn: Có bốn thứ tự tướng:

1. Tự tướng của nhân. Như kinh nói: “Ở nơi Sa-la song thọ”.

2. Tự tướng của nhân và quả. Như kinh nói: “Sắp vào Niết-bàn”.

3. Tự tướng chung. Như kinh nói: “Lúc này vào giữa đêm”.

4. Tự tướng của quả. Như kinh nói: “Yên tĩnh không một tiếng động”.

Ở đây, tự tướng chung là xa lìa hai biên, thành tựu hai thứ trung đạo: (a) Trung đạo của chánh giác. (b)Trung đạo lìa chánh giác.

Trung đạo lìa chánh giác ở đây tức là tự tướng của quả, nên biết.

Quả này có hai thứ: Một là Quả Niết-bàn, tự tánh không nói năng, xa lìa nhớ nghĩ. Hai là Quả Niết-bàn, xa lìa giác quán.

Công đức của tổng tướng thành tựu trọn vẹn: Là phân biệt về sự sai khác của hai phần vị.

Sai khác về phần vị người: Là sự khác biệt về quyến thuộc của bậc Thượng thủ. Như kinh nói: “Vì các đệ tử”.

Sai khác về phần vị pháp: Là các pháp thế gian, xuất thế gian v.v… Như kinh nói: “Lược nói về pháp yếu”.

Đã nói xong Phần Tự. Tiếp theo là nói đến phần 2: Tu tập công đức thế gian. Công đức này có ba:

1. Công đức tu tập đối trị nghiệp tà.

2. Công đức tu tập đối trị diệt trừ khổ.

4. Công đức tu tập đối trị diệt trừ phiền não.

1. Thế nào là Công đức tu tập đối trị nghiệp tà?

Kinh nói:Tỳ-kheo các thầy! Sau khi Ta nhập diệt, các thầy phải tôn kính, trân trọng Ba-la-đề-mộc-xoa, như trong bóng tối gặp được ánh sáng, như người nghèo khổ được của báu. Nên biết giới pháp này là bậc Đại sư của các thầy. Nếu Ta còn sống ở đời thì cũng không khác gì giới pháp này”.

Luận nêu: Trong kinh này, mỗi khi nói Tỳ-kheo là Đức Như Lai chỉ rõ tướng xa lìa, lại chỉ rõ nẻo phương tiện của Đại thừa và chung cho cả Nhị thừa.

Lại nữa, đối với bốn chúng cũng đồng một hành xa lìa.

“Sau khi Ta nhập diệt”: Lời nói này chỉ rõ về nghĩa Di giáo, là pháp không tận diệt. Đem Pháp thân thanh tịnh là pháp không tận, luôn vì thế gian làm công việc hóa độ rốt ráo. Như kinh nói: “Phải tôn kính, trân trọng Ba-la-đề-mộc-xoa”. Vì Mộc-xoa này cũng là pháp cùng thuận hợp với Tỳ-ni, lại là nghĩa điều phục các hành. Pháp thân không diệt của Như Lai là tự thể giải thoát nơi Ba-la-đềmộc-xoa.

Dựa vào Pháp thân này có thể vượt qua hai thứ chướng:

1. Chướng về có, là phiền não tối tăm.

2. Chướng về không, là không có căn thiện.

Vượt qua được chướng có, là phiền não tối tăm, như người mù được mắt sáng. Pháp tương tợ, như kinh nói: “Như trong bóng tối gặp được ánh sáng”.

Vượt qua được chướng không, là không có căn thiện, tức đầy đủ tài sản, vật báu. Pháp tương tợ, như kinh nói: “Như người nghèo khổ được của báu”. Phần còn lại Đức Như Lai chỉ rõ Ba-la-đề-mộcxoa là Đại sư của người tu hành, như kinh nói: “Nên biết giới pháp này là bậc Đại sư của các thầy”. Lại chỉ rõ pháp tương tợ, là trụ trì và đem lại lợi ích cho mọi người, như kinh nói: “Nếu Ta còn sống ở đời thì cũng không khác gì giới pháp này”.

Dựa vào giới thanh tịnh căn bản đã nói xong. Tiếp đến là nói về phương tiện xa lìa thuộc giới thanh tịnh.

Kinh nói:Người giữ giới thanh tịnh, không được mua rẻ bán đắc, buôn bán kiếm lời, đổi chác, tạo ruộng vườn, nhà cửa, nuôi chứa người dân, nô tỳ, súc sinh, tất cả công việc trồng trọt, cùng các thứ tài sản vật báu, đều nên xa lìa như tránh xa hầm lửa. Không được đốn chặt cây cỏ, khai khẩn đất hoang, đào hầm hào, hợp chế thuốc thang, bói xem tướng tốt xấu, ngước trông sao hạn, suy đoán, dựa lịch số để tính toán biết thịnh suy, đều không nên làm. Phải biết tiết chế nơi tự thân, ăn uống đúng giờ, tự sinh sống thanh tịnh, không được tham dự công việc của thế gian, đưa tin đi sứ. Những thứ chú thuật, tạo thuốc tiên, giao kết với hạng quyền quý, gần gũi kẻ kiêu mạn, đều không nên làm. Nên tự giữ tâm cho ngay, nên chánh niệm để cầu độ thoát. Không được che giấu những lỗi lầm của mình, bày đặt những hành kỳ dị để lừa dối nhiều người. Đối với bốn thứ cúng dường, phải nên lượng xét, biết đủ. Được vật dụng cúng dường không nên thâu giữ, cất chứa”.

– Luận nêu: Trong kinh nói phương tiện xa lìa, đạt được thanh tịnh, nghĩa là do giữ gìn giới căn bản được thanh tịnh. Như kinh nói: “Người giữ giới thanh tịnh”. Thế nào là giữ gìn căn bản? Thế nào là căn bản?

Giữ gìn căn bản: Nay nói có hai thứ:

1. Giữ gìn không đồng với việc tăng thêm lỗi của hàng phàm phu.

2. Giữ gìn không đồng với việc tổn hại trí tuệ của ngoại đạo.

Giữ gìn không đồng với việc tăng thêm lỗi của hàng phàm phu: Có mười một việc:

1. Phương tiện cầu lợi tăng thêm lỗi. Như kinh nói: “Không được mua rẻ bán đắt”.

2. Hiện tiền cầu lợi tăng thêm lỗi. Như kinh nói: “Không được buôn bán kiếm lời”.

3. Giao dịch cầu lợi tăng thêm lỗi. Như kinh nói: “Không được đổi chác”. Nếu dựa vào giá cả của thế gian, tâm không mong lợi, thì không phạm về tội mua bán. Về pháp thức như đã nói rộng trong Tỳ-ni.

4. Nơi cư trú hành nghiệp, cầu được yên ổn nhiều, tăng thêm lỗi. Như kinh nói: “Không được tạo ruộng vườn, nhà cửa”.

5. Quyến thuộc tăng thêm lỗi. Như kinh nói: “Không được nuôi chứa người dân”. Đây là chỉ rõ về quyến thuộc bên ngoài, không phải là người đồng ý. Vì sao không chỉ nói người mà còn nói dân? Vì người dân ấy cũng đồng ở trong loài người. Đối với pháp thiện không biết rõ, là thuộc về súc sinh.

6. Sự khó khăn dễ sinh tâm ti tiện tăng thêm lỗi. Như kinh nói: “Không được nuôi chứa nô tỳ”.

7. Vì sự nuôi dưỡng cầu lợi tăng thêm lỗi. Như kinh nói: “Không được nuôi chứa súc sinh”.

8. Hành nhiều việc tăng thêm lỗi. Như kinh nói: “Không được làm tất cả công việc trồng trọt”.

9. Thâu giữ, tích trữ tăng thêm lỗi. Như kinh nói: “Cùng các thứ tài sản vật báu”.

10. Không nhận biết, tăng thêm lỗi. Như kinh nói: “Đều nên xa lìa như tránh xa hầm lửa”.

11. Không thuận theo oai nghi, cùng tổn hại chúng sinh, tăng thêm lỗi. Như kinh nói: “Không được đốn chặt cây cỏ, khai khẩn đất hoang, đào hầm hào”.

Mười một thứ việc làm này đều tăng thêm lỗi. Người tu hạnh Bồ-tát, nên mau xa lìa, không nên gần gũi, như tránh đống lửa lớn, pháp cũng như vậy. Như kinh nói: “Đều nên xa lìa như tránh xa hầm lửa”.

Giữ gìn không đồng với việc tổn hại trí tuệ của ngoại đạo: Nghĩa là kiến chấp phân biệt của thế gian. Kiến chấp phân biệt này có năm câu với mười phân biệt. Như kinh nói: “Hợp chế thuốc thang v.v… cho đến: Đều không nên làm”, là ngăn chận kiến chấp dị biệt.

Thế nào là căn bản? Đây là chỉ rõ có hai thứ căn bản:

  1. Căn bản của pháp hành.
  2. Căn bản của xứ hành.

Cản bản của pháp hành: Là Ba-la-đề-mộc-xoa.

Căn bản của xứ hành: Là thân, miệng, ý. Đối với xứ hành của thân, miệng, ý là hành theo Ba-la-đề-mộc-xoa. Tiết chế nơi tự thân, ăn uống đúng giờ v.v… là chỉ rõ về xứ hành của thân, miệng, ý theo Ba-la-đề-mộc-xoa. Người tu hạnh Bồ-tát nên biết rõ ba xứ Ba-la-đềmộc-xoa này, vì không còn có pháp giải thoát nào khác hơn là xứ Ba-la-đề-mộc-xoa của thân.

Có năm thứ giải thoát đối trị ba thứ chướng ngại, hai thứ không nên làm và không làm:

1. Chướng ngại do ở nơi kẻ khác cầu phóng dật. Đối trị chướng này, như kinh nói: “Tiết chế nơi tự thân”.

2. Chướng ngại do tư trợ bên trong không biết chán đủ. Đối trị chướng này, như kinh nói: “Ăn uống đúng giờ”.

3. Chướng ngại do cùng theo đuổi mong cầu. Đối trị chướng này, như kinh nói: “Tự sinh sống thanh tịnh”.

4. Tự tánh dứt bỏ đa sự, như kinh nói: “Không được tham dự công việc của thế gian”.

5. Tự tánh là tôn trọng, không làm các việc hèn kém, như kinh nói: “Không được đưa tin, đi sứ”.

Hai câu sau là chỉ rõ điều không nên làm và không làm.

Thế nào là năm thứ thân giải thoát? Đó là:

1. Thân giải thoát duyên nơi bên ngoài.

2. Thân giải thoát duyên nơi bên trong.

3. Thân giải thoát duyên nơi tự tướng.

4. Thân giải thoát duyên nơi các sự việc.

5. Thân giải thoát duyên nơi phương tiện xa lìa khác.

Trong năm thứ thân giải thoát, câu đầu là nêu chung, các câu còn lại là nêu riêng, nên biết.

Xứ Ba-la-đề-mộc-xoa của miệng có hai thứ tà ngữ không nên làm và không làm:

1. Dựa vào lời của pháp tà, có hai thứ không nên làm: (a) Lời tà thuật, gây não hại cho chúng sinh. (b) Lời dựa vào những thứ thuốc tà, tạo những biện giải bất chánh theo thế gian. Như kinh nói: “Chú thuật, tạo thuốc tiên v.v…”.

2. Dựa theo lời nói của kẻ tà, cũng có hai thứ không nên làm: (a) Cùng với tộc họ đều ưa thích, nói nhiều thứ xấu xa, thấp kém. (b) Thân cận với tộc họ giàu sang, nói nhiều về ngã mạn. Như kinh nói: “Giao kết với hạng quyền quý, gần gũi kẻ kiêu mạn, đều không nên làm”.

Xứ Ba-la-đề-mộc-xoa của ý có sáu câu nói về ba thứ chướng: Đối trị ba thứ này là không nên làm và không làm:

1. Chướng ngại do thấy nhiều lỗi lầm của người khác, đó là phạm việc tự làm tịnh tâm mình. Đối trị hành này, như kinh nói: “Nên tự giữ tâm cho ngay”.

2. Chướng ngại do tư duy tà vạy, vì không thể tự vượt qua địa dưới. Đối trị hành này, như kinh nói: “Nên chánh niệm để cầu độ thoát”.

3. Chướng ngại do thọ dụng các thứ vật dụng không biết hạn chế, không biết chán đủ. Đối trị chướng ngại này, nơi câu thứ năm, nói: “Đối với bốn thứ cúng dường, phải nên lượng xét, biết đủ”.

Sự cúng dường này có hai thứ:

1. Cúng dường cho phần thân: Nghĩa là cung cấp các thức ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc thang.

2. Cúng dường cho phần tâm: Nghĩa là cúng dường với tâm không chung, cúng dường với tâm không chán đủ.

Hai sự cúng dường cho tâm trái nhau và cúng dường cho tâm đồng phần.

Bốn thứ cúng dường cho tâm này, các chúng sinh si loạn luôn thọ dụng không biết hạn chế, xét lường. Nếu nhập phần Tam-muội thì nên biết về lượng. Nếu nhập nơi phần đạo thì nên biết đủ.

Có ba thứ không nên làm và không làm:

1. Không làm nhiễm ô giới thanh tịnh, tâm không nhận giữ điều cấu uế. Như kinh nói: “Không được che giấu những lỗi lầm của mình”.

2. Xa lìa, không duyên nơi hành nổi bật để hiển bày về mình khiến người khác không hiểu đúng. Như kinh nói: “Bày đặt những hành kỳ dị để lừa dối nhiều người”.

3. Xa lìa tâm tham cất giấu, tích chứa các thứ vật dụng. Như kinh nói: “Được vật dụng cúng dường không nên thâu giữ cất chứa”.

Đã nói từ giới căn bản. Tiếp đến là nói từ giới cùng giải thích có thể sinh các công đức.

– Kinh nói:Đây tức lược nói về hành tướng giữ giới. Giới là hành thuận hợp đúng đắn, là gốc của giải thoát, nên gọi là dựa nơi Ba-la-đề-mộc-xoa. Nhân nơi giới này có thể phát sinh các thiền định và trí tuệ diệt khổ

– Luận nêu: Thuận theo giới: Là tướng của giới. Không thể nói rộng: Là hiển bày việc nói tóm lược, nên biết. Như kinh nói: “Đây tức lược nói về hành tướng giữ giới”.

Giới là hành thuận hợp đúng đắn: Câu này chỉ rõ về nghĩa thuận theo giới. Nơi xứ đây kia nói thuận theo có hai thứ:

  1. Theo giới căn bản.
  2. Theo giới căn bản khởi tạo được thành tựu.

Theo giới căn bản: Là chỉ rõ nên thuận theo Ba-la-đề-mộc-xoa căn bản không tạo tác, như trước đã nói.

Theo giới căn bản khởi tạo được thành tựu: Là chỉ rõ nhân giải thoát của biên vực sau. Biên vực giữa từ giới phát sinh. Như kinh nói: “Là gốc của giải thoát”.

Giới là thể của giải thoát, vì có năng lực độ thoát chân chánh. Như kinh nói: “Nên gọi là Ba-la-đề-mộc-xoa”: Câu này chỉ rõ có thể độ thoát thân, miệng, ý xấu ác, đến bờ bên kia là thành tựu giải thoát ba nghiệp.

Có thể phát sinh các công đức: Là chỉ rõ về công đức giải thoát có sắc và công đức giải thoát không sắc. Hai thứ công đức giải thoát ấy cùng thuận cùng nghịch đều từ nơi giới sinh. Như kinh nói: “Nhân nơi giới này nên có thể sinh các thiền định và trí tuệ diệt khổ”.

Tiếp theo là nói về việc khuyên bảo tu tập giới đạt lợi ích.

– Kinh nói:Vì thế các thầy Tỳ-kheo nên giữ giới thanh tịnh, chớ khiến hủy phạm thiếu sót. Nếu người có thể giữ giới thanh tịnh tức là có khả năng đạt được pháp thiện. Nếu không giữ giới thanh tịnh, thì các công đức thiện đều không thể sinh. Do đó nên biết giới là trụ xứ của công đức an ổn bậc nhất”.

– Luận nêu: Thế nào là việc khuyên bảo tu tập giới đạt lợi ích? Ở đây có năm thứ khuyên bảo:

1. Khuyên không làm mất tự thể. Như kinh nói: “Nên giữ giới thanh tịnh”.

2. Khuyên không bỏ phương tiện. Như kinh nói: “Chớ khiến hủy phạm thiếu sót”.

3. Khuyên xa lìa các lỗi lầm của nghiệp thân, miệng, ý, vì thường tích tập các công đức. Như kinh nói: “Nếu người có thể giữ giới thanh tịnh tức là có khả năng đạt được pháp thiện”.

4. Khuyên nhận biết về thân, miệng, ý có nhiều lỗi xấu ác, nên nơi tất cả thời công đức không thể phát sinh. Như kinh nói: “Nếu không giữ giới thanh tịnh, thì các công đức thiện đều không thể sinh”.

5. Nêu bày rõ về Bồ-tát giữ giới, ở trong chỗ tu hành ba thứ giới có người được, mất như thế, ta nên trụ vào xứ yên ổn, không trụ nơi xứ không yên ổn. Như kinh nói: “Do đó nên biết giới là trụ xứ của công đức an ổn bậc nhất”. Câu này là chính thức chỉ rõ về nghĩa thù thắng của việc khuyên tu tập giới đạt lợi ích.

2. Thế nào là Công đức của sự tu tập đối trị diệt trừ khổ? Ở đây, có ba thứ khổ:

  1. Khổ do căn phóng dật theo dục.
  2. Khổ do ăn nhiều.
  3. Khổ do biếng nhác, ham ngủ nghỉ.

Dùng môn Tam-muội lạc để đối trị ba thứ khổ này, nên biết.

a. Thế nào là pháp đối trị khổ do căn phóng dật theo dục?

– Kinh nói: “Tỳ-kheo các thầy đã có thể trụ nơi giới, nên chế ngự năm căn chớ khiến phóng dật nhập nơi năm dục. Ví như người chăn bò cầm roi trông coi, không cho chúng chạy nhảy xâm phạm ăn phá lúa mạ của người. Nếu buông thả năm căn thì không phải chỉ là năm dục mà lan tràn không bờ bến, không thể chế ngự. Cũng như ngựa chứng không dùng dây cương để buộc giữ, tất sẽ lôi người rơi xuống hầm hố. Như bị giặc cướp hãm hại, khổ chỉ dừng ở một đời. Giặc năm căn gây tai họa thì khổ não đến nhiều đời. Vì chúng gây hại rất nặng nề, nên không thể không thận trọng. Do vậy, người trí luôn kìm chế mà không thuận theo, giữ gìn các căn như canh chừng đám giặc, không khiến chúng buông lung. Giả như khiến buông thả, đều cũng không tồn tại lâu, thấy chúng đều bị hoại diệt”.

– Luận nêu: Khổ do căn phóng dật: Là nhân khổ và quả khổ. Dựa vào phương tiện Tam-muội của giới thanh tịnh để thâu giữ niệm nhằm đối trị. Như kinh nói: “Đã có thể trụ nơi giới, nên chế ngự năm căn”.

Vì sao chỉ nói năm căn? Là chỉ rõ sự sai biệt giữa sắc và phi sắc. Lại chỉ rõ trong ý căn có năm căn. Có hai thứ đối trị:

  1. Đối trị bằng niệm động.
  2. Đối trị bằng không động.

Nhớ nghĩ đến giới, giữ gìn căn đạt lợi ích là pháp tương tợ. Như kinh nói: “Chớ khiến phóng dật nhập nơi năm dục. Ví như người chăn bò cầm roi trông coi, không cho chúng chạy nhảy xâm phạm ăn phá lúa mạ của người”.

Vì giới thân thanh tịnh, nên đối với vô số thứ sắc không buông lung. Cách chăn bò là pháp tương tợ. Do thành tựu chánh niệm, nên các thứ tâm không còn hoạt động. Cầm roi gậy là pháp tương tợ.

Do thành tựu giới niệm, công đức của phương tiện Tam-muội cùng chánh thọ không giảm, không mất. Nên không xâm phạm ăn phá lúa mạ của người là pháp tương tợ .

Lại chỉ rõ không nhớ nghĩ đến giới thì lỗi lầm càng tăng thêm, tổn hại tâm, phần khí lực hình thành thì khó đối trị. Như kinh nói: “Nếu buông thả năm căn thì không phải chỉ là năm dục mà lan tràn không bờ bến, không thể chế ngự”.

Tiếp theo là nói đến không đối trị và khó đối trị. Ngựa chứng là pháp tương tợ. Như kinh nói: “Cũng như ngựa chứng không dùng dây cương để buộc giữ, tất sẽ lôi người rơi xuống hầm hố”.

Lại chỉ rõ lỗi lầm nặng nề, giống và không giống.

Lại, nhân quả đều là khổ não sâu nặng nơi vô lượng đời. Đó là chỉ rõ về biên vực trước, trong đó nên thận trọng. Như kinh nói: “Như bị giặc cướp hãm hại, khổ chỉ dừng ở một đời. Giặc năm căn gây tai họa thì khổ não đến nhiều đời. Vì chúng gây hại rất nặng nề, nên không thể không thận trọng”.

Vừa nói do nhớ nghĩ đến giới nên phòng hộ năm căn, nay sẽ nói về trí để phòng hộ các căn.

Người trí quán Tam-muội, vì năm căn kia là chướng ngại nặng của Tam-muội. Như kinh nói: “Do vậy người trí luôn kìm chế mà không thuận theo”.

Phòng hộ năm căn như phòng hộ giặc giết hại mình, là pháp tương tợ. Như kinh nói: “Giữ gìn các căn như canh chừng đám giặc, không khiến chúng buông lung”.

Trường hợp nặng đã như thế, còn trường hợp nhẹ thì chế ngự như thế nào? Ở đây, nhẹ nghĩa là chướng ngại của tập khí với tướng rất nhỏ nhặt, ẩn hiện không định rõ vào lúc nào, vì không có tác ý dấy khởi, như kinh nói: “Giả như khiến buông thả”. Tức thế mạnh của chúng không tự lập, như kinh nói: “Đều cũng không tồn tại lâu”. Vì tánh của năm căn là vô đối nên không trông thấy nhau, như kinh nói: “Thấy chúng đều bị hoại diệt”.

Ở đây, vì sao nói là thấy? Là chỉ rõ dựa vào lúc thấy mà nói. Các căn kia không thấy nên dứt bỏ thấy.

Thứ đến là nói về đối trị khổ do căn phóng dật theo dục.

– Kinh nói:Năm căn này, tâm là chủ. Thế nên các thầy phải khéo chế ngự tâm. Tâm thật đáng sợ hơn cả rắn độc, thú dữ, giặc oán. Lửa lớn cháy tràn cũng chưa đủ để ví dụ về nó. Ví như có người tay bưng bát mật, chuyển động nhanh vội chỉ chăm chú nhìn nơi bát mật nên không thấy hầm sâu. Ví như voi say, không có móc sắt, khỉ vượn có được cây cành, leo trèo, nhảy nhót, khó có thể ngăn cấm. Phải gấp điều phục tâm không khiến nó buông lung. Buông thả tâm này thì các pháp thiện của con người đều bị mất hết. Chế ngự tâm vào một chỗ thì không việc gì là không hoàn thành. Vì thế các Tỳkheo nên siêng năng tinh tấn điều phục tâm mình”.

– Luận nêu: Ở đây, khổ do dục: Là sự sai biệt của tâm tánh. Cũng là nhân khổ, quả khổ. Là chỉ rõ vô số các thứ khổ về sắc, đều dựa nơi tâm mà có. Như kinh nói: “Năm căn này, tâm là chủ”. Nên biết chúng đã gây lỗi lầm cho mình và người, nên phải siêng năng ngăn chận. Như kinh nói: “Thế nên các thầy phải khéo chế ngự tâm”.

Vì sao phải siêng năng ngăn chận? Đây là chỉ rõ tâm này là pháp chướng ngại của Tam-muội. Thế nào là tướng của Tam-muội? Thế nào là tướng của pháp chướng ngại?

Tướng của Tam-muội có ba thứ:

  1. Tướng của Tam-muội không hai niệm.
  2. Tướng của Tam-muội thuận hợp không động.
  3. Tướng của Tam-muội khởi nhiều công đức.

Tướng của pháp chướng ngại cũng có ba thứ:

  1. Chướng ngại do tâm tánh có sai biệt.
  2. Chướng ngại do chuyển động nhẹ không được điều phục.
  3. Chướng ngại do mất các công đức.

Chướng ngại do tâm tánh có sai biệt: Như kinh nói: “Tâm thật đáng sợ hơn cả rắn độc, thú dữ, giặc oán. Lửa lớn cháy tràn cũng chưa đủ để ví dụ về nó”.

Ở đây, sai biệt là sự khác nhau của bốn thứ như tham v.v…, nên tu tập Tam-muội không hai niệm. Đối với sự sai biệt ấy là xứ đáng sợ, nên biết bốn thứ ví dụ là pháp tương tợ. Lại chỉ rõ về pháp không tương tợ, là hết sức đáng sợ.

Chướng ngại do chuyển động nhẹ không được điều phục: Như kinh nói: “Chuyển động nhanh vội chỉ chăm chú nhìn nơi bát mật nên không thấy hầm sâu. Ví như voi say, không có móc sắt, khỉ vượn có được cây cành, leo trèo, nhảy nhót, khó có thể ngăn cấm. Phải gấp điều phục tâm không khiến nó buông lung”.

Ở đây, chuyển động: Là chỉ rõ sự chuyển động về nhận thức trong các căn. Lại rất mau chóng nên nói như khỉ, vượn là pháp tương tợ. Chỉ nhìn nơi bát mật: Là chỉ rõ mắt bị che nên không thấy được vị lai.

Hầm sâu: Là nghĩa chướng ngại. Chướng ngại này có hai thứ: (a) Chướng ngại của xứ sinh. (b) Chướng ngại do trong lúc tu tập các hành, gặp khốn khổ nên không thể thành tựu. Voi say là pháp tương tợ.

Phải gấp điều phục: Là chỉ rõ sự hạn chế, hạ thấp để vào xứ không động. Không khiến buông lung: Là nêu bày rõ việc gồm thâu để đi vào nhóm điều phục.

Chướng ngại do mất các công đức: Như kinh nói: “Buông thả tâm này thì các pháp thiện của con người đều bị mất hết”.

Tướng của Tam-muội không hai niệm: Như kinh nói: “Chế ngự tâm vào một chỗ”.

Tướng của Tam-muội khởi nhiều công đức: Như kinh nói: “Thì không việc gì là không hoàn thành”.

Tướng của Tam-muội thuận hợp không động: Như kinh nói: “Nên siêng năng tinh tấn điều phục tâm mình”.

b. Thế nào là pháp đối trị khổ do ăn nhiều?

– Kinh nói:Tỳ-kheo các thầy khi thọ dụng các thức ăn uống nên xem như uống thuốc. Đối với thức ăn ngon dở chớ nên sinh ý nghĩ tăng giảm. Ăn uống là để nuôi thân, dứt trừ đói khát. Như ong hút nhụy hoa, chỉ nhận lấy vị, không tổn đến sắc, hương. Tỳ-kheo cũng như thế, thọ nhận sự cúng dường của người là để tự trừ bỏ phiền não, không được cầu nhiều, làm hủy hoại tâm thiện. Ví như người trí, biết lượng định về sức kéo của bò có thể chở được nhiều ít, không khiến chở quá nặng đến nỗi kiệt sức”.

– Luận nêu: Ăn nhiều: Là chướng ngại của Tam-muội. Ăn có hai thứ:

  1. Thân ăn.
  2. Tâm, tâm số pháp ăn.

Nếu có nhiều đoạn thực thì khó điều khiển hơi thở, xa cách thiền định.

Tâm, tâm số pháp ăn là phương tiện đối trị trong pháp cùng xa lìa cõi Dục.

Lại có tâm thuộc đệ nhất nghĩa hoàn toàn ở trong Tam-muội, thành tựu Tam-muội không ăn.

Hai thứ Tam-muội như thế thành tựu sáu thứ công đức:

  1. Thành tựu công đức đối trị sự thọ dụng.
  2. Thành tựu công đức quán xét bình đẳng.
  3. Thành tựu công đức đối trị trọn vẹn.
  4. Thành tựu công đức tương tợ hiển bày quán bình đẳng.
  5. Thành tựu công đức thọ dụng không hư dối.
  6. Thành tựu công đức nhận biết về thời gian.

Sáu thứ thành tựu công đức này chỉ rõ về sự thành tựu hai thứ Tam-muội. Thành tựu công đức thứ nhất, thứ năm và thứ sáu là chỉ rõ về Tam-muội ăn ít. Ba thứ thành tựu công đức còn lại là hiển bày về Tam-muội không ăn.

Thành tựu công đức đối trị sự thọ dụng, như kinh nói: “Tỳ-kheo các thầy khi thọ dụng các thức ăn uống nên xem như uống thuốc”.

Thành tựu công đức quán xét bình đẳng, như kinh nói: “Đối với thức ăn ngon dở chớ nên sinh ý nghĩ tăng giảm”.

Thành tựu công đức đối trị trọn vẹn, như kinh nói: “Ăn uống là để nuôi thân, dứt trừ đói khát”. Đây là chỉ rõ về Pháp thân bình đẳng gồm thâu quán xét bình đẳng, hoàn toàn không còn đói khát.

Thành tựu công đức tương tợ hiển bày quán bình đẳng, như kinh nói: “Như ong hút nhụy hoa, chỉ nhận lấy vị, không tổn đến sắc, hương. Tỳ-kheo cũng như thế”. Ở đây, không tổn hại là chỉ rõ quán pháp không hoại.

Thành tựu công đức thọ dụng không hư dối, như kinh nói: “Thọ nhận sự cúng dường của người là để tự trừ bỏ phiền não”.

Thành tựu công đức nhận biết về thời gian, như kinh nói: “Không được cầu nhiều, làm hủy hoại tâm thiện”.

Cầu nhiều: Là chỉ rõ có nhiều tâm, tâm số pháp, nên công đức của Tam-muội không hiện tiền.

Lượng định về sức kéo của bò v.v…: Là chỉ rõ về pháp tương tợ của sự nhận biết thời.

Chỉ rõ sự nhận biết về thời có hai thứ:

  1. Dùng phương tiện để so biết về thời.
  2. Thành tựu thời tương ưng.

Là chỉ rõ về lỗi do ăn nhiều.

c. Thế nào là pháp đối trị khổ do biếng nhác, ham ngủ nghỉ?

– Kinh nói:Tỳ-kheo các thầy, ban ngày thì chuyên tâm tu tập các pháp thiện, không khiến phí mất thì giờ. Đầu đêm, cuối đêm cũng chớ có bỏ phế. Giữa đêm tụng kinh để tự điều hòa, không do nhân duyên ngủ nghỉ khiến một đời luống qua, không đạt được gì cả. Phải nhớ nghĩ đến lửa vô thường đang thiêu đốt các thế gian. Nên sớm cầu tự độ, chớ ham ngủ nghỉ. Các thứ giặc phiền não thường rình rập để giết người còn hơn là kẻ oán, thì sao có thể ngủ say không tự thức tỉnh? Rắn độc phiền não đang nằm ngủ trong tâm của các thầy. Ví như rắn hổ đất đang ngủ nơi phòng của các thầy, phải dùng móc sắt trì giới để mau xua đuổi nó đi. Khi nào con rắn ngủ đã ra khỏi nhà rồi, các thầy mới có thể ngủ yên. Nếu nó chưa ra khỏi mà ngủ là người không biết xấu hổ. Xấu hổ là thứ y phục tốt đẹp bậc nhất để trang nghiêm thân. Xấu hổ cũng như móc sắt, có thể chế ngự con người hành tác phi pháp. Thế nên các Tỳ-kheo thường phải biết xấu hổ, không được bỏ qua dù trong chốc lát. Nếu lìa xấu hổ, tức mất hết các công đức. Người có hổ thẹn là có pháp thiện, nếu kẻ nào không biết hổ thẹn thì chẳng khác gì cầm thú”.

– Luận nêu: Đối trị khổ do biếng nhác và ham ngủ nghỉ: Pháp đối trị là tư duy, không biết mệt mỏi.

Ở đây, vì sao nói ham ngủ nghỉ và biếng nhác đều là pháp chướng ngại? Vì chỉ rõ biếng nhác là tâm niệm chểnh mảng, lười trễ. Ham ngủ nghỉ thì thân nặng nề, phiền muộn. Hai tướng này thuận hợp với nhau, cùng thành một thứ khổ, nói chung là chướng ngại của năm thứ định. Trong ấy, dấy khởi ham ngủ nghỉ có ba thứ:

  1. Từ ăn dấy khởi.
  2. Từ thời tiết dấy khởi.
  3. Từ tâm dấy khởi.

Nếu từ ăn và từ thời tiết dấy khởi, đó là sự ngủ nghỉ của A-lahán, vì không từ tâm sinh, vì không bị che lấp.

Trong ba thứ ngủ nghỉ này, hai thứ đầu dùng tinh tấn để đối trị, vì không có thời tiết, vì từ vô thỉ đến giờ chưa từng đoạn dứt. Lại, chỉ rõ đạo Thánh khó đạt được. Như kinh nói: “Tỳ-kheo các thầy, ban ngày thì chuyên tâm tu tập các pháp thiện, không khiến phí mất thì giờ. Đầu đêm, cuối đêm cũng chớ có bỏ phế. Giữa đêm tụng kinh để tự điều hòa, không do nhân duyên ngủ nghỉ khiến một đời luống qua, không đạt được gì cả”. Từ nơi các kinh khác chỉ rõ cách đối trị sự ham ngủ nghỉ từ tâm dấy khởi (Sự dấy khởi thứ ba).

Ở đây, đối trị có hai thứ:

1. Đối trị bằng tư duy, quan sát: Là quán xét các thứ sinh diệt hủy hoại năm ấm. Như kinh nói: “Phải nhớ nghĩ đến lửa vô thường đang thiêu đốt các thế gian”. Lại, chỉ rõ dốc cầu đạt thiền định, trí tuệ để tự độ cùng độ những kẻ khác. Như kinh nói: “Nên sớm cầu tự độ, chớ ham ngủ nghỉ”. Lại nữa, quán xét về ấm, giới, nhập thường gây tai hại, ở đấy thật đáng sợ nên phải cầu tự giác ngộ chân chánh. Như kinh nói: “Các thứ giặc phiền não thường rình rập để giết người còn hơn là kẻ oán, thì sao có thể ngủ say, không tự thức tỉnh”.

2. Dùng giới thanh tịnh để đối trị: Là tâm giữ giới tương ưng với thiền định, vì tâm của sáu thứ cảnh giới an trụ nơi tâm mình. Đáng sợ như rắn, là pháp tương tợ. Như kinh nói: “Rắn độc phiền não đang nằm ngủ trong tâm của các thầy. Ví như rắn hổ đất đang ngủ nơi phòng của các thầy”. Dùng tâm giữ giới thanh tịnh để đối trị. Như kinh nói: “Phải dùng móc sắt trì giới để mau xua đuổi nó đi”.

Lại chỉ rõ về xa lìa, về yên ổn. Như kinh nói: “Khi nào con rắn ngủ đã ra khỏi nhà rồi, các thầy mới có thể ngủ yên”.

Tiếp theo là nói về pháp tương tợ ở địa dưới, do yên ổn không đối trị. Như kinh nói: “Nếu nó chưa ra khỏi mà ngủ là người không biết xấu hổ”.

Lại chỉ rõ pháp đối trị hơn hẳn, có thể khiến tự địa được thanh tịnh, trang nghiêm, cũng khiến cho địa của kẻ khác không có lỗi lầm lầm. Như kinh nói: “Xấu hổ là thứ y phục tốt đẹp bậc nhất dùng để trang nghiêm thân. Xấu hổ cũng như móc sắt, có thể chế ngự con người hành tác phi pháp”. Ở đây, là bậc nhất hơn hết, tức chỉ rõ chỗ hơn hẳn các giới trang nghiêm khác. “Thế nên các Tỳ-kheo thường phải biết xấu hổ, không được bỏ qua dù trong chốc lát”: Là nêu rõ về nghĩa gì? Là chỉ rõ việc khuyên tu tập trang nghiêm thù thắng, thường xuyên tu tập.

Lại, chỉ rõ kẻ xa lìa là làm tổn hại tự địa. Như kinh nói: “Nếu lìa xấu hổ, tức mất hết các công đức”.

Lại, chỉ rõ về nẻo có – không, được – mất. Như kinh nói: Nên biết.

3. Thế nào là Công đức của sự tu tập pháp đối trị diệt trừ phiền não? Ở đây có ba chướng cần được đối trị, chỉ rõ về nghĩa của đạo, nên biết.

Thế nào là đạo đối trị phiền não chướng thứ nhất?

– Kinh nói:Tỳ-kheo các thầy, nếu có người đến cắt xẻ từng phần nơi thân thể mình, các thầy phải tự thâu giữ tâm, không khiến sân hận. Cũng phải gìn giữ miệng chớ thốt ra lời thô ác. Nếu để tâm giận dữ bùng phát, tức tự hại đạo làm mất lợi ích của công đức. Nhẫn nhục là đức mà khổ hạnh trì giới không thể sánh kịp. Người có thể hành nhẫn mới có thể gọi là bậc Đại nhân có sức mạnh. Nếu người không thể hoan hỷ nhẫn chịu những lời mạ lỵ ác độc, xem như được uống cam lồ, thì không được gọi là người trí tuệ nhập đạo. Vì sao? Vì cái hại của sự giận dữ tức phá bỏ hết các pháp thiện, hủy hoại cả tiếng tăm tốt đẹp, danh dự, đời này, đời sau, không ai thích gặp mặt. Nên biết tâm sân hận còn hơn lửa dữ, thường phải phòng hộ không cho vào tâm. Giặc cướp mất công đức không gì vượt qua sân hận. Người bạch y còn thọ dục, không phải là người hành đạo, không pháp để tự chế ngự giận dữ, nên còn có thể tha thứ. Xuất gia hành đạo là người không dục, nhưng mang tâm sân hận thì thật không thể chấp nhận. Ví như trời quang mây tạnh mà lửa sấm sét nổi lên thì không phải là hiện tượng thích hợp”.

– Luận nêu: Đạo đối trị phiền não chướng thứ nhất: Là đối trị phiền não chướng giận dữ, chỉ rõ đạo gắng nhẫn chịu. Tu hạnh Bồtát là trụ trong địa nhẫn chịu, có thể nhẫn đối với vô số các khổ não, nên đối trị bằng hành xử không còn thấy có nhẹ, nặng. Như kinh nói: “Tỳ-kheo các thầy, nếu có người đến cắt xẻ từng phần nơi thân thể mình, các thầy phải tự thâu giữ tâm, không khiến sân hận”. Đây là chỉ rõ về sự thành tựu Pháp thân huyễn hóa.

Lại nữa, miệng hành thanh tịnh, luôn nói lời dịu dàng. Như kinh nói: “Cũng phải gìn giữ miệng chớ thốt ra lời thô ác”.

Lại nói đến pháp chướng ngại đối với đạo đức của lợi ích tự tha. Như kinh nói: “Nếu để tâm giận dữ bùng phát, tức tự hại đạo làm mất lợi ích của công đức”. Đây là hiển bày hai thứ tâm hành thanh tịnh, là trí tuệ và công đức. Đối chiếu là hơn hẳn các hành quyến thuộc. Như kinh nói: “Nhẫn nhục là đức mà khổ hạnh trì giới không thể sánh kịp”. Trong ấy, nói hành là dùng công đức của Tam-muội để đối trị khổ.

Ba thứ nghiệp thanh tịnh, cùng đối chiếu về tướng thù thắng, chỉ rõ hành an ổn nơi đạo khổ, nên biết.

Tiếp theo: Là nói về pháp quán chân như thanh tịnh, hiển bày đạo an lạc. Thành tựu trí quán xét là lực của bậc Đại nhân. Như kinh nói: “Người có thể hành nhẫn mới có thể gọi là bậc Đại nhân có sức mạnh”.

Lại hiển bày việc không vào được nẻo thành tựu lực của bậc trượng phu, vì không có trí tuệ quán sát. Đây là dựa vào chỗ mâu thuẫn để làm rõ chỗ hơn hẳn, nên biết. Như kinh nói: “Nếu người không thể hoan hỷ nhẫn chịu những lời mạ lỵ ác độc, xem như được uống cam lồ, thì không được gọi là người trí tuệ nhập đạo”. Ở đây, không hoan hỷ: Là không tin nhập nơi quán. Lời mạ lỵ ác độc: Là chỉ rõ không thọ dụng như pháp trong tướng của pháp môn vô sinh. Cam lồ: Là làm rõ pháp tương tợ của tự thể tướng nơi pháp vô sinh.

Đạo nói ở đây: Là chỉ rõ tự thể của trí tuệ.

Lại nói đến việc phải phòng hộ đối với các tai họa. Như kinh nói: “Vì sao? Vì cái hại của sự giận dữ tức phá bỏ hết các pháp thiện, hủy hoại cả tiếng tăm tốt đẹp, danh dự, đời này, đời sau, không ai thích gặp mặt. Nên biết tâm sân hận còn hơn lửa dữ, thường phải phòng hộ không cho vào tâm. Giặc cướp mất công đức không gì vượt qua sân hận”. Trong ấy, các pháp thiện: Là tướng của trí tuệ tự lợi. Tiếng tăm tốt đẹp: Là công đức được khen ngợi của pháp thiện lợi tha. Người không thích gặp mặt: Là cuộc đời của tự tha đều không thể có được quả báo vui. Sự phòng hộ ở đây có hai thứ: (1) Phòng hộ pháp thiện của mình, như phòng hỏa hoạn, là pháp tương tợ. (2) Phòng hộ công đức của lợi tha, như đề phòng giặc, là pháp tương tợ.

Lại nêu rõ về công đức của thế gian có sự thọ dụng trong pháp thuận nghịch, chưa hoàn toàn trái nhau. Như kinh nói: “Người bạch y còn thọ dục, không phải là người hành đạo, không pháp để tự chế ngự giận dữ, nên còn có thể tha thứ”. Ở đây, không pháp: Là không có pháp bạch tịnh để đối trị.

Kế tiếp: Là chỉ rõ đạo xuất thế gian. Ở trong thế gian thọ dụng hai pháp là hoàn toàn trái nhau. Như kinh nói: “Xuất gia hành đạo là người không dục, nhưng mang tâm sân hận thì thật không thể chấp nhận”.

Phần còn lại: Là chỉ rõ về phần đạo, trong ấy không nên có, là pháp tương tợ. Như kinh nói: “Ví như trời quang mây tạnh mà lửa sấm sét nổi lên thì không phải là hiện tượng thích hợp”.

Thế nào là đạo đối trị phiền não chướng thứ hai?

– Kinh nói:Tỳ-kheo các thầy nên tự xoa vào đầu, đã từ bỏ các thứ trang sức đẹp đẽ, mặc y hoại sắc, mang bình bát, lấy việc xin ăn để tự nuôi sống, nên tự nhận thấy như thế, nếu khởi kiêu mạn thì nên mau chóng diệt trừ. Tăng trưởng kiêu mạn hãy còn không phải là điều thích hợp của người bạch y thế tục, huống chi là người xuất gia nhập đạo, vì giải thoát nên tự hàng phục thân mình mà hành khất thực”.

– Luận nêu: Đạo đối trị phiền não chướng thứ hai: Là chỉ rõ tự mình không tạo thành tâm, cho là tôn quý, hơn hết, xem thường hành của thân tâm, nên xa lìa phiền não cao ngạo.

Trong đây có bảy câu nói về hành xa lìa:

1. Đối với các xứ tôn thắng, tăng thượng, trước tiên là nên tự điều phục, luôn nên tự nhận biết. Như kinh nói: “Tỳ-kheo các thầy nên tự xoa vào đầu”.

2. Đối với các xứ còn lại, không thọ dụng các thứ vật trang sức. Như kinh nói: “Đã từ bỏ các thứ trang sức đẹp đẽ”.

3. Đối với xứ y phục, pháp đối trị là tâm ưa thích. Như kinh nói: “Mặc y hoại sắc”.

4. Tự thọ dụng vật dụng, luôn tự giữ gìn. Như kinh nói: “Mang bình bát”.

5. Đối với các sự việc thọ dụng trong ngoài, không tạo phương tiện khác để sinh lỗi lầm, phải tự điều phục. Như kinh nói: “Lấy việc xin ăn để tự nuôi sống”.

6. Trí tuệ thành tựu: Là thường tự quán xét. Như kinh nói: “Nên tự nhận thấy như thế”.

7. Đối trị thành tựu: Là xa lìa mọi sự dấy khởi nhỏ nhặt. Như kinh nói: “Nếu khởi kiêu mạn thì nên mau chóng diệt trừ”.

Phần còn lại là nêu rõ nghĩa gì? Là chỉ rõ sự so sánh. Tự hàng phục là không nên dấy khởi kiêu mạn, vì nó là chướng ngại cho mọi phần trước sau nơi công đức. Như kinh nói: “Tăng trưởng kiêu mạn hãy còn không phải là điều thích hợp của người bạch y thế tục, huống chi là người xuất gia nhập đạo, vì giải thoát nên tự hàng phục thân mình mà hành khất thực”.

Thế nào là đạo đối trị phiền não chướng thứ ba?

– Kinh nói:Tỳ-kheo các thầy, tâm dua nịnh quanh co là trái ngược với đạo. Thế nên cần phải giữ cho tâm luôn chất trực. Phải biết dua nịnh quanh co chỉ là lừa dối. Người đã nhập đạo tức không có điều ấy. Do đó các thầy phải nên khiến cho tâm được ngay thẳng, lấy chất trực làm gốc”.

– Luận nêu: Đạo đối trị phiền não chướng thứ ba: Tức chỉ rõ tâm chất trực là căn bản, xa lìa phiền não chướng là dua nịnh quanh co. Miệng nói, ý nghĩ đều tự trái ngược với các phiền não đó. Như kinh nói: “Tỳ-kheo các thầy, tâm dua nịnh quanh co là trái ngược với đạo”.

Lại chỉ rõ cách đối trị chướng ngại trái ngược với đạo. Như kinh nói: “Thế nên cần phải giữ cho tâm luôn chất trực”.

Lại nữa, pháp trái ngược trong khi hành phần đạo không nên có. Như kinh nói: “Phải biết dua nịnh quanh co chỉ là lừa dối. Người đã nhập đạo tức không có điều đó”. Trong đây, nói lừa dối là tâm và miệng cùng lúc đều không dùng sự thật.

Ngoài ra, đều chỉ rõ về tâm ngay thẳng, là gốc của tâm đạo. Như kinh nói: “Do đó các thầy phải nên khiến cho tâm được ngay thẳng, lấy chất trực làm gốc”.

Đã nói xong phần Tu tập công đức thế gian. Sau đây là nói đến phần 3: Tu tập công đức của bậc Đại nhân xuất thế gian. Phần công đức của bậc Đại nhân có tám thứ: Tất cả bậc Đại nhân luôn dùng tám thứ này để tự xét biết, nuôi lớn phương tiện thành tựu trọn vẹn.

Thế nào là nhận biết về công đức của bậc Đại nhân thứ nhất?

– Kinh nói:Tỳ-kheo các thầy! Nên biết người nhiều dục, cầu lợi nhiều, nên khổ não cũng nhiều. Người ít dục, không cầu, không ham muốn, thì không có tai họa đó. Ngay như ít ham muốn hãy còn nên tu tập, huống nữa là sự ít ham muốn còn có thể sinh ra các công đức. Người ít ham muốn tức không dua nịnh quanh co để cầu theo ý người khác, cũng lại không bị các căn lôi dắt. Người hành ít ham muốn thì tâm thản nhiên, không có lo sợ. Các sự tiếp xúc đây đó thường không gì là không đủ. Người có ít ham muốn là có Niết-bàn. Đó gọi là thiểu dục”.

– Luận nêu: Ở đây, bậc Đại nhân thứ nhất: Là người thành tựu công đức không mong cầu, biết rõ lỗi lầm của nhiều dục. Nhận biết rõ được nói ở đây có năm thứ tướng:

1. Tướng nhận biết rõ về chướng ngại: Là ba thứ chướng: phiền não, nghiệp, khổ. Như kinh nói: “Tỳ-kheo các thầy! Nên biết người nhiều dục, cầu lợi nhiều, nên khổ não cũng nhiều”. Đây là chỉ rõ sự xoay chuyển không dứt.

2. Tướng nhận biết rõ đối trị thành tựu: Là xa lìa ba thứ vọng tưởng. Như kinh nói: “Người ít dục, không cầu, không ham muốn, thì không có tai họa đó”.

3. Tướng nhận biết rõ nhân quả tập khởi: Là thành tựu vô lượng hạnh. Như kinh nói: “Ngay như ít ham muốn hãy còn nên tu tập, huống nữa là sự ít ham muốn còn có thể sinh ra các công đức”.

4. Tướng nhận biết rõ hoàn toàn không có các chướng: Là ba chướng đã rốt ráo lìa dứt. Như kinh nói: “Người ít ham muốn tức không dua nịnh, quanh co để cầu theo ý người khác, cũng lại không bị các căn lôi dắt”.

5. Tướng nhận biết rõ về quả thành tựu: Là thành tựu ba thứ quả công đức như Bát-nhã v.v… Như kinh nói: “Người hành ít ham muốn thì tâm thản nhiên, không có lo sợ. Các sự tiếp xúc đây đó thường không gì là không đủ. Người có ít ham muốn là có Niết-bàn.

Đó gọi là thiểu dục”.

Thế nào là nhận biết về công đức của bậc Đại nhân thứ hai?

– Kinh nói:Tỳ-kheo các thầy! Nếu muốn thoát khỏi các thứ khổ não, phải nên quán xét về biết đủ. Pháp biết đủ tức là xứ giàu vui, yên ổn. Người biết đủ tuy nằm trên đất cũng được an lạc. Người không biết đủ tuy sống nơi cõi trời cũng không vừa ý. Người không biết đủ tuy giàu có mà nghèo cùng. Người biết đủ tuy nghèo cùng mà là giàu có. Người không biết đủ luôn bị năm dục lôi kéo, được người biết đủ thương xót. Đó gọi là biết đủ”.

– Luận nêu: Nhận biết về công đức của bậc Đại nhân thứ hai: Là thành tựu hành biết đủ để đối trị nhân quả khổ. Như kinh nói: “Tỳ-kheo các thầy! Nếu muốn thoát khỏi các thứ khổ não, phải nên quán xét về biết đủ”. Ở đây, não: Là chỉ rõ lỗi lầm của phiền não từ khổ sinh.

Lại nêu pháp đối trị là thành tựu nhân quả thanh tịnh. Như kinh nói: “Pháp biết đủ tức là xứ giàu vui, yên ổn”.

Nếu như thế, hai thứ nhận biết vì sao khác biệt? Ở đây chỉ rõ về nhận biết thứ nhất là xa lìa sự việc của cảnh giới khác. Biết đủ là ở trong sự việc của mình.

Lại nữa, có ba thứ sai biệt chỉ rõ về biết đủ và không biết đủ: (1) Thọ dụng sai biệt thuộc những nơi chốn nào. (2) Thọ dụng sai biệt thuộc những sự việc nào. (3) Sai biệt do không tự lợi, có tự lợi, lợi tha trong những pháp nào. Như kinh nói: “Người biết đủ tuy nằm trên đất v.v…” như kinh, nên biết.

Thế nào là công đức xa lìa của bậc Đại nhân thứ ba?

– Kinh nói:Tỳ-kheo các thầy! Nếu muốn cầu sự vắng lặng, vô vi, an lạc, nên lìa khỏi cảnh ồn ào, náo nhiệt, ở riêng nơi thanh vắng. Người ở chốn thanh vắng được Đế thích, chư Thiên cung kính, tôn trọng. Vì thế nên rời bỏ chốn đông đảo của mình và của người khác, ở riêng nơi thanh vắng, suy nghĩ để diệt trừ gốc khổ. Nếu ưa thích ở nơi đông đảo thì sẽ nhận lấy nhiều phiền não. Ví như cây to lớn, nhiều chim chóc tụ tập, thì có họa bị khô gãy. Thế gian bị trói buộc chìm trong các khổ, như voi già rơi vào vũng lầy, không thể tự ra khỏi. Do vậy phải xa lìa”.

– Luận nêu: Công đức xa lìa của bậc Đại nhân thứ ba, ở đây có ba môn gồm thâu nghĩa, nên biết:

  1. Môn tự tánh xa lìa, xuất phát từ thể.
  2. Môn tu tập xa lìa, xuất phát từ phương tiện.
  3. Môn thọ dụng các kiến, vì luôn bị trói buộc.

Môn tự tánh xa lìa: Là chỉ rõ bốn thứ đối trị:

1. Chướng ngại do chấp trước tướng ngã. Đối trị chướng này, như kinh nói: “Tỳ-kheo các thầy! Nếu muốn cầu sự vắng lặng, vô vi, an lạc”. Ở đây, vắng lặng: Là chỉ rõ pháp vô ngã không. Vô vi: Là vô tướng không. An lạc: Là không lấy bỏ, là nguyện không.

2. Chướng ngại do ngã sở, vì năm ấm khởi loạn không có thứ lớp. Đối trị chướng này, như kinh nói: “Nên lìa khỏi cảnh ồn ào, náo nhiệt”.

3. Chướng ngại do không có hai tướng kia. Đối trị chướng này, như kinh nói: “Ở riêng nơi thanh vắng”.

4. Chướng ngại do vô vi đứng đầu công đức: Vì các vị trời kia tôn trọng chánh pháp. Đối trị chướng này, như kinh nói: “Người ở chốn thanh vắng được Đế thích, chư Thiên cung kính, tôn trọng”.

Môn tu tập xa lìa: Là xa lìa ngã, ngã sở, không còn tụ tập sinh khởi. Như kinh nói: “Vì thế nên rời bỏ chốn đông đảo của mình và của người khác”.

Thành tựu tuệ phương tiện vì như pháp, như trụ. Như kinh nói:

“Ở riêng nơi thanh vắng”.

Thành tựu trí khéo lựa chọn, là xa lìa nhân phát sinh. Như kinh nói: “Suy nghĩ để diệt trừ gốc khổ”.

Môn thọ dụng các kiến: Là ưa thích tụ tập ngã, ngã sở, sinh khởi tâm cảnh của tự tha cùng não hại. Như kinh nói: “Nếu ưa thích ở nơi đông đảo thì sẽ nhận lấy nhiều phiền não”.

Các thứ kiến chấp tụ tập phát sinh, sinh rồi tự hại. Cây to là pháp tương tợ. Như kinh nói: “Ví như cây to lớn, nhiều loài chim chóc tụ tập, thì có họa bị khô gãy”.

Lại chỉ rõ không có tướng xuất ly, do nghiệp, phiền não cấu nhiễm sinh khởi. Voi già rơi vào vũng lầy là pháp tương tợ. Như kinh nói: “Thế gian bị trói buộc chìm trong các khổ, như voi già rơi vào vũng lầy, không thể tự ra khỏi. Do vậy phải xa lìa”.

Thế nào là công đức không mệt mỏi của bậc Đại nhân thứ tư?

– Kinh nói:Tỳ-kheo các thầy! Nếu siêng năng tinh tấn thì sự việc không có gì khó. Thế nên các thầy phải siêng năng tinh tấn. Ví như dòng nước nhỏ, nhưng cứ chảy mãi thì có thể xuyên thủng đá. Nếu tâm của Hành giả cứ luôn biếng nhác, bê trễ, thì khác gì cọ cây lấy lửa, cây chưa nóng mà đã dừng, tuy muốn được lửa nhưng khó có được. Đó gọi là tinh tấn”.

– Luận nêu: Ở đây, không mệt mỏi: Là chỉ rõ không đồng với tinh tấn của ngoại đạo. Nhưng là đối với tất cả pháp, tất cả hành hướng đến thiện, đều khiến thành tựu không thoái chuyển. Như kinh nói: “Tỳ-kheo các thầy! Nếu siêng năng tinh tấn thì sự việc không có gì khó”.

Do có thể thành tựu không thoái chuyển, nên cần tu tập, nuôi lớn. Như kinh nói: “Thế nên các thầy phải siêng năng tinh tấn”.

Lại dùng thí dụ để chỉ rõ sự việc không ngừng nghỉ, do có sức mạnh của tinh tấn được thành tựu. Như kinh nói: “Ví như dòng nước nhỏ, nhưng cứ chảy mãi thì có thể xuyên thủng đá”.

Tiếp sau là nói đến lỗi của lười biếng. Không thể luôn tinh tấn, nên niệm xứ thoái mất, không thành tựu được tâm tuệ. Dựa vào thí dụ để hiển bày, nên biết. Như kinh nói: “Nếu tâm của Hành giả cứ luôn biếng nhác, bê trễ, thì khác gì cọ cây lấy lửa, cây chưa nóng mà đã dừng, tuy muốn được lửa nhưng khó có được. Đó gọi là tinh tấn”.

Thế nào là công đức không quên niệm của bậc Đại nhân thứ năm?

– Kinh nói:Tỳ-kheo các thầy! Cầu tri thức thiện, cầu được khéo che chở, giúp đỡ, không bằng không quên niệm. Nếu có người không quên niệm thì các giặc phiền não không thể xâm nhập. Vì thế các thầy thường nên thâu giữ niệm tại tâm. Nếu người mất niệm tức mất các công đức. Nếu có niệm lực mạnh mẽ thì tuy đi vào trong giặc năm dục vẫn không bị chúng hại. Ví như người mặc áo giáp chắc chắn vào trận thì không lo sợ. Đó gọi là không quên niệm”.

– Luận nêu: Công đức không quên niệm của bậc Đại nhân thứ năm: Là chỉ rõ tất cả hành ấy là đứng đầu, có thể phá tan mọi oán địch trầm trọng từ vô thỉ.

Tất cả hành ở đây lược nêu có ba thứ:

1. Hành cầu nghe pháp. Như kinh nói: “Tỳ-kheo các thầy! Cầu tri thức thiện”.

2. Hành nội tâm khéo tư duy. Như kinh nói: “Cầu được khéo che chở”.

3. Hành cầu tu như pháp. Như kinh nói: “Cầu khéo giúp đỡ”.

Lại chỉ rõ hành không quên niệm là đứng đầu, là hơn hết trong các hành. Như kinh nói: “Không bằng không quên niệm”.

Có khả năng ngăn chận mọi oán địch trầm trọng từ vô thỉ, không tổn hại ba thứ căn thiện. Như kinh nói: “Nếu có người không quên niệm thì các giặc phiền não không thể xâm nhập”. Phiền não: Là chỉ rõ những Hoặc, loạn trong tướng của tâm. Giặc: Là sự tụ tập từ ngoài, gây tội lỗi.

Lại chỉ rõ sự khuyến tu, khiến niệm trước sau đều được thành tựu. Chỉ rõ việc ngăn chận tâm không có thứ lớp đầu cuối. Như kinh nói: “Vì thế các thầy thường nên thâu giữ niệm tại tâm”.

Do không thứ lớp đầu cuối nên mất niệm, tạo nên nhiều lỗi lầm. Như kinh nói: “Nếu người mất niệm tức mất các công đức”.

Lại, thành tựu nhiều công đức, tùy thuận môn thế gian, tập hợp các hành. Như kinh nói: “Nếu có niệm lực mạnh mẽ thì tuy đi vào trong giặc năm dục vẫn không bị chúng hại”.

Niệm lực kiên cường nên dũng mãnh vào trận không lo sợ, là pháp tương tợ. Như kinh nói: “Ví như người mặc áo giáp chắc chắn vào trận thì không lo sợ. Đó gọi là không quên niệm”.

Thế nào là công đức thiền định của bậc Đại nhân thứ sáu?

– Kinh nói:Tỳ-kheo các thầy! Nếu thâu giữ tâm thì tâm tại định. Vì tâm tại định nên có thể nhận biết tướng nơi pháp sinh diệt của thế gian. Do đó các thầy thường nên tinh tấn tu tập các định. Nếu người đạt được định thì tâm không phân tán. Ví như nhà nông chăm lo giữ nước tức khéo tu sửa đê điều. Người tu hành muốn có nước trí tuệ thì nên khéo tu tập thiền định khiến trí tuệ không bị lưu tán. Đó gọi là định”.

– Luận nêu: Công đức thiền định của bậc Đại nhân thứ sáu: Là tám thứ thiền định v.v… nhân nơi thâu giữ niệm sinh. Như kinh nói: “Tỳ-kheo các thầy! Nếu thâu giữ tâm thì tâm tại định”.

Thế nào là thâu giữ tâm thì có thể sinh thiền định? Là chỉ rõ thâu giữ khắp xứ, là đối tượng hành của tâm, đối trị mọi hành duyên dựa của tâm. Tiếp đến là giữ lấy các việc vừa, thấp, nhằm đối trị các duyên của tâm hành. Khi đối trị thành tựu ba thứ xứ duyên ấy tức gần với thiền định. Thiền định thành tựu là có dụng của quả thuộc phương tiện. Như kinh nói: “Vì tâm tại định nên có thể nhận biết tướng nơi pháp sinh diệt của thế gian”.

Lại, biếng nhác không tu tập là chướng ngại của phương tiện. Như kinh nói: “Do đó các thầy thường nên tinh tấn tu tập các định”.

Trong ấy, biếng nhác có ba thứ: (1) Biếng nhác do không an ổn. (2) Biếng nhác do không có vị. (3) Biếng nhác do không biết sợ hãi.

Thế nào là tu tập đối trị mỗi mỗi thứ? Là chỉ rõ tinh tấn tu tập đối với các thứ ăn uống, ngủ nghỉ đều có hạn lượng cùng điều hòa hơi thở ra vào. Tinh tấn tu tập hiểu biết các định, có công đức của thông tuệ và dứt hết nguồn khổ, là sự việc hy hữu lớn. Tinh tấn tu tập quan sát các khổ của sinh, già, bệnh, chết và các khổ của bốn đường dữ, vì ta chưa thể xuất ly, là đối trị ba chướng.

Lại tu tập công đức thành tựu, không còn đối tượng để đối trị. Như kinh nói: “Nếu người đạt được định thì tâm không phân tán”.

Lại dùng thí dụ để chỉ rõ việc khéo tu tập công đức, càng tăng trưởng hơn lên. Như kinh nói: Nên biết.

Thế nào là công đức trí tuệ của bậc Đại nhân thứ bảy?

– Kinh nói:Tỳ-kheo các thầy! Nếu có trí tuệ thì không tham vướng, thường tự tỉnh xét, không khiến có lỗi, tức là ở trong pháp của Như Lai có thể đạt được giải thoát. Nếu không được như thế thì đã không phải là đạo nhân, lại cũng không phải là bạch y, không biết gọi là gì. Trí tuệ thật tức là chiếc thuyền vững chắc vượt qua biển khổ già bệnh chết, cũng là ngọn đèn sáng lớn xua tan màn vô minh đen tối, là phương thuốc hay của các thứ bệnh, là chiếc búa bén chặt đứt cây phiền não. Vì thế các thầy nên dùng tuệ văn, tư, tu để tự tăng trưởng. Nếu người có trí tuệ soi chiếu, thì tuy là nhục nhãn, nhưng là người thấy biết sáng suốt hơn hết. Đó là trí tuệ”.

– Luận nêu: Ở đây, công đức của trí tuệ: Là khả năng xa lìa xứ chướng ngại đối với nghĩa chân thật cùng xứ chướng ngại của các sự việc thế gian. Như kinh nói: “Tỳ-kheo các thầy! Nếu có trí tuệ thì không tham vướng”.

Nơi tất cả thời thường tu tâm tuệ do điều ấy khó đạt được. Như kinh nói: “Thường tự tỉnh xét, không khiến có lỗi”.

Lại chỉ rõ việc khó đạt được nhưng có thể làm được, tức đối với xứ đệ nhất nghĩa là giải thoát. Như kinh nói: “Tức là ở trong pháp của Như Lai có thể đạt được giải thoát”.

Lại chỉ rõ không phải tự tánh tuệ thì không hội nhập được nơi thế gian và xuất thế gian, nên không nêu bày. Như kinh nói: “Nếu không được như thế thì đã không phải là đạo nhân, lại cũng không phải là bạch y, không biết gọi là gì”.

Lại dùng bốn thứ thí dụ để hiển bày bốn thứ công đức về văn, tư, tu, chứng. Như kinh nói: Nên biết. Nói trí tuệ thật: Là chỉ rõ thật sự có thể đối trị. Ở trong bốn thứ công đức thì đó là nghĩa tối thắng nơi tự lợi ích của công đức thứ tư.

Lại, bốn thứ công đức tu học đối với phần nội xứ là có nhận biết soi chiếu. Như kinh nói: “Nếu người có trí tuệ soi chiếu, thì tuy là nhục nhãn, nhưng là người thấy biết sáng suốt hơn hết. Đó là trí tuệ”.

Thế nào là công đức của sự thành tựu trọn vẹn nơi bậc Đại nhân thứ tám?

– Kinh nói:Tỳ-kheo các thầy! Nếu hành theo vô số hý luận thì tâm tán loạn, tuy là xuất gia nhưng vẫn chưa được giải thoát. Thế nên Tỳ-kheo phải gấp lìa bỏ tâm loạn hý luận. Nếu các thầy muốn đạt được an lạc của tịch diệt, phải nên mau chóng dứt trừ tai họa của hý luận. Đó gọi là không hý luận”.

– Luận nêu: Công đức của sự thành tựu trọn vẹn nơi bậc Đại nhân thứ tám: Là chỉ rõ về tự tánh xa lìa, không phải là pháp đối trị.

Bốn thứ chướng ngại nơi trí sai biệt là pháp phân biệt có thể phân biệt. Như kinh nói: “Tỳ-kheo các thầy! Nếu hành theo vô số hý luận thì tâm tán loạn”.

Trí tu đạo không phải là tự tánh. Như kinh nói: “Tuy là xuất gia nhưng vẫn chưa được giải thoát”.

Hai câu còn lại này là khuyên tu tập hành xa lìa, thành tựu không hý luận:

  1. Xa lìa tướng có đối, vì có tướng công đức của người này, người kia. Như kinh nói: “Thế nên Tỳ-kheo phải gấp lìa bỏ tâm loạn hý luận”.
  2. Xa lìa tướng không đối, vì không có tướng công đức của người nọ, người kia. Như kinh nói: “Nếu các thầy muốn đạt được an lạc của tịch diệt, phải nên mau chóng dứt trừ tai họa của hý luận”. Đây là chỉ rõ hành thành tựu khác của thể tánh. Như kinh nói: “Đó gọi là không hý luận”.

Đã nói xong phần Thành tựu công đức của bậc Đại nhân xuất thế gian. Sau đây là nói về phần 4: Hiển bày công đức thâm diệu rốt ráo.

– Kinh nói:Tỳ-kheo các thầy! Đối với các công đức thường nên nhất tâm từ bỏ các thứ phóng dật, như lìa giặc oán. Những lợi ích được Đức Thế Tôn đại bi giảng nói đều đã trọn vẹn. Các thầy chỉ nên siêng năng hành trì. Hoặc ở trong núi, hoặc bên đầm trống lặng, hoặc ở nơi tĩnh thất, chốn thanh vắng bên cội cây, phải luôn nhớ nghĩ về pháp đã thọ nhận chớ khiến quên mất. Phải luôn tự cố gắng tinh tấn tu tập. Không làm gì để luống qua cho đến chết đến nỗi về sau phải hối hận. Ta như lương y biết bệnh nói thuốc, bệnh nhân có uống hay không uống, không phải là lỗi của lương y. Lại như người khéo dẫn đường, chỉ rõ về đường thiện, người nghe rồi nhưng không đi, không phải là lỗi của người dẫn đường”.

– Luận nêu: Hiển bày công đức thâm diệu rốt ráo: Tức có hai thứ rốt ráo làm sáng tỏ hai thứ công đức thâm diệu.

1. Công đức rốt ráo của Đức Như Lai phân biệt thuyết pháp, hiển bày công đức thâm diệu của việc phân biệt giảng nói pháp này không phải là thuyết giảng pháp thường.

2. Công đức rốt ráo của tu hạnh Bồ-tát, tu tập giáo hóa thế gian, hiển bày công đức thường tu tập khác cũng thâm diệu.

Hai thứ công đức tu hành này như trên đã nêu, trong mỗi mỗi thứ đều tu tập hai thứ công đức, nên biết.

Ở đây: Công đức thường tu tập thì nghĩa thứ nhất là tu tâm. Như kinh nói: “Tỳ-kheo các thầy! Đối với các công đức thường nên nhất tâm”.

Xa lìa các hành tương tợ hay trái ngược với nhất tâm, xem như oán đối. Như kinh nói: “Từ bỏ các thứ phóng dật, như lìa giặc oán”.

Tâm đại bi không giới hạn thường đem lại lợi lạc có hạn lượng một cách trọn vẹn. Như kinh nói: “Những lợi ích được Đức Thế Tôn đại bi giảng nói đều đã trọn vẹn”.

Tiếp theo: Lại nói rộng về công đức thường tu tập. Có bảy thứ tướng tu tập:

1. Vì sao phải tu? Chỉ rõ luôn siêng năng hành trì. Như kinh nói: “Các thầy chỉ nên siêng năng hành trì”.

2. Tu tập ở nơi nào? Chỉ rõ ở nơi chốn vắng vẻ. Như kinh nói: “Hoặc ở trong núi, hoặc bên đầm trống lặng, hoặc ở nơi tĩnh thất, chốn thanh vắng bên cội cây”.

3. Tu tập pháp gì? Chỉ rõ tu tập pháp chân thật không có hai niệm. Như kinh nói: “Phải luôn nhớ nghĩ về pháp đã thọ nhận”.

4. Tu tập như thế nào? Là tu tập khiến được hiện tiền. Như kinh nói: “Chớ khiến quên mất”.

5. Dùng phương tiện nào để tu tập? Như kinh nói: “Phải luôn tự cố gắng tinh tấn tu tập”.

6. Đối với pháp tương tợ ở chốn sinh hoạt ngủ nghỉ, tâm phải dốc hết sức xa lìa. Như kinh nói: “Không làm gì để luống qua cho đến chết”.

7. Vào lúc tuổi già, tự nhận biết sự việc dù có hối hận bao nhiêu cũng không kịp. Như kinh nói: “Đến nỗi về sau phải hối hận”.

Sau đây: Là nói rộng về công đức rốt ráo của Đức Như Lai phân biệt thuyết pháp. Chỉ rõ hai thứ tướng rốt ráo:

1. Nói pháp giáo hóa rốt ráo, hoàn toàn tương ưng. Như kinh nói: “Ta như lương y biết bệnh nói thuốc, bệnh nhân có uống hay không uống, không phải là lỗi của lương y”.

2. Cùng với niệm rốt ráo là pháp cứu độ hoàn toàn tương ưng. Như kinh nói: “Lại như người khéo dẫn đường, chỉ rõ về đường thiện, người nghe rồi nhưng không đi, không phải là lỗi của người dẫn đường”.

Ở đây, uống thuốc hay không uống, là chỉ rõ Như Lai ở trong hai thứ rốt ráo hoàn toàn không có lỗi. Vì Như Lai không bỏ rơi pháp thế gian của chúng sinh.

Tiếp theo là nói về phần 5: Hiển bày quyết định nhập chứng.

– Kinh nói:Này các thầy! Đối với pháp Tứ Đế như khổ v.v…, nếu có chỗ nghi thì nên mau chóng thưa hỏi, chớ nên mang giữ điều nghi, không cầu giải quyết. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói ba lần như thế, nhưng không có vị nào thưa hỏi. Vì sao? Vì đại chúng không còn nghi ngờ. Lúc ấy, Tôn giả A-nậu-lâu-đà quán xét tâm của đại chúng, rồi bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Mặt trăng có thể khiến thành nóng, mặt trời có thể khiến thành lạnh, nhưng Phật giảng nói về Tứ Đế thì không thể khiến đổi khác. Phật nói Khổ đế thật sự là khổ, không thể khiến thành vui. Tập thật sự là nhân lại không có nhân nào khác. Khổ nếu diệt tức là nhân diệt. Nhân diệt nên quả diệt. Con đường diệt khổ thật sự là con đường chân thật, lại không có con đường nào khác. Bạch Đức Thế Tôn! Các Tỳ-kheo này đối với Tứ Đế đều quyết định không nghi”.

– Luận nêu: Quyết định nhập chứng: Là chỉ rõ đối với pháp được chứng đắc đã thành tựu sự quyết định, không có nghi ngờ.

Ở đây có ba môn gồm thâu nghĩa, chỉ rõ sự quyết định không nghi.

  1. Môn phát khởi hiển bày phương tiện.
  2. Môn thành tựu đầy đủ.
  3. Môn phân biệt nêu bày.

Môn phát khởi hiển bày phương tiện: Là chỉ rõ ở nơi xứ các pháp thật đã phát khởi, bày rõ. Do người tu hành thường quan sát pháp đó cùng nương vào đấy để dấy khởi việc tu trì. Như kinh nói: “Này các thầy! Đối với pháp Tứ Đế như khổ v.v…”.

Ở trong Tứ Đế pháp tạo tác, không tạo tác: Là chỉ rõ về chỗ có nghi, không nghi có sai biệt. Như kinh nói: “Nếu có chỗ nghi thì nên mau chóng thưa hỏi, chớ nên mang giữ điều nghi, không cầu giải quyết”.

Nên mau chóng thưa hỏi: Là chỉ rõ hai thứ sắp đạt được trọn vẹn như vừa nói hai thứ rốt ráo. Chớ nên mang giữ điều nghi: Là đối với xứ tứ đế vô tác cùng xứ tứ đế tu hành có tạo tác, hai lãnh vực đó trái ngược nhau, đều không được nghi.

Môn thành tựu đầy đủ: Là có ba thứ chỉ rõ:

1. Chỉ rõ pháp luân thành tựu đầy đủ, vì ba lần chuyển pháp chân thật. Như kinh nói: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói ba lần như thế”.

2. Chỉ rõ thành tựu đầy đủ về pháp chứng đắc. Như kinh nói: “Nhưng không có vị nào thưa hỏi”.

3. Chỉ rõ thành tựu đầy đủ về công đức của sự đoạn trừ. Như kinh nói: “Vì sao? Vì đại chúng không còn nghi ngờ”.

Môn phân biệt nêu bày: Là chỉ rõ bậc thượng thủ của đại chúng nhận biết tâm hành của đại chúng, thành tựu quyết định. Lại biết rõ về nghĩa thật đã chứng, nên Tôn giả A-nậu-lâu-đà phân biệt nói các sự việc trả lời cho Đức Như Lai. Như kinh nói: “Lúc ấy, Tôn giả A-nậu-lâu-đà quán xét tâm của đại chúng v.v…”.

Mặt trời, mặt trăng, lạnh, nóng: Là chỉ rõ về việc hành quán thuận nghịch trong tứ đế, cũng không thể đổi khác.

Thật sự là khổ, không thể khiến thành vui: Là do Phật nói nên khổ vui mỗi thứ đều thật, không đổi khác.

Lại không có nhân nào khác: Là chỉ rõ khổ diệt đều từ nhân. Lại chỉ rõ diệt, đạo đồng là quán tự tánh.

Quyết định: Là nhân quả khổ, vui đều nhập nơi hành quyết định.

Không nghi: Là nghĩa hoàn toàn không khác.

Đã nói về phần Hiển bày quyết định nhập chứng. Sau đây là nói đến phần 6: Phân biệt chưa nhập chứng bậc tối thượng là đoạn trừ nghi.

– Kinh nói:Ở trong chúng này, người chưa làm xong công việc, thấy Phật diệt độ sẽ có nhiều cảm động, xót thương. Nếu có người mới vào pháp, nghe Phật giảng nói tức đều được độ, ví như đi trong đêm tối, thấy làn chớp sáng lóe lên liền thấy đường đi. Nếu là người đã hoàn thành công việc, đã vượt qua biển khổ, thì chỉ nghĩ như vầy: Sao Đức Thế Tôn diệt độ mau chóng như vậy?”.

– Luận nêu: Phân biệt người chưa nhập chứng pháp trên hết: Có ba thứ phân biệt làm rõ chỗ chưa chứng nhập pháp tối thượng.

1. Đối với đế hữu tác, trong khi tu tập, là chưa ngộ nhập được pháp trên hết. Như kinh nói: “Ở trong chúng này, người chưa làm xong công việc, thấy Phật diệt độ sẽ có nhiều cảm động, xót thương”.

2. Đối với đế vô tác, trong khi kiến đạo, mau chóng đạt được quyết định, chỉ rõ phần pháp tu tập không đồng. Pháp tối thượng càng thêm cách xa. Như kinh nói: “Nếu có người mới vào pháp, nghe Phật giảng nói tức đều được độ”. Lại còn dùng thí dụ để chỉ rõ nghĩa mau chóng quyết định khi kiến đạo, nên biết. Như kinh nói: “Ví như đi trong đêm tối, thấy làn chớp sáng lóe lên liền thấy đường đi”.

3. Ở trong đạo vô học và hành không dụng công là hai thứ trái nhau, nên đối với cảnh giới của pháp tối thượng còn có chút nghi ngờ. Lại có nghĩa khác: Là từ trong tự địa đều thấy Đức Phật diệt độ mau chóng. Như kinh nói: “Nếu là người đã hoàn thành công việc, đã vượt qua biển khổ, thì chỉ nghĩ như vầy: Sao Đức Thế Tôn nhập diệt mau chóng như vậy?”.

Tiếp theo: Là nói đến việc đoạn trừ các thứ nghi ngờ.

– Kinh nói:Tôn giả A-nậu-lâu-đà tuy nói trong đại chúng thảy đều thấu tỏ về nghĩa của bốn Thánh đế, nhưng Đức Thế Tôn muốn khiến cho đại chúng này đều được tâm tin kiên cố, nên đem tâm đại bi lại vì đại chúng nêu rõ: Tỳ-kheo các thầy chớ nên giữ lấy điều buồn sầu. Nếu Ta trụ nơi đời một kiếp thì hội ngộ cũng sẽ diệt. Hội ngộ mà không lìa là điều hoàn toàn không thể được. Pháp lợi mình và lợi người, Ta đều giảng nói đầy đủ. Nếu Ta trụ lâu hơn thì cũng không ích gì. Những người đáng được độ, hoặc trên cõi trời hay ở nhân gian thảy đều đã độ. Những người chưa được hóa độ đều cũng đã tạo nhân duyên để được hóa độ. Từ nay trở về sau, các đệ tử của Ta lần lượt hành trì như lời Ta dạy, tức là Pháp thân của Như Lai thường trụ không diệt”.

– Luận nêu: Ở đây, đoạn trừ nghi ngờ: Là đoạn trừ phần nghi hơn hẳn kia, ở trong tự địa trước đã thành tựu. Như kinh nói: “Tôn giả A-nậu-lâu-đà tuy nói trong đại chúng thảy đều thấu tỏ về nghĩa của bốn Thánh đế”.

Lại khiến thành tựu pháp hơn hết nên đối với chỗ chứng đắc rốt ráo là không thoái chuyển. Tâm bi ấy của Đức Như Lai là vô cùng tốt đẹp, đã không giữ lấy pháp tối thượng. Như kinh nói: “Nhưng Đức Thế Tôn muốn khiến cho đại chúng này đều được tâm tin kiên cố, nên đem tâm đại bi lại vì đại chúng nêu rõ”.

Nói như thế nào? Nói về công đức của hữu vi, tự tha cùng diệt.

Tự, tha là sự khác biệt giữa người nói và người nghe. Như kinh nói: “Tỳ-kheo các thầy chớ nên giữ lấy điều buồn sầu. Nếu Ta trụ nơi đời một kiếp thì hội ngộ cũng sẽ diệt. Hội ngộ mà không lìa là điều hoàn toàn không thể được”.

Lại nói về pháp môn thường trụ không diệt. Như kinh nói: “Pháp lợi mình và lợi người, Ta đều giảng nói đầy đủ”.

Lại nói về sự việc lợi tha đã trọn vẹn không còn hành tác. Như kinh nói: “Nếu Ta trụ lâu hơn thì cũng không ích gì”.

Lại nói các sự việc tự lợi trong toàn bộ đại chúng, cũng đã trọn vẹn không còn làm gì nữa. Như kinh nói: “Những người đáng được độ, hoặc trên cõi trời hay ở nhân gian, thảy đều đã độ”.

Lại nói về người chưa tu tập. Nương vào pháp môn không diệt có thể tạo nên nhân duyên để được hóa độ. Như kinh nói: “Những người chưa được hóa độ đều cũng đã tạo nhân duyên để được hóa độ”. Còn có nghĩa khác: Ở trong pháp tối thượng chưa được hóa độ thì dựa nơi pháp môn thường trụ cũng được độ.

Lại nói về công đức không hoại của trụ trì, trong đó có hai thứ: (1) Trụ trì trong phần nhân thường tu tập không hoại, tu tập không dứt. Như kinh nói: “Từ nay trở về sau, các đệ tử của Ta lần lượt hành trì như lời Ta dạy”. (2) Trụ trì trong phần quả thường hiển bày không hủy hoại. Như kinh nói: “Tức là Pháp thân của Như Lai thường trụ, không diệt”. Công đức không hoại của hai thứ trụ trì này là chỉ rõ pháp tối thượng có thể đoạn trừ nghi, nên biết.

Tiếp theo: Là nói lần nữa về tướng vô thường của công đức hữu vi.

– Kinh nói:Vì vậy nên biết thế gian đều là vô thường, hội hợp tất có chia lìa, chớ nên mang giữ điều sầu não. Tướng của thế gian là như thế. Nên siêng năng tinh tấn, sớm cầu giải thoát. Dùng ánh sáng của trí tuệ diệt trừ các thứ si ám. Thế gian thật sự là nguy khó, mong manh, không vững chắc. Nay Ta được diệt độ, như trừ bỏ bệnh ác. Đây là vật của tội lỗi nên từ bỏ, giả gọi là thân, luôn chìm nhập trong biển cả sinh, già, bệnh, chết. Người có trí nào được diệt trừ, như giết giặc oán mà không hoan hỷ”.

– Luận nêu: Ở đây vì sao đã nói lần nữa về tướng vô thường là công năng của hữu vi?

Tức chỉ rõ ở xứ này khuyên tu tập hành sinh chán lìa thế gian. Ở trong tướng hữu vi đạt được giải thoát. Như kinh nói: “Vì vậy nên biết thế gian đều là vô thường, hội hợp tất có chia lìa, chớ nên mang giữ điều sầu não. Tướng của thế gian là như thế. Nên siêng năng tinh tấn, sớm cầu giải thoát”.

Lại chỉ rõ việc thành tựu quán như thật về vô ngã, có thể diệt trừ cội rễ của chấp ngã và chấp ngã sở. Như kinh nói: “Dùng ánh sáng của trí tuệ diệt trừ các thứ si ám”. Vì các pháp như ấm v.v… đúng là không thật. Như kinh nói: “Thế gian thật sự là nguy khó, mong manh, không vững chắc”.

Lại nêu bày Đức Như Lai là bậc Đại sư vượt qua thế gian, vì đã xác nhận điều đáng lo sợ. Như kinh nói: “Nay Ta được diệt độ, như trừ bỏ bệnh ác”.

Lại nói điều dị biệt, là tướng của tai họa đáng chán lìa, chỉ trí tuệ mới có thể diệt trừ, chỉ rõ khuyên tu tập trí để đối trị dứt trừ đạt được pháp không đối hiện tiền. Như kinh nói: “Đây là vật của tội lỗi nên từ bỏ, giả gọi là thân, luôn chìm nhập trong biển cả sinh, già, bệnh, chết. Người có trí nào được diệt trừ, như giết giặc oán mà không hoan hỷ”.

Sau đây là nói đến phần 7: Vô ngã thanh tịnh, lìa các thứ tự tánh.-

– Kinh nói:Tỳ-kheo các thầy, thường nên nhất tâm, siêng cầu đạo xuất ly. Tất cả các pháp động và không động của thế gian đều là tướng suy hoại hư nát, không an. Các thầy nên im lặng, đừng nói lời nào nữa, thì giờ đang qua, Ta sắp diệt độ. Đây là lời dạy khuyên cuối cùng của Ta”.

– Luận nêu: Ở đây, các thứ tự tánh: Là ở trong pháp năm ấm đã tạo ra đủ thứ tai họa của kiến chấp, nên vọng tưởng về tự tánh là chướng ngại. Đối trị chướng này, như kinh nói: “Tỳ-kheo các thầy, thường nên nhất tâm”.

Lại do nhất tâm là tuệ như thật khó có thể đạt được. Như kinh nói: “Siêng cầu đạo xuất ly”.

Lại chỉ rõ, ngoại trừ tuệ như thật, thì các pháp tương đối hiện có đều là vô thường, chỉ rõ về các pháp như danh, tướng, nên biết. Như kinh nói: “Tất cả các pháp động và không động của thế gian đều là tướng suy hoại hư nát, không an”. Động, không động ở đây là sự sai biệt của tướng tĩnh, loạn nơi ba cõi.

Vô ngã thanh tịnh: Là chỉ rõ sự vắng lặng sâu diệu trong pháp tịch diệt. Như kinh nói: “Các thầy nên im lặng v.v…”.

Nên im lặng, đừng nói lời nào nữa: Là chỉ rõ khuyên ba nghiệp không động.

Sự tịch diệt này: Là pháp khí tương ưng với vô ngã.

Lời dạy khuyên cuối cùng: Là chính thức hiển bày về nghĩa Di giáo. Nghĩa Di giáo này ở trong pháp trụ trì là tối thắng, vì đấy là những lời Di giáo sau cùng.

HẾT