SỐ 1527
LUẬN NIẾT BÀN
Tác giả: Bồ tát Bà Tẩu Bàn Đậu
Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, Đại sư Đạt Ma Bồ Đề
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

Đảnh lễ biển Tịnh giác
Trụ trì môn cam lồ
Cũng lễ chẳng nghĩ bàn
Kho tự tánh thanh tịnh
Các môn Độ cứu đời
Đến thẳng Đạo thật đế
Cùng như học mà học
Như pháp chứng nghĩa thật
Thương chúng sinh mê lâu
Đem bi truyền thế gian.

1. Từ: Như thế, cho đến: Máu tuôn chảy khắp trên đất: Gọi là Phần Thị hiện lần nữa thần thông không thể nghĩ bàn.

2. Hai phẩm Thuần-đà than khóc: Gọi là Phần Thành tựu chủng tánh dứt trừ chấp trước.

3.Từ: Ba lần bảo cho biết, đến hết Phẩm Đại Chúng Thưa Hỏi: Gọi là Phần Nêu nghĩa thật của chánh pháp.

4. Năm hạnh, mười công đức: Gọi là Phần Phương tiện tu thành.

5. Phẩm Sư Tử Hống: Gọi là Phần Lìa các thứ phóng dật, đạt chứng nhập.

6. Phẩm Ca Diếp: Gọi là Phần Ánh sáng từ bi khéo léo trụ trì.

7. Phẩm Kiều Trần Như: Gọi là Phần Hiển bày tướng.

Thế nào là được sống lâu với thân kim cang không tan hoại? Bồ-tát Ca-diếp vì muốn cho chúng sinh đều cùng được nghe, nên hỏi.

Đại ý câu đáp: Vì Ta tu tập ba nghiệp nên được sống lâu.

Thế nào là thân kim cang không tan hoại?

Hỏi: Tất cả chúng sinh đều tan hoại, vì sao được không hoại?

Đáp: Như chỗ tu hành ở trước nên được không hoại.

Hỏi: Thế nào là diệu lực kiên cố?

Đáp: Vì tâm không phân biệt nên được kiên cố. Vì không đến không đi nên sống lâu. Vì không thể nêu bày nên không hư hoại. Vì không lưu động nên kiên cố.

Hỏi: Thế nào là được sống lâu?

Đáp: Vì thân kim cang không hoại nên được sống lâu.

Hỏi: Thế nào là không hư hoại?

Đáp: Vì được diệu lực kiên cố nên không hư hoại.

Bồ-tát Ca-diếp vì chúng sinh nên không phải chỉ hỏi một lần mà có thể đáp rõ. Vì pháp tướng không cùng tận nên hỏi: Nguyện Phật mở bày chỗ bí mật vi diệu rộng lớn, vì chúng sinh nên thuyết giảng.

Hỏi: Thế nào là bí mật vi diệu?

Đáp: Ngoài thân có Phật cũng không mật. Trong thân có Phật cũng không phải là mật. Chẳng phải có, chẳng phải không, cũng không phải là mật. Chúng sinh là Phật, nên là bí mật vi diệu.

Hỏi: Thế nào là chúng sinh là Phật?

Đáp: Do chúng sinh không phải là có, không phải là không, không phải là phi hữu, không phải là phi vô, thế nên chúng sinh là Phật.

Hỏi: Thế nào là được rộng lớn?

Đáp: Vì làm chỗ nương dựa cho chúng sinh.

Hỏi: Vì sao gọi là rộng lớn?

Đáp: Vì không có tướng nhận biết nên không gì không là Phật.

Không có hạnh nào là không thanh tịnh, không công đức nào là không viên mãn, nên nói là làm chỗ nương dựa cho chúng sinh.

Nhận thấy Đức Thích-ca nương dựa, không gọi là nương dựa, tức giải nghĩa theo Tiểu thừa. Vì tâm từ nên khiến chúng sinh nương dựa.

Thật sự không phải là A-la-hán. Như cùng với A-la-hán bình đẳng là xưa bảo từ cung vua sinh ra được A-la-hán. Nay nói Vương cung không phải là sinh, Song lâm không phải là diệt, thế nào không phải là La-hán, như cùng La-hán bình đẳng?

Bồ-tát Ca-diếp chưa nhờ Phật chỉ dạy, không hỏi về bốn thứ nương dựa, chỉ hỏi Như Lai: Nếu Vương cung không phải là sinh, Song lâm không phải là diệt, tự nhiên được giới, không do bốn quả, thật sự không phải là A-la-hán, làm sao Đức Như Lai lại đồng với A-la-hán?

Giải thích: Nếu Như Lai thật là A-la-hán, thì bốn thứ nương dựa có thể đồng với A-la-hán. Nhưng thật ra Đức Phật không phải là A-la-hán, nên đâu được nói như cùng với A-la-hán bằng nhau.

Thân Thích-ca có 2 danh hiệu:

  1. Danh hiệu là Ứng Lai.
  2. Danh hiệu là Bồ-tát thật hành.

Nói Ứng: Là từ thế giới Liên Hoa Tạng, là Phật Đại Trang nghiêm, làm Thái tử, ứng hiện sinh ở cung vua và nhập diệt tại Song lâm. Đây là pháp diệu dụng của Bồ-tát. Phật chân thật thứ nhất là không từ đâu đến thì làm sao lại đồng với A-la-hán?

Phật có 2 thứ danh hiệu:

1. Chân Phật hóa đồng với A-la-hán của Thanh văn. Nhưng Phật thật sự không phải là Thanh văn thì làm sao lại đồng với bốn Thanh văn?

Giải thích: Như trước đây là thật có A-la-hán, có thể nói Ta cùng với A-la-hán đồng. Nhưng trước không từng có La-hán mà nói La-hán, đó là thân Ta tự tạo ra, làm sao lại đồng với La-hán được?

Lại giải thích: Thân Thích-ca gọi là A-la-hán, thuộc Bồ-tát tánh địa, làm sao đồng với La-hán?

Nói Bồ-tát thật hành: Ứng Lai cũng có thể hóa làm Phật. Thíchca thật là A-la-hán, nên có thể nói là đồng. Thích-ca không từng là A-la-hán, làm sao là đồng? Thế nên chỉ có Bồ-tát tánh địa mới là A-la-hán. A-la-hán, Bồ-tát này thật sự không phải là Phật, làm sao La-hán lại đồng với Phật – Thích-ca, thật sự là A-la-hán, có thể nói là đồng. Thích-ca không từng là La-hán, làm sao lại đồng. Thế nên, chính Bồ-tát thật hành là A-la-hán. Do đó nên sinh ở cung vua, thị tịch tại Song lâm, đều là diệu dụng của Bồ-tát ứng hiện tạo thành. Vì trước thật sự không có A-la-hán, do Ta hóa hiện nên chúng sinh có được A-la-hán. Thế nên Ta tạo ra A-la-hán.

2. Hóa thân của Bồ-tát ở thế giới Liên Hoa Tạng cùng với ta không khác. Thế nên thật sự không phải là A-la-hán, như cùng với A-la-hán đồng. Nếu ta thật sự là A-la-hán, thì Bồ-tát có thể cùng đồng với ta, rồi chấp ta là A-la-hán, thì đây không phải là pháp tướng hóa thông của Bồ-tát, đều là do sự hiểu biết không thật.

Bốn nương dựa: Địa Hoan Hỷ là nương dựa thứ nhất, sáu Địa là nương dựa thứ hai, tám Địa là nương dựa thứ ba, Địa Pháp Vân là nương dựa thứ tư.

Hóa Thanh văn, Thanh văn là giả lập, đoạn diệt, không từng là A-la-hán thì làm sao đồng với A-la-hán? Bồ-tát gọi là pháp Phật, cũng gọi là duyên Phật.

Hỏi: Thế nào là pháp Phật?

Đáp: Từ trong pháp sinh hành pháp, vì được trông thấy nên gọi là pháp Phật.

Hỏi: Thế nào là duyên Phật?

Đáp: Vì có duyên nên trông thấy, gọi là duyên Phật.

Hỏi: Theo ý của Bồ-tát Ca-diếp, nếu tự hiểu thì không cần phải hỏi như thế. Nếu không từng nghe, không từng thấy, làm sao lại hỏi như thế?

Đáp: Bồ-tát Ca-diếp là mười hai Đồng tử, vì đã được Đức Như Lai dùng oai thần, diệu lực để gia hộ, giáo hóa nên có thể hỏi. Bồ-tát Ca-diếp đã hỏi, chính là Niết-bàn, ngoài ra không có gì khác.

Làm thế nào nhận biết được Thiên ma gây trở ngại cho nhiều người? Để giải đáp câu hỏi này, Bồ-tát Ca-diếp chính thức hỏi về thân Như Lai, không hỏi về vị lai do đâu nhận biết được. Do thân chúng sinh tự không tin tưởng, làm sao có ma từ bên ngoài đến để gây trở ngại? Nay Đức Như Lai vừa thành Phật nơi cội cây Bồ-đề và chánh pháp sắp hưng thịnh, đám Ma vương lo sợ mất hết đồ chúng nên gây trở ngại.

Thế nào là các tâm điều ngự, hoan hỷ giảng nói chân đế?

Thế nào gọi là Điều ngự? Vì phàm phu chúng sinh không nhận biết, nghe nói Đại thừa là Đại thừa, nghe nói Tiểu thừa là Tiểu thừa, nghe nói khổ là khổ, nghe nói an vui là an vui, không suy nghĩ gì thêm.

Do đâu gọi là Điều ngự? Không phải khổ nói là khổ, không phải vui nói là vui, không phải thường nói là thường. Ngày trước nói Tiểu thừa nay nói Đại thừa, cũng không gọi là tâm hoan hỷ khi nói chân đế, nên không gọi là điều ngự. Nay nói vô thường không phải là vô thường, khổ vui không phải là khổ vui, không đến, không đi, đó là nói chân đế.

Chính thức khéo thành tựu đầy đủ để diễn nói bốn thứ điên đảo.

Chính thức khéo thành tựu đầy đủ, là Bồ-tát hành bốn tâm vô lượng và mười Ba-la-mật, không pháp nào là không bình đẳng. Đó gọi là điều thiện đúng đắn trong tướng. Bồ-tát hành trì không gì là không chánh thiện.

Thanh văn vì còn phân biệt có kia, đây, nên không gọi là chánh thiện. Còn Bồ-tát vì không còn phân biệt kia, đây, nên gọi là chánh thiện.

Chánh thiện thứ hai là xưa kia, giáo huấn không chính thức, Thanh văn không thành tựu đầy đủ, còn ngày nay, diệu lý của Niếtbàn là chân chánh.

Không đến, không đi, không sinh, không diệt, gọi là thành tựu đầy đủ chánh thiện.

Thứ hai, từ Địa Hoan hỷ lên đến Địa Pháp vân gọi là thành tựu đầy đủ.

Diễn nói bốn thứ điên đảo: Người Thanh văn nói: “Ngã là thường, lạc, ngã, tịnh”. Phật nói: “Khổ, không, vô thường là điên đảo”. Khổ, không, vô thường của Thanh văn và thường, lạc, ngã, tịnh của Phật cũng là điên đảo. Thường, lạc, ngã, tịnh của Phật và khổ, không, vô thường của chúng sinh cũng là điên đảo.

Vì sao Như Lai nói bốn thứ điên đảo? Là Phật giảng nói cho Thanh văn. Chính khi nói bốn thứ điên đảo là không điên đảo, lại không có pháp ngoài là điên đảo, không điên đảo. Đó gọi là tâm vui mừng khi giảng nói chân đế. Kinh nói: “Giảng nói pháp chẳng có, cũng chẳng không, đó gọi là chân đế”.

Thế nào là các Bồ-tát có thể thấy tánh khó thấy?

Bồ-tát Ca-diếp hỏi có 2 thứ ý:

  1. Muốn khiến cho tất cả chúng sinh đều nhận biết mình có Phật tánh.
  2. Không muốn khiến nhận thấy Phật tánh.

Vì sao không muốn khiến chúng sinh thấy biết? Vì muốn khiến Đức Như Lai giải thích sâu về Phật tánh.

Do đâu gọi là sâu? Vì Phật tánh không phải là thứ có thể làm, có thể tạo, có thể tu tập, có thể chứng đắc, nên gọi là sâu.

Thanh văn vì nhỏ hẹp, không rốt ráo, nên không thể nhận thấy. Bồ-tát hành từ bi, cứu độ rộng khắp, không cầu thấy, chỉ vì chúng sinh. Chúng sinh bị ràng buộc, nên gọi là khó thấy.

Cách giải thích thứ hai: Phật tánh không phải là pháp có thể thấy, không phải là chủ thể và đối tượng của thấy, biết, tu, nên gọi là có thể thấy tánh khó thấy.

Hỏi: Thế nào là hiểu nghĩa của Mãn tự, Bán tự?

Đáp: Bán tự là Tiệm giáo. Mãn tự là Niết-bàn, vì giáo hóa đầy đủ nên gọi là Mãn tự. Gồm thâu hết công đức nơi quả của Phật giáo hóa, gọi là Mãn tự. Vì giáo pháp của Thanh văn, Duyên giác không đầy đủ, nên gọi là Bán tự. Niết-bàn gọi là Đốn, cũng gọi là Tiệm.

Nay luận về hai đế của Niết-bàn là đủ trong tương đối. Dựa theo hành có đủ và không đủ, nên gọi là Tiệm giáo. Nhưng căn cứ theo lý thì không có viên mãn hay không viên mãn, thế nên, Niết-bàn gọi là Tiệm giáo. So sánh với Bán tự, Niết-bàn là Đốn giáo.

Lại nữa, thứ hai, nói Mãn, Bán là do vọng tưởng của chúng sinh. Về lý thì không phải là đủ hay không đủ, thế nên nói Niết-bàn là Tiệm giáo.

Thế nào là các Bồ-tát có thể thấy tánh khó thấy, hoặc là chỉ thấy pháp?

Lại nói: Thế nào là hiểu về nghĩa của Mãn tự và Bán tụ? Nay lại không thấy và chẳng thấy.

Thế nào là cùng hành với Thánh? Như chim Sa-la-sa, Như Lai khi còn ở cung vua, lấy vợ có con, hoặc khi xuất gia thì đồng với Thanh văn. Ví như chim Sa-la-sa cùng chung một đàn không thể phân biệt. Bậc Thánh là Như Lai cùng với tất cả chúng sinh đồng tu, đồng hành, nên nói thế nào là cùng hành với bậc Thánh, như chim Sa-la-sa.

Cách giải thích thứ hai: Sắc là Thánh nhân. Sắc, tâm của Thanh văn là Thánh nhân. Thánh nhân của Bồ-tát không phải là tâm, sắc. Nói có tâm sắc, nên đó không phải là Thánh nhân. Hình sắc của Thánh nhân nơi Thanh văn là chung. Thánh nhân của Bồtát không có tâm thức xanh, vàng, đỏ, trắng. Về lý cùng có tâm thức nơi phàm phu. Thánh nhân không có tâm thức, nên nói là Thánh nhân.

Nói chim Sa-la-sa là tên gọi chung. Ví như Đức Như Lai cùng chung với tất cả chúng sinh, không thể phân biệt.

Ca-lân-đề là ví như Niết-bàn khác với tất cả chúng sinh, là trở lại loại bỏ ý của Thanh văn. Bồ-tát nhận biết: Như Lai cùng với tất cả chúng sinh không sai biệt, nên gọi là chung.

Giải thích có tướng lìa bỏ. Như Lai chưa xuất thế thì có phàm, có Thánh lìa cùng lìa bỏ. Sau khi Như Lai xuất thế, thì tất cả chúng sinh không cùng lìa nhau, đó là theo ý của Thanh văn.

Bồ-tát không cùng lìa bỏ. Đức Như Lai không ra đời, không cùng lìa bỏ. Khi Đức Như Lai xuất thế cũng không lìa nhau. Kiến giải về Thế đế, không có khổ, không, vô thường. Đệ nhất nghĩa đế thì không có thường, lạc, ngã, tịnh.

Có người nói: Không có Thế đế, có thường, lạc, ngã, tịnh là kiến giải nông cạn về nghĩa lý.

Lại có người nói: Có là Thế đế. Không là Đệ nhất nghĩa đế. Cũng có, cũng không là Thế đế. Không phải có, không phải không là Đệ nhất nghĩa đế. Không phải có, không phải không, lại không có pháp nào nữa nên gọi là hành cùng với Thánh.

Ca-lân-đề, mặt trời, mặt trăng, sao Thái bạch, cùng sao Tuế.

Thế nào gọi là mặt trời, mặt trăng? Mặt trời, mặt trăng ở đây là dụ cho phàm phu trông thấy mặt trời, mặt trăng có mọc, lặn, nhưng Thánh nhân thì không từng thấy có mọc, lặn.

Thứ hai là người Thanh văn trông thấy có Phật sinh ở cung vua và nhập diệt tại Song lâm. Bồ-tát không từng thấy Như Lai sinh ở cung vua và nhập Niết-bàn ở Song lâm.

Thứ ba vì mặt trời, mặt trăng lặn, nên sao Tuế, Thái bạch mọc, người đời cho là điều lạ. Đức Như Lai nhập Niết-bàn, Thanh văn, Duyên giác xuất hiện. Vì pháp cùng với Như Lai khác, nên nói là sao mọc.

Chúng sinh vọng thấy có mặt trời, mặt trăng, sao Tuế có mọc, lặn, nhưng thật ra không có mọc, lặn, chúng sinh thấy Như Lai có sinh diệt, nhưng Như Lai thật sự không sinh, không diệt.

Thế nào là chưa phát tâm mà gọi là Bồ-tát? Thanh văn có phát tâm, không phát tâm. Duyên giác cũng có phát tâm, không phát tâm. Bồ-tát cũng có phát tâm, không phát tâm. Ba thứ này Bồ-tát gọi là phát tâm.

Thế nào là phát tâm? Quả vị khác có thể đạt được gọi là phát tâm.

Đức Như Lai từ đầu đã giáo hóa chúng sinh có phát tâm và không phát tâm. Như xưa kia, giáo hóa có phát tâm không gọi là phát tâm.

Vì sao không gọi là phát tâm? Vì thấy có sự sai biệt có thể mong cầu, có thể đạt được khác với Đức Phật, nên không gọi là phát tâm.

Thế nào gọi là phát? Nay nói về lý của Niết-bàn vô tướng huân tập, nên khiến tất cả đều phát tâm, gọi là phát tâm, không có Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, có phát tâm, không phát tâm.

Nói chưa phát tâm mà gọi là Bồ-tát, vì Niết-bàn bình đẳng soi sáng hết thảy, nên tất cả những ai chưa phát tâm đều được gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Ca-diếp do đâu lại hỏi: Thế nào là chưa phát tâm mà gọi là Bồ-tát?

Người phát tâm được trông thấy mặt trời, mặt trăng. Người không phát tâm không nhìn thấy mặt trời, mặt trăng.

Phát tâm thứ hai là thấy thường trụ, người không phát tâm thì không thấy.

Trước đây, Đức Như Lai ra đời, có phát tâm, không phát tâm. Người phát tâm thì thấy Như Lai, người không phát tâm thì không thấy.

Hiện nay, Niết-bàn bình đẳng soi sáng nên phát tâm cũng là phát tâm, cũng là không phát tâm.

Thế nào là đối với đại chúng được pháp không sợ hãi? Bồ-tát xuất hiện ở thế gian với tâm từ bi bình đẳng, vì không làm hoại tướng chúng sinh, nên nói là không sợ hãi. Bồ-tát không sợ hãi, chúng sinh cũng không sợ hãi.

Thế nào là chúng sinh không sợ hãi? Vì Bồ-tát xuất hiện nơi thế gian, không hủy hoại tướng chúng sinh, thế nên chúng sinh cũng không sợ hãi. Như Lai xuất hiện ở đời, do bốn tâm vô lượng: từ, bi, hỷ, xả luôn bình đẳng, không có khác biệt, nên không có thiên ma, ngoại đạo, cho đến Nhất-xiển-đề. Như tưởng nghĩ về đứa con duy nhất, nên không sợ hãi.

Vì sao chúng sinh không sợ hãi? Vì tất cả chúng sinh xem Như Lai như cha mẹ, nên không sợ hãi.

Do đâu gọi là Xiển-đề? Là không biết Phật, không biết đạo trong, ngoài, gọi là Nhất-xiển-đề.

Hỏi: Nhất-xiển-đề không nhận biết trong, ngoài, so với Bồ-tát có gì khác?

Đáp: Nói Bồ-tát không nhận biết trong ngoài, là không giết hại chúng sinh, còn Nhất-xiển-đề vì không nhận biết nên hành sát sinh. Cũng như vàng Diêm-phù không thể nói là có tỳ vết. Nên hiểu đây là nghĩa của chúng hòa hợp.

Vàng Diêm-phù-đàn có bốn loại: xanh, vàng, đỏ, vàng ròng. Xanh là dụ cho ngoại đạo. Vàng là dụ cho chúng Thanh văn, Duyên giác. Đỏ là dụ cho Bồ-tát của sáu Ba-la-mật. Vàng ròng là dụ cho Đức Như Lai.

Vàng Diêm-phù cũng có bốn thứ sắc: xanh, vàng, đỏ, trắng.

Thứ hai là những vật đẹp trong thế gian tuy rất đoan nghiêm, nhưng vẫn còn có khiếm khuyết. Vàng Diêm-phù không như các vật ấy, vì không thể nói về tỳ vết của nó, dụ cho Đức Như Lai chứng đắc Niết-bàn, cũng có đủ các thứ ngoại đạo, Thanh văn, Bồ-tát hành sáu Ba-la-mật. Cũng như vàng Diêm-phù, không thể nói về tỳ vết của nó. Vàng Tử-ma có đủ màu sắc, dụ cho Niết-bàn có đủ Thiên ma, ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát hành sáu Ba-la-mật. Vì sao như thế? Vì ngoài Niết-bàn này lại không còn pháp nào khác. Vàng Tửma có đầy đủ tất cả.

Các màu sắc không thể nói. Vì Thanh văn, Duyên giác, sáu Bala-mật, và đủ các thứ ngoại đạo nên không thể nói. Lý của Niết-bàn, không phải là pháp xanh, vàng, đỏ, trắng, cũng là xanh, vàng, đỏ, trắng, nên không thể nói.

Nếu có các màu xanh, vàng, đỏ, trắng có thể nói về tỳ vết của chúng, nhưng vì các màu xanh, vàng, đỏ, trắng này không từng có, nên không thể nói.

Thế nào là sống trong cuộc đời ô trược mà không bị cấu nhiễm như hoa sen? Đời ô trược: Là đầy năm thứ ô trược. Đó là kiếp ô trược, phiền não ô trược v.v……

Đức Thích-ca đã xuất hiện nơi cõi đời năm trược. Sinh ở cung vua, có vợ con, tất cả tài sản, vật dụng, vàng bạc, châu báu đều gọi là ô trược, nhưng Như Lai không bị nhiễm, nên gọi là sống trong đời ô trược mà không bị cấu nhiễm như hoa sen.

Pháp của Thừa thứ hai, thứ ba, gọi là vẩn đục. Nay vì Niết-bàn không bị nhiễm nơi ba Thừa, nên gọi là không cấu uế.

Thế nào là ở trong phiền não, phiền não không thể cấu nhiễm? Như thầy thuốc trị liệu các chứng bệnh, không bị bệnh lây nhiễm. Dựa vào Đức Như Lai, Bồ-tát Ca-diếp ý hỏi về chín mươi tám thứ sử của phiền não trong ba cõi, Đức Như Lai xuất hiện ở thế gian, nhưng không bị cấu nhiễm. Tất cả chúng sinh bị cấu nhiễm do chín mươi tám thứ sử của phiền não trong ba cõi.

Thứ hai, Thanh văn, Duyên giác, sáu Ba-la-mật, vì còn chấp có phiền não có thể đoạn trừ và quả vị Phật có thể chứng đắc, thế nên còn bị phiềm não cấu nhiễm. Bồ-tát mười địa hành đại trí thông đạt nên không bị phiền não cấu nhiễm. Thứ tư là Đại Bồ-tát mong cầu quả, nên cũng bị phiền não làm nhiễm ô. Hôm nay Niết-bàn không phải là do nhân quả đạt được, thế nên không bị nhiễm ô.

Thứ năm giáo pháp của bốn đế, cho đến Bát-nhã Ba-la-mật, Pháp hoa, cũng gọi là phiền não khởi nhiễm ô. Nay, với lý Niết-bàn này, không lưu động, không được mất, không khởi diệt, do đó không bị nhiễm ô, như thầy thuốc chữa trị các chứng bệnh, nhưng không bị bệnh gây nhiễm.

Đức Như Lai xuất hiện ở đời, bắt đầu từ ba pháp quy y, năm giới, cho đến giới Bồ-tát, nơi thời gian hành hóa ngắn ngủi đó, dùng Tiệm giáo chữa trị mọi căn bệnh cho chúng sinh, nhận biết phiền não nên không bị bệnh gây nhiễm ô. Chúng sinh không nhận biết phiền não, nên luôn bị chúng gây bệnh nhiễm.

Thứ hai là giáo hóa theo trình tự, cũng gọi là trị bệnh của chúng sinh. Thứ ba gọi là lực giáo hóa nơi thần thông biến hóa của thân, tất cả đều được hàng phục, cũng gọi trị bệnh của chúng sinh. Thứ tư, hiện nay nói Niết-bàn là nhằm chữa các trở ngại của Biệt giáo nêu trước, cũng gọi là trị liệu mọi chứng bệnh.

Thế nào gọi là trở ngại? Tất cả chúng sinh chưa phát tâm, gọi là trở ngại. Thấy thân Phật một trượng sáu khiến phát tâm, lại hiểu chẳng phải là trượng sáu khiến phát tâm. Nhưng Niết-bàn bình đẳng soi sáng, khiến phát tâm, nên gọi là trị liệu mọi chứng bệnh.

Trong biển lớn sinh tử, thế nào là làm Thuyền sư? Ba cõi gọi là sinh tử. Đức Như Lai xuất hiện ở đời cũng gọi là sinh tử.

Do đâu gọi là sinh tử? Pháp của Như Lai có thể cứu độ chúng sinh. Vì khiến không còn sinh tử nên gọi là làm Thuyền sư trong biển lớn sinh tử.

Thứ hai, nói thân trượng sáu, là nói pháp thứ lớp, cho đến Pháp hoa, cũng gọi là pháp sinh tử.

Hôm nay, nói Niết-bàn không đến, không đi, không sinh, không diệt, mà trước vẫn là giáo pháp vượt khỏi sinh tử, nên gọi là Thuyền sư.

Đầu tiên là giải thích thân trượng sáu không sinh tử và chỉ bày không sinh diệt.

Thứ hai, thân trượng sáu cùng chỉ dạy cũng sinh tử, và Niết-bàn không sinh diệt.

Thứ ba, Đức Phật đã diệt độ, ai có thể độ thoát sinh tử? Chỉ có Đại Bồ-tát mới có thể làm được.

Thứ tư, Bồ-tát cũng không thể độ thoát. Diệu lý của Đại

Niết-bàn mới có thể độ thoát sinh tử, dụ cho Thuyền sư nơi thế gian khéo hiểu rõ về phương tiện nên có thể nhận biết chỗ khó khăn của biển. Cũng vậy, đối với biển cả phiền não trong ba cõi, thì thuyền là những phương tiện của Như Lai. Pháp ba Thừa do Như Lai giảng nói là Thuyền sư. Thuyền sư của thế gian chỉ bảo cho chúng sinh về nhân quả leo lên thuyền. Như Lai với phương tiện giảng nói pháp ba Thừa, giảng nói về nhân quả, nói ra khỏi ba cõi vì ba cõi vẫn là sinh tử, thế nên vượt qua ba cõi phải dùng thuyền.

Thứ nhất, giáo hóa theo thứ lớp là do sinh tử nên cứu độ chúng sinh, tức gọi là Thuyền sư. Kinh Pháp Hoa dùng muôn hạnh làm thuyền. Nay Niết-bàn lấy không sinh tử làm thuyền.

Do đâu phải chỉ rõ bệnh gây nhiễm ô? Là vì còn ở trong biển lớn sinh tử. Làm Thuyền sư như thế nào? Trước là trừ bỏ hết các phiền não.

Lại, trong biển lớn phiền não làm Thuyền sư là phải đưa chúng sinh đến bờ bên kia.

Xả bỏ sinh tử như thế nào? Như rắn lột bỏ da cũ. Bồ-tát Ca-diếp hỏi: Như Lai đã ra khỏi sinh tử của thế gian, nay nói nhập nẻo Niếtbàn, ta không còn sinh tử nữa, như rắn đã lột bỏ da cũ, không sinh diệt. Theo thứ lớp đã nói về thân Phật một trượng sáu là pháp sinh tử. Nay nói Niết-bàn không diệt. Nếu đem giáo pháp theo thứ lớp ở trước so với giáo pháp này thì không hợp lý, vì như rắn lột bỏ da cũ, là không lợi ích, không công đức. Nay, Niết-bàn không sinh, không diệt, cũng không mở bày được giáo pháp.

Thứ hai, tất cả chúng sinh, cho đến có lời nói, không có lời nói, hoặc có hình thể, chủng loại đều chỉ có tên gọi suông, trống không, chỉ Niết-bàn là đạo lý chân thật.

Quán Tam bảo như thế nào? Cũng như cây Thiên ý, Tam bảo gọi là phép tắc.

Đức Như Lai xuất hiện ở đời chỉ rõ có Tam bảo, do có Tam bảo mới có lãnh nhận thọ ba quy y và năm giới, có người mau chóng được đạo, có người tùy ý tu tập, tùy ý chứng đắc.

Đức Như Lai cũng gọi là như ý, Tam bảo cũng gọi là Như Lai như ý, chúng sinh như ý.

Thế nào là chúng sinh như ý? Chúng sinh tùy ý thọ nhận pháp ba quy y và năm giới, cho đến giới Bồ-tát đều được quả báo, nên gọi là chúng sinh như ý.

Như Lai như ý: Nghĩa là tùy thuận ở căn cơ, cảm nhận của chúng sinh nên gọi là như ý.

Nay nói Niết-bàn như ý: Vì tất cả sự khổ, vui, thiện, ác, không gì là không đạo lý, nên gọi là như ý. Do đấy nói quán Tam bảo cũng như cây Thiên ý.

Dụ như trời Tha-hóa-tự-tại có một cây, có thể thuận theo ý của chư Thiên đều đạt được, nên gọi là cây Như ý. Vì chư Thiên đã hành hóa từ lâu nên chiêu cảm được cây này.

Tam bảo cũng như vậy. Vì chúng sinh tu hành trong thời gian lâu dài sẽ chiêu cảm được tướng thân trượng sáu, nên gọi Tam bảo cũng như cây Thiên ý.

Nếu ba Thừa là vô tánh, làm sao có thể giảng nói về ba Thừa? Không phải Đức Như Lai giảng nói có một pháp, mà giảng nói ba Thừa là thuận theo căn cơ của chúng sinh. Như Lai chỉ nói một thứ tiếng, tùy từng chủng loại mà hiểu. Như Lai giảng nói pháp ba Thừa không gọi là thuyết giảng, tùy theo căn cơ của chúng sinh nên có nhỏ, có lớn. Tuy nói có ba Thừa, nhưng đấy không phải là bản ý của Như Lai.

Thế nào là bản ý của Như Lai? Đó chính là Niết-bàn (Giải thoát).

Ý của Bồ-tát Ca-diếp hỏi Như Lai: Nếu ba Thừa là vô tánh thì vì sao lại được nói đến? Đức Như Lai đáp: Tất cả chư Phật đều không vì chúng sinh để giảng nói pháp ba Thừa. Nay, tướng chân thật của Niết-bàn là nhỏ không phải là nhỏ, và lớn không phải là lớn. Nên biết giáo lý của ba Thừa chỉ là một tướng, không có lớn, nhỏ.

Thứ ba là nói xứ lý của Niết-bàn, không nói lớn, không nói nhỏ. Do trí của chúng sinh có khác nhau, nên giáo pháp có sai biệt, nhưng về lý thì không có sự khác biệt về lớn, nhỏ để được nói là lớn, nhỏ.

Vừa nói về sự khác nhau, đó chính là không khác nhau, lại không có pháp ngoài nào khác.

Cũng như niềm vui chưa sinh thì sao gọi là thọ nhận vui? Bồtát Ca-diếp hỏi: Vì chúng sinh không nhận biết vui, sao lại nói là thọ nhận vui. Phàm phu có khổ, không vui, Bồ-tát có vui, không khổ.

Vì sao có vui? Vì Bồ-tát với trí thông đạt đến quả, nên nhận biết vui. Chúng sinh vì không có trí nhận biết nên khổ. Bồ-tát thì nhận biết về quả.

Nói Bồ-tát vui không là vui, chúng sinh khổ không là khổ, vì đó đều là hư vọng. Niết-bàn không khổ, không vui, gọi là nguồn an lạc lớn.

An lạc ấy chưa sinh, vì sao gọi là thọ lạc?

Hỏi: Đức Như Lai giảng nói pháp nơi rừng Sa-la, vì sao không thuần nhất? Giữ giới được phước, giữ giới không được phước, giới nơi ngoại đạo không phải là giới của Phật. Ý của Phật giải đáp là trước đây giáo pháp xen lẫn vẫn là Niết-bàn, không có Niết-bàn của ngoại đạo.

Thế nào là các Bồ-tát đạt được những thứ không hoại?

1. Vì Bồ-tát đã hiểu rõ về Thanh văn, Duyên giác, sáu Ba-lamật, cho đến ngoại đạo, có đây kia, có chứng đắc, nên gọi là những thứ hoại.

2. Bồ-tát hành trì theo giáo pháp thâm mật, nên nhận biết căn tánh của chúng sinh, không hoại tướng của chúng sinh, nên gọi là hoại. Nơi chốn không thể hoại của Bồ-tát là có thể hoại. Không thể hoại, không phải là Bồ-tát. Có thể tạo ra pháp như thế không trái với pháp tướng, nên gọi là những thứ không hoại.

3. Bồ-tát nhận biết Niết-bàn không có màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, không có kia đây, nên gọi là những thứ không hoại.

4. Không hoại, là lý của Niết-bàn tức không phải đắc, không phải chứng, không phải tạo, không phải làm, nên được những thứ không hoại.

5. Chân lý không hoại chúng sinh, chúng sinh cũng không hoại lý. Vì sao? Vì chúng sinh là lý, vì ngoài lý, không có chúng sinh nào, nên là những thứ không hoại.

Thế nào là mù bẩm sinh mà tạo ra đôi mắt dẫn đường? Bồ-tát Ca-diếp hỏi: Thế nào là tạo ra đôi mắt dẫn đường? Một cách giải thích trước theo giáo pháp của Thanh văn, Duyên giác, sáu Ba-la-mật thì tùy theo tướng được giảng giải, nên gọi là mù bẩm sinh.

Đức Như Lai đã giải thích về Thanh văn, Duyên giác, sáu Bala-mật, nếu từng có chỗ thủ đắc thì không thể mở bày, vì pháp này đã từng có nên mở bày. Ví như người mù không nhận biết được các màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Hoặc có người bảo nên chuyển đổi sự mê lầm về sắc xanh, vàng, đỏ, trắng. Hay có kẻ nêu giải với người mù: Không có màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng. Đây gọi là nêu bày thí dụ.

Đối với người ba Thừa, nêu rõ có nhân, có quả sai biệt, có chứng đắc, không chứng đắc.

Nay nói Niết-bàn, hoặc có người nói nên chuyển đổi sự mê lầm về có dài, có ngắn, có chứng, không chứng. Hoặc nói Niết-bàn không có các màu xanh, vàng, đỏ, trắng, vì Niết-bàn không đắc, không chứng, không dài, không ngắn. Đó gọi là mở bày về nhân. Còn về thân một trượng sáu, do tu đạo, giữ giới, bố thí, không phải là nhân, do Phật tánh không chứng đắc, không tu tập. Đó gọi là nhân.

Tất cả chúng sinh xem người ba Thừa cho là pháp. Người ba Thừa gọi là mù về màu sắc. Không phải chỉ có người của ba Thừa, tất cả chúng sinh cũng là những người mù về màu sắc.

Pháp không phải có thể thấy, không thể thấy, có thể mở bày, không thể mở bày, có thể đạt đến, không thể đạt đến. Do giáo pháp nên nói là mù về màu sắc. Lý thì không nói như thế. Vậy nên nói là mù về màu sắc, không mù về màu sắc, đều không trái với pháp tướng.

Nếu có hai thứ ấy, có thể nói không từng có, không từng không, vì sao lại nói là có, không có, không phải không có, không mở bày, chẳng mở bày, vì đều không trái, nên nói là mở bày.

Thế nào là thị hiện có nhiều đầu? Ngưỡng mong Đại tiên nói. Ý của Bồ-tát Ca-diếp hỏi, trong lần giáo hóa đầu tiên, Như Lai nói có những chúng sinh có nhiều đầu. Nay vì sao Kinh Niết Bàn này chỉ nói có một, không có hai?

Đức Như Lai đáp: Không phải Ta có nhiều đầu, chúng sinh từ thuở xa xưa hành tác có nhiều căn, thế nên nói có nhiều đầu, tức chỉ rõ nhiều đầu.

Thứ hai, pháp nhiều. Vì sao gọi là nhiều? Vì với pháp tướng như vậy, nên chỉ rõ có nhiều đầu.

Thứ ba, nguyên do nói nhiều. Pháp này nếu có, có thể gọi là nói nhiều, nhưng vì pháp này không từng có, vì thế không nói là nhiều.

Thứ tư, tướng của lý Niết-bàn là như thế, không phải là nhiều, không nhiều.

Thứ năm, gốc ngọn của chân lý không phải là pháp có, không, thế nên nói hay không nói đều không có trở ngại.

HẾT