LUẬN TAM PHÁP ĐỘ
Tác giả: Tôn giả Sơn Hiền
Hán dịch: Đời Đông Tấn, Đại sư Cù Đàm Tăng Già Đề Bà
Việt dịch: Nguyên Huệ

 

QUYỂN HẠ

Phẩm 3: NƯƠNG DỰA

Hỏi: Đã nói về Đức cùng Ác. Thế nào là Nương dựa?

Đáp: Nương dựa là Ấm, Giới, Nhập. Ấm, giới, nhập, ba thứ nầy là nương dựa. Có thể nương dựa nên nói là nương dựa.

Có thể nương dựa: Là nghĩa an lập. Chúng sinh ở nơi ấm, giới, nhập tạo sự nương dựa cho hành đức cùng ác. Do đó nên biết đây là chỗ dựa của đức, ác.

Hỏi: Thế nào là Ấm?

Đáp: Ấm là Sắc, Hành, Tri. Sắc, hành, tri, ba thứ nầy nên biết là ấm. Ấm đồng một nghĩa với tích tụ, bó buộc. Ở đây, xanh vàng đỏ trắng, thô tế, dài ngắn, vuông tròn được so sánh, nên biết gồm chung là sắc ấm. Trong đó, sắc là bốn đại cùng các thứ do bốn đại tạo ra, có thể thấy, không thể thấy, là nói về sắc ấm. Bốn đại và sắc được tạo là hai thứ có thể thấy cùng không thể thấy. Có thể thấy là đối tượng được nhận thấy của mắt. Không thể thấy là thanh, hương, vị, tế hoạt (xúc), nơi mắt tai mũi lưỡi thân và bốn đại.

Hỏi: Nói về Sắc là bốn đại cùng các thứ do bốn đại tạo ra, trong đó, bốn đại hãy còn không nhận biết, huống chi là các thứ do bốn đại tạo. Thế nào là bốn đại?

Đáp: Đại là địa, thủy, hỏa, phong (đất, nước, lửa, gió). Địa, thủy, hỏa, phong ấy giả gọi là đại, là sắc mỗi mỗi thứ cùng hợp. Ở đây, tướng cứng chắc là địa (đất), tướng ẩm ướt là thủy (nước), tướng nóng là hỏa (lửa), tướng động là phong (gió).

Sắc được tạo: Là khói, mây, sương mù, bóng, tối, sáng, ánh sáng mặt trời, năm sắc, năm tình (căn), được so sánh như thế.

Hỏi: Đã nói về sắc ấm. Thế nào là Hành?

Đáp: Hành là dựa nơi thân miệng tâm. Ở đây, dựa nơi thân nên nói là nương thân. Dựa nơi miệng nên nói là nương miệng. Dựa nơi tâm nên nói là nương tâm. Nương vào thân miệng tâm tạo hành, tạo hành hữu vi, nên gọi là hành. Như Khế kinh Phật nói: Sắc là hành hữu vi. Chúng lại tạo tiếp, như con lại sinh con. Như sắc, nên biết năm ấm cũng như thế. Vô lượng thứ ấy, vô lượng thứ kết hợp tạo tác rồi, đó gọi là năm ấm, như lúa thóc được tích tụ. Hành là phước, phi phước, bất động, ba thứ ấy là nói về hành.

Hỏi: Thế nào là Tri?

Đáp: Tri là thống (thọ), tưởng, thức. Ba thứ ấy là tri, cũng gọi là đạo pháp, do đạo không cùng lìa. Như Đức Thế Tôn nói: Như thống (thọ) tức là tri.

Hỏi: Thế nào là thống (thọ)?

Đáp: Thọ là lạc thọ, khổ thọ và thọ không khổ không lạc. Tánh của thọ nói về thọ. Thọ không có nguyên do để được thọ. Thọ tức là có thể thọ nhận. Nếu thọ có nguyên do thì phải có thọ mạng khác. Nếu có thể thọ nhận nên tức là mạng, song thọ không phải là mạng, nên tánh của thọ là thọ. Là phân biệt chữ, nên nói thọ nầy có ba thứ: Lạc thọ, khổ thọ, thọ không khổ không lạc. Mỗi mỗi thứ đều cùng duyên. Duyên nơi lạc thọ có khổ thọ. Duyên nơi khổ thọ có lạc thọ. Duyên cả hai có thọ không khổ không lạc. Như Đức Thế Tôn nói: Lạc thọ cùng với khổ thọ đối nhau. Khổ thọ cùng với lạc thọ đối nhau. Lạc khổ thọ cùng với không khổ không lạc thọ đối nhau. Đối là nghĩa oán địch.

Hỏi: Thế nào là lạc thọ?

Đáp: Lạc thọ là dục, chẳng ác, không chấp trước sinh. Lạc thọ có ba thứ: Là từ dục sinh, từ chẳng ác sinh, từ không chấp trước sinh. Ở đây, từ dục sinh: Là hành năm dục, được nhiều vui thích. Từ chẳng ác sinh: Là chẳng ác tức chẳng tăng thêm ác, là hành thiện nơi giới không dục. Đối với giới, ý không hối, do đấy nên vui vẻ. Từ không chấp trước sinh: Là chế ngự các căn, lìa năm dục, ý không loạn, lúc hành thiền, vô lượng, được an vui, là nói về không chấp trước sinh. Không chấp trước gọi là không vướng mắc. Đối với nghĩa của căn cũng lại nói là không nhiễm. Đó là nói về ba thứ lạc thọ.

Hỏi: Thế nào là khổ thọ?

Đáp: Khổ thọ là sinh lão tử. Sinh, già, chết, ba thứ ấy là khổ thọ. Trong đó, sinh khổ như sinh ung nhọt. Già khổ như ung nhọt mới phát. Chết khổ như ung nhọt đã phát, vào sâu trong đốt xương.

Lại nữa, sinh nên có tất cả khổ, nên gọi là sinh khổ. Như Đức Thế Tôn nói: Sinh nên có chân tay bị cắt đứt, so sánh như thế. Già khổ là sắc lực tráng kiện đã bị hoại. Chết khổ là ái cùng biệt ly. Đó gọi là khổ thọ.

Hỏi: Thế nào là thọ không khổ không lạc?

Đáp: Không khổ không lạc là ba cõi. Nếu không khổ không lạc nên biết là ba cõi. Không khổ không lạc là chướng ngại đối với khổ lạc. Ba cõi ấy, phần sau sẽ nói. Nếu cho không khổ không lạc là ba cõi, tức đã thâu gồm cả phần trước nói về khổ, lạc, nên biết không phải do lạc khổ nơi ba cõi. Cõi Dục có đủ ba thọ. Cõi Sắc có hai là lạc thọ và thọ không khổ không lạc. Cõi Vô sắc chỉ có một là thọ không khổ không lạc. Do đó, không khổ không lạc nên biết là ba cõi.

Hỏi: Thọ nầy làm chỗ dựa cho những gì?

Đáp: Lạc là chỗ dựa của đa dục. Khổ là chỗ dựa của nhiều giận dữ. Không khổ không lạc là chỗ dựa của nhiều si mê. Vì sao? Vì có lạc thọ không dục, có thể trừ bỏ dục, như trong ba thiền. Có khổ thọ không giận, như Đức Thế Tôn bị đau đầu cùng bị thương ở gót chân không khởi giận. Không khổ không lạc nhận biết thiền thứ tư, cùng bốn định vô sắc, trong ấy không si, có thể trừ bỏ si. Nếu như thế, tùy nghĩa có thể được nêu bày.

Hỏi: Chúng từ những gì sinh?

Đáp: Chúng từ nghiệp, từ sự bức bách, từ cõi sinh. Các thứ lạc thọ, khổ thọ, thọ không khổ không lạc kia, nên biết là từ nghiệp sinh, từ sự bức bách sinh, từ cõi sinh, không phải là tự nhiên, không phải là ngẫu nhiên.

Hỏi: Nghiệp có vô lượng thứ. Ở đây là nói về nghiệp nào?

Đáp: Từ nghiệp sinh, là từ phước, phi phước, bất động. Lạc thọ, khổ thọ, không khổ không lạc thọ nầy từ trong ba nghiệp là phước, phi phước, bất động sinh. Như nghĩa, lạc thọ từ phước sinh, khổ thọ từ tội sinh, không khổ không lạc thọ từ bất động sinh. Ở đây, phước là có thể trừ hành ác, là bốn thiền đứng đầu. Phi phước là hành ác. Bất động là thiền thứ tư cùng vô sắc.

Hỏi: Như trước đã nói, Phước là Thí, Giới, Tu. Tu tức là thiền, vô lượng và vô sắc. Nay vì sao nói riêng lạc thọ từ phước sinh?

Đáp: Nói riêng không lỗi. Do có rất nhiều tích tụ, nên ở đây đã nói riêng. Thiền như đã nói. So với ba y của Tỳ-kheo là khác. So với Phật hộ bát, không thể cho là Phật hộ, cũng là Tỳ-kheo, nên trao cho ba y, bát. Nhưng Tỳ-kheo khác với Phật hộ, nên trao y cho Tỳ-kheo kia. Như vậy, tu là thiền, vô lượng, vô sắc. Phước là ba thiền. Nếu không phân biệt ba thiền thì đối với tu phải có lỗi, vì có rất nhiều tích tụ.

Hỏi: Thế nào là từ bức bách sinh?

Đáp: Từ bức bách sinh là mình, người, cùng bức bách sinh ba thứ thọ, là vì mình, vì người, vì cùng cả hai. Bức bách là hai thứ, là lạc là khổ. Ở đây, vì mình là như dùng đao tự đâm, hoặc về sau dùng Chiên-đàn, thuốc bôi vào. Vì người: Như đánh vỡ đầu kẻ khác, lại dùng thuốc để điều trị. Vì cùng cả hai: Như nói với người khiến đánh vỡ đầu mình, rồi lại dùng thuốc đắp vào. Như thế đều nên biết đó gọi là từ bức bách sinh khổ.

Hỏi: Thế nào là từ cõi sinh?

Đáp: Từ cõi sinh là thời ác, hoạn.

Hỏi: Cõi, như đã nói về ba cõi Dục, Sắc, Vô sắc. Ở đây tức là cõi ấy chăng?

Đáp: Ở đây không phải là cõi như thế. Tách rời chúng sinh là ba thứ tưởng: Thời, ác, hoạn. Cõi ở đây là giả tưởng. Trong đó, thời là các mùa hạ, đông, xuân. Hạ đông xuân, nên biết ba mùa nầy là thời. Mùa hạ thì đàm tăng nhiều. Mùa đông thì nước dãi nước miếng tăng nhiều. Mùa xuân thì phong tăng trưởng. Như y thuật đã nói về thời, nên có khổ lạc thọ. Đó gọi là ba thời.

Hỏi: Thế nào là ác? Là hành ác, tức ái, vô minh chăng?

Đáp: Không hủy hoại Pháp thân, ở đây nói là hủy hoại thân bốn đại.

Hỏi: Vậy thế nào là ác?

Đáp: Ác là phong, đàm, nước dãi, các thứ nầy hủy hoại thân bốn đại, do đấy nên sinh thọ.

Hỏi: Thế nào là hoạn?

Đáp: Hoạn là chúng sinh nhân nơi đấy để lìa các thứ tai họa. Hoặc chúng sinh nhân đấy để lìa sinh khổ, là nhân nơi tường vách, rừng núi, hang núi.

Nhân là nhân nơi mình, người, cả hai. Đó gọi là thọ.

Hỏi: Thế nào là tưởng?

Đáp: Tưởng là có tưởng, không tưởng, không chỗ tưởng nơi quán sai biệt. Tưởng là nói về việc thọ nhận hình tượng sai biệt. Ở đây, có tưởng, không tưởng, không chỗ tưởng, quán sai biệt là đồng một nghĩa. Trong đó, có tưởng là cùng nương dựa. Không tưởng là không cùng nương dựa. Như rất nhiều bình, hoặc có người nói là bình mật, là bình tô, do tưởng ấy nên tưởng. Hoặc không mật không tô, là không thọ nhận, tưởng không. Như vậy, tưởng âm thanh, so sánh thọ nhận có sai biệt. Hoặc loại bỏ âm thanh, so sánh thọ nhận như thế.

Không chỗ tưởng: Đây là không có thực, tức xả.

Lại nữa, hữu dục nói là có sở hữu. Hữu dục ấy nói là xứ giải thoát, quán rồi là không sở hữu.

Lại nữa, có tưởng là quán xứ Thiện thức. Không tưởng là quán xứ Phi tưởng phi phi tưởng. Không chỗ nương dựa là quán xứ Vô sở hữu.

Hỏi: Thế nào là thức?

Đáp: Thức là sinh, thành, không thành nhập. Hành, danh sắc cùng dựa duyên, có thể đạt được. Thức là khác với chủng trí nên nói là thức. Chủng chủng trí nên nói là thức. Là ba thứ sinh nhập, thành nhập, không thành nhập. Dựa nơi hành, dựa nơi danh sắc, dựa nơi hai thứ duyên, có thể đạt được, là ba thứ. Đức Thế Tôn trong mười hai duyên khởi, nói hành duyên nơi thức. Lại nói danh sắc duyên nơi thức. Lại nói nhãn, sắc duyên sinh nhãn thức. Ở đây, vô số hành tạo sinh lúc nhập nơi thai mẹ, cùng sinh thức. Đó gọi là hành duyên sinh thức. Tức ở trong thai mẹ dày lớn dần thành các nhập. Đã sinh thức là danh sắc duyên thức. Lại nữa, thành nhập, là tranh không tranh nhập, định không nhập định. Duyên nơi căn cùng nghĩa của căn sinh thức, là dựa nơi hai duyên. Duyên là nương dựa. Không thể không nương dựa mà sinh thức. Đó gọi là cùng nương dựa, duyên, có thể đạt được.

Hỏi: Như trước đã nói về giới, định, trí. Vì sao lại nói lần nữa nơi thức?

Đáp: Dựa nơi trí cùng chỗ dựa là hai thứ. Đây là dựa, kia là chỗ dựa. Lại nữa, như nói hai thứ giới, như vậy, trong đây cũng nói hai thứ, không lỗi.

Phần thứ nhất của phẩm Nương Dựa nơi Chân độ đã nêu bày xong.

Hỏi: Đã nói về Ấm. Thế nào là Giới?

Đáp: Giới là Dục, Sắc, Vô sắc giới. Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, ba thứ ấy là giới. Duy trì nghiệp ấy, nên gọi là giới. Ở đây, trụ nghiệp nên gọi là giới, là gồm thâu tất cả chúng sinh, đến Bát-Niết-bàn vô dư.

Hỏi: Thế nào là Dục giới?

Đáp: Dục giới là người, trời, nẻo ác. Người, trời, nẻo ác, đây là lược nói về dục giới. Ở đây, trụ nơi dục nên gọi là dục giới. Giữ lấy dục nên gọi là dục giới.

Hỏi: Thế nào là người?

Đáp: Người là nam nữ, mạng căn đã quán về tướng. Dựa nơi bốn châu, nam căn đã quán về tướng, nữ căn đã quán về tướng, mạng căn đã quán về tướng. Nên biết, tất cả đây là người. Tất cả ấy cũng dựa nơi bốn châu. Trong đó, tướng nữ gọi là nữ, tướng nam gọi là nam.

Hỏi: Mạng căn đã quán về tướng không phải là nam nữ, do đấy mạng căn được nói riêng chăng?

Đáp: Tuy có nam, nữ, mạng căn đã quán về tướng, nhưng ở đây nói có sai biệt. Không thành nam là không ở nơi căn nam, nữ. Trong tướng đã quán chỉ có mạng căn. Tướng đã quán trụ nơi màng mỏng, dần dần dày thêm là có mạng căn, nhưng căn nam, nữ chưa thành. Đó gọi là sai biệt.

Hỏi: Thế nào là bốn châu?

Đáp: Châu là Diêm-phù-đề, Phất-vu-đãi, Cù-da-ni, Uất-đơn-việt, là nói về bốn châu. Trong đó, Diêm-phù-đề đã quán về tướng, nên nói là Diêm-phù-đề. Tùy theo tướng đã quán của các phương mà nói Phất-vu-đãi, Cù-da-ni, Uất-đơn-việt, thọ mạng của các châu tùy theo số lượng, các vật dụng tạo an vui có sai biệt, có giới hạn, lần lượt có hơn.

Hỏi: Trời, gọi chung là hai loại loại trời: Dục sinh và lìa dục. Ở đây là nói về trời nào?

Đáp: Trời là tế hoạt (xúc), thuyết, thị dục sinh. Nếu nói dục sinh, nên biết là không nói về lìa dục. Trời do dục sinh: Là ba thứ, xúc dục sinh, nói dục sinh, thấy dục sinh.

Nói dục sinh: Là trời Hóa-lạc. Cõi ấy, nếu tâm nhiễm ô, là tâm nhiễm ô đối với thiên nữ cùng nói năng, bấy giờ liền thành dục. Nếu chỉ một ý nhiễm ô thì không thành dục, chỉ là hoan lạc. Như người ở cõi nầy, lúc nắm bắt nhau, vui thích, cõi trời kia cũng vậy. Ý không nhiễm ô như mẹ, con gái. Tạo tác, biến hóa cảnh giới đẹp đẽ vui thích nơi dục, nên gọi là trời Hóa-lạc.

Nhìn dục sinh: Là cõi trời Tha-hóa-tự-tại. Nơi cõi ấy nếu cùng với thiên nữ mỗi mỗi đều nhiễm vướng khi cùng nhìn nhau, bấy giờ liền thành dục. Nếu chỉ một ý nhiễm ô thì không thành dục, chỉ là hoan lạc. Như người nơi thế gian nầy lúc ôm nhau sinh vui thích. Ý không nhiễm ô như thấy người khác. Chỗ hóa hiện của kẻ khác (Tha) được tự tại, nên gọi là trời Tha-hóa-tự-tại.

Hỏi: Đã nói về trời nhìn dục sinh, còn thế nào là trời xúc dục sinh?

Đáp: Xúc dục sinh là cả hai bên cùng nắm tay, ôm nhau. Trời xúc dục sinh có ba thứ là cả hai bên dục sinh, ôm nhau dục sinh, nắm tay dục sinh. Ở đây, cả hai bên dục sinh phần sau sẽ nói. Ôm nhau dục sinh: Là cõi trời Diệm-ma (Trời Diệm-ma, đời Tấn dịch là Thời Phần thiên). Cõi ấy, mỗi mỗi sự việc đều có ý nhiễm vướng. Hoặc lúc ôm nhau liền thành dục. Nếu chỉ một bên nhiễm vướng thì không thành dục, chỉ là vui thích, như người ở thế gian nầy cùng ôm nhau sinh vui thú. Ý không nhiễm vướng thì xem như kẻ khác. Hàng đêm thường hoan hỷ nói về lạc nên gọi là Diệm-ma.

Hỏi: Thế nào là cầm nắm tay, dục sinh?

Đáp: Cầm nắm tay, dục sinh là cõi trời Đâu-suất-đá (Trời Đâu-suất-đá, đời Tấn dịch là trời Tri Túc). Nếu cùng với thiên nữ, mỗi mỗi việc ý đều nhiễm ô thì lúc cầm nắm tay, bấy giờ liền thành dục, còn như một bên nhiễm vướng thì không thành dục, chỉ là vui vẻ, như ở thế gian lúc ôm nhau sinh vui. Ý không nhiễm ô thì xem như người khác. Tự biết đủ về cảnh giới hiện có, nên gọi là Đâu-suất-đá.

Hỏi: Thế nào là cả hai bên dục sinh?

Đáp: Cả hai bên dục sinh là cõi trời Ba Mươi Ba Tứ vương địa (Trời Đao-lợi). Hai bên cùng khởi sự, nên gọi là cả hai bên dục sinh. Hết thảy sự dục của cõi nầy như trước đã nêu đủ, chỉ nên phân biệt, nên nói là trời cả hai bên dục sinh. Như người ở thế gian nầy, chư Thiên của trời Ba Mươi Ba, cư trú tại đỉnh núi Tu-di, hành dục như người. Trong xứ của Tứ vương, là địa thiên thì cư ngụ dựa vào khoảng đất đai, cây cối, núi non, yêu thích cảnh giới dục lạc, tất cả các thứ ấy gọi là trời hành dục, như nơi nhân gian, nhưng không có bất tịnh, dù có khí chất. Cư trú lên cao càng chuyển tăng. Đó gọi là trời dục giới.

Hỏi: Thế nào là nẻo ác?

Đáp: Nẻo ác là địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, ba thứ ấy là nẻo ác. Nẻo nầy là ác nên gọi là nẻo ác. Ác là không đáng yêu thích.

Hỏi: Thế nào là địa ngục?

Đáp: Địa ngục là các địa ngục Lạnh, Nóng, Biên. Địa ngục Lạnh, địa ngục Nóng, địa ngục Biên. Địa ngục là không thể an vui. Là vô lượng thứ, nay sẽ nói.

Hỏi: Thế nào là địa ngục Lạnh?

Đáp: Địa ngục Lạnh là: Liễu khiếu hoán, Bất liễu khiến hoán, Bất khiếu hoán, là ba tướng, quán tướng nơi địa ngục Lạnh.

Liễu khiếu hoán, Bất liễu khiếu hoán, là kêu gào cực ác nên gọi là Khiếu hoán.

Hỏi: Thế nào là Liễu khiếu hoán?

Đáp: Liễu khiếu hoán là A-phù-đà, Nê-la-phù-đà, A-ba-bả. A-phù-đà, Nê-la-phù-đà, A-ba-bả, ba ngục nầy là Liễu khiếu hoán.

+ A-phù-đà là nói về số lượng. Như ở nước Ma-kiệt, mười thương đựng hạt cải, mỗi thương đều nhận hai mươi Khư-lê, trong ấy đựng đầy hạt cải. Giả sử có người, cứ một trăm năm thì lấy ra một hạt cải, số lượng hạt cải kia còn có thể hết, nhưng thọ mạng nơi địa ngục A-phù-đà thì không thể hết. Cứ hai thăng là một A-lặc, bốn A-lặc là một Độc-lung-na. Mười sáu Độc-lung-na là một Khư-lê. Hai mươi Khư-lê là một thương. Như vậy cho đến mười thương, là so với số lượng thọ mạng của địa ngục A-phù-đà.

Lại nữa, A-phù-đà là giống như ung nhọt. Trong địa ngục A-phù-đà, do lạnh nên trong thân sinh ra giống như ung nhọt, nên gọi là A-phù-đà.

+ Nê-la-phù-đà: Là không giống với ung nhọt, song khi đưa thân lên thì gió thổi khiến phình trướng đầy khắp, nên gọi là Nê-la-phù-đà.

+ A-ba-bả: Là có gió thổi hết sức lạnh, lột bóc da thịt nơi thân rơi rớt xuống, vì quá run rẩy, kêu gào A ba ba, nên gọi là ngục A-ba-bả.

Ba thứ nầy là Liễu khiếu hoán.

Hỏi: Thế nào là Bất liễu khiếu hoán?

Đáp: Bất liễu khiếu hoán là A-trá, Hưu-trá-hữu, Ưu-bát-la, ba thứ ấy là Bất liễu khiếu hoán. Trong đó, A-trá, Hưu-trá-hưu cũng là có gió thổi hết sức lạnh, bóc vứt da thịt nơi thân rơi rớt khắp, tội nhân không thể chịu nổi khổ bức, hoặc lúc có phương tiện thì kêu la A-trá, Hưu-trá-hưu. Ưu-bát-la: Là có gió thổi, lạnh cùng cực, khiến da thịt nơi thân bị bóc ra rơi rớt khắp. Do nơi tội nên từ trong thân sinh ra những lá sắt vây buộc quanh thân, như hoa Ưu-bát-la. Tội nhân ấy do đã phỉ báng các bậc Thánh Hiền, nên bị đọa vào địa ngục Ưu-bát-la, luôn nhận lấy khổ bức như thế.

Hỏi: Thế nào là Bất khiếu hoán?

Đáp: Bất khiếu hoán là bốn địa ngục Câu-mâu-đà-tu, Kiền-đề-già-phần, Đà-lê-già, Ba-đàm-ma. Nơi bốn địa ngục nầy đều có gió thổi vô cùng lạnh buốt, thân thể bị phình trướng khắp, khiến thân giống như các thứ hoa Câu-mâu-đà-tu, Kiền-đề-già-phần v..v… Tội nhân thọ nhận các thứ khốn khổ cùng cực, trụ trong rên rỉ, là do đã phỉ báng các bậc Thánh Hiền, nên bị đọa trong bốn thứ địa ngục ấy, hết thảy thời gian phải thọ nhận vô lượng khổ bức.

Đó là tất cả mười địa ngục Lạnh, ở tại trong khoảng giữa bốn châu, dựa vào chân núi Thiết-vi, Đại Thiết-vi, hướng lên nơi cư trú, ở trong bóng tối. Gió lạnh hủy hoại thân thể như lửa dữ thiêu đốt. Thân như đám trúc lau bị cháy khô, phát ra âm thanh lẫn lộn, mỗi mỗi thứ đều cùng va chạm, sinh tưởng. Cũng lại có các chúng sinh khác ở trong ấy thọ khổ. Tất cả họ đều do hủy báng Thánh Hiền, nên thọ nhận khổ não như thế. Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Nê-la-phù có trăm ngàn

A-phù-đà ba mươi lăm

Cùng tột, nẻo ác địa ngục

Miệng và ý đều nguyện ác.

Đó gọi là địa ngục Lạnh.

Hỏi: Thế nào là địa ngục Nóng?

Đáp: Địa ngục Nóng là: Hữu chủ trị, Thiếu chủ trị và Vô chủ trị. Ba tướng nầy là quán xét về tướng.

Chủ trị là khảo tra, đánh đập. Ở đây, phần nhiều là chúng sinh bị chủ trị. Hoặc không nhiều chúng sinh bị xử trị. Hoặc tự xử trị. Hoặc do tội nên tự sinh. Hoặc lìa phương tiện của chúng sinh, thọ khổ lớn.

Hỏi: Thế nào là Hữu chủ trị.

Đáp: Hữu chủ trị là các địa ngục Hoạt, Hành, Hắc thằng, ba địa ngục ấy là Hữu chủ trị.

+ Địa ngục Hoạt: Là nơi nầy, các cai ngục dùng đao búa sắc bén chặt, chẻ bóc, bằm chém các chúng sinh bị tội, như chặt chém đầu dê. Da thịt bị xẻ băm tan hết rồi, tội nhân do duyên chưa hết, nên khi có gió lạnh thổi thì sinh trở lại như cũ.

Lại nhân nơi tội ác, nên tay tự nhiên sinh ra móng sắt, nhọn bén giống như đao, mũi nhọn, hình tựa như trăng lưỡi liềm, mỗi mỗi thứ, ý đều sinh oán kết: Kẻ kia từng bức bách ta, tay nay lại bức bách hắn. Do đấy sinh giận dữ. Lại cùng vồ lấy, chặt chém, như chặt cắt trúc, lau. Kẻ kia, nơi thế gian nầy tâm kết hận mà chết, nên sinh trong địa ngục ấy.

+ Địa ngục Hắc thằng: Là bắt tội nhân nằm dài nơi đất, dùng dây đen (Hắc thằng) quấn chặt từng đoạn rồi chặt chém. Kẻ kia ở nơi thế gian thường dùng dao chặt chém chúng sinh, nên sinh vào đây.

Lại nữa, dùng những lá đồng sắt nung đỏ rực, cuộn chặt nơi thân, khiến xương bị vỡ nát, máu tủy trào ra. Kẻ kia ở nơi cõi đời nầy thường dùng roi gậy đánh đập, giết hại chúng sinh, và người xuất gia thọ nhận các vật dụng của tín thí như y phục, đồ nằm ngồi v.v… nhưng không tinh tấn tu tập, nên sinh vào đây. Lại chịu khổ bức nơi chốn vô cùng tối tăm, khói xông mù mịt, thân tội nhân bị treo ngược khiến thở hút lấy khói ấy. Kẻ kia ở nơi thế gian thường dùng khói xông vào hang có chúng sinh cứ trú để giết hại, nên bị đọa vào địa ngục nầy.

+ Địa ngục Hành: Là các tội nhân được bày ra thành hàng, như nơi quán xá mổ giết súc vật, bày bán thịt. Tội nhân bị chặt đứt tay chân, tai mũi, đầu cổ v.v… Họ vốn hành nghề đồ tể nên bây giờ phải nhận lấy các thứ khổ bức như thế.

Lại nữa, đất là sắt nóng, cai ngục dùng xe lửa sắt móc tội nhân vào đấy, giương mắt quát tháo, la hét inh ỏi rồi cho xe chạy bừa. Các tội nhân nầy ở nơi thế gian dùng ngựa, voi chuyên chở đồ vật, luôn hành hạ chúng, khiến chúng luôn khổ nhọc, do đó bị đọa vào đây. Tội nhân vốn dâm phạm vợ người thì bị đuổi chạy lên chốn rừng cây kiếm, tự nhiên bị lửa đốt, thọ nhận khổ bức như vậy. Đó gọi là địa ngục Hữu chủ trị. Đám cai ngục là do hành duyên nên không bị lửa thiêu đốt. Do hành báo nên không thể suy xét.

Hỏi: Thế nào là địa ngục Thiếu chủ trị?

Đáp: Địa ngục Thiếu chủ trị là ba địa ngục Chúng hợp, Đại khốc, Thiết hạm.

+ Địa ngục Chúng hợp: Tội nhân ở đây rất sợ đám ngục tốt. Vô lượng trăm ngàn tội nhân chạy ùa vào phía núi. Vào rồi thì trước sau tự nhiên sinh lửa dữ ngăn chận họ lại. Bị lửa trước sau ngăn chận như thế rồi, nơi hai phía núi tự hợp lại như bị cối đá xay nát. Do đấy, máu tuôn chảy như sông, thịt xương nát vụn. Những tội nhân nầy ở nơi thế gian vốn vui thích hành hạ, đày đọa các chúng sinh.

Lại nữa, nơi cối sắt lớn có lửa cháy dữ dội, ngục tốt dùng chày đâm giã tội nhân hàng trăm năm. Do tội duyên nên thọ mạng của họ không hết. Các tội nhân kia ở nơi cõi đời thường hay dùng cối để đâm giã, sát hại các loài chúng sinh nhỏ yếu.

+ Địa ngục Đại khốc: Ở đây, núi sắt lớn có lửa dữ bốc cháy khắp chốn, bốn bên đều bị ngăn dứt không có lối đi. Đám ngục tốt xấu ác không chút thương xót, giận dữ quát hỏi các tội nhân: Muốn chạy tới đâu? Không việc thì cho việc, bèn dùng chày sắt nung lửa đỏ rực đánh đập vỡ đầu họ. Những tội nhân nầy, ở nơi thế gian thường gây khốn khổ cho muôn người nên sinh vào địa ngục Đại khốc.

+ Địa ngục Thiết hạm: Đất ở đây là sắt nung nóng, đám tội nhân bị đuổi xua khiến vào trong chốn ấy và bị rang khô cho chín, chín rồi thì bị đuổi ra ngoài, liền bị loài chó dữ cắn xé, ăn hết thịt. Gió nổi lên thì các tội nhân sống trở lại như cũ. Lại bị xua đuổi vào chốn kia. Những tội nhân ấy, ở nơi thế gian nuôi tằm rồi đem rang nướng, nên sinh vào cõi nầy. Đó gọi là địa ngục Thiếu chủ trị.

Hỏi: Thế nào là địa ngục Vô chủ trị?

Đáp: Địa ngục Vô chủ trị là các địa ngục Khốc, Chích, Vô khuyết.

+ Địa ngục Khốc: Ở đây, sắt được nung cháy đỏ rực tợ như mai rùa, nơi chốn hết sức chật hẹp, giam nhốt đầy tội nhân, dùng nắp sắt chụp xuống khiến họ phải chịu vô số khổ cực như thế. Đám tội nhân ấy ở nơi thế gian thường hay đốt cháy đồng rộng cùng thiêu đốt xông hơi vào hang có các chúng sinh cư trú, do đó nên bị đọa vào đây.

+ Địa ngục Chích: Núi sắt lớn tại đây bốc lửa dữ dội, cùng chộp lấy đám tội nhân, dùng nạo sắt cắt gọt, giáp vòng thì gia tăng thiêu nướng. Một bên vừa chín thì cái nạo sắt bèn chuyển, lần lượt đảo lộn. Các tội nhân kia, ở nơi thế gian hay đâm, xâu, giết người nên sinh vào địa ngục nầy.

+ Địa ngục Vô khuyết: Đất ở đây là sắt, vòng quanh là lửa cháy đỏ rực, rộng đến trăm do-tuần, có bốn cửa như thành, dùng đồng mỏng phủ lên trên, lửa cứ ùn ùn cháy liên tục. Đám tội nhân ở trong đó, dồn đống như củi, lửa dữ thiêu đốt khắp nơi, không bị trở ngại, thân thể tội nhân bị cháy tan nát, chịu khổ không thiếu thứ gì. Họ do ở nơi cõi đời đã giết hại cha mẹ, giết hại các bậc Chân nhân, có ý ác hướng đến Phật khiến thân Phật chảy máu, hoặc tạo loạn động nơi chúng Tăng, cùng tạo mười nghiệp bất thiện luôn tăng thượng, do đấy bị đọa vào cõi nầy. Đó gọi là địa ngục Vô chủ trị.

Hỏi: Thế nào là địa ngục Biên?

Đáp: Địa ngục Biên là các địa ngục ở tại các vùng nước, núi, đồng rộng, độc nhất thọ nhận quả báo của nghiệp ác. Đó gọi là địa ngục Biên.

Hỏi: Đã nói về địa ngục. Còn thế nào là súc sinh?

Đáp: Súc sinh là các loài vật đi trên đất, dưới nước, trên không, tất cả, hoặc không chân, hoặc hai chân, nhiều chân. Đi trên đất, đi dưới nước, đi trên không, ba loại ấy là súc sinh.

Đi trên đất: Như voi, ngựa, trâu bò, dê, lừa, la, lạc đà, là các loài đứng đầu.

Đi dưới nước: Như các loài cá Ma-kiệt, Thất-thâu, Ma-lại, là loài đứng đầu.

Đi trên không: Như các loài chim, các loài muỗi, ruồi, ong, ve v.v…

Tất cả các loài không chân, hai chân, nhiều chân.

Không chân: Như loài rắn là đứng đầu.

Hai chân: Loài chim là đứng đầu.

Nhiều chân: Như loài bò, dê, ngựa, ong, cùng loài trăm chân.

Hết thảy các chủng loại súc sinh kia là do hành nghiệp tội lớn nên sinh trong loài ấy. Đó gọi là súc sinh.

Hỏi: Đã nói về súc sinh, vậy thế nào là ngạ quỷ?

Đáp: Ngạ quỷ là các loài quỷ Vô tài, Thiểu tài, Đa tài. Ba loài nầy là ngạ quỷ.

Hỏi: Thế nào là quỷ Vô tài?

Đáp: Quỷ Vô tài là các loài quỷ: miệng như bó đuốc, miệng như cây kim, miệng hôi thối. Ba loại nầy là quỷ Vô tài.

+ Quỷ miệng như bó đuốc: Hợp với miệng là ngọn lửa dữ từ nơi miệng phun ra, tự thiêu đốt thân thể, như lửa đồng đốt cháy cây Đa-la. Loài nầy, ở nơi thế gian đa phần hành tham lam, keo kiệt, nên sinh vào loài quỷ ấy, chịu khổ bức bách.

+ Quỷ miệng như cây kim: Loại quỷ nầy bụng to như hang núi, cổ họng thì nhỏ như lỗ kim, giả như có được thức ăn dồi dào, nhưng cũng không thể ăn được.

+ Quỷ miệng hôi thối: Loài nầy miệng bị rữa nát, hôi hám như phân nơi nhà xí, tự ợ ra mùi hôi thối. Không bụng nên không được ăn gì cả, luôn thọ khổ bức như vậy. Đó gọi là quỷ Vô tài.

Hỏi: Thế nào là quỷ Thiểu tài?

Đáp: Quỷ Thiểu tài là các loài quỷ: Lông nơi thân như cây kin, lông nơi thân hôi thối và có bướu ở cổ. Ba loại nầy là quỷ Thiểu tài. Quỷ nầy hoặc có lúc có chút ít vật bất tịnh để ăn, nên gọi là Thiểu tài (có ít của cải).

+ Quỷ lông nơi thân như cây kim: Loài nầy lông nơi thân rất cứng, dài, đầu lông bén như cây kim, phủ khắp thân, lớp lớp cùng lìa nhau. Đi lại rất khó khăn, vì các lông nhọn trở lại tự đâm vào mình, như mũi tên nhọn bắn vào loài hươu, nai, nhận lấy khố bức lớn, hoặc có khi có được chút ít thức ăn.

+ Quỷ lông nơi thân hôi thối: Loài nầy lông nơi thân rất hôi hám phủ khắp mình, lại cùng tự đâm chính vào thân thể. Thân hôi thối, gió thổi bốc lên, sinh giận dữ, nên tự nhổ lông. Thọ khổ bức bách như vậy.

+ Quỷ có bướu ở cổ: Do nghiệp báo của tội nơi chính mình tạo ra, nên sinh ung bướu ấy, trở lại tự phá vỡ ra, máu mủ tuôn đầy, lấy đó để ăn. Đấy gọi là quỷ Thiểu tài.

Hỏi: Thế nào là quỷ Đa tài?

Đáp: Quỷ Đa tài là các loài quỷ: khí, thất, đại thế. Ba loại nầy là quỷ Đa tài.

+ Quỷ khí: Loài nầy do thọ mạng đời trước có bố thí nên được thức ăn dư thừa. Loài ấy trọn đời nhờ vào cúng tế mà có được thức ăn, do đấy nên được an vui.

+ Quỷ thất: Loài nầy, trọn đời có được thức ăn nơi các ngả tư đường lớn, các đường tắt, ngỏ hẻm, những thứ thức ăn rơi rớt ở đấy, do đó cũng được vui vẻ.

+ Quỷ đại thế: Là các loài quỷ Dạ-xoa, La-sát, Tỳ-xá-già. Ba thứ quỷ nầy là quỷ đại thế. Cảnh giới của chúng như chư Thiên. Túc mạng có phước đức, nên hoặc được thức ăn ngon, ăn rồi thì có vô số quỷ đói vây quanh, cùng thấy sinh khổ. Như người ở tại ngục, thấy người thân sinh khổ, loài quỷ kia cũng thế, thấy đám quỷ đói vây quanh, sinh khổ. Do khổ ấy nên thức ăn hóa thành mủ. Phải thọ nhận khổ não như vậy, đó gọi là quỷ đại thế. Chúng có hình tướng súc sinh, người, trời. Là ngạ quỷ có hình tướng súc sinh, hình tướng người, hình tướng chư Thiên, tùy theo nghiệp lực.

Đó gọi là cõi Dục.

Hỏi: Đã nói về cõi Dục. Thế nào là cõi Sắc?

Đáp: Cõi Sắc là hữu hỷ, vô hỷ, hộ. Cõi Sắc là không dục, chỉ do thiền dứt trừ giận dữ, có được sắc đẹp đẽ như vàng ròng đã luyện, cõi nầy có hỷ, không hỷ, lìa khổ lạc là hộ (xả). Hỷ cùng với lạc nên gọi là hữu hỷ (có hỷ). Lìa hỷ, không có hỷ cùng với lạc nên gọi là vô hỷ (không hỷ). Lìa khổ, dứt lạc ấy như ngựa không còn đóng vào xe.

Hỏi: Thế nào là hữu hỷ?

Đáp: Hữu hỷ là hữu giác, vô giác, thiểu quán.

Cùng với giác nên gọi là hữu giác. Lìa giác nên gọi là vô giác. Có ít quán nên gọi là thiểu quán. Lạc là lìa là nói về thiền. Ở đây, hữu giác là sơ thiền. Vô giác là hai thiền. Thiền quán là trung gian thứ nhất. Hành tập thiền nầy sinh trong cõi Sắc. Nói chúng sinh là nói về cõi. Nói cõi là nói về thiền.

Hỏi: Ai hành tập sinh thiền hữu giác?

Đáp: Hữu giác là Phạm-phú-lâu, Phạm-ca-di, Phạm-ba-sản. Hành tập thiền hữu giác sinh trong cõi ấy. Ba cõi trời đó là hữu giác. Hạ, trung, theo đấy mà sinh.

Đại phạm là do thiểu quán sinh. Nghĩa của giác, quán như trước đã nói.

Hỏi: Thế nào là vô giác?

Đáp: Vô giác là các cõi trời Thiểu quang, Vô lượng quang, Quang diệu. Giác hành tập thiền vô giác, hỷ lạc tương ưng, là sinh nơi ba cõi ấy. Thiểu quang, Vô lượng quang, Quang diệu, tưởng nầy hoặc là giả tưởng, hoặc là nhân tưởng.

Lại nữa, Thiểu quang là lúc nói năng, từ miệng phát ra ít ánh sáng. Ánh sáng ít nên gọi là Thiểu quang. Ánh sáng nhiều nên gọi là Vô lượng quang. Ánh sáng thanh tịnh, vô biên, nên gọi là Quang diệu.

Hỏi: Đã nói về hữu hỷ. Còn thế nào là vô hỷ?

Đáp: Vô hỷ là các cõi trời Thiểu tịnh, Vô lượng tịnh, Biến tịnh. Giác hành tập thiền vô hỷ tương ưng lạc, là sinh nơi ba cõi trời ấy. Thiểu tịnh: Gọi là không có nhiều. Đây là thiền ít phương tiện tương ưng, sinh trời Thiểu tịnh thọ an lạc. Cũng ít phương tiện vừa, sinh cõi trời Vô lượng tịnh. Phương tiện trên, hơn, sinh cõi trời Biến tịnh.

Hỏi: Đã nói về vô hỷ lạc. Thế nào là hộ (xả)?

Đáp: Hộ là ba thứ tương ưng: hữu tưởng, vô tưởng, giác ý tương ưng. Hộ ấy là Quả thật, Vô tưởng, Tịnh cư. Tu tập thiền hộ (xả) tương ưng lạc, sinh trong cõi nầy, nên nói là hộ (xả). Là ba cõi trời Quả thật, trời Vô tưởng và trời Tịnh cư.

Ở đây, Quả thật: Là tu tập bậc hạ, trung, thượng nơi thiền thứ tư, sinh cõi trời Quả thật.

Vô tưởng: Diệt trừ tưởng nên sinh Vô tưởng. Cõi nầy diệt thọ tưởng thức, do không có tưởng dục nên cùng diệt, chỉ có sắc ấm, hành ấm, một ít nhập sinh tưởng liền diệt.

Hỏi: Thế nào là Tịnh cư?

Đáp: Tịnh cư là các cõi trời Thiện hiện, Thiện kiến, Tịnh. Ba cõi nầy là Tịnh cư. Tịnh cư là cư trú nơi các phiền não đã dứt hết.

Hỏi: Năm địa Tịnh cư, nay vì sao nói có ba?

Đáp: Cõi trời Tịnh là gồm Vô phiền, Vô nhiệt, Sắc cứu cánh. Vô phiền, Vô nhiệt, Sắc cứu cánh, ba cõi nầy là tướng của cõi Tịnh. Do ý của người biên chép kinh muốn thế.

Hỏi: Đã nói về cõi Sắc, còn thế nào là cõi Vô sắc?

Đáp: Cõi Vô sắc, trong phần nói về tu ở trước đã nói. Hành giả ở nơi thế gian tu tập chánh thọ (định), sinh cõi Vô sắc, là đạo và quả cùng nêu bày.

Phần thứ hai của phẩm Nương Dựa nơi Chân độ đã nêu bày xong.

Hỏi: Đã nói về Ấm, Giới. Vậy thế nào là Nhập?

Đáp: Nhập là Xúc nhập, Độ nhập, Giải thoát nhập. Ba thứ nầy là tướng của nhập. Nhập là nương dựa, như thiên miếu.

Hỏi: Nhập ấy là cái gì nhập?

Đáp: Đức, Ác nhập. Ở đây, giải thoát nhập là chỗ dựa của đức. Độ nhập là chỗ dựa của ác. Xúc nhập là chỗ dựa của cả hai. Ý nhiễm ô sinh ác. Ý thanh tịnh sinh đức.

Hỏi: Thế nào là Xúc nhập?

Đáp: Xúc nhập là cảnh giới gần, cảnh giới không gần và không cảnh giới. Cảnh giới là xứ duyên. Tùy theo duyên ấy mà hành là cảnh giới kia. Duyên gần gọi là cảnh giới gần. Duyên không gần gọi là cảnh giới không gần. Không duyên gọi là không cảnh giới.

Hỏi: Thế nào là cảnh giới gần?

Đáp: Cảnh giới gần là mũi, lưỡi, thân nhập. Tức tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, là ba cảnh giới gần.

Hương đến mũi mới ngửi, không đến không ngửi. Tuy có hoa cực xa, song hương lìa hoa bay đến mũi ngửi. Hương là tánh sắc, do đấy, nhân gió bắc thổi, hương bay đến nam, không đến bắc. Do vậy, hương lìa hoa đi đến mũi ngửi. Vị cũng như thế. Theo lưỡi biết vị, không từ đồ chứa, không từ tay. Xúc cũng như thế. Chỗ nhận biết của thân căn là tám thứ: cứng mềm, nhẹ nặng, thô rít, lạnh nóng. Do các thứ kia được tiếp xúc mà sau nhận biết. Thế nên ba thứ kia là cảnh giới gần.

Hỏi: Thế nào là cảnh giới không gần?

Đáp: Cảnh giới không gần là mắt, tai, ý nhập. Tức nhãn nhập, nhĩ nhập, ý nhập, ba nhập ấy là cảnh giới không gần.

Hỏi: Mắt cũng thấy gần nơi cảnh giới ít, không bức bách. Tai cũng như thế. Con muỗi ở trong tai cũng nghe tiếng vo ve. Ý là vô sắc, làm sao biết là cảnh giới không gần?

Đáp: Do đấy nên nói là cảnh giới không gần. Nếu không bức bách tức là thọ nhận cảnh giới.

Hỏi: Cảnh giới không gần là bằng bao nhiêu?

Đáp: Ở đây không có hạn lượng. Hoặc có bốn mươi ngàn do-tuần thấy mặt trời mặt trăng, hoặc không thấy. Hoặc một do-tuần thấy hình sắc, hoặc mười dặm tùy theo sức của căn. Do đấy nên nói là cảnh giới không gần, không nói cảnh giới xa, song không buộc phải nhận cảnh giới. Không phải do vật đến xứ thấy mới thấy, lìa nhưng sau thấy. Tai cũng như thế. Không phải do bắt buộc gần nên được nghe. Con muỗi tuy ở trong lỗ tai nhưng không đến xứ nghe, đây cũng tùy theo sức của căn ấy để nghe âm thanh. Ý là vô sắc, nó không gần xa, do đấy nên nói cảnh giới không gần, không nói xa.

Hỏi: Thế nào là không cảnh giới?

Đáp: Không cảnh giới là bên ngoài, mình thọ nhận, người khác thọ nhận cùng không thọ nhận.

Bên ngoài là không cảnh giới. Sắc thanh hương vị xúc pháp, ở trong pháp nầy giả gọi là bên ngoài, là mình thọ nhận, người khác thọ nhận, cùng không thọ nhận. Không cảnh giới nầy chỉ là cảnh giới khác. Năm cảnh giới nầy không duyên, nhưng pháp nơi đối tượng duyên của kẻ khác nên phân biệt, là cùng có nhiều không cảnh giới, nên nói không cảnh giới.

Hỏi: Đã nói về Xúc nhập. Còn thế nào là Độ nhập?

Đáp: Độ nhập là nói về nhân một xứ, nói về nhân không đúng, nói về không nhân. Nghĩa của ba thứ nầy là vô lượng nhưng lược nói là ba độ nhập.

Ở đây, nói về nhân một xứ là lời nói. Như cờ Nhân-đà-la được nhiều người giương cao đem tới. Trong đấy, có chỗ nói là Điều-đạt mang đến. Điều-đạt cũng ở trong số đó, song không phải một mình Điều-đạt làm công việc nầy, nên là nhiều người, mà nói một. Nói về nhân một xứ cũng như thế. Ba sự hợp thành nghĩa, hoặc nghiệp của túc mạng, hoặc hiện đang làm, hoặc do ân của kẻ khác. Ba sự như thế tạo thành nghĩa nhưng chỉ nói một.

Nói về nhân không đúng, là lời nói. Như cờ Nhân-đà-la đó có người nói không phải một người mang đến, cũng không phải hai người. Ở đây tuy có nhân song là không đúng.

Nói về không nhân: Là lời nói. Như là cờ Nhân-đà-la không có nhân mà đến.

Hỏi: Thế nào là nhân một xứ?

Đáp: Một xứ là nghiệp, tự tha, công phu. Một là nói mình đã tạo tác, có hai thứ: Hoặc túc mạng đã tạo tác. Hoặc hiện đã tạo tác. Ở đây, nếu túc mạng đã tạo tác, đó gọi là nghiệp. Hoặc lại có chỗ nói: Trời tạo tác. Ba thứ như thế tạo thành nghĩa, như trước đã nói. Ba thứ nghĩa như vậy, hoặc nói là nghiệp, hoặc nói là công phu, hoặc nói là ân của kẻ khác. Một xứ là chỉ nói về nghiệp. Kẻ kia phụ công sức của người khác, không biết ân nghĩa, không thể cùng làm việc. Nếu mình vốn đã tạo tác, cầu do không cầu hợp, nên tự đạt được. Nói về một xứ có những lỗi như thế.

Hỏi: Thế nào là nhân không đúng?

Đáp: Nói về nhân không đúng là nói về chúng sinh, pháp cùng căn nhân tưởng. Nói về nhân không đúng là nói về ba thứ chúng sinh pháp, cùng với chúng sinh và pháp căn nhân tưởng. Chúng sinh đẹp xấu đã tạo. Hoặc lại nói pháp đã tạo. Hoặc nói chúng sinh cùng pháp đã tạo, là nói về ba thứ nhân không đúng. Song không phải chúng sinh tạo, không phải pháp tạo, cũng không phải cả hai cùng tạo.

Hỏi: Thế nào là chúng sinh – căn nhân tưởng?

Đáp: Chúng sinh là Phạm Y-nhiếp-phi-la, nghĩa là nói về Sử-nậu. Nói: Là chúng sinh tạo tác thế gian, phạm là chủ tạo hóa. Y-nhiếp-phi-la là chủ tạo hóa, nghĩa là Sử-nậu là chủ tạo hóa. Người không tuệ cho là như thế.

Nói Phạm tạo hóa: Là nói Phạm-thiên tạo ra hư không, hư không tạo ra gió, gió tạo ra nước, đất, nước đất tạo ra gò nổng, núi non, cây cỏ. Như thế là có thế gian. Tất cả những thuyết ấy đều có lỗi. Vì sao? Vì nếu Phạm-thiên tạo ra hư không và đất thì vị ấy trụ ở xứ nào để tạo ra hư không và đất? Nếu tức trụ trong ấy để tạo, nghĩa nầy không đúng. Như thế là có lỗi. Như Nhiếp phi la nghĩa là Sử nậu, cũng như vậy.

Hỏi: Thế nào là pháp?

Đáp: Pháp là thời, khí, tự nhiên tạo, tức thời tạo, khí tạo, tự nhiên tạo. Ba thứ nầy gọi là pháp căn nhân. Ở đây, nói thời là:

Thời tiết sinh tất cả

Tất cả thời tiết thành

Tất cả thời bị hoại

Tất cả đời, thời tạo.

Thuyết nầy là có lỗi, như trong phần nói về một xứ ở trước. Người có thể cầu, không cầu. Hoặc không thể cầu mà cầu, được là thời tạo, hành không tạo. Chớ nên nói là không có lỗi. Vì sao? Vì thời là không. Nếu không tạo ra vật thì nghĩa ấy không đúng. Như thế đều có lỗi.

Khí cũng không thể tạo

Khí là không có tình

Đó là sự không sự

Khí không có mạng nầy.

Tự nhiên nếu sinh là không có nghĩa tự nhiên.

Nếu không là không nhân, hoặc không nhân sinh tất cả, sinh cũng tự nhiên như thế thì đâu có sai lầm? Nếu là hữu thường thì thuyết kia có lỗi gì? Là không hữu thường, hư hoại, như thế là lỗi được đối chiếu, chớ nói là không lỗi.

Hỏi: Thế nào là không nhân?

Đáp: Không nhân là tánh, ngẫu, không. Nói về không nhân là nói về ba thứ: nói về tánh, nói về ngẫu nhiên, nói về không.

Tánh là nói trong tánh của muôn vật sinh ra, không phải nhân nơi cái khác. Vì sao? Ví như cây gai đâm chích nhanh hoặc không thể nhanh. Như thế là nói về tất cả.

Ngẫu nhiên: Là nói muôn vật ngẫu nhiên sinh. Như nguồn của suối nước lớn, cỏ rơi vào trong đó hợp tại một chốn, nói là ngẫu nhiên như vậy. Gió kia ngẫu nhiên thổi tới. Hoặc thổi khắp Đông Tây Nam Bắc. Muôn vật sinh cũng như thế.

Nói không là nói về việc xét kỹ như vậy. Ở đây là không sở hữu. Vì sao sinh, do cái gì sinh, ở xứ nào sinh? Đây là không có sở hữu. Hết thảy các thuyết kia đều có lỗi. Vì sao? Vì nếu muôn vật do tánh nên sinh thì lúc mầm lúa thóc sinh, không cần phải cày bừa ruộng, cũng chẳng cần phải đem nước vào. Nếu không có các việc nầy thì mầm lúa thóc rốt cuộc không sinh. Do đấy, muôn vật không phải do tánh sinh. Như thế là mỗi mỗi thuyết nên dứt bỏ.

Hỏi: Đã nói về Độ nhập. Còn thế nào là Giải thoát nhập?

Đáp: Giải thoát nhập là tưởng, thiền, nghe rộng. Tưởng, thiền, nghe rộng, ba thứ nầy là giải thoát nhập.

Giải thoát là diệt trừ ác nên được giải thoát. Ba nhập nầy dựa vào đấy nên được giải thoát. Tưởng là nghĩa duyên. Dựa nơi Phật, Phật Bích-chi, Thanh-văn nên được giải thoát. Thiền là như nơi Phẩm thứ nhất đã nói. Nên quán xét nghĩa nầy, cũng dựa vào đấy để được giải thoát.

Hỏi: Thế nào là nghe rộng?

Đáp: Nghe rộng là giảng nói, lắng nghe, đọc tụng.

Giảng nói là nói như đã nghe.

Lắng nghe là nghe như đã nêu giảng.

Đọc tụng là tụng đọc như chỗ đã nghe.

Hỏi: Nghe rộng, như trong phần đa văn ở trước đã nói về Khế kinh, A-tỳ-đàm, Luật. Ở đây có khác biệt gì, khi lại nói là thuyết giảng, lắng nghe, đọc tụng?

Đáp: Ba thứ nói ở trước là đa văn, nên thọ nhận ba thứ. Thọ nhận lúc nói. Thọ nhận lúc nghe. Thọ nhận lúc tụng. Bốn chúng đệ tử của Đức Thế Tôn có xứ chân đế thành có xứ thí, thành có xứ chỉ, thành có xứ tuệ, thành các thứ ấy là phương tiện. Lắng nghe chân đế nên được giải thoát. Xứ thí là nói về chỉ, xứ chỉ là theo thiền, xứ tuệ là theo tụng đọc. Đó gọi là xứ giải thoát. Ba pháp độ nầy chánh quán không trở ngại. Ý muốn khiến thấy về nẻo chân, lần lượt đạt được, là giải thoát. Được giải thoát nên kẻ trí tu học pháp của Đức Thế Tôn.

Phần thứ ba của phẩm Nương Dựa nơi Chân độ đã nêu bày xong.

HẾT – QUYỂN HẠ

Pages: 1 2 3