Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

VI. ĐỨC TUÂN PHỔ HIỀN ĐỆ NHỊ
(TT)

KINH VĂN:

Nguyện ư vô lượng thế giới thành Đẳng Chánh Giác, xả Đâu Suất, giáng vương cung, khí vị xuất gia, khổ hạnh học đạo. Tác tư thị hiện, thuận thế gian cố. Dĩ định tuệ lực, hàng phục ma oán, đắc vi diệu pháp, thành tối Chánh Giác. Thiên nhân qui ngưỡng, thỉnh chuyển Pháp luân. Thường dĩ pháp âm, giác chư thế gian, phá phiền não thành, hoại chư dục tiệm, tẩy trạc cấu ô, hiển minh thanh bạch. Điều chúng sinh, tuyên diệu lý, trữ công đức, thị phước điền. Dĩ chư pháp dược, cứu liệu tam khổ. Thăng quán đảnh giai, thọ Bồ Đề ký. Vị giáo Bồ Tát, tác A xà lê, thường tập tương ứng vô biên chư hạnh, thành thục Bồ Tát vô biên thiện căn. Vô lượng chư Phật hàm cộng hộ niệm.

VIỆT DỊCH:

Nguyện trong vô lượng thế giới thành Đẳng Chánh Giác, bỏ Đâu Suất, giáng hạ vương cung, bỏ ngôi vị, xuất gia, khổ hạnh học đạo. Thị hiện như thế để thuận theo thế gian. Dùng sức Định Tuệ hàng phục ma oán, đắc vi diệu pháp thành Chánh Giác cao tột. Thiên nhân qui ngưỡng, thỉnh chuyển Pháp luân. Thường dùng pháp âm, giác ngộ các thế gian, phá thành phiền não, lấp ao tham dục, gột sạch cấu uế, hiển bày đức thanh tịnh. Điều phục chúng sinh, tuyên thuyết diệu lý, tích công lũy đức, gây tạo phước điền. Đem pháp dược cứu chữa ba khổ. Lên địa vị quán đảnh, thọ ký cho Bồ Tát. Để dạy Bồ Tát bèn làm A xà lê, thường tu tập vô biên các hạnh tương ứng, thành thục Bồ Tát vô biên thiện căn, vô lượng chư Phật đều cùng hộ niệm.

GIẢNG:

Hai câu cuối của đoạn trước: “Nhập Phật pháp tạng, cứu cánh bỉ ngạn” (Nhập Phật pháp tạng, rốt ráo đến bờ kia) là lần thứ hai khen ngợi Thật Đức của bậc Đại Sĩ. Đoạn kinh văn này và hai đoạn tiếp theo sau là khen ngợi Quyền Đức của Bồ Tát: Trong khắp mười phương thị hiện tám tướng thành đạo thù thắng.

“Nguyện ư vô lượng  thế giới thành Đẳng  Chánh   Giác”

(Nguyện trong vô lượng thế giới thành Đẳng Chánh Giác).

Theo chú giải của Hoàng Niệm lão: “Đẳng Chánh Giác” là chữ trong bản Đường dịch, là cách dịch theo kiểu tân dịch. Bản Ngụy dịch ghi là “Đẳng Giác ”, đó là cựu dịch. “Đẳng Giác ” có hai nghĩa:

– Đẳng Giác là địa vị cùng tột của Bồ Tát, sẽ đắc “Diệu Giác, Phật Quả”: Công đức, trí tuệ của bậc này gần tương đương với Diệu Giác nên gọi là Đẳng Giác. Đại Sư Đàm Loan nói: “So với Diệu Giác còn kém một bậc nên gọi là Đẳng Giác ”.

– Đẳng Giác là Phật quả: Trí Độ Luận viết “chư Phật bình đẳng nên gọi là Đẳng Giác ”.

Do đó, các nhà chú giải kinh đối với đoạn kinh này cũng có hai cách giải thích:

– Một, Bồ Tát trụ địa vị Đẳng Giác trong mười phương thị hiện tám tướng thành đạo.

– Hai, đấy chính là Phật quả: Từ quả hướng nhân, thị hiện tám tướng, cho đến lực dụng sau khi đã thành Phật.

Nói tóm lại, Đại Giác diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn! Chẳng nên đối với hai thuyết này cưỡng chấp một thuyết. Áp dụng cả hai thuyết chẳng trở ngại nhau, vì chúng Bồ Tát đông đảo, ắt hẳn cảnh giới của họ chẳng phải chỉ có một. Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Trong “Tùy loại hóa thân”, hóa thân Phật là thù thắng nhất để hóa độ chúng sinh. Các thân phận khác như: Thân Bồ Tát, thân Thanh Văn, thân Duyên Giác, thân sáu cõi v.v… thì không cần phải nói, thảy đều có thể thị hiện.

Câu “Nguyện ư vô lượng thế giới thành Đẳng Chánh Giác”, chính là nói “Đại viên mãn ứng hóa”, hóa thân đến mọi nơi, hiện thân ở mọi lúc, tùy loại hóa thân, tùy cơ nói pháp, giúp chúng sinh trong vô lượng thế giới. Câu kinh văn này chúng ta cũng không thể xem thường lướt qua, chính mình phải bình lặng đem nó đọc qua nhiều lần, xem thử có thể thể hội được chăng?

Hiện tại ở thế gian này, không gian hoạt động của chúng ta vô cùng nhỏ hẹp. Cho dù đời sống có tự do, tự tại, mỗi ngày ngao du khắp chốn, không gian của chúng ta cũng chỉ là quanh quẩn trong phạm vi đất nước này, địa cầu này, vẫn không cách nào đến được các tinh cầu khác.

Trên kinh văn này nói “vô lượng thế giới”, nếu vãng sinh đến Tây Phương Cực Lạc, không gian hoạt động của chúng ta là tận hư không khắp pháp giới tất cả cõi nước chư Phật; khởi nghĩ liền đến! Không cần mua vé phi cơ, không cần phương tiện giao thông, cũng không cần thủ tục các thứ; thần thông tự tại, thật vô cùng viên mãn! Trong đây cũng bao gồm cả quá khứ, hiện tại, vị lai. Có thể trở về quá khứ, cũng có thể thẳng đến tương lai. Mười phương ba đời là không gian hoạt động của chúng ta, đó là thật không phải giả! Toàn bộ đều có thể thực hiện. Cũng có thể nói, những thánh giả này đồng với Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ môn chỗ nói đến giống nhau: Đáng dùng thân gì để độ, họ liền hiện thân đó, như Bồ Tát Quán Thế Âm với ba mươi hai ứng thân. Thật sự mà nói là vô lượng vô biên thân, hiển thị ra đức năng của những vị Bồ Tát này.

Xả Đâu Suấtlà tướng thứ nhất trong “Bát tướng thành đạo”. “Đâu Suất” là Phạn ngữ, dịch sang nghĩa Trung Quốc là: Diệu Túc, Hỷ Túc, Tri Túc v.v… Đó là tầng trời thứ tư trong “Dục giới”; Nội viện hiện là Tịnh Độ của Bồ Tát Di Lặc; Ngoại viện là chốn dục lạc của thiên chúng. Chỗ này, mang ý nghĩa biểu pháp rất sâu: Bồ Tát tu hành nếu chưa đạt đến trình độ “Tri Túc” thì công phu của Bồ Tát đó chưa được viên mãn! “Tri Túc” rồi thì thành Phật ngay.

Chúng ta, trong các bộ kinh lớn thấy được: Bồ Tát vẫn còn tham độ chúng sinh, tham tạo công đức v.v… cho nên vẫn chưa được “Tri Túc”! Sự việc này chúng ta phải biết, bất luận là thế pháp hay xuất thế pháp phải biết tri túc. Ví như học Phật, kinh điển có rất nhiều, bao la như biển cả, kinh nào chúng ta cũng muốn học, tông phái nào cũng muốn nghe qua…, đó chính là tham, cho dù là tham Phật pháp. Chúng ta tri túc rồi, chỉ một bộ Kinh Vô Lượng Thọ là đủ. Cổ đức có câu: “Tam tạng thập nhị bộ nhường cho kẻ bất tri túc để ngộ. Tám vạn bốn ngàn hạnh, nhường cho những kẻ bất tri túc để hành”. Chúng ta tri túc rồi, chỉ một bộ kinh, một câu A Di Đà Phật, một môn thâm nhập trường kỳ huân tu thì vui biết mấy. Tri túc thường lạc! Chỉ một bộ kinh này, nội dung đã bao hàm hết tất cả kinh.

Giáng vương cung: Đây là tướng thứ hai “gá thai” và tướng thứ ba “xuất sanh” gộp lại. Phật ứng hóa đến thế gian này, tuyệt đối chẳng sinh vào gia đình dân giả thông thường. Vì sao vậy? Vì sức ảnh hưởng không lớn! Thân chúng ta là thân nghiệp báo, tự mình không thể làm chủ, không thể chọn lựa, mà phải tùy nghiệp lưu chuyển. Phật và Bồ Tát là thừa nguyện tái lai, do nguyện lực nên có thể tùy tiện theo sự lựa chọn của mình.

– Vì sao phải chọn ở trong nhà Đế Vương?

– Bồ Tát giáng sinh vào vương cung, nếu nói địa vị tương lai, ngài là địa vị Quốc Vương. Người Trung quốc nói “Quí vi thiên tử, phú hữu tứ hải” (Quí như thiên tử, giàu như bốn bể), phú quí danh lợi của thế gian ngài đều có đủ. Thế nhưng, ngài có thể buông bỏ hết tất cả để xuất gia tầm đạo. Việc làm này của ngài nếu không phải là người có trí tuệ chân chánh thì không thể làm nổi. Đây là ngài dạy chúng ta “xả đắc”, cũng khiến chúng ta khai ngộ, hiểu rõ ý nghĩa, giá trị chân chánh của kiếp người.

Cuộc đời nếu chỉ quần quật trong khổ nhọc, bận rộn, chính mình cũng không nhận ra vì ai mà ta bận rộn?! Người này rõ thật đáng thương! Kinh Phật thường nói: “Khả lân mẫn giả”, không hiểu bận rộn vì ai?! Cổ nhân cũng nói: “Vì ai cực khổ, vì ai bận?! Họ không biết! Thậm chí bận rộn để được gì? Bận rộn đến ba bửa cơm cũng không có thời gian ăn! Ăn không ngon, ngủ không yên; địa  vị càng cao, tài phú càng lắm rốt cuộc họ cũng chỉ là những kẻ đáng thương!

Người thế gian đều mê hoặc trong tranh danh đoạt lợi, bây giờ chẳng phải là tranh thủ mà là cướp đoạt lấy! Đức Phật, Ngài thật sự giác ngộ, biết rõ những thứ đó là giả, là không, là phiền phức, là đau khổ nên tuyệt đối dứt bỏ hết. Thế gian cho rằng tu hành rất khổ, nhưng kỳ thật là rất vui sướng: Sinh hoạt đơn giản, ít tạo nghiệp, tâm địa thanh tịnh, nhu cầu ít…

“Khí vị xuất gia, khổ hạnh học đạo”: Đây là tướng xuất gia thứ tư. Bản Ngụy dịch chép tỉ mỉ, nguyên văn như sau: “Hiện xử cung trung, sắc vị chi gian, kiến lão bệnh tử, ngộ thế phi thường, khí quốc tài vị, nhập sơn học đạo, phục thừa bạch mã, bảo quan, anh lạc, di chi linh hoàn, xả trân diệu y, nhi trước pháp phục. Thế trừ tu phát, đoan tọa thọ hạ, cần khổ lục niên, hành như sở ứng”(Thị hiện sống trong vương cung, trong khoảng sắc vị (Sắc vị là cảnh ngũ dục lục trần, món ngon tuyệt hảo), thấy già, bệnh, chết, hiểu đời vô thường, bỏ đất nước, của cải, ngôi vị vào núi học đạo, cưỡi ngựa trắng, mão báu chuỗi ngọc sai người đem trả về, bỏ áo quí đẹp để khoác pháp phục, gọt sạch râu tóc, ngồi đoan nghiêm dưới cội cây, siêng khổ sáu năm, thực hành điều nên làm).

Đức Phật thị hiện tướng xuất gia này khải thị cho chúng ta giác ngộ thế gian vô thường, chớ nên đắm nhiễm, mê chấp vào nó. Phải xuất gia! Ý nghĩa của “xuất gia” là đối với gia nghiệp không mãy mai chấp trước. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là đại chướng ngại trên con đường giải thoát. Riêng đối với người học Phật, Phật nêu ra bốn loại xuất gia:

1. Thân xuất gia, tâm không xuất: Loại người này tuy đã xuất gia, nhưng trong tâm vẫn đầy ấp những danh văn lợi dưỡng; vẫn tràn đầy “tham, sân, si, mạn” v…, việc làm của họ chẳng khác chi người tại gia; có chăng chỉ là trên hình thức đầu tròn áo vuông, bỏ nhà nhỏ bước vào nhà lớn!

2. Thân không xuất gia, tâm xuất: Đây là chỉ cho hàng cư sĩ tại gia học Phật. Tuy hoàn cảnh không cho phép xuất gia, nhưng trong tâm họ lúc nào cũng hướng đến Phật, đến việc tu tập giải thoát. Vậy mà tốt! Họ không tạo nghiệp. Cho nên, người tại gia học Phật thành tựu cũng rất nhiều. Những năm gần đây, có người đứng mà ra đi, ngồi mà ra đi, biết trước giờ chết, nói đi thì đi.

3. Thân, tâm đều xuất gia: Đây mới là người chân thật xuất gia: Thân xuất gia, tâm cũng xuất gia. Đó chính là trong Phật pháp nói: Đệ tử chân thật của Phật, có thể gánh vác việc hoằng pháp lợi sinh, kế tục tuệ mạng Phật, gia nghiệp Như

4. Thân, tâm đều không xuất: Đây là chỉ cư sĩ tại gia: Thân không xuất, tâm cũng không xuất! Tuy có học Phật, nhưng học Phật chỉ là thứ yếu, việc danh vọng lợi dưỡng thế gian mới là chủ yếu. Đại khái họ dồn hết chín mươi chín phần trăm lo việc thế gian, còn lại một phần trăm lo nghĩ vấn đề Phật pháp, cũng là không tệ! Phật ngay chỗ này, nhắc nhỡ chúng ta “thân không xuất, tâm phải xuất”. Cho dù phải quần quật suốt ngày với bất cứ nghề nghiệp nào, vẫn có thể thị hiện thành Chánh Giác, biểu thị là mô phạm tốt nhất, gương mẫu tốt nhất cho tất cả mọi người, luôn vì lợi ích tập thể, xả bỏ dục vọng cá nhân, tẩy trừ “tham, sân, si, mạn”. Đó chính là người chân thật học Phật.

Khổ hạnh học đạo: Kinh Phổ Diệu chép: “Nhĩ thời Thái tử nhật phục nhất ma, nhất mạch, lục niên chi trung, kiết già phu tọa” ( Khi ấy, Thái tử ngày ăn một hột mè, một hạt lúa mạch, trong sáu năm ngồi xếp bằng) tu tập hạnh gian nan siêng khổ, đời sống có khổ một chút cũng vẫn tốt. Phật dạy chúng ta “lấy khổ làm thầy”.

Người có sức nhẫn chịu đời sống khổ cực thì dễ dàng có tính đề cao cảnh giác, đời sống quá thoải mái dễ rơi vào đọa lạc.

Cư sĩ Lý rất quan tâm đến tôi, ông nói: Lão pháp sư ở Trung Quốc Đại Lục có rất nhiều người chăm sóc, ông muốn tìm một số người chăm sóc tôi, tôi cảm tạ ông nhưng không thể chấp nhận. Vì sao? Sợ rằng khi có người chăm sóc, tôi liền sẽ đọa lạc! Tác oai, tác phước vậy thì không được! Thầy tôi đã làm ra một tấm gương tốt cho tôi xem. Tôi nhận thân giáo từ thầy rất sâu. Lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam đến chín mươi lăm tuổi chỉ sống một mình, trải qua ngày tháng không người hầu hạ, tự giặt giũ quần áo, nấu cơm v.v… Sau chín mươi lăm tuổi mới chịu nhận học trò chăm sóc; chín mươi bảy tuổi thì ông vãng sinh.

Không người chăm sóc cũng vẫn tốt! Giúp ta có tính tự lập! Ỷ lại vào người khác chăm sóc, khi đi cần phải có hai người dìu thật là phiền phức! Thật đáng thương! Cho nên, tôi cảm ân Lý Mộc Nguyên, nhưng từ chối không nên tìm người hầu tôi, để sức khỏe tôi được vững chải một chút. Phải hiểu: Sự khổ hạnh đối với thân tâm đều có sự giúp đỡ.

Học đạo”: “học” là học tập; sau khi học rồi phải làm cho được, “đạo”là hiểu được thật tướng các pháp, đối với chân tướng của vũ trụ nhân sinh chân thật giác ngộ, chân thật hiểu rõ, đó là “đạo”.

Tác tư thị hiện, thuận thế gian cố(Thị hiện như thế để thuận theo thế gian). Hai câu này đã đem cái bản nguyện nói rõ: Đức Phật là thị hiện, chẳng phải lần này mới phát tâm xuất gia, ngài đến để biểu diễn. Điều này cũng hiển thị sâu xa huyền chỉ của Kinh Pháp Hoa: “Hết thảy thế gian trời, người, A-tu-la đều cho rằng Thích Ca Mâu Ni Phật nay bỏ cung họ Thích đến thành Già-Gia chẳng xa, ngồi đạo tràng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nhưng, này Thiện nam tử! Thật ra, ta từ khi thành Phật đến nay đã là vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp. Từ đấy trở đi, ta thường trụ trong thế giới Sa-Bà này thuyết pháp, giáo hóa, cũng ở nơi khác, trong trăm ngàn vạn ức na-da-tha a-tăng-kỳ cõi dạy dỗ lợi ích chúng sinh… Như Lai thấy các chúng sinh ưa thích pháp nhỏ, đức mỏng, cấu nặng, nên vì kẻ ấy nói: ‘Ta xuất gia không lâu liền đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác’. Nhưng thật ra từ khi ta thành Phật đến nay đã lâu xa dường ấy, chỉ vì phương tiện giáo hóa chúng sinh, cho họ nhập Phật đạo mà nói như thế”.

Sở dĩ ngài phải “thuận thế gian cố”, tùy thuận thế gian, vì người thế gian phải tìm cha mẹ để đầu thai. Giả như Phật xuất hiện ở thế gian mà không có cha mẹ, chỉ từ trời giáng phàm, đến khi ngài giáo hóa chúng sinh sẽ rất khó! Chúng sinh sẽ nghĩ rằng: Ngài từ trên trời xuống, làm sao ta có thể sánh bằng ngài! Làm sao ta có thể thành Phật như ngài! Sự thị hiện của ngài mang ý nghĩa: Chúng sinh do cha mẹ sinh; thì ngài cũng do cha mẹ sinh; chúng ta từ nhỏ lớn lên, ngài cũng từ nhỏ lớn lên; Ngài có thể thành Phật, chúng ta cũng có thể thành Phật. Từ đó mà tín tâm ta được tăng trưởng. Tuy thị hiện, nhưng trên mặt giáo hóa, những gì Phật dạy đích thật là sự thật, Phật không hề lừa dối chúng ta. Hiểu được đạo lý này, chúng ta cố gắng tu tập, y giáo phụng hành lời Phật dạy, ngay trong đời này chắc chắn có thể ra khỏi tam giới, liễu sinh tử, thành Phật đạo.

Kinh Phạm Võng nói: Ngài đến thế gian thị hiện làm Phật, đây là lần thứ tám ngàn. Khi đến, vẫn phải ra vẻ như một phàm phu không hiểu biết thứ gì, đóng vai trò một thái tử ra ngoài du ngoạn, xem thấy cảnh sinh, già, bệnh, chết, liền xúc động đến quyết chí tu hành. Đây đều là thị hiện, là diễn kịch cho chúng ta xem. Chúng ta ngày ngày xem thấy cảnh sinh, già, bệnh, chết nào có cảm xúc gì! Bất tri bất giác sự việc xảy đến, trước cái chết có hối cũng không kịp! Ngạn ngữ có câu: “Người không lo xa, ắt có họa gần!”

– Thế nào là lo xa?

– Thường nghĩ đến già, khi bệnh, khi chết; nghĩ đến đời sau v.v… Đây gọi là biết lo xa. Nói thế không có nghĩa là bảo bạn phải suy nghĩ tương lai mình sẽ già phải chuẩn bị một ít để lo hậu sự dưỡng già; tương lai mình ắt có bệnh phải cụ bị một khoảng tiền để chi phí thuốc men; tương lai ắt phải chết, lúc chết phải mai táng ra sao? v… Nếu bạn có cách suy nghĩ này là sai rồi! Hiện tại chưa già lại chuẩn bị già, bạn sẽ già rất nhanh! Hiện tại không bệnh đã chuẩn bị tiền thuốc thang, ở đó mà chờ bệnh làm sao không bệnh! Thậm chí đến suy nghĩ: Khi chết phải tìm nơi phong thủy tốt, thì bạn sẽ chết rất nhanh! Thảy đều sai hết!

Chân thật lo xa, nghĩ đến những sự việc này phải mau tu tập Phật pháp Đại Thừa. Kinh Vô Lượng Thọ, thành thật mà nói, chính là dạy bạn làm thế nào không già, không bệnh, không chết. Ba vấn đề lớn này, Phật pháp đích thật vì chúng ta giải quyết đến cứu cánh viên mãn. Vãng sinh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc không phải chết, đó là sống mà ra đi.

Những năm gần đây ở Singapore và Malaysia, người niệm Phật vãng sinh không ít. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên đưa người vãng sinh rất nhiều. Chính mắt ông xem thấy hiện tượng, tướng lạ vãng sinh là sống mà ra đi, không phải chết mới ra đi. Họ thấy được Phật A Di Đà đến tiếp dẫn, nói với người xung quanh: Phật đến rồi! Tôi theo ngài đi đây, liền đi theo ngài.

– Sao họ có thể đi được?

– Vì họ có thể buông bỏ tất cả bất cứ lúc nào, không phải đến lâm chung mới buông bỏ.

Dĩ Định Tuệ lực, hàng phục ma oán(Đem sức Định Tuệ hàng phục  ma oán) Đây là tướng thứ năm “hàng  ma” trong “tám tướng thành đạo”. “Ma” là tiếng gọi tắt của chữ Phạn “Ma la” (māra) có nghĩa là sự dày vò, Hán dịch là “chướng ngại” vì nó hay gây chướng ngại cho người tu đạo, cũng dịch là “sát giả” ( kẻ giết chóc) vì nó thường hành phóng dật, đoạn tuệ mạng, làm tổn hại đến sự lành của con người. “Ma-la” còn dịch là “ác giả” ( kẻ ác) vì lắm ái dục. Trên kinh nói có đến Tứ Ma (bốn loại ma):

1. Phiền não ma

Phiền não ma là tham, sân, si cũng bao gồm cả thất tình, lục dục có thể làm não hại thân, tâm hủy hoại thiện pháp.

2. Ngũ Ấm ma

Tức là thân ngũ ấm của chúng ta. Thân Ngũ Ấm ( sắc, thọ, tưởng, hành, thức) có thể gây ra vô số khổ não. “Sắc” là phần vật chất, là sắc thân này; “Thọ, tưởng, hành, thức” là tâm cùng với tác dụng tâm lý. Bản thân của “ngũ ấm” tức là ma. Bồ Tát tu hành trên con đường Bồ Đề gặp biết bao nhiêu là chướng nạn, sự dày vò của “ngũ ấm”, mỗi người chúng ta đều không thể tránh được!

– Chư Phật, Bồ Tát thị hiện ở thế gian cũng qua hình tướng thân ngũ ấm này có phải chịu khổ chăng?

– Trên hình tướng họ vẫn phải chịu khổ. Nhưng, thực tế các ngài không hề có khổ. Chúng ta thấy từ cách ăn mặc, đi đứng, đời sống v.v… của các ngài không hề khác với chúng ta. Phàm phu có khổ, vui; các ngài cũng có vui, có khổ. Nhưng cái khổ, vui của các ngài chỉ là thị hiện để thức tỉnh phàm phu chúng ta mà thôi.

Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói đến năm mươi loại “ấm ma”. Năm mươi loại này là: Sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm, và thức ấm. Trong mỗi “ấm” có mười loại, họp thành năm mươi loại “ấm ma”.

Trong Phật kinh có nói đến ba cõi: Dục giới, Sắc giới, và Vô Sắc giới. Dục giới, Sắc giới đều có thân thể chỉ thiên nhân ở Vô Sắc giới, tầng trời thứ tư không có thân tướng. Họ không cần thân, chúng ta gọi là “linh giới”, đó là cao cấp nhất trong phàm phu.

– Họ có được xem là giác ngộ không?

– Không thể nói họ không giác ngộ; nhưng phải biết họ không phải Chánh Giác! Trong Phật pháp “giác ngộ” là Chánh Giác. Chữ “Chánh” chỉ riêng nhà Phật mới có. Người thế gian tuy “giác” mà không “Chánh”. Chúng ta xét từ người trời “Tứ không” sẽ nhận ra rất rõ ràng:

– Người “trời Tứ Không” không cần thân có thể giải quyết được vấn đề hay không?

– Vẫn không thể giải quyết được!

Cho dù sinh đến “Phi Tưởng Phi Phi Tưởng thiên”, tuổi thọ tám vạn đại kiếp cũng vẫn là có kỳ hạn; tám vạn đại kiếp đến rồi họ vẫn phải đọa lạc! Ngạn ngữ thường nói: “Trèo cao té nặng!” Họ vừa đọa liền đọa vào địa ngục! Hơn nữa, tuyệt đại đa số bị đọa lạc trong “vô gián địa ngục”! Là người tu hành, họ tu đến cảnh giới này tự cho rằng chính mình đã thành Phật, chứng được Đại Niết Bàn! (Niết Bàn là không sinh không diệt), họ đem trời Tứ Thiền, trời Vô Tưởng, trời Tứ Không cho là Niết Bàn. Đó là sai lầm ngộ nhận! Chúng ta không thể không rõ được ý này.

3.  Tử ma

Có thể hoại diệt mạng căn con người, đây là nói sinh tử dày vò! Con người không thể sống mãi! Giả như công phu tu hành của chúng ta chưa thành tựu mà cái chết đã đến thì thật vô cùng đáng tiếc! Cho dù có được luân hồi trở lại làm người, vẫn còn bị cái “mê cách ấm”, sự việc của kiếp trước hoàn toàn quên sạch! Có gặp được thiện-tri-thức tốt, vẫn phải tu lại từ đầu! Cái chết đích thật là sự dày vò! Nếu không có sự chết thì việc tu học của chúng ta đã sớm thành tựu rồi.

Tôi thường nói tu học theo Kinh Vô Lượng Thọ thật sự là ngay đời này nhất định không già, không bệnh, không chết. Đáng tiếc người tin thật quá ít! Đúng như chư Phật nói: Đây là pháp khó tin, chân thật là khó tin! Chắc chắn có người hỏi:

– Bạn nói không chết, tôi thấy người niệm Phật chết cũng không ít, sao nói là không chết?!

– Kỳ thật người niệm Phật không chết! Khi lâm chung Phật đến tiếp dẫn, họ rõ rõ ràng ràng, thông suốt thấu đáo, không có đau khổ, hoan hỉ vứt bỏ thân này mà đi theo Phật. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới mãi mãi không già, không bệnh, không chết; tất cả đều tùy tâm sở hiện, chân thật là tâm tưởng sự thành.

4.  Thiên ma

Đây là sự quấy nhiễu, chướng ngại từ hoàn cảnh bên ngoài, không từ nơi tự thân. Trên kinh Phật nói thiên ma là ma vương Ba Tuần thích hủy hoại sự lành của người khác. Loại ma bị hàng phục trong kinh này là “Thiên ma”. Bốn loại ma trên đây: Ba loại trước phát xuất từ tự thân chúng ta; chỉ có Thiên ma là từ bên ngoài.

– Loại ma bên ngoài là gì?

– Đó chính là muôn hình vạn trạng của thế giới hiện tại, bao gồm tất cả người, sự vật đang phô bày trước mắt, đang mê hoặc chúng ta làm mất đi sự an lành của thân tâm!

– Làm thế nào phân biệt được ma oán?

– Lấy đề kinh này làm tiêu chuẩn! Tổng cương lĩnh của đề kinh gồm năm chữ: “Thanh tịnh, bình đẳng, giác”. Khi tiếp xúc với người, với sự, với vật mà tâm bạn được thanh tịnh, được bình đẳng, được giác ngộ an vui thì đó là Chánh pháp. Ngược lại, nếu tâm bạn bị phiền não nhiễm ô khởi dậy, thì đó là tà pháp.

Chỗ này Phật dạy: Phải dùng lực Định Tuệ để hàng phục ma oán. “Oán” là oan gia không phải chỉ một đời mà vô lượng đời kiếp, khi bạn muốn tu, họ liền đến gây phiền phức. Bạn phải có sức Định Tuệ duy trì được chủ tể, không bị ngoại duyên khống chế. Nhờ sức Định Tuệ giúp bạn hàng phục được ma oán. Trên đạo Bồ Đề, ma chướng, oan gia trái chủ quá nhiều; không có Định Tuệ làm sao một đời này có thể thành tựu!

Tôi học với thầy Lý, lần đầu gặp tôi, ông liền nói: -Năng lực tôi chỉ có thể dạy ông năm năm! Đây là lời khách sáo! Mục đích của ông chính là hy vọng tôi có thể nghe ông dạy bảo trong vòng năm năm. Năm năm này không rời khỏi ông. Năm năm tuân thủ qui củ của ông cũng chính là nghe một mình ông giảng kinh nói pháp. Một môn thâm nhập! Cắm gốc! Cái gốc này sâu! Cái được chính là Định Tuệ. Sau đó đối với tất cả người, tất cả sự vật đều thay đổi. Tự mình quan sát thấy đích thật là khác hẳn với ngày trước rất nhiều. Trong vòng thời gian bao lâu?- Chỉ ba tháng liền thấy được hiệu quả!

Ban đầu thầy dặn bảo, tôi cũng có chút miễn cưỡng, cảm thấy thái độ của thầy dường như quá ngạo mạn, quá ngang ngược, quá tự đại, gần như thế gian này chỉ có mỗi mình thầy, người khác đều không bằng! Khiến tôi có cảm xúc: Mình không có trí tuệ, cha mẹ ở nhà không dạy tôi! Sao có thể nói: Chỉ được nghe mỗi mình thầy, không được nghe bất cứ người nào! Không những thế, tất cả văn tự nếu không được sự đồng ý của thầy, cũng không được xem! Lại còn một việc nữa: Những gì tôi học trước đây, thầy đều không thừa nhận, một mực bài trừ, phải học lại với thầy từ đầu! Thật không có lời gì để nói!

Tôi vẫn xem mình còn có chút thiện căn, phước đức, thật chịu nghe lời, thật chịu tiếp nhận, y giáo phụng hành. Qua được ba tháng, chính mình liền phát hiện tâm thanh tịnh, thật có chỗ tốt. Ba tháng không đi khắp nơi nghe; bất cứ người nào nói chuyện đều không được nghe. Bịt lỗ tai lại!!

Giáo trình thầy chỉ định rất có hạn, ngoài số đó ra, thứ khác không được xem, cũng đóng bít luôn cái nhìn của mình! Tất cả pháp không thấy, không nghe, dần dần tâm được Định. Dùng phương pháp này dạy cho tôi tu Thiền Định, Định có thể khai Tuệ. Chỉ sau ba tháng, nghe người khác nói chuyện, nhìn thấy mọi việc, chính mình cảm thấy thông minh hơn trước nhiều. Sau sáu tháng thì rất rõ ràng, bội phục tận đáy lòng đối với thầy; biết được phương pháp của thầy là cao minh tuyệt diệu, chưa từng được thấy qua, cũng chưa từng được nghe qua.

Cho nên, sau năm năm, tôi liền nói với thầy: Con xin giữ thêm năm năm nữa. Thầy yêu cầu tôi năm năm, tôi tuân thủ qui củ của thầy mười năm. Sau mười năm giảng kinh mới được thành thạo, tất cả đều trôi chảy, nhờ gốc đã cắm sâu. Không giữ qui củ, tự cho mình thông minh, nhất định thất bại! Đồng học thất bại rất nhiều! Học trò thầy dạy có đến một, hai trăm người; chân thật có thể thành tựu, hiện tại chỉ có ba người!

– Làm thế nào được thành tựu?

– Giữ qui củ, thành thật nghe lời mới có thể thành tựu. Phàm tự cho mình là đúng, sau cùng đều thất bại cả! Họ cũng giảng kinh, giảng mấy năm không có tiến bộ! Thính chúng ngày càng ít thì duyên cũng không còn, chính họ cũng không giảng nữa!

Cho nên, không vâng lời giáo huấn của thầy, bạn không có sức Định, không có hàng tâm, không có nhẫn nại, bạn làm sao có thành tựu?! Đó là đại sự nghiệp! Phật pháp là siêu việt ba cõi,   siêu việt mười pháp giới, thành Phật, làm Tổ. Nếu không tu học như lý, như pháp thì không thể thành tựu, bỏ mất đi cơ duyên của đời này! Phải biết: Chính mình không phải là thượng căn, lợi trí, đi theo con đường cũ vẫn là đáng tin.

Đại Sư Thanh Lương trong Hoa Nghiêm Sớ Sao, nói:

– Thích Ca Mâu Ni Phật có nói pháp không?

– Không có! Pháp mà Thích Ca Mâu Ni Phật nói trong bốn mươi chín năm, không có câu nào do ngài sáng tạo mà chỉ là “thuật nhi bất tác” của cổ Phật đã nói.

Tác tư thị hiện, thuận thế gian cố(Thị hiện như thế để thuận theo thế gian): Đây là khải phát, dạy bảo chúng ta noi theo con đường của Cổ Thánh tiên Hiền chắc chắn sẽ không sai. Không nên tự cho mình là thông minh, muốn làm mới. Làm mới, vấn đề liền xuất hiện! Phương pháp, nguyên lý, nguyên tắc nhất định không thể thay đổi, nhưng hình thức có thể tùy thời mà thay đổi. Như giảng đường này của chúng ta hiện đại hóa: Nghi qui chúng ta có thể tiết chế bớt. Trước kia nghi qui đại tòa phải làm bốn mươi phút; người hiện tại công việc quá bận rộn đâu thể lãng phí thời gian đến bốn mươi phút! Cho nên, chúng ta phải giảm bớt nghi qui. Nếu từ trên lý luận, phương pháp, lại chế ra một nghi qui mới thì đó là đặc biệt sai lầm!

Cư Sĩ Lâm muốn xây dựng Niệm Phật Đường, cư sĩ Lý Mộc Nguyên bàn với tôi: Niệm Phật Đường chọn lấy qui củ xưa của Đại Sư Ấn Quang, không thể sai khác. Chúng ta làm thế nào cũng không thể vượt trội hơn người xưa; nếu làm sai, nhân quả sẽ gánh vác không nổi! Hoàn toàn mô phỏng theo nghi qui của Linh Nham Sơn, nếu qui củ này có sai, Đại Sư Ấn Quang chịu trách nhiệm! Chúng ta có chỗ đẩy trách nhiệm , vậy thì tốt!

Tóm lại, “oán” là oan gia đối đầu. Chúng ta phải có sức Định Tuệ mới hàng phục được ma oán. Trong oan gia có hai loại: “Phiền não oan gia” và “hoan hỉ oan gia”. Sự việc khiến ngày ngày bạn sinh tâm phiền não là oan gia; sự việc khiến ngày ngày bạn sinh tâm hoan hỉ cũng là oan gia. Cái “hoan hỉ oan gia” này luôn làm cho tâm bạn vướng bận, không thể buông bỏ được!

Có lão cư sĩ đến nói với tôi:

– Pháp sư à! Những năm qua tôi niệm Phật cũng không tệ, bất cứ thứ gì tôi đều có thể buông bỏ, chỉ có đứa cháu là tôi không thể buông, vậy phải làm sao?!

– Đứa cháu đó chính là oan gia của ông, ông không quên nó được! Chỉ cần một việc không thể buông thì không thể nào được vãng sinh! Khi A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, bạn nói: Còn việc này con chưa buông, việc kia con chưa buông; A Di Đà Phật không thể đợi bạn, ngài liền đi mất! Do đó ở chỗ này, đức Phật dạy chúng ta phải dùng Định Tuệ lực mới có thể hàng phục được “ma oán”. Riêng về “Ngũ ấm ma”, muốn hàng phục nó, ngoài những phương cách đã đề cập trên, chúng ta cũng cần phải:

1. Gìn giữ thân thể khỏe mạnh: Thân bệnh, chính là bốn đại không điều hòa. Thành thật mà nói: Nếu bạn có bệnh, chính là bạn không có công phu! Người thật có công phu, nếu bệnh, đó chỉ là thị hiện.

Cư sĩ Duy Ma Cật thị hiện giả bệnh. Ngài giả bệnh là phương tiện hóa độ chúng sinh, không phải ngài thật bệnh. Vậy bạn bị bệnh, rốt là giả bệnh hay bệnh thật? Việc này chính bạn phải rõ ràng! Cho nên, thân thể nhất định phải khỏe mạnh, đó chính là hàng phục “Ngũ Ấm ma”.

2. Dung mạo không dễ bị suy già: Đây cũng thuộc về “Ngũ Ấm ma”. Hiện tại có rất nhiều người chú trọng đến dưỡng sinh, phải ăn thực phẩm gì để thân thể khỏe mạnh, phải trị liệu thế nào về sinh lý, phải vận động ra sao để bảo dưỡng thân thể v.v… Tôi thấy đều không có hiệu quả!

– Trong Phật pháp nói đạo dưỡng sinh là nói cái gì?

– Là tu Định, tu Tuệ!

– Tu Định có phải mỗi ngày chéo gối xếp bằng, quay mặt vào vách không?

– Đích thực là không! Có người nói đến tu Định, mỗi ngày phải ngồi xếp bằng, ngồi mấy giờ đồng hồ. Thế nhưng, những người tu Định này tôi cũng thấy qua: Tướng mạo năm sau không bằng năm trước, thân thể cũng như vậy!

– Đó là do đâu? Mỗi ngày tuy ngồi mấy giờ đồng hồ, trong tâm vẫn khởi lên vọng tưởng, làm sao gọi là Định chứ! Nên biết: Định là trong tâm không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước; không nhất định phải chéo gối ngồi xếp bằng. Chúng ta xem thấy Đại Sư Huệ Năng, tổ thứ sáu của thiền tông là người rất cừ khôi. Trên Đàn Kinh không ghi chép mỗi ngày ngài ngồi thiền mấy tiếng đồng hồ mà chỉ ghi chép số lượng công việc của ngài rất nhiều. Ở Hoàng Mai, trong nhà trù ngài bổ củi, giả gạo, làm công việc thô nặng này. Nếu ngài xếp bằng quay mặt vào vách, đạo tràng này không có cơm ăn! Ngài giả gạo cung cấp cơm ăn cho cả một đạo tràng đông người, đủ biết công việc của ngài rất nhọc cực, làm gì có thời gian để ngồi thiền! Thử hỏi:

– Ngài có ngồi thiền hay không?

– Có! Làm việc chính là “tọa thiền”. Ngài nói với chúng ta ý nghĩa của “tọa thiền” như sau: “Tọa” là lấy cái ý “bất động”, là tâm bất động không phải thân bất động, không phải bảo bạn mỗi ngày từ sớm đến tối ngồi đó! Ngồi ở đó thì ai hầu bạn?! Phước báo của bạn được bao nhiêu? Phật dạy: Phước tuệ phải song tu, bạn ngồi đó hưởng phước làm sao được!

Cho nên, không dính mắc là “Thiền”, không động tâm là “tọa”. Thân có thể động, mỗi ngày từ sớm đến tối làm việc, bận rộn đến quên hết tất cả nhưng trong tâm không hề có khởi vọng niệm. Cái bản lĩnh này cao, tâm địa thanh tịnh. Không luận làm bất cứ việc gì, công việc dù nặng nhọc, vất vả đến đâu họ vẫn an nhiên làm việc trong tư thái rất khoan thai, nhẹ nhàng.- Vì sao? Vì họ không dính mắc vào tướng công việc! Phàm phu chúng ta hễ làm công việc gì nặng nhọc, khó khăn thường cảm thấy rất vất vả, mệt nhọc, ấy là do ta chấp trước vào công việc. Nếu không chấp trước vào công việc, bạn sẽ không có cảm xúc.

Tóm lại, thật sự mà nói: “oan gia trái chủ” rất khó ở với nhau. Trong kinh Phật nói với chúng ta: “Oan gia nên giải không nên kết”, phải giải cái oán kết này, phải có tính nhẫn nại rất lớn, trí tuệ cao độ, nơi nơi đều nhường nhịn thì có thể hóa giải, sổ nợ liền tính xong, quyết không thể có tâm oán hận hay báo thù. Nếu tâm oán hận hay báo thù không xả bỏ thì oan gia sẽ kết chặt không thể hóa giải. Đời này, họ báo thù bạn, đến đời sau bạn lại báo thù họ. Càng diễn, càng tàn khốc! Mỗi lần báo thù nhất định là vượt trội hơn lần trước! Bạn có ân với người khác không nên mong cầu họ đáp lại. Nếu có oán với người khác phải mau mau hóa giải ngay trong đời này, quyết không kết oán gây thù với bất cứ người nào. Đó là nguyên tắc căn bản.

“Đắc vi diệu pháp, thành tối Chánh Giác” (Đắc vi diệu pháp thành Chánh Giác cao tột): Đây là tướng thành đạo thứ sáu trong “Bát tướng thành đạo”. Chữ “vi diệu” như Kinh Duy Ma  nói:

“Vi diệu thị Bồ Đề, chư pháp nan tri cố” (Vi diệu là Bồ Đề, vì các pháp khó biết) Bồ Đề là tri kiến của Phật, cũng chính là “ Thật Tế Lý Thể”, là tự tánh của đương nhân. “Tối Chánh Giác” là sự giác ngộ vô thượng cứu cánh viên mãn của Phật. “Thành tối Chánh giác” là rốt ráo thành Phật.

Hòa Thượng Tịnh Không nói câu “đắc vi diệu pháp”, trong “Yếu Giải” của Đại Sư Ngẫu Ích giảng rất hay là: Thích Ca Mâu Ni Phật do niệm A Di Đà Phật mà thành Phật! “Vi diệu pháp” đó chính là niệm A Di Đà Phật, là pháp môn Niệm Phật. Lời nói này, Đại Sư Ngẫu Ích đã vì chúng ta mà nói toạt ra. Kỳ thật trên kinh điển Phật cùng các Tổ sư, đại đức xưa nay cũng đã từng nói nhưng không rõ ràng như vậy.

Trong “Tịnh độ tam phước” có câu: “Phát Bồ Đề tâm, thâm tín nhân quả”, câu nói này trước đây trong nhiều năm tôi cũng không nghĩ ra được thật nghĩa của “thâm tín nhân quả”. Cuối cùng, bỗng nhiên tôi trực nhận: “niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”. “Niệm Phật thành Phật” là đạo lý nhất định. Cái “vi diệu pháp” này chúng ta phải đặc biệt lưu ý, phải đặc biệt xem trọng.

Trên Kinh Địa Tạng, đọc đến đại trưởng giả, Bà-la-môn nữ, Quang Mục nữ; mỗi người đều chọn lấy pháp môn Niệm Phật. Đặc biệt là Bà-la-môn nữ, Quang Mục nữ đều biết mẫu thân mình đời trước tạo tác tội nghiệp cực trọng; tội nghiệp này nhất định là ở địa ngục. Họ đều là hiếu nữ, suy nghĩ mãi làm thế nào để siêu độ mẫu thân, bèn cầu Phật gia trì, Phật dạy họ phương pháp, đó chính là niệm Phật, quả nhiên liền có hiệu quả.

Trên kinh Đại Thừa thường nói: “Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh”. Kinh Lăng Nghiêm cũng nói: “Nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền tương lai nhất định thấy Phật”. Đây chính là nguyên lý “Niệm Phật thành Phật”.

Đức Thích Ca Mâu Ni Phật “đắc vi diệu pháp thành tối Chánh Giác”. Ngày nay, chúng ta cũng được “vi diệu pháp” là Kinh Vô Lượng Thọ này, vấn đề chính là chúng ta có thành tựu “Tối Chánh Giác” hay không? Nếu muốn thành “Tối Chánh Giác” không gì hơn là “y giáo phụng hành”. Có như vậy thì việc vãng sinh Tây Phương Cực Lạc, chúng ta chắc chắn có phần. Pháp môn này là “tam căn phổ bị”, cả ba căn đều nhiếp, lợi độn đều thu.

Ngày trước, lão pháp sư Đế Nhàn dạy đồ đệ của ngài là người thợ vá nồi, vị này niệm Phật được ba năm, đứng mà vãng sinh. Sau khi chết, còn đứng đó ba ngày, đợi sư phụ đến lo hậu sự cho ông. Có người nào sau khi chết còn có thể đứng đó ba ngày?! Đế lão dạy ông phương pháp rất đơn giản là thành thật niệm Phật, không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn; niệm mệt thì nghỉ, nghỉ xong thì niệm tiếp. Ông thật y giáo phụng hành, suốt ba năm chỉ làm như vậy, làm được thành công.

Phương pháp niệm Phật, chúng ta tuân thủ theo pháp sư Hành Sách, tổ thứ mười của Tịnh Tông là nhiễu Phật, chỉ tịnh, lễ bái. Tương lai nếu đông người, “Niệm Phật Đường” chúng ta phải phân thành khu. Tượng Phật phải đặt ngay giữa để có thể nhiễu Phật, không nên để trên đài. Phía sau tượng Phật nhất định phải có lối đi mới có thể nhiễu Phật. Niệm Phật là lấy nhiễu Phật làm chủ đạo. Do tinh thần, thể lực chúng ta không đủ, không thể duy trì quá lâu, cho nên, khi nhiễu Phật mệt rồi thì nên ngồi xuống chốc lát nghỉ ngơi.

Trong “Kinh Hoa Nghiêm tám mươi”, Thiện tài đồng tử đi tham học; tham phỏng vị thứ nhất là Tỳ kheo Đức Vân (trong “Kinh Hoa Nghiêm bốn mươi” gọi là tỳ kheo Kiết Tường Vân) nhưng không tìm thấy ngài. Sau cùng, “Biệt phong kiến đạo”, trên đỉnh núi còn có một đỉnh núi khác.

– “ Biệt phong” đại biểu cho ý gì?

– Đại biểu cho pháp môn đặc biệt, chính là Pháp môn Tịnh Độ. Ngài tu pháp môn đặc biệt này, tu ở nơi “Biệt phong”

– Ngài tu như thế nào?

– “Bát Chu tam-muội”, chỉ đứng và kinh hành nhiễu Phật, không ngồi, không nằm.

Thông thường chúng ta nói “Ban Chu tam-muội”, một kỳ là ba tháng. Việc này phải có thể lực rất tốt mới kham nổi, người thông thường không làm được! Chỉ một ngày một đêm không ngủ, đã chịu không nổi rồi! Chín mươi ngày không ngủ, làm sao có thể chịu nổi! Không chỉ không ngủ, ngay đến ngồi cũng không được ngồi! Cho nên, phải biết Niệm Phật Đường là lấy nhiễu Phật làm chủ đạo, khi nhiễu Phật phải niệm ra tiếng, nhiễu Phật mệt rồi, bên cạnh có bồ đoàn nên ngồi xuống tiếp tục niệm theo đại chúng. Lúc ngồi, có thể không niệm ra tiếng. Nếu ngồi mà hôn trầm, ngũ gật nên đứng dậy đến trước tượng Phật lễ lạy.

Lạy Phật cũng là cách điều tiết, vận động thân thể. Điều tiết thân thể, nếu thật quá mệt nên đến phòng bên cạnh nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi khỏe rồi, phải mau trở lại niệm Phật, đây là thật dụng công! Chân thật nỗ lực! Hy vọng các đồng tu dốc hết tâm lực thành tựu đạo tràng này. Không luận là sức cống hiến của bạn lớn hay nhỏ, Kinh Hoa Nghiêm nói: Tất cả đều bình đẳng. Chỉ một niệm thiện, một chút công đức nho nhỏ đều là tận hư không khắp pháp giới, phước báo vô lượng vô biên. Lời nói này chúng ta có thể khẳng định, không nên hoài nghi.