Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng
觀世音菩薩本跡感應頌
Bành Trạch Bồ Tát Giới đệ tử Hứa Chỉ Tịnh soạn
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Minh Tiến, Huệ Trang, Vạn Từ và Đức Phong

 

QUYỂN IV PHẦN 4

Ngạn Thông vội gieo khe suối sâu, tay nhuốm mùi thơm phức.         

Chú thích: Theo Báo Ứng Ký, đời Tùy, Lục Ngạn Thông hằng ngày trì kinh Kim Cang mười biến, lúc làm quan ở Vũ Lao, người trong ấp muốn giết chết họ Lục để theo Lý Mật[1]. Ngạn Thông vội bỏ trốn, kẻ giặc cầm dao đuổi theo. Trước mặt là khe suối sâu, bí quá phải nhảy xuống. Chợt có người nắm lấy tay phải, đặt ông ta trên tảng đá, trọn chẳng bị thương tích gì! Trên hư không có tiếng nói: “Do ông niệm kinh mà ra”. Do vậy bèn trở về nhà, cánh tay có mùi hương lạ cả ngày không hết. Về sau, ông làm quan tới chức Phương Bá[2], thọ ngoài chín mươi.

Nguyên Sơ té giữa giòng, lưng tỏa ánh sáng.

Chú thích: Theo Báo Ứng Ký, vào đời Đường, Nguyên Sơ ở Cửu Giang bán củi ở chợ, tuổi đã 70, thường trì kinh Kim Cang. Đến chiều, trở về Giang Bắc, giữa giòng sóng to gió lớn nổi lên, những người cùng đi đều chết sạch. Chỉ mình Nguyên Sơ nổi trên mặt nước, liền giạt vào bờ Nam. Những thuyền đậu ở đó đều là thuyền của thương nhân lớn, thấy sau lưng Nguyên Sơ có ánh sáng tỏa cao đến mấy thước, cho là bậc quý nhân. Đến lúc nói chuyện mới biết là ông lão nhà quê. Do vậy, họ cật vấn ánh sáng từ đâu mà có, ông đáp: “Tôi đọc kinh Kim Cang năm mươi năm, đeo kinh trên lưng. Ách nạn từ trước tới nay, không gì chẳng được thoát!”

Lợi Tân được cứu, dường có thần long.

Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, vào đời Đường, Trần Lợi Tân ở Cối Kê tụng kinh Kim Cang từ bé. Qua Đông Dương, gặp lúc trời mưa lâu ngày, nước lớn tràn ngập, thuyền của Lợi Tân nương gió bơi tới Giới Thạch Đậu, bị sóng gió vùi dập, hai mươi mấy người cùng thuyền đều bó tay. Lợi Tân vội tụng kinh Kim Cang, chợt có một vật giống như con rồng đỏ chặn ngang, nâng thuyền lên, do vậy được cứu.

Duy Ngọc sắp chìm, chợt mái chèo trôi tới.  

Chú thích: Theo Quảng Dị Ký, vào đời Đường, Biệt Giá[3] xứ Kiền Châu là Lý Duy Ngọc tụng kinh Kim Cang, thường ngồi thuyền vượt Tam Hiệp, nước chảy xiết, mái chèo gãy, thuyền sắp đắm, bèn dốc hết sức niệm kinh, chợt thấy một mái chèo theo giòng nước trôi tới, bèn được thoát.

Thần đi trên mặt nước, nâng cao thuyền bị chìm.  

Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm, vào đời Minh, Trầm Tế Hoàn trì kinh Kim Cang, từng giữa giòng gặp gió lốc tại Thái Hồ, sóng to như cái nhà, mái chèo, bánh lái mất sạch. Thuyền đã chìm xuống đáy nước. Trong lúc hô hoán, cầu cứu, người trên bờ thấy có hai vị thần kim giáp đi trên mặt nước, ở hai bên nâng thuyền lên, kềm đi như bay. Trong khoảnh khắc đến được bờ. Người trong thuyền biết là thần Kim Cang, cùng cảm đức của họ Trầm.

Rồng đánh nhau trên không, ngầm giúp thuyền chở lương.  

Chú thích: Theo Thọ Trì Quả Báo, vào đời Minh, Châu Thọ Tăng ở Tô Châu chở lương vào Hoàng Hà. Đồng cốt nói: “Ắt phải sát sanh để trám miệng thần sông”. Ông Châu chuyên trì kinh Kim Cang, cho rằng không thể làm chuyện ấy được, mỗi ngày chỉ tụng kinh hồi hướng cho thần sông mà thôi. Một hôm mưa to gió lớn, rồng đánh nhau trên không, cột buồm, mui thuyền, phên, liếp đều bị cuốn sạch. Hàng vạn con thuyền trôi giạt không điều khiển được! Ông Châu đốt hương tụng kinh càng thêm thành kính, trong khoảnh khắc gió lặng, thuyền chở lương không bị tổn hại gì.

Xóm thợ đào bạc gặp nạn, nhà tranh vẫn còn.  

Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, trong niên hiệu Diên Hòa đời Đường, nhà của dân đào bạc ở Nhiêu Châu có hơn một vạn, toàn là nhà tranh cất san sát. Một hôm hỏa hoạn, một vạn căn nhà đều cháy sạch, chỉ riêng một căn vẫn còn. Hỏi ra thì nhà người ấy đời đời thờ Phật, trì kinh Kim Cang.

Lửa thiêu chốn săn bắn, đám cỏ tự xum xuê.  

Chú thích: Theo Pháp Uyển Châu Lâm, vào đời Đường, Tôn Thọ ở Bình Châu đi săn ở Hải Tân, đốt lửa giữa đồng, cỏ cây cháy sạch, chỉ có một đám cỏ không cháy. Lục tìm thì được một hộp kinh Kim Cang, bên cạnh đó có một vị Tăng đã chết nhưng vẻ mặt không thay đổi. Lửa chẳng cháy được là do lẽ ấy.

Lão Tử thành tro, riêng đề kinh Bát Nhã chỉ ám khói.

 Chú thích: Theo Pháp Uyển Châu Lâm, vào năm Trinh Quán thứ 5 (631) đời Đường, tại huyện Ba Tây ở Long Châu, Lệnh Hồ Nguyên Quỹ kính tin Phật pháp, muốn chép các kinh Pháp Hoa, Kim Cang, Niết Bàn v.v… nhưng không cách nào tự kiểm được, bèn cậy Kháng thiền sư ở nơi ấy kiểm giảo. Kháng thiền sư ở chùa theo đúng pháp khiết tịnh, chép xong cuốn cuối cùng, giao trả về trang trại [của Lệnh Hồ Nguyên Quỹ] tại Kỹ Châu. Trong trang trại, kinh được để cùng một chỗ với bài văn năm ngàn chữ của Lão Tử[4]. Chợt bị lửa từ bên ngoài cháy lan tới, nhà tranh cháy sạch. [Nguyên Quỹ] bèn sai bới tro để tìm tượng Phật bằng đồng mạ vàng và ống đựng kinh. Bới tro ra thì các kinh vẫn y hệt như cũ. Lại tìm kinh của Lão Tử thì đã bị lửa cháy rụi. Người trông thấy không ai chẳng than lạ! Một quyển kinh Kim Cang chỉ có tựa đề bị khói ám đen, hỏi tới nguyên do, thì ra lúc mới đề tựa kinh, có vị quan trong châu viết chữ đẹp, nhưng phải đi gấp nên chẳng thể khiết tịnh, cứ đề tựa ngay rồi đi. Do vậy, bị lửa hun đen. Khi ấy nhằm lúc Nguyên Quỹ làm huyện lệnh huyện Phùng Tường.

Trong thôn bốc lửa, thiêu tinh xá, kinh vẫn còn nguyên.  

Chú thích: Theo Pháp Uyển Châu Lâm, vào đời Đường, tại làng Tây Nhập huyện Tế Âm, Tào Châu, có tinh xá. Tháng Mười nhằm mùa Đông năm Long Sóc thứ hai (662), lửa đốt đồng chợt bốc cháy hết sức mạnh mẽ, cháy lan đến tinh xá, rồi cháy tiếp sang nơi khác. Những tăng phòng nơi ấy toàn là nhà tranh đều cháy rụi, chỉ có kinh Kim Cang vẫn như cũ.

Hãm trong hang chẳng nhớ năm tháng, thần ban lương khô.

Chú thích: Theo Đông Pha Chí Lâm, vào đời Tống, Tưởng Trọng Phủ nghe Tôn Cảnh Tu kể: – Mấy năm gần đây có người đào núi để tìm mỏ bạc, đến chỗ núi sâu, nghe có tiếng tụng kinh, bèn bới ra được một người, nói: “Tôi cũng là thợ mỏ, do hang sụp nên không thoát ra được, bị vùi ở đây chẳng biết mấy năm, toàn là dõi theo kinh Kim Cang để tụng. Mỗi khi đói khát, liền dường như có người lấy lương khô từ dưới nách trao cho, ấy chắc là do kinh này biến hiện”.

Đi đường hiểm chẳng bị đói khát, trẻ tặng mâm cơm.

Chú thích: Theo Báo Ứng Ký, vào đời Đường, Chí Thông thường trì kinh Kim Cang. Năm hai mươi tuổi, bị bắt làm lính, thua trận chạy vào núi hiểm trở, suốt ngày không có gì ăn. Có hai đứa bé trai cầm bát cơm đầy đến trao cho. Chí Thông bái tạ, chợt chẳng thấy chúng đâu nữa. Ăn xong, nhiều ngày không đói. Sau này về được quê nhà. Năm Trinh Quán thứ 8 (634) bị bệnh chết hai ngày rồi sống lại, bảo: “Do trì kinh nên Diêm Vương cho về”.

Dẫn Thiện Xung ngầm trốn, chẳng đến nỗi thân vùi nơi xứ lạ.

Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, vào đời Đường, Thôi Thiện Xung làm huyện thừa xứ Tử Châu, gặp nhằm lúc các sắc dân thiểu số nổi loạn. Thiện Xung ban đêm bôn tẩu, tính đến nương náu tại Côn Minh, nhưng tối tăm không biết đường, bèn kiền thành tụng kinh Bát Nhã. Chợt có ánh đuốc đằng trước, cứ đi theo đó, đến sáng bèn tới được Côn Minh.

Soi lối cho Khắc Cần trốn lánh trong đêm, khiến khỏi chết uổng xứ Liêu Đông.  

Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, vào đời Đường, Vỹ Khắc Cần trì kinh Kim Cang từ bé. Ông làm Trung Lang Tướng, theo quân đi đánh nước Liêu, bị lạc ở Cao Ly[5]. Trong niên hiệu Trinh Quán, Đường Thái Tông chinh phạt nước Liêu, trong đêm tối, Khắc Cần dò đường về với quân Đường, tối tăm chẳng biết đường, bèn chí tâm niệm kinh, trong khoảnh khắc thấy ánh đuốc dẫn lối đằng trước, bèn đến nơi.

Qua sông sóng dữ, chỉ riêng một thuyền tí tẹo vẫn còn.         

Chú thích: Theo Báo Ứng Ký, vào đời Đường, Vương Lệnh Vọng trì kinh Kim Cang từ bé. Ông từng làm Phán Ty ở An Châu, qua sông Dương Tử, trong đêm sóng gió nổi lên, mấy trăm chiếc thuyền đều chìm, chỉ mình thuyền Lệnh Vọng vẹn toàn.

Ven biển cuồng phong, am lẻ sừng sững vô sự.

Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm, trong niên hiệu Vĩnh Lạc đời Minh, cách huyện thành Như Cao của Dương Châu ba mươi dặm về phía Bắc, có Tôn Công từ năm hai mươi hai tuổi ăn chay trường, dựng am, sáng tối trang nghiêm tụng kinh Kim Cang ba mươi quyển, suốt bốn mươi năm như thế. Khi ấy am bị cỏ che lấp, ấp ở gần biển, chẳng có thành quách gì. Sài lang tàn hại dân, nghe tiếng tụng kinh liền cúi đầu bỏ đi. Ngẫu nhiên trời nổi bão lốc, những nhà gần đó đều đổ sạch. Ông cứ tụng kinh như thường, ngôi am sừng sững vô sự.

Nghê Cần gắng sức đọc tụng trong sảnh, sông trào nào ngại.

Chú thích: Theo Báo Ứng Ký, vào đời Đường, Nghê Cần trông nom kho trữ lúa ở Hưng Giáo thuộc Phù Châu, chuyên trì kinh Kim Cang. Kho trữ lúa ấy có sảnh thự nhìn ra sông, quang cảnh hết sức đẹp đẽ. Ông bèn bày tượng Phật, tụng kinh nơi đó. Ngày mồng Chín tháng Sáu, nước sông dâng to, nhưng nước chỉ ngập đến thềm tòa sảnh thự. Ông Cần tụng kinh càng thêm siêng năng, nước ngập tự rút. Nhìn quanh mấy dặm, nhà cửa đều bị nước nhấn chìm, chỉ có tòa sảnh thự ấy chẳng bị nước thấm ướt chút nào, kho lúa cũng không sao, mọi người đều lễ kính.

Hành Lập bỏ hàng hóa trốn trước, giặc đến không sao giở lên được.

Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, vào đời Đường, ở Thiểm Châu có Hình Hành Lập thường trì kinh Kim Cang, ngẫu nhiên do buôn bán phải sang Đồng Châu. Giữa đường gặp mười mấy tên giặc, Hành Lập bỏ hàng hóa lẩn trốn. Hàng hóa nặng không hơn năm sáu chục cân, nhưng bọn giặc giở lên, trọn chẳng thể giở lên được, nhìn nhau lấy làm lạ, kinh hãi, đuổi theo Hành Lập hỏi. Hành Lập mở bọc, chỉ kinh Kim Cang nói: “E là thần lực của kinh này”. Bọn cướp bỏ ra mấy ngàn đồng, thỉnh kinh đi, thề không làm giặc nữa, suốt đời thọ trì.

Thành Tương Dương cực loạn, Mạo Khởi Tông ngọa bệnh chống giữ.

Chú thích: Theo Thọ Trì Quả Báo, cuối đời Minh, Mạo Khởi Tông từ nhỏ đã thích trì kinh Kim Cang, được bổ làm quan tại Tương Dương. Tàn quân của Trương Lý [kéo về nương náu], hàng binh, kiêu soái không thể nào kiềm chế được, thư truyền lệnh[6] thúc hối hằng ngày, đêm không tháo đai. Khởi Tông cũng liều chết, vẫn soạn khắc kinh Kim Cang. Do vậy, bệnh ngầm thấu tận xương. Ông giữ thành ba trăm sáu mươi ngày đã chết ngất bốn lần, may mà thoát khỏi. Ông vừa từ quan được ba tháng thì thành Tương Dương lại bị vây hãm.

Mãnh thú chặn ngang, Vương Lệnh Vọng tụng kinh, thú bèn bỏ đi.

Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, vào đời Đường, Vương Lệnh Vọng trở về Củng Châu, phải đi qua suối, đường sá cực hiểm trở. Chợt gặp phải mãnh thú, kinh sợ phi thường, vội niệm kinh Kim Cang, mãnh thú nhìn chán, vẫy đuôi bỏ đi, nhỏ dãi đầy đất.

Đạo Ấm trên đường về, hổ sát bên tai.  

Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, vào đời Đường, một sa-di ở huyện Thạch Thủ là Đạo Ấm thường trì kinh Kim Cang. Do ra ngoài, trở về vào lúc ban đêm, giữa đường chợt gặp cọp rống, chồm lên trước mặt. Đạo Ấm biết chẳng thể tránh né, bèn ngồi yên nhắm mắt niệm kinh, tâm mong được cứu vớt, che chở. Cọp bèn nằm phục xuống cỏ, canh giữ. Đến sáng, người trong thôn qua lại, cọp bỏ đi. Nhìn chỗ cọp đã ngồi, rớt rãi đầy đất.

Tuyển nhân phó nhậm, yêu quái biến đổi thân hình.

Chú thích: Theo Bắc Mộng Tỏa Ngôn, nơi rặng Bạch Vệ trên đường vào xứ Thục có nhiều cọp, beo ăn thịt người. Có tuyển nhân[7] là Vỹ X… người xứ Kinh Triệu, trong niên hiệu Quang Hóa đời Đường được điều sang làm quan xứ Ba Nam. Ông ta thường niệm kinh Kim Cang, đi nhận nhiệm sở đến vùng Nê Khê, gặp một cô gái mặc áo lụa đào, dẫn hai đứa con cùng đi, cùng lên núi này. Người đi đằng trước níu nhau, xôn xao vì họ thấy một con hổ to vằn đỏ và hai con hổ con, cùng với ông Vỹ chia lối để đi mà ông Vỹ trọn chẳng hay biết.

Hai bó đuốc từ xa đến rồi lui, bờ đê vỡ, thuyền nổi.

Chú thích: Theo Quảng Dị Ký, vào đời Đường, Tham Quân xứ Dư Diêu là Lý Duy Yến trì kinh Kim Cang từ nhỏ. Hết hạn, trở về phương Bắc, đi qua Ngũ Trượng Điếm, xưa kia là nơi có lắm trộm cắp. Thuyền ông Lý chở theo lụa xứ Ngô mấy trăm xấp. Khi ấy, do phía trong bờ đê cạn nước [thuyền không ra sông được]. Nửa đêm tối tăm, ông Lý bèn ra đầu thuyền tụng kinh. Canh ba, kẻ cướp đến, thấy trên bờ đê có hai cây đuốc, bèn rút đi. Ông Yến ngỡ là dân trong thôn bảo vệ, nhưng ở cách thuyền trăm bước chẳng nghe tiếng tăm gì, trong tâm lấy làm lạ. Khi ấy, ở ngoài bờ đê, nước đầy, Duy Yến mong bờ đê vỡ thì thuyền sẽ được nước nâng đỡ. Chợt nghe đầu thuyền có tiếng nước réo, hồi lâu, khẽ cảm thấy thuyền nổi lên. Đến sáng, nước sông đã đầy, liền biết là tụng kinh được ứng nghiệm.

Một bữa ngẫu nhiên ngủ chẳng được, nhà sụp, giường nát.

Chú thích: Theo Thọ Trì Quả Báo, vào đời Minh, Châu Thọ Tăng trì tụng kinh Kim Cang. Sau mỗi bữa cơm ắt phải nằm ngủ một khắc. Một hôm, ngẫu nhiên ngủ không được, vừa mới bước ra thì kèo hư, nhà sụp, giường cũng vỡ nát.

Nữ nhân nhẹ gót sen, gỡ chải tóc rồi liền trốn mất.

Chú thích: Theo Ly Biêm Hiên Chất Ngôn, Đới Cảnh Tây sang làm nha lại trong đại liêu thự[8] Quý Châu. Nửa đêm nghe ngoài cửa sổ có tiếng động, dường như tiếng gót sen của nữ nhân[9]. Trong khoảnh khắc, âm phong chợt dấy lên trong phòng, ông Đới vội tắt đèn, lên giường. Khi ấy, trăng sáng như vẽ, chợt thấy rõ cảnh vật ngoài trướng. Thấy một cô gái từ khe cửa uốn éo bò vào, ngồi trên ghế, giở xem chừng bốn trang trong quyển sách ghi chép án từ (hồ sơ xử án), rồi rút ra một cái lược, gỡ đầu của chính mình đặt lên bàn, tháo trâm, hoa tai, chải gỡ tóc xong, lại đặt đầu lên cổ. Cảnh Tây tay như bị trói, miệng dường câm, thầm tụng kinh Kim Cang. Vừa mới động niệm, dường như quỷ biết sợ, dần dần rút nhỏ. Cảnh Tây dần dần tỉnh táo hơn, bèn tụng rõ tiếng, chưa tụng hết quyển, quỷ đã biến mất.

Tham Quân thiền hành, gặp phải ách nạn ắt hóa giải.

Chú thích: Theo Thọ Trì Quả Báo, vào đời Minh, Tham Quân Hoàng Tâm Phù có hiệu là Định Thông Thiền Lão, tham cứu khắp ba giáo. Về già tu thiền hành, ông vốn trì tụng kinh Kim Cang. Nhiều lần gặp nạn lớn, mắc bệnh nguy ngập, nhưng đều được thoát nạn. (Trên đây tổng cộng 17 cặp, gồm 34 đôi).

Tai nạn trong nhà lửa chẳng phải chỉ có một, mây huệ nhuần thấm nhiều phương. Đây là công đức chẳng thể nghĩ bàn thứ tám vậy.

Chú thích: Pháp Hoa Kinh: “Kỳ trạch như thị, thậm khả bố úy, độc hại hỏa tai, chúng nạn phi nhất” (Nhà lửa như vậy, rất đáng sợ hãi, độc hại, hỏa tai, có nhiều tai nạn, chẳng phải chỉ một). Kinh còn nói: “Huệ vân hàm nhuận, kỳ vũ phổ đẳng, tứ phương câu hạ, lưu chú vô lượng, suất thổ sung hiệp” (Mây huệ nhuần khắp, mưa ấy bình đẳng tuôn khắp bốn phương, tưới xối vô lượng, cả cõi đất đều được thấm đẫm).

9. Tiêu tội báo

Bèn có: Vũ An hóa cọp, quy y bèn trở lại hình người.

Chú thích: Theo Báo Ứng Ký, vào đời Tùy, Khoái Vũ An là người Thái Châu thường bắn hổ ở phía Nam rặng Tung Sơn. Chợt có con vật lạ trông giống như lợn, nhưng tay người, trùm da hổ lên thân ông ta, rồi thừa dịp đẩy xuống khe suối. Đến khi ông ta đứng dậy được thì thân đã biến thành cọp, kinh hoảng chẳng biết làm sao! Chợt nghe có tiếng chuông chùa, biết là chỗ Tăng ở, bèn đến cầu cứu. Thấy Tăng đang niệm kinh Kim Cang, liền nhắm mắt phủ phục. Tăng lấy tay xoa đầu cọp, chợt có tiếng nổ lớn. Đầu cọp vỡ toác, ông Khoái bèn thò đầu ra được, thuật cặn kẽ chuyện trước. Sư lại vỗ vào lưng, tay đưa đến đâu da bèn tách ra đến đó. Vũ An bèn xuất gia, trì kinh Kim Cang.

Điêu Xương giết rắn, chép kinh trừ báo ứng cõi âm.

Chú thích: Xin coi lời chú thích cho câu thứ nhất trong phần thứ năm “cứu tật bệnh”, tức câu chú thích cho lời tụng “liếm mắt mẹ hiền”.

Cao Chỉ báng Phật, cày lưỡi chẳng thể gây tổn thương được.

Chú thích: Theo Báo Ứng Ký, vào đời Đường, Cao Chỉ là cháu nội của quan Bộc Xạ Cao Dĩnh đời Tùy. Năm Long Sóc thứ 2 (662), vừa ra khỏi cửa Thuận Nghĩa thành Trường An chợt gặp hai người cỡi ngựa chạy đến, bảo: “Vua truyền gặp ngươi”. Cao Chỉ không chịu đi, cũng chẳng biết họ là quỷ sứ, giục ngựa lẩn trốn, lại bị họ đuổi theo bắt. Cao Chỉ có người anh làm tăng ở chùa Hóa Độ, muốn chạy vào chùa nhưng quỷ chặn cửa ngăn trở. Cao Chỉ bèn đấm quỷ một quyền, quỷ tức giận lôi tuột xuống ngựa, liền hôn mê ngất đi. Tăng chúng khiêng vào nơi anh ông ta ở. Đến hôm sau mới tỉnh, kể:

– Thoạt đầu, theo hai sứ giả đi gặp vua, vua phán: ‘Ngươi chưa phải đến đây, nhưng do từng hủy báng Phật pháp, nên bắt chịu tội trong khi còn sống’. Vua sai tả hữu kéo lưỡi họ Cao để cày lên, nhưng ông Cao trọn chẳng bị thương tích gì! Vua hỏi người đứng đầu bọn nha lại là vì nguyên cớ nào. Nha lại thưa: ‘[Ông ta] từng niệm kinh Kim Cang’. Vua khen lành, liền truyền thả về.

Từ đấy, Cao Chỉ chuyên niệm kinh.

Hồi Nô làm đồ tể, tự thoát khỏi xiềng.

Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, vào đời Đường, Diêu Đãi vì mẹ chép một trăm bộ kinh Kim Cang. Có gã đồ tể là Lý Hồi Nô thỉnh một bộ, đốt hương, cúng dường. Sau khi Hồi Nô chết, có người thấy trong cõi âm ông ta tự thoát gông xiềng, sanh vào đường lành.

Nghĩa Luân giết chó, thỏ, bồ câu, vẫn được tăng thọ.  

Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, vào đời Đường, Tống Nghĩa Luân chết đột ngột, ba ngày sau sống lại, kể:

– Bị bắt đến gặp Diêm Vương. Vua phán: “Ngươi từng giết chó, thỏ, bồ câu, tuổi thọ sắp hết, nhưng ngươi trì kinh Kim Cang chẳng những diệt tội mà còn được tăng thọ. Từ nay đừng ăn thịt, hãy nhất tâm trì kinh”, bèn tha về.

Khưu Nhất săn thú, bẫy chim, chuyển thành được phước.

Chú thích: Xem lời chú thích cho câu thứ ba trong phần thứ tư “được sống lại”, tức là lời chú thích của câu “săn bắn hại mạng”.

Chuyên niệm tựa đề kinh, diệt địa ngục, sanh vào đường lành.

Chú thích: Xem chú thích cho câu thứ tám trong phần thứ hai “lâm chung hiện tướng lành”, tức câu “niệm tựa đề kinh bảy chữ”.

Tuy vẽ tượng Phật, kết duyên vẫn thuộc đời sau.  

Chú thích: Xem chú thích cho câu thứ hai trong phần thứ nhất “vãng sanh Tịnh Độ” ở phần trước, tức là câu “đồ tể tu hành”.

Thịt làm chả chất thành núi, trong mộng mở được lưới.  

Chú thích: Xem chú thích cho câu thứ sáu trong phần thứ hai “lâm chung hiện tướng lành” ở phần trước, tức câu thuật chuyện Lý Nguyên Tông.

Mổ cua bôi ghẻ, đao trong thịt đều lấy ra.  

Chú thích: Theo Minh Báo Ký, năm Long Sóc nguyên niên (661) đời Đường, có tỳ-kheo-ni tu hành tại chùa Cảnh Phước thuộc Lạc Châu. Trong nhà có đứa hầu tên là Ngũ Ngũ Nương bị chết liền lập linh tòa. Hơn một tháng sau, chị và em trai nó ban đêm chợt nghe trên linh tòa có tiếng rên siết, hỏi thì đáp: “Lúc tôi còn sống đã ăn thịt trong chùa, lại từng giết một con cua để bôi vết ghẻ. Nay vào trong địa ngục Đao Lâm (rừng gươm), trong thịt có bảy cây đao gãy, xin hãy đem y phục của chính tôi [bán đi để lấy tiền] làm công đức”. Đến giường nó coi thì cả đống máu mủ, bọc quần áo vẫn còn đó. Họ bèn vì nó chép kinh Kim Cang, cứ mỗi lần chép xong một quyển, nó liền báo rằng: “Đã rút ra được một đao”. Chép xong cả bảy quyển, nó báo: “Đã rút xong bảy đao, nay nhờ phước nghiệp, liền được đầu thai”.

Tiết Độ Sứ họ Ngô thẹn không trai giới, rốt cuộc thoát trói buộc.  

Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm, vào đời Đường, Hà Nam Tiết Độ Sứ là Ngô Thiếu Dương thấy một người phu chạy trạm[10], chân không bén đất, bèn hỏi, người ấy thưa: “Tiểu nhân tên là Toàn Tín, ăn chay ba mươi năm. Hằng ngày tụng ba quyển kinh Kim Cang”. Ông Ngô bèn bỏ ra ba trăm sáu mươi lạng để mua lại quyển kinh của người ấy tụng. Toàn Tín nhận tiền xong, ông Ngô liền thấy chân anh ta không thể rời khỏi đất được nữa. Về sau, ông Ngô mắc bệnh, bị lính cõi âm đến bắt, một vị thần Kim Cang quát: “Người này có công mua kinh Bát Nhã, chẳng được trói buộc!” Quỷ tốt quỳ mọp vâng dạ. Ông Ngô tỉnh dậy, bảo vợ con: “Ta sống chẳng trì trai, tội nghiệp rất lớn, may nhờ năm xưa mua kinh của Toàn Tín, tội giảm một nửa. Các ngươi hãy nên cực lực phụng trì, đừng để sau này phải hối hận”.

Phùng Sát Viện lầm dâng tấu chương, tài lộc, tuổi thọ gần như trừ sạch.

Chú thích: Theo Chứng Quả Lục, vào đời Tống, viên Sát Viện[11] họ Phùng năm 28 tuổi từng dâng tờ sớ tâu trình. Đêm bị bắt vào cõi âm, Diêm Vương quở: “Ngươi chuyên trì kinh Kim Cang, đáng lẽ thọ chín mươi mấy tuổi, làm quan trong Khu Mật Viện[12]. Do tờ sớ tấu này gây bất lợi cho dân, sẽ bị tuyệt lộc, giảm thọ”. Ông Phùng xót xa xin được thả về, tụng kinh, làm lành để sám hối lỗi trước. Vua chấp thuận, nên sống lại. Về sau, quả nhiên làm Thừa Tướng, thọ đến chín mươi tám tuổi.

Nhà có vợ hiền, may được một phần tùy hỷ.  

Chú thích: Xem lời chú thích cho câu thứ tư trong đoạn thứ năm “lành bệnh” trong phần trước, tức câu “vạc sôi chừng mấy giọt.”.

Trên đường đi gặp vợ đã khuất, chép kinh hai quyển để siêu sanh.  

Chú thích: Theo Kim Cang Cảm Ứng, vào đời Tống, Triệu Bích ở Tứ Châu lên kinh đô thi cử. Vợ là Lý Thị mất, Bích thi đậu trở về, thấy người vợ đã khuất ở bên đường, xót xa bảo: “Lúc sống em giết hại sanh mạng loài vật, thường uống rượu say, ăn cua. Diêm phủ phạt em vào địa ngục Giải Sơn, bị lũ cua cắn rứt. Hơn nữa, khi em còn sống, coi rẻ cơm, cháo, canh, nước thuốc, trà, rượu, tích lại đến năm thạch, chín đấu, bảy thưng, năm vốc, khiến em bị giảm thọ một kỷ[13], lại còn chịu khổ trong hai mươi mốt đại địa ngục. Vua còn truyền ngục tốt tra xét thấy em bán rượu. Mỗi lần quỷ vô thường truy ra vong hồn nào [chết vì rượu], liền trích máu nơi thân em cho đủ số ấy rồi lại vào địa ngục khác. Cõi âm hết sức kính trọng kinh Kim Cang, xin chàng chép bảy quyển để diệt trừ nỗi khổ địa ngục của em”. Bích về đến nhà liền vì vợ chép kinh, mới chép xong hai quyển, đến thăm mộ vợ, một ông lão tự xưng là Sơn Thần bảo: “Họ Lý nương cậy sức kinh đã siêu sanh rồi”.

Nghe lời kệ sáu thứ ví dụ, con nhện làm lễ.  

Chú thích: Theo Kim Cang Tân Dị Lục, vào đời Minh, mẹ ông Viên Hoằng Đạo là Cung Thị, một hôm tụng kinh vừa được một nửa thì trên xà nhà có một con nhện to hạ xuống, nhiễu kinh mấy vòng rồi nằm yên. Bà cụ tụng đến đoạn kệ Lục Như[14], nhện khẽ cử động như đang làm lễ. Tụng xong, nhìn lại thì nhện đã chết rồi.

Gọi hai trẻ sanh đôi, bồ câu quay đầu.

Chú thích: Theo Kim Cang Ứng Nghiệm, vào đời Đường, vị Tăng tên là Minh Độ luôn tụng kinh Kim Cang. Có tổ chim bồ câu ở chái nhà, sanh được hai con chim non. Sư Minh Độ thường dùng cháo thừa mớm cho, còn nói: “Nhờ vào sức kinh của ta, lông cánh chóng mọc”. Chợt hai con chim non cùng té xuống đất chết. Tới đêm, mộng thấy hai đứa nhỏ nói: “May nhờ sức của Sư, chúng con được chuyển vào nhân đạo, sanh trong nhà họ X… cách đây mười dặm”. Mười tháng sau đi hỏi thăm thì quả nhiên nhà ấy sanh đôi được hai trai, kêu: “Cáp nhi”[15] thì chúng nó cùng quay đầu lại, thưa “dạ”.

Giết chó oán sâu, uổng công chép chẳng cứu được.  

Chú thích: Theo Tục Dậu Dương Tạp Trở, trong năm Thái Hòa thứ 5 (831) đời Đường, Vương Hàn Lâm ở huyện Thập Phỏng thuộc Hán Châu chết đột ngột, ba hôm sau sống lại, nói:

– Viên quan trong cõi âm là anh của tôi, bảo: ‘Có con trâu kiện ngươi đốt đồng giết oan nó. Lại từng bán trúc cho người ta làm đàn không hầu, giết hai con chó, nên chó cũng kiện ngươi. Tên ngươi chưa ghi vào sổ tử, làm công đức nào để thoát được?” Lâm muốn làm chay và chép kinh Pháp Hoa, kinh Kim Quang Minh, nhưng người anh đều nói không được! Bèn xin hằng ngày trì kinh Kim Cang bảy biến, anh vui vẻ bảo: “Được đấy!”

Khi sống lại, bèn bỏ gia nghiệp, xuất gia.

Vì rắn gây oan nghiệt nặng nề, tà kiến nên trừ.  

Chú thích: Theo Báo Ứng Ký, trong năm Nguyên Hòa 15 (820) đời Đường, người đất Việt là Ngô Khả Cửu sống tại Trường An cùng với vợ là Vương Thị theo đạo Ma Ni[16]. Hơn một năm sau, vợ chết đột ngột, ba năm sau, báo mộng cho chồng: “Em do tà kiến đọa làm rắn ở dưới chân tháp tại Hoàng Tử Pha, sáng mai sẽ chết. Xin chàng thỉnh Tăng tới đó tụng kinh Kim Cang để em khỏi phải hứng chịu nỗi khổ khác!” Trong mộng, chồng chẳng tin, quát ầm lên. Vợ tức giận, nhổ vào mặt, chồng giật mình tỉnh dậy, mặt đã sưng phồng, đau đớn chẳng thể chịu được. Vợ lại báo mộng cho anh ông Cửu: “Lấy lá lưỡi rồng trong vườn giã nát, đắp lên sẽ lành ngay”. Làm thử, quả nhiên lành lặn. Tới sáng, anh em cùng đi thỉnh Tăng tụng kinh Kim Cang. Trong khoảnh khắc có con rắn to từ trong tháp bò ra, ngẩng đầu nhìn khắp nơi, tụng kinh xong nó liền chết. Khả Cửu bèn theo Phật, thường trì kinh này.

Năm sáu cô gái vui đùa trong thôn, tỏa ánh sáng lạ, lũ cáo kinh hãi tan chạy.

Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, vào đời Đường, trong niên hiệu Nguyên Hòa, Lý Hồi thi trượt, trở về, có vị Tăng khuyên niệm kinh Kim Cang, đã niệm được mấy chục biến. Đến nghỉ đêm tại Vương Kiều, do tản bộ dưới trăng, bị một mỹ nhân dụ vào căn nhà trong thôn, nghe tiếng vui cười hết sức ồn ào. Vào nhà, lại thấy năm sáu mỹ nữ, tâm ngờ là yêu quái, bèn thầm niệm kinh. Chợt có ánh sáng lạ từ miệng [Lý Hồi] tỏa ra, lũ con gái kinh hãi, chạy tứ tán, chỉ nghe mùi tanh hôi. Ấy là chỗ ở của bọn hồ ly vậy. Gai góc kín mắt, chẳng biết ra lối nào. Chợt có con chó trắng dẫn đường, trong miệng tỏa ánh sáng, bèn đi theo nó, về được chỗ của mình.

Mười hai người cùng lạy dưới thềm, nhờ tiếng tụng kinh trứng gà rỗng tuếch.  

Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm Ký, trong thời Vạn Lịch nhà Minh, một cụ già ở trấn Hoa Lâm hằng ngày tụng kinh Kim Cang. Trong nhà có con gà mái nằm ổ, ấp mười hai cái trứng. Một hôm, cụ già mộng thấy mười hai người lạy dưới thềm, thưa: “Nhờ tiếng tụng kinh của ngài, chúng con đều được thoát khỏi kiếp chim, nên đến cảm tạ”. Tỉnh giấc, cụ kiểm xem thì mười hai cái trứng đều là vỏ không.

Đốm lửa xuất hiện từ đống kinh, núi thịt tiêu sạch.  

Chú thích: Theo Tục Dậu Dương Tạp Trở, vào đời Đường, Tôn Hàm bị bắt vào cõi âm, tỉnh dậy kể: Thấy một người bị khảo hạch tội phước. Người ấy thường trì kinh Kim Cang, nhưng lại ưa ăn thịt. Bên trái có mấy chục cuốn kinh, bên phải thịt chất thành núi. Do thịt nhiều nên bị ghép trọng tội. Trong khoảnh khắc, từ trong đống kinh có một đốm lửa bay vào núi thịt, trong khoảnh khắc [núi thịt] cháy sạch. Người ấy liền bước lên không đi mất.

Tay chép để sám hối tội chân giẫm kinh, liền được thi đậu.  

Chú thích: Theo Cân Ngự Thừa Tục Tập, vào đời Minh, người bác của Vương Phán ở Sơn Dương ẵm con đùa giỡn bên cạnh cha [Vương Phán], ngẫu nhiên bị mất chiếc vòng đeo tay, ngờ cha Vương Phán lấy cắp. Cha Vương Phán liền viện dẫn thần minh thề thốt, dùng chân đạp lên kinh Kim Cang. Phán được dự vào hạng Chư Sanh[17], nhưng thi nhiều lần chẳng đậu. Một sáng, ra ngoài thành, thấy hai cụ già râu bạc bảo: “Tú Tài Vương Phán lẽ ra thi đậu, nhưng bị cha hắn khinh nhờn làm bẩn kinh Kim Cang nên nay hắn bị gạt khỏi sổ”. Phán quay về hỏi cha, biết nguyên do, bèn sám hối trước Phật, chép một bộ kinh Kim Cang, liền thi đậu kỳ thi Hội. Muốn chép một bộ nữa, nhưng chưa xong thì gặp khóa thi mùa Xuân (tức thi Đình), bị trượt. Sau đó, tiếp tục chép kinh cho xong thì mới đậu Tiến Sĩ.

Ô nhục tớ gái, mất sạch tước lộc, rốt cuộc bảng vàng đề tên.

Chú thích: Theo Kim Cang Cảm Ứng, vào đời Minh, Hạng Mộng Nguyên thoạt đầu có tên là Đức Phân, mộng thấy đậu khoa thi Hương vào năm Tân Mão, nhưng do trót hại đời hai đứa tớ gái còn nhỏ, nên công danh mất sạch. Ông ta bèn tận lực làm chuyện âm đức, bỏ tiền của, thỉnh người bạn là Cao Tùng Thanh chép một bộ kinh Kim Cang cẩn thận theo lối chữ Khải để khắc ván, mỗi năm đem thí, làm suốt mười mấy năm như thế. Mộng thấy đến một chỗ, thấy tên thứ tám ghi trong tờ giấy vàng là họ Hạng, chữ ở giữa lờ mờ, chữ cuối là Nguyên. Bên cạnh đấy có người nói: “Đây chính là tên ngươi sắp theo thứ tự trên bảng trời”. Do vậy, đổi tên là Mộng Nguyên, bèn đậu cả khoa thi Hương lẫn thi Hội, nhưng thứ tự không phù hợp với giấc mộng. Đến khi vào thi Đình, đậu hàng thứ năm trong số Nhị Giáp Tiến Sĩ[18], mới hiểu là con số ấy phù hợp với số thứ tự trong hàng đỉnh giáp. Hơn nữa, bảng [đề tên người trúng tuyển trong] khoa thi Hương và thi Hội đều dùng giấy trắng, chỉ có thi Đình dùng giấy vàng. Quả thật đã ngầm định sẵn.

Thích săn bắn bị đuổi, may được ném hoàn sắt chẳng cháy.

Chú thích: Xem lời chú thích cho câu thứ bảy trong đoạn ba “được trường thọ” trong phần trước, tức lời chú thích cho câu “thiện quả viên thành”.

Đại tướng quân uống đồng, ăn sắt, căn dặn Lý Thượng Thư để mong thoát khỏi.

Chú thích: Theo Báo Ứng Ký, vào đời Đường, Binh Bộ Thượng Thư Lý Cang bị bệnh chết đột ngột, tim còn ấm, ba ngày sau sống lại, nói:

– Thấy một người dẫn đi gặp một vị đại tướng quân, cho phép ngồi, lôi án từ ra xem, bảo: “Đã bắt lầm ông!” Trong khoảnh khắc, ngục tốt bê một cái mâm tới, ở giữa đặt mấy viên sắt. Lại khiêng một cái vạc đặt giữa sân. Dưới vạc tự nhiên bốc lửa, nước đồng trong vạc sôi trào, nung hoàn sắt đỏ như lửa. Ngục tốt nâng mâm lên, tướng quân nhường cho Lý Cang. Lý Cang sợ hãi, chối đã no. Tướng quân nuốt hoàn sắt, đã nuốt vào miệng, toàn thân rỗng toang. Lại uống nước đồng, thân liền bốc lửa. Trong khoảnh khắc, khắp thân đều tan sạch, hồi lâu sau, khôi phục như cũ. Lý Cang hỏi thì tướng quân đáp: “Dưới đất chẳng có món ăn nào khác, chỉ có thứ này để ăn uống mà thôi. Nếu không ăn thì trong khoảnh khắc sẽ bị lửa dữ đốt, còn khổ nhiều hơn nữa! Chỉ mong ngài chép mười bộ kinh Phật, đọc tụng kinh Kim Cang một ngàn quyển thì ngài cũng chẳng tới đây mà tôi cũng thoát khỏi chốn này”. Lý Cang sống dậy, bèn làm đúng theo lời ước định.

Trương Thái Quân chuyển nữ thành nam, xin sư Huyền Minh cứu vớt.

Chú thích: Theo Dịch Nhược Trai Tục Tập, vào đời Minh, Thịnh Tại Đức ở Phong Kiều, Tô Châu, thọ lãnh kinh này từ giảng sư Huyền Minh. Đầu thời Vạn Lịch, ông Thịnh bị bệnh, đi vào cõi âm vì bị oan hồn Thịnh Chi Hóa kiện lên Quận Hoàng[19] bắt đến đối chất. Tại Đức dùng lý lẽ thẳng thắn [để biện luận, được thắng kiện, Quận Hoàng cho phép] thong dong đi coi khắp địa ngục, rồi thả về. Qua một đêm lại chết, thấy Quận Hoàng bước xuống bệ, khuyên: “Đời trước ta là người xứ Kinh Châu, họ Tào. Từ lúc làm thần, mẹ ta là Trương Thái Quân[20] chuyển thế đã ba lần, đều mang thân nữ không sanh nở được. Nếu như ông thay ta cầu sư Huyền Minh kiền thành tụng kinh Kim Cang và kinh Nguyệt Thượng Nữ[21], mỗi loại năm trăm bộ để cứu mẹ ta chuyển thành thân nam”. Khuyên nhủ hết sức thiết tha, Tại Đức sống lại bèn lễ thỉnh ngài Huyền Minh, tụng đủ số rồi viết điệp báo [với Quận Hoàng].

Vâng giữ di huấn họ Đoàn, quý ở chỗ chí thành.  

Chú thích: Trong Tục Dậu Dương Tạp Trở, vào đời Đường, Đoàn Thành Thức đã chép: “Trong năm Trinh Nguyên 17 (801), tiên quân[22] từ đất Kinh (Hồ Bắc) vào đất Thục (Tứ Xuyên) theo lệnh đòi của Vỹ Nam Khang[23]. Về sau bị gã giặc là Lưu Tịch[24] sàm tấu, giáng xuống làm huyện úy huyện Linh Trì. Khi ông Vỹ vừa chết, giặc Tịch tạm tiếp nhận quyền hành[25]. Tiên quân vốn không hợp tính Tịch từ trước nên nghe tin bèn đi suốt đêm rời khỏi huyện. Đến cửa thành phía Đông, Tịch có đặt trạm canh tại đó, chẳng cho phép các huyện quan rời huyện. Đêm ấy gió lộng, tối tăm, bèn quay lại. Cách lớp ngoài tường thành[26] hai dặm, thấy ánh lửa của hai cây đuốc, kèm theo hai bên đường cách một trăm bước để dẫn lối. Thoạt đầu, tiên quân ngỡ là nha lại trong huyện nghênh đón, thấy lạ, chẳng dám bước tới. [Ánh đuốc] cao, thấp, xa, gần không sai, tới tường thành phía ngoài huyện, lửa mới tắt, bèn hỏi nha lại trong huyện, họ còn chẳng biết trên phủ đã đặt trạm canh. Khi ấy, tiên quân niệm kinh đã năm, sáu năm, nói chung chẳng bỏ sót ngày nào, tin tưởng hễ chí thành ắt sẽ cảm. Ánh lửa dẫn lối vừa nói trên đây chính là dấu vết rõ ràng [chứng tỏ sự linh ứng] của kinh vậy.

Về sau, Viên Tư làm Tiết Độ Sứ, Thành Thức lại theo chú, vào lính từ trẻ, chưởng quản tả doanh, dùng viên sáp bọc thư, âm mưu cùng với họ Viên dâng cáo trạng tố cáo tội phản nghịch của Lưu Tịch [lên triều đình]. Gã giặc Lưu Tịch cho là tiên quân biết âm mưu ấy [bèn giam chặt]. Tiên quân niệm kinh, chẳng ngờ đêm khuya ngủ quên, cửa rả đều đóng chặt, chợt [hình như có người] mở cửa mà vào, đôi ba lượt nói “đừng sợ”. Dường như có vật gì gieo xuống bàn, vang ra tiếng nổ lớn. Trong lúc [tiên quân] kinh hoảng đứng dậy, thì tiếng nói ấy vẫn còn thoảng bên tai. Cầm đuốc tìm kiếm bốn phía, thoạt đầu chẳng thấy gì, hướng tới chỗ chốt khóa thì đã mở toang. Tiên quân thọ trì kinh này mười mấy vạn biến, những sự ứng nghiệm để làm chứng rất nhiều. Thành Thức vâng theo di mạng, thu nhặt những mẫu chuyện sót lại, gộp thành sách, đặt tên là Kim Cang Kinh Cưu Dị”.

Bắt chước ông Thích thọ trì, đừng nói “chẳng dùng”.  

Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm, trong niên hiệu Gia Tĩnh đời Minh, Thiếu Bảo[27] Thích Kế Quang trì kinh Kim Cang. Khi làm Phó Tổng, ông Thích mộng thấy một thân binh[28] đã chết trận nói: “Ngày mai tôi sẽ sai vợ đến chỗ ngài, xin hãy tụng cho tôi một quyển kinh Kim Cang để tôi được siêu thoát”. Đến sáng, quả nhiên vợ người lính ấy tìm đến đúng như lời nói trong mộng. Sáng hôm sau, ông Thích tụng kinh cho người lính ấy xong, đến đêm mộng thấy người lính đến nói: “Cảm tạ chủ soái tụng kinh, nhưng giữa chừng xen tạp hai chữ ‘bất dụng’ (chẳng dùng tới) nên tôi tuy được thoát khổ, vẫn chưa siêu sanh”. Ông Thích hết sức kinh ngạc, ấy là vì khi ông đang tụng kinh, phu nhân sai tỳ nữ bưng trà bánh đến, ông xua tay đuổi đi, miệng tuy chưa nói, nhưng trong lòng đã thầm nói “chẳng dùng tới” (bất dụng) rồi! Ông bèn đóng cửa tụng, lại mộng thấy người lính ấy đến cảm tạ, thưa đã được siêu sanh.

Do vậy, nói: “Cõi âm hết sức kính trọng kinh này. Các ngươi rất nên tụng kinh này”. Đây là công đức chẳng thể nghĩ bàn thứ chín vậy.

Chú thích: Theo Kim Cang Chứng Quả, vào đời Đường, Ngô Quỳ mỗi ngày, khi nghe trống báo đã sang canh năm bèn kiền thành tụng ba biến kinh Kim Cang. Năm ông chín mươi ba tuổi, không bệnh tật gì mà mất, báo mộng cho con cái: “Ta do tụng kinh đã đắc phước báo. Cõi âm hết sức kính trọng kinh này, các ngươi hãy nên gắng hết sức thọ trì” (Trên đây tổng cộng 14 đoạn rưỡi, gồm 29 điều).

10. Cảm thần linh  

Bèn có: Trọng Yêm lễ sám, được Quán Thế Âm tụng kinh cho.  

Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm, vào đời Tống, mẹ của Văn Chánh Công Phạm Trọng Yêm mất được 3 thất (21 ngày). Ông mộng thấy mẹ khóc lóc, bảo: “Ta do lúc sống tạo nghiệp, bị Thái Sơn Phủ Quân hành hạ, sáng tối chịu khổ khó thể kể được. Con ta một niềm hiếu thuận, xin hãy tụng Công Đức Kinh một tạng để cứu dẹp tội ta. Mong đừng do dự, nghi hoặc, đến nỗi ta vĩnh viễn đọa trong địa ngục”. Đã đi rồi lại ngó lại, dặn dò: “Công Đức Kinh chính là Kim Cang Kinh đấy”. Ông kinh hãi khóc lóc, tỉnh giấc, liền tắm gội, trai giới, cung kính đến Huyền Mộ Thiền Lâm, thỉnh tăng tụng kinh suốt bảy ngày. Đến tối hôm thứ sáu, lại mộng thấy mẹ nói: “Nhờ con chí thành lễ sám, cảm Bạch Y Đại Sĩ giáng phàm trì kinh nửa quyển. Mẹ nay chẳng những tiêu tội mà còn được sanh lên trời, đều là do Phật lực. Sáng mai, con nên vào điện tụng kinh để hỏi sẽ tự biết”. Ông đợi cho pháp sự hoàn tất, tạ lễ chư tăng trọng hậu. Do vậy, hỏi trong hôm thứ sáu có một vị tăng chỉ trì nửa quyển kinh là ai? Chúng tăng đều thất sắc, đáp: “Tụng kinh đủ số, há lẽ nào chỉ trì nửa quyển?” Bên cạnh đấy có một vị Tăng thong dong bảo: “Ngày hôm qua đại chúng tụng kinh, sơn tăng đứng ghé bên cạnh yên lặng nhìn, đến phần thứ 16[29], gặp lúc đại nhân đến dâng hương, liền trở về bếp làm việc. Nay được hỏi tới, dám xin thưa thẳng”. Ông liền dập đầu cúi lạy, vị tăng nói: “Mạc, mạc” (đừng, đừng). Chợt bay lên không chẳng thấy nữa. Tăng tục không ai chẳng chiêm ngưỡng; do đó, ông Phạm bèn lập thiền đường Mạc Mạc để kỷ niệm sự linh dị này.

Bá Ngọc tinh thành, Tu Bồ Đề khuyên nên bỏ thịt.  

Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm, năm Đại Lịch 11 (776) đời Đường, quan Biệt Giá xứ Vệ Châu là Châu Bá Ngọc, hằng ngày niệm kinh Kim Cang thường chẳng gián đoạn. Một hôm, chợt thấy một vị Phạm tăng đi đến, bèn hỏi: “Ngài là vị tôn giả nào?” Đáp: “Ta là Tu Bồ Đề trong hội Bát Nhã. Ông tụng kinh mấy năm, tiếc là chưa thôi ăn thịt. Nếu thật sự chí tâm cầu Phật, không ăn chay trường sẽ chẳng được”. Bá Ngọc từ đấy ăn chay, tụng kinh. Về sau, biết trước chuyện tương lai, đến năm chín mươi tuổi, ngồi mất.

Tuân Sinh cầm bút viết lên không, trên trời giăng lọng báu.  

Chú thích: Theo Tam Bảo Cảm Thông Lục, đời Tùy, thôn Vương Lý cách huyện Tân Phồn của Ích Châu bốn mươi dặm về phía Tây, có thư sinh họ Tuân viết chữ đẹp, nhưng người khác không biết. Ông thường viết kinh Kim Cang khắp bốn phía trên không trung nơi phía Đông mong cho chư thiên đọc tụng. Thoạt đầu không ai biết. Về sau, gặp lúc mưa gió, sấm chớp, trẻ nhỏ chăn trâu đứng dưới chỗ ông viết kinh chẳng bị ướt mình. Chỗ ấy khô ráo đến hơn một trượng. Người trong thôn lấy làm lạ. Từ đấy, mỗi khi có mưa, trẻ nhỏ thường tụ họp ở đó, chẳng ướt quần áo. Đến giữa niên hiệu Vũ Đức đời Đường, có vị dị tăng bảo người trong thôn: “Trên không trung chỗ này có kinh Kim Cang Bát Nhã, chư thiên giăng lọng báu che trên ấy, chớ nên khinh phạm”. Từ đấy, bốn phía đều đặt lan can để ngăn người và súc vật giẫm đạp. Mỗi khi đến ngày ăn chay, thôn dân khắp bốn phía nhóm đến cúng Phật, thường nghe nhạc trời rộn rã đầy tai.

Tiêu tướng quốc khắc đàn hương làm tháp, tượng đá ứng hiện trong sân.

Chú thích: Xem lời chú thích cho câu thứ nhất trong phần thứ sáu “cứu khỏi bị giết chóc”, tức lời chú cho câu “Trung Thư nước Tùy”.

Nhìn viên quang của Tư Mã, hiện lớn, hiện nhỏ.

Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, đời Đường. Lý Diên Quang làm Tư Mã tại Đức Châu, ăn chay, tụng kinh Kim Cang. Mỗi khi tụng liền có viên quang ở trước mặt. Dùng tâm tột bậc thì viên quang dần dần to ra, hễ hơi giải đãi thì viên quang dần dần nhỏ lại, lu mờ. Do được khích lệ như vậy, ông càng thêm tinh tấn.

Thuận theo tâm nguyện của Thứ Sử, trời liền tạnh hay mưa.

Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, đời Đường, Lã Văn Triển trong niên hiệu Khai Nguyên làm Lang Trung Huyện Thừa, tụng kinh Kim Cang đến hơn ba vạn biến, linh ứng lạ thường. Tuổi già, ba chiếc răng cùng rụng, niệm kinh cầu thỉnh, răng lại mọc như cũ. Nhằm năm hạn hán, Thứ Sử Lưu Tuấn sai cầu mưa, chỉ tụng một biến liền được mưa đầm đìa. Lại khổ vì nạn mưa dầm, lụt lội, quan Biệt Giá sai cầu trời tạnh, ngay lập tức trời liền quang đãng.

Phạm tăng hiện thân, bèn tăng tuổi thọ.

Chú thích: Xem lời chú thích thứ nhất trong đoạn thứ ba “được trường thọ” ở phần trước, tức lời chú thích cho câu “quang minh hiện tướng”.

Huyền Diên ứng mộng, được gọi là thông minh.  

Chú thích: Theo Tống Cao Tăng Truyện, ngài Thích Văn Chiếu đời Đường thường đến trước chỗ tượng vẽ của pháp sư Huyền Diên đảnh lễ xuất gia, tự bi phẫn nhận thấy tánh mình tối tăm, chẳng hiểu được lời thầy giảng giải. Một đêm, mộng thấy ngài Huyền Diên thân cao chừng một trượng, bảo Văn Chiếu rằng: “Ta có một quyển kinh thông minh, hãy nên kính cẩn thọ trì, cảm ứng không sai chạy”. Nhận lấy thì ra là kinh Kim Cang. Đọc bảy biến mới ngủ, từ đấy thông minh hơn người.

Giục thiện nữ sanh nở, Kim Cang chỉ bụng.

Chú thích: Xem lời chú thích cho câu thứ tư trong đoạn thứ nhất “vãng sanh Tịnh Độ” trong phần trước, tức lời chú thích cho câu “dứt sự khổ địa ngục”.

Ứng lời tỳ-kheo cầu đảo, ngọc nữ khoét suối.  

Chú thích: Theo Kim Cang Linh Ứng, đời Đường, sư Thích Thanh Hư thường tụng kinh Kim Cang. Một hôm nhà hàng xóm bị cháy, nhà của ngài Thanh Hư chẳng bị lửa táp chút nào. Hiền Thủ Quốc Sư Pháp Tạng đặc biệt thỉnh Sư cầu có được con suối, Sư bèn tụng kinh ba ngày đêm, chợt thấy ba ngọc nữ ở trong lòng núi dùng đao khoét đất trổ mạch nước, ngài Thanh Hư bèn thầm ghi nhớ chỗ ấy, đào xuống thì được con suối ngọt.

Vợ ông Cung sanh Tịnh Độ, ngài Thiện Hiện huyễn hóa hơn một trăm thân.

Chú thích: Xem lời chú thích cho câu thứ hai trong đoạn thứ nhất “vãng sanh Tịnh Độ”, tức lời chú thích cho câu “theo hộ vệ phu nhân” (Tu Bồ Đề, Hán dịch là Thiện Hiện).

Phật tử hàng ma, vượt trội chú Thập Nhất Diện Quán Âm.

Chú thích: Theo Kim Cang Linh Ứng, vào đời Đường, trên đỉnh núi Thiếu Lâm có Phật thất (gian nhà thờ Phật) rất rộng, nhưng không ai dám đến đấy. Thích Thanh Hư nghe tiếng, đi đến đấy tụng kinh Kim Cang. Ban đêm nghe có tiếng động rất lớn liền niệm chú Thập Nhất Diện Quán Âm, lại nghe có tiếng tợ như hai con trâu đánh nhau, tượng Phật đều chấn động. Tụng chú đã vô hiệu, Sư bèn quay lại trì kinh này. Vừa mới tụng đoạn đầu thì hình bóng, tiếng vang đều dứt. Từ đấy, người sống nơi đó không sao cả.

Thành Thức chép chuyện cha mình, hai ba lượt hô “đừng sợ”.

Chú thích: Xem lời chú cho câu thứ 14 trong đoạn 9 “tiêu tội báo” ở phần trước, tức lời chú thích cho câu “di huấn họ Đoàn”.

Dương Viêm mộng thấy cha mẹ, xưng tụng kinh này là tư lương bậc nhất trong cõi âm.

Chú thích: Theo Đồ Thư Tập Thành, vào đời Tống, Dương Viêm mộng thấy cha mẹ, bèn khóc, hỏi: “Công đức của Thích, Đạo, và vàng lụa dùng trong cõi âm quả thật có ích gì chăng?” Đáp: “Có ích, nhưng trong cõi âm, trọng kinh Kim Cang nhất. Hãy vì ta in tặng một ngàn quyển, ấy là bậc nhất”. Dương Viêm bèn in tặng.

Thiện căn đã gieo, được gặp vị Tăng vân thủy.

Chú thích: Xem lời chú thích của câu thứ hai trong đoạn thứ nhất “vãng sanh Tịnh Độ” trong phần trước, tức lời chú thích cho câu “đồ tể tu hành”.

Giữ được cái mạng nhỏ nhoi, liền gặp cụ già bên bờ biển.

Chú thích: Xem lời chú thích của câu thứ hai trong đoạn thứ tám “cứu hiểm nạn nước lửa” trong phần trước, tức lời chú thích cho câu “Tống Khản nắm được bó rạ”.

Ống trúc rớt vào ngục, chứa hai dòng kinh “pháp xả” .

Chú thích: Theo Tục Dậu Dương Tạp Trở, trong niên hiệu Đại Lịch đời Đường, ở Thái Nguyên có gã giặc trộm ngựa, vu cáo Vương Hiếu Liêm đồng tình, [khiến Hiếu Liêm] bị tra khảo hết sức khổ sở. Hiếu Liêm chỉ niệm kinh Kim Cang, ngày đêm không ngơi. Chợt một hôm có hai lóng trúc rớt vào trong ngục, ngục tốt nghi là giấu dao [trong ấy] bèn chẻ ra xem thì thấy có hai hàng chữ ghi: “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp” (Pháp còn nên bỏ, huống hồ phi pháp), nét chữ rất khéo. Gã cầm đầu bọn cướp buồn hối, thưa trình cặn kẽ để rửa oan cho ông Vương.

Liễu tạ[30] thắp hương, một quyển sách vàng giáng hạ.

Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, vào đời Đường, nội thần Dương X… là em của Phục Cung, bị hãm trong tặc đảng của Tần Tông Quyền[31]. Hai mươi mấy năm, chỉ niệm kinh Kim Cang. Về sau, con của Tông Quyền làm Tiết Độ Sứ tại Tương Dương, cử Dương làm Giám Quân Sứ, do vậy, dụ vị tướng dưới quyền [là Triệu Đức Ngôn] giết con Tông Quyền để thay thế, dân được sống yên như cũ[32]. Ông Dương từng thắp hương tụng kinh dưới gốc liễu ngoài nha môn, chợt có một quyển kinh Kim Cang viết chữ vàng từ trên không hạ xuống, ấy là do lòng tinh thành mà được như vậy.

Lưới vớt được kinh trên sông, ốc kết thành khối.  

Chú thích: Xem chú thích cho câu thứ nhất trong đoạn thứ tám “cứu hiểm nạn lửa nước”, tức lời chú thích cho câu “Sông Hán đánh gẫy mái chèo”.

Chôn bà ăn mày bên sườn núi, quạ phủ đất giùm.

Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm, vào đời Đường, Liêu Đẳng Quán khi làm Tri Huyện huyện Thiện Hóa, có người đàn bà hằng ngày tụng kinh Kim Cang ăn xin ở chợ, tối về ngủ ở ven núi. Chợt mấy ngày chẳng thấy đâu, bầy quạ kêu ran, xúm xít trên chỗ bà ta nghỉ chân. Mọi người tranh nhau đến xem, thấy bà ta ôm kinh qua đời. Lũ quạ tha đất đắp lên, bèn gọi là “Nha Táng Bà” (bà cụ được quạ chôn). Chuyện này trích từ Hồ Quảng Thông Chí.

Đổi kinh lấy tiền vàng của Tiết Độ Sứ, chân lại dính đất.  

Chú thích: Xem lời chú thích cho câu thứ sáu trong đoạn “tiêu tội báo” trong phần trước, tức lời chú thích cho câu “Tiết Độ Sứ họ Ngô”.

Được bảo châu chốn cung rồng, chân lướt trên sóng.

Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, vào đời Đường, Nhậm Tự Tín ở Gia Châu thường trì kinh Kim Cang. Năm Trinh Nguyên 15 (799), sang Hồ Nam đi qua hồ Động Đình. Trong hồ có vật giống như mây đội thuyền lên, Tự Tín rơi khỏi thuyền. Tự Tín bèn đạp sóng bước đi, đến long cung, yết kiến long vương. Vua sai lên điện niệm kinh Kim Cang, tặng mấy chục viên bảo châu. Hai vị tăng đưa Tự Tín ra khỏi cung. Một vị Tăng trao lá thư nhờ gởi cho sư Thiệu Chân tại Quán Âm Đường ở Hành Nhạc[33], dặn [nói với sư]: “Là do hòa thượng của ông gởi đến, dặn ông hãy tụng kinh Kim Cang”. Tự Tín đến Nam Nhạc hỏi thăm vị tăng ấy thì quả nhiên gặp Thiệu Chân, [Thiệu Chân] bảo: “Hòa thượng đã diệt độ năm sáu năm rồi!”

Trần Chiêu chắp tay trong cõi âm, rương vàng tự hạ xuống.

Chú thích: Theo Tục Dậu Dương Tạp Trở, đời Đường, viên Khổng Mục xứ Hán Châu là Trần Chiêu thấy một người đến trước giường nói: “Triệu phán quan gọi ông”. Chiêu đến cõi âm, họ Triệu nói: “Ngươi đã biết lỗi hay chưa? Đậu Huyền giết trâu, ngươi lấy một cái đầu trâu. Xét theo đúng lẽ, ngươi bị chém một trăm lần, tra khảo năm chục lần”. Do vậy hỏi Chiêu: “Ngươi có công đức gì?” Chiêu nói: “Từng mượn kinh Kim Cang từ nhà anh họ về trì tụng”. Phán quan bảo hãy chắp tay thỉnh, có kinh đựng trong rương bọc vải vàng từ trên trời hạ xuống, dừng trước mặt Chiêu. Xem ra thì là bản kinh mượn từ người anh họ, vẫn còn dấu bị cháy xém. Họ Triệu nói: “Điều này đủ để tha tội”, bèn thả về.

Kinh Châu Tấn trở về chốn cũ, vải đoạn hồng như mới.  

Chú thích: Theo Hộ Pháp Lục, đời Nguyên, ở Hàng Châu có Châu Tấn hằng ngày tụng kinh Kim Cang. Có đứa bé đụng đổ ngọn đèn thờ Phật, kinh bị dầu lem. Do vậy, ông Tấn bèn dùng vải đoạn màu hồng buộc chặt kinh, gieo xuống sóng nước. Ba năm sau, kinh chợt trở về chỗ cũ, bên ngoài bị phù sa bao phủ, nhưng vải đoạn hồng vẫn như cũ. Châu Tấn mừng rỡ, thỉnh bậc Khai Sĩ trong tùng lâm ghi chép sự việc. Về sau, năm ông tám mươi mốt tuổi, nhằm năm Canh Thân (1380) niên hiệu Hồng Vũ nhà Minh, Văn Hiến Công Tống Liêm có soạn bài tán.

Thượng Tọa nổi sân, cột đè tay áo.

Chú thích: Theo Quảng Dị Ký, vào đời Đường, chùa Long Hưng ở Nguyên Châu do mở đại trai hội, chủ chùa tuổi cao, đức trọng xứng đáng ngồi ngay dưới vị trí dành cho ngài Tân Đầu Lô[34]. Có tiểu tăng từ bên ngoài, đến sau, không có chỗ ngồi, bèn muốn đến ngồi ngay dưới chỗ dành cho vị chủ chùa. Vị chủ chùa quát [đuổi đi, nhưng tiểu tăng] vẫn cứ sấn đến. Hai lượt như thế, chủ chùa giận quá, tựa vào cột, dùng tay chụp [tiểu tăng]. Vừa mới muốn giơ tay thì ống tay áo rộng bị cột chặn lấy, chẳng hạ xuống được, cả chùa kinh hãi. Mọi người bàn luận e là do đạo đức của chú tăng trẻ tạo ra, chú tăng trẻ tuổi tự nói: “Tôi trọn chẳng có đạo hạnh gì cả! Từ nhỏ đến nay suốt hai mươi năm trì kinh Kim Cang”. Mọi người đều tán thán, bảo là do sức hộ trì của kinh Kim Cang, bèn đốt hương đảnh lễ nơi cây cột, áo liền tuột ra.

Người bơ vơ gặp nạn, không trung rơi hài.

Chú thích: Theo Quảng Dị Ký, vào đời Đường, Lý Duy Yến tụng kinh Kim Cang. Người trong họ bắt chước làm theo, gặp loạn An Lộc Sơn, ẩn nấp trong chỗ cỏ hoang. Giặc sắp đuổi đến, mong có một đôi giày mới để chạy. Chợt có vật rơi xuống lưng, giật mình nhìn thì chính là đôi giày mới.

Cha mất, trích máu, mùi hương lạ từ viện tỏa ra.

Chú thích: Theo Pháp Uyển Châu Lâm, vào đời Đường, Lý Quán ở Lũng Tây gặp lúc cha mất bèn trích máu chép Kim Cang Bát Nhã, Tâm Kinh, Tùy Nguyện Vãng Sanh Kinh[35], mỗi thứ một quyển. Từ đấy, trong nhà thường có mùi hương lạ, hàng xóm đều ngửi thấy.

Chôn mẹ, chép kinh, cỏ chi sanh bên chòi tranh.

Chú thích: Theo Pháp Uyển Châu Lâm, vào đời Đường, quan Tư Hộ Tào xứ Dương Châu là Tư Mã Kiều Khanh trong niên hiệu Vĩnh Huy gặp tang mẹ, bèn trích huyết chép kinh Kim Cang hai quyển. Không lâu sau, ở cạnh chòi tranh mọc hai giò cỏ Chi. Chín ngày sau, cỏ đã dài một thước tám tấc, thân cỏ xanh, tỏa tròn như cái lọng đỏ, mỗi ngày tiết ra nước cả thưng. Uống vào, vị ngọt như mật, lấy đi lại tiết ra tiếp. Đồng liêu của Kiều Khanh tận mắt chứng kiến việc này.

Đổi thành tên thứ nhất bên giường ngự, mộng thấy con đỗ đầu.

Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm, vào đời Đường, Dương Tuần trì kinh Kim Cang. Con ông ta đi thi, [Dương Tuần] đêm mộng thấy thần Kim Cang bảo: “Con ông là Xuân, đỗ thứ sáu”. [Con ông ta] lên tỉnh thi, ông Dương lại mộng thấy đề thi “vua hành vương đạo”, đỗ hạng chín mươi sáu. Thi Đình xong, lại mộng thấy [thần Kim Cang] nói: “Con ông làm bài chẳng trúng ý của chủ khảo ra đề thi, bị xếp vào Đệ Tam Giáp. Ta ở bên cạnh giường ngự bèn đổi thành tên thứ nhất[36]. Ấy là quả báo do ông tụng kinh, tích đức vậy”.

Dọa hai vị Tăng trước nơi đình bên sông, nghe kinh chắp tay.

Chú thích: Theo Pháp Uyển Châu Lâm, vào đời Tấn, bên khúc sông tại Dương Châu có Đình Hồ, thần [cai quản hồ ấy] rất nghiêm, rất ác. Thầy trò sư Pháp Tạng người Tây Vực giỏi trì chú. Học trò vị ấy cố ý đến miếu thờ thần Đình Hồ nghỉ đêm, bị mất mạng. Thầy lại qua đó, cũng chết. Vị Tăng cùng chùa chỉ trì Bát Nhã, nghe thầy trò vị sư kia đều chết; do vậy, tới chỗ thần, đến đêm tụng kinh Kim Cang. Tới nửa đêm, nghe có tiếng gió, thấy một vật to lớn, cồng kềnh, ngất ngưởng, nanh dài, mắt sáng như tia chớp. Chợt vật ấy bỏ hết oai thế, đến trước vị Tăng, quỳ gối phải sát đất, chắp tay cung kính. Nghe kinh xong, Tăng hỏi là thần nào? Đáp: “Là thần coi hồ, tin kính sư tụng kinh”. Lại hỏi: “Vì sao đánh chết hai vị Tăng trước đây?” Đáp: “Bọn họ chẳng trì kinh điển Đại Thừa, dùng tâm sân tụng chú muốn hàng phục đệ tử. Đệ tử chẳng phục. Họ thấy hình dạng đệ tử dữ ác, tự nhiên hoảng sợ chết luôn, chứ không phải là do đệ tử cố ý giết”. Vị Tăng kể lại với người khác, người ta đa số thọ trì kinh này.

Vào trường thi, mèo đến, chợt thấy một cụ già tới xua tay.

Chú thích: Theo Kim Cang Kinh Kỷ Nghiệm, vào đời Thanh, Trương Bỉnh Liêm ở Đại Hưng thuở nhỏ hại một con mèo. Về sau, vào trường thi, hồn mèo đến quấy nhiều lần, họ Trương hoảng sợ, kiền thành trì kinh Kim Cang và Tâm Kinh. Trong khoa thi Hương năm Ất Dậu (1825) đời Đạo Quang, vừa làm bài nháp xong, đang chép lại cho rõ ràng thì mèo lại đến. Trương vội xếp quyển thi, tụng kinh không ngớt. Chợt có một cụ già đến, xua tay đuổi mèo đi, và khuyên Trương thi xong hãy mau thỉnh Tăng siêu độ. Nói xong, chẳng thấy cụ già đâu nữa. Trương bèn thi đậu.

Hương ngát khắp nhà, từ canh ba đến khi trời sáng.

Chú thích: Theo Pháp Uyển Châu Lâm, đời Tùy, Liễu Kiệm ban đêm tụng kinh Kim Cang đến canh ba, bỗng có mùi hương lạ tỏa khắp nhà đến sáng chẳng tan.

Hàn Khôi chép kinh theo lối chữ Khải, trên kỷ hiện ánh sáng.

Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm, trong thời Vạn Lịch nhà Minh, cao tăng đất Sở (Hồ Nam) là Hàn Khôi từng ở chùa Thiên Hoàng dùng nước thơm và bột vàng hòa thành mực để chép kinh Kim Cang. Đến phần thứ 16, trời đã tối quên thắp đèn, trên kỷ dường như có ánh sáng nhẹ để sư chép kinh theo lối chữ Khải mãi cho đến tận nửa đêm. Ngẫu nhiên đói bụng muốn ăn, đứng dậy nhớ tới đèn đuốc thì trước mắt đã tối om rồi, hoảng hồn kêu vị Tăng ở cùng nhà đem lửa sang soi thì trên từng trang giấy, nét chữ còn trang nghiêm hơn lúc bình thường.

Pháp Thiền kéo thuyền, giở chân bước trên không.  

Chú thích: Theo Cân Ngự Thừa Tục Tập, vào đời Minh, vị Tăng ở đất Sở là Pháp Thiền muốn sang Lô Sơn dựng am tu hành. Đến Cửu Giang, gặp đúng lúc Vương Tây Khê ở ngoài Tây Thành thỉnh tụng kinh Kim Cang, mãn kỳ hạn là ba năm, sẽ cúng tạ ba trăm lượng. Về sau, tụng xong, Tây Khê chỉ đưa cho một trăm lượng, chẳng thể dựng am được. Số vàng kiếm được đã bố thí quá nửa, Sư chỉ đành ôm bát không. Có thuyền của phiên vương đi đến Cửu Giang, thuê Sư làm phu kéo thuyền. Khi ấy, các thuyền gặp trận gió ngược chẳng thể tiến được, chỉ riêng thuyền do Sư kéo là tiến vùn vụt, bàn chân lướt trên không chừng cả thước. Vương trông thấy kinh hãi, mà Sư cũng chẳng tự biết. Cật vấn mới biết là do Sư niệm kinh mà ra, vương liền ban ba trăm lượng bạc để dựng am.

Hai phen nổi gió, nguyên văn bản kinh do họ Bạch chép được hoàn trả nguyên vẹn.

Chú thích: Theo Thọ Trì Quả Báo, năm Gia Tĩnh 43 (1564) đời Minh, vùng Đông Nam mất mùa lớn. Chùa X… ở Động Đình Sơn tại Tô Châu có trọn vẹn quyển kinh Kim Cang do Bạch Lạc Thiên[37] đã chép vào đời Đường, được coi là vật chí bảo trấn tự. Năm ấy, đại chúng trong chùa đói khát, vị Tăng đứng đầu chùa do bất đắc dĩ, phải đem cuốn kinh ấy nhường cho Vương Hoạn ở Sơn Đường nhằm đổi lấy năm mươi thạch gạo để có cái ăn. Hoạn thí gạo, trả lại kinh. Tăng lãnh về, qua hồ, hết sức ca ngợi đức của ông Hoạn. Mọi người trong thuyền xin được xem kinh, vị tăng vừa mở kinh ra thì đột nhiên cơn gió lớn thổi tới xé đứt mấy trang đầu cuốn kinh, cuốn lên mây, bay đi mất. Tăng buồn bã hối hận không cùng.

Ba năm sau, chợt có vị thượng quan nghe danh cuốn kinh ấy, hãm Tăng vào ngục, ép phải hiến kinh. Thượng quan do thấy kinh chẳng trọn quyển, chẳng đẹp ý, thả Tăng, trả lại kinh. Tăng qua hồ, lại gặp gió to, trời đất tối đen, cắm thuyền lên bờ, vào một thôn hẻo lánh tránh gió. Đến trước nhà một ngư phủ già thì trên ván dán mấy trang kinh đã bị mất trước kia, trọn chẳng bị thương tổn gì. Hỏi thăm ngư phủ họ Diêu thì ra ba năm trước có tia lửa sáng bổ nhào xuống ruộng, kinh hãi ra coi thì là những tờ giấy có chữ; do vậy, bèn dán lên tường. Tăng buồn khóc, đảnh lễ, xưng tụng ngài Vy Đà, thuật đầy đủ đầu đuôi, bảo: “Nếu không có trận gió thần lần trước thì kinh đã lọt vào tay kẻ quyền quý, nếu không có trận gió thần lần này, kinh khó thể lại nguyên vẹn được!” Họ Diêu cũng cảm ngộ, đổi nghề. Sư đóng lại những trang ấy vào cuốn kinh, mang kinh trở về chùa.

Mộng nhờ một chữ, thần viết chữ Triệu cho biết lắm con trai.  

Chú thích: Theo Kim Cang Cảm Ứng, vào đời Minh, Thí Chấn Vũ ở huyện Cẩn đã bốn mươi vẫn chưa có con, lễ hòa thượng Thiên Đồng Mật Vân, được đặt pháp danh là Thông Đẳng. Sư dạy: “Ông có thể trai tăng, trì kinh Kim Cang thì sẽ tự nhiên có con”. Ông Thí bèn theo đúng lời dạy, lễ Phật, phát nguyện, đêm mộng thấy thần Kim Cang viết một chữ Triệu trao cho. Trở về liền ăn chay, chép kinh, kiền thành tụng niệm, mỗi năm bày cỗ chay cúng, về sau sanh được năm đứa con trai.

Mây thành ngũ sắc, vợ bé sanh con.

Chú thích: Theo Kim Cang Cảm Ứng, vào đời Thanh, Đề Đốc Trương Kiệt ở Chiết Giang đã sáu mươi không có con, phu nhân họ Trần hằng ngày tụng kinh Kim Cang. Tháng Hai năm Khang Hy thứ 5 (1666), ông Thí sang chùa Thiên Đồng tu Hoa Nghiêm Sám Pháp. Trong núi hiện mây ngũ sắc bảy ngày. Mùa Thu, vào tháng Bảy, vợ lẽ sanh được một trai.

Khách mộng thấy một người, lang quân thi đỗ.  

Chú thích: Theo Kim Cang Cảm Ứng, vào đời Minh, Trầm Quang Hoa ở Gia Hòa ngẫu nhiên nói với Ngô X… rằng: “Buổi sáng ăn chay, tụng kinh Kim Cang đã hai mươi năm”. Ông Ngô hờ hững đáp lời: “Thì sao?” [Hôm sau], ông Ngô dậy sớm, vội chạy đến chúc mừng ông Trầm: “Con trai ông thi đậu rồi!” Hỏi vì sao? Đáp: “Tôi mộng thấy một người nói một vị sĩ phu ở trong quận do công đức trì kinh nên con ông ta thi đỗ. Tôi đoán người ấy chính là ông”. Đến mùa Thu, con trai ông Trầm đi thi, quả nhiên đỗ kỳ thi Hương.

Từng quyển đề tên, cõi âm mở quyển của Văn Công.

Chú thích: Theo Thọ Trì Quả Báo, trong thời Vạn Lịch nhà Minh, quan Đồng Tri xứ Vệ Huy là Văn Nguyên Phát không tin đạo Phật. Do bị bệnh, mộng thấy vào cõi âm, mới biết địa ngục chẳng dối, bèn lưu tâm nơi kinh điển nhà Phật. Hằng ngày tụng kinh Kim Cang, hễ họp mặt với bạn già là Vương Hồng Cang bèn tụng thuộc lòng. Con cả là Chấn Mạnh đỗ đầu, cũng đã từng chính tay chép kinh Kim Cang theo kiểu chữ Lệ cho khắc vào đá. Có Ngô sinh mộng đi vào cõi âm, có người chỉ hãy bước vào một cái cửa nhỏ, thấy điện vũ trang nghiêm đẹp đẽ, bên trong xếp bày Long Tạng, bên cạnh có giáp sĩ thủ hộ. Mở ra xem, từng cuốn kinh trang nghiêm, từng quyển đều ghi tên họ Văn Nguyên Phát. Hỏi ra thì họ nói: “Đấy đều là kinh do ông Văn tụng hằng ngày”. Tỉnh giấc bèn kể lại với người cùng quê là Văn tiên sinh. Ông này chính là chú của Nguyên Phát. Từ đấy, chàng Ngô cũng trì tụng không thiếu sót.

Tầng tầng giấy xoay, chiếc hài của ông Cao Quý lượn lưng trời.

Chú thích: Theo Kim Cang Linh Ứng, vào đời Minh, Cao Quý ở Thái Thương mở tiệm giày. Tháng Sáu năm Thiên Khải thứ 5 (1625), từ nơi chiếc màn che những chiếc giày đã được bồi giấy[38], có tiếng động [nghe như vật gì bị] xé rách thật mạnh nghe xé lụa, nhìn xem thì như một bức vách lớn bay lơ lửng trên không, dần dần rớt xuống, còn mấy tấm thì bay la đà theo hướng Bắc đến tháp Phổ Đồng ở ngoài thành mới đáp xuống. Tăng nhặt lấy xem thì toàn là những trang kinh Kim Cang. Ấy là vì ông Quý không biết chữ, lấy những trang kinh [để độn giày] nên thiên thần mới thị hiện như thế (trên đây tổng cộng là 20 cặp, gồm 40 điều).

Đã trình kinh văn đủ để chứng minh, cảm ứng như tiếng vang. Đây là công đức chẳng thể nghĩ bàn thứ mười vậy.

III. Hồi Hướng

Chỉ Tịnh, thẹn học vấn hẹp hòi, hèn tệ, chưa khỏi bị chê lấy một để sót cả vạn, thiếu tánh tụng trì, thật tiếc phạm lỗi được sau sót trước.

Chú thích: Trong kinh Lăng Nghiêm, ngài Châu Lợi Bàn Đặc Ca[39] nói: “Ngã khuyết tụng trì, vô đa văn tánh, ức trì Như Lai nhất cú già-đà, ư nhất bách nhật, đắc tiền di hậu, đắc hậu di tiền” (Tôi thiếu tụng trì, không có tánh đa văn. Nhớ, trì một câu kệ của đức Như Lai trong một trăm ngày, nhớ phần trước quên phần sau, nhớ phần sau quên phần trước).

Vào biển đếm cát, biết rõ tự khốn đốn.

Chú thích: Chứng Đạo Ca: “Nhập hải toán sa đồ tự khổn” (vào biển đếm cát uổng nhọc nhằn).

Do chỉ cho [người khác] thấy được mặt trăng, há dám nói là chẳng có ai?  

Chú thích: Kinh Lăng Nghiêm: “Như nhân dĩ thủ chỉ nguyệt thị nhân, bỉ nhân nhân chỉ đương ưng khán nguyệt. Nhược phục quán chỉ dĩ vi nguyệt thể, thị nhân khởi duy vong thất nguyệt luân, diệc vong kỳ chỉ. Hà dĩ cố? Dĩ sở thị chỉ, vi minh nguyệt cố” (Như người dùng ngón tay chỉ mặt trăng cho người khác, người ấy hãy nên do ngón tay mà trông thấy mặt trăng. Nếu lại coi ngón tay là thực thể của mặt trăng thì người ấy chẳng những lầm mất vầng trăng mà còn lầm cả ngón tay. Vì sao vậy? Do coi cái dùng để chỉ bày chính là vầng trăng sáng vậy).

Nhờ vào bài văn tán thán này để vụng dại thay cho tung hương rải hoa, đếm của báu nơi nhà người, hòng mở cửa tòa nhà đẹp đẽ.  

Chú thích: Kinh Hoa Nghiêm: “Như nhân sổ tha bảo, tự vô bán tiền phân” (Như người đếm của báu của kẻ khác, tự mình chẳng có được nửa phân tiền). Kinh Lăng Nghiêm: “Ngã kim do như lữ bạc chi nhân, hốt mông thiên vương tứ dữ hoa ốc, tuy hoạch đại trạch, yếu nhân môn nhập” (Ta nay giống như người lênh đênh, chợt được vua trời ban cho tòa nhà đẹp đẽ, tuy được căn nhà to lớn, cần phải do cửa mà vào).

Nguyện đem công đức chẳng thể kể, chẳng thể lường, chẳng thể nghĩ bàn này hồi hướng Bồ Đề, liền cùng với chúng sanh biết như thế, thấy như thế, tín giải như thế cùng sanh An Dưỡng.

Chú thích: Tiếng Phạn Bồ Đề (Bodhi), cõi này dịch là Giác Đạo, chính là Phật quả hết sạch vô minh, phước huệ viên mãn.

Tiếng Phạn “Tu Ma Đề”, cõi này dịch là An Dưỡng, còn dịch là An Lạc, Diệu Ý, Cực Lạc, Thanh Thái v.v… nằm ở phương Tây của thế giới Sa Bà này của chúng ta, chính là Tịnh Độ giáo hóa của A Di Đà Phật (Sa Bà, Hán dịch là Kham Nhẫn, nghĩa có thể cam chịu những thứ khổ). Thích Ca Mâu Ni thị hiện uế độ Sa Bà ngõ hầu chúng sanh biết chán cầu lìa, nên gọi là Chiết. A Di Đà Phật thị hiện Tịnh Độ Cực Lạc, ngõ hầu chúng sanh biết ưa thích, cầu sanh về đó, nên gọi là Nhiếp. Ý chỉ của hai môn Chiết và Nhiếp đều nhằm về một chỗ. Lại nữa, A Di Đà Phật trong khi tu nhân, đã phát bốn mươi tám đại nguyện độ thoát chúng sanh (xem trong Vô Lượng Thọ Kinh). Vì thế, có người niệm danh hiệu Phật thì khi lâm chung, Ngài liền đến tiếp dẫn sanh về An Dưỡng. Tùy theo công hạnh sâu hay cạn mà sanh trong chín phẩm hoa sen (xem Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh).

Niệm kinh Kim Cang nếu có thể chí thành khẩn thiết sẽ tự tiêu trừ nghiệp chướng, tăng trưởng phước huệ, lại còn niệm Phật hồi hướng, quyết định vãng sanh Tây Phương. Hễ được vãng sanh sẽ siêu phàm nhập thánh, lên địa vị Bất Thoái, lại còn thân cận Di Đà, theo gót hải chúng, tự nhiên viên thành tam thân, tứ trí, ngũ nhãn, lục thông, hết thảy công đức. Người đời nay thường chấp vào câu nói vô tướng trong kinh Kim Cang, bảo “niệm Phật là chấp tướng, chẳng bằng tham Thiền!” Chẳng biết từ ngay nơi tướng mà ly tướng, đấy là chân vô tướng! Lìa tướng chấp vô, hóa ra là chấp tướng! Vĩnh Minh đại sư nói: “Có Thiền, không Tịnh Độ, mười người chín chần chừ! Không Thiền, có Tịnh Độ, vạn tu, vạn người về”. Các vị Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, Vô Trước, Thiên Thân, tổ sư như Trí Giả, Từ Ân, Thanh Lương, Vĩnh Minh, Liên Trì, Ngẫu Ích v.v… đều niệm Phật cầu vãng sanh, các vị ấy là hạng người nào? Người tụng kinh Kim Cang hãy nên kiêm niệm Phật hồi hướng vãng sanh, thì trong mười thứ lợi ích do trì kinh quyết định chứng cái quả thứ mười là “quyết định vãng sanh Tịnh Độ”, chứ chẳng phải chỉ đạt được chín thứ thiện nhân trước đó mà thôi! Những điều khác xin hãy coi trong kinh Kim Cang.

* Kính vì những người in, tặng, lưu truyền và những người đọc tụng trong hiện tại, những người in, tặng, lưu truyền và đọc tụng trong tương lai mà nói kệ hồi hướng rằng:

Lạ thay, Quán Thế Âm!
Thệ nguyện khó nghĩ bàn,
Thành Đẳng Chánh Giác đã lâu,
Lại hiện thân Bồ Tát,
Tùy loại hóa thân hình,
Theo tiếng kêu, cứu khổ,
Đáng tiếc người thế gian,
Phần nhiều chẳng hay biết,
Vì thế, soạn sách này,
Mong được lưu truyền rộng,
May được các thiện tín,
Nhận in đến mấy vạn,
Từ đó nhiều người biết,
Nhiều lượt đảm nhận in,
Đạt đến số mười vạn,
An ủi lòng Bồ Tát,
Lại còn khắc in rộng,
Lưu truyền rộng trong ngoài,
Hòng biết Quán Thế Âm,
Thật là bậc nương tựa
Cho hết thảy chúng sanh,
Ví như đuốc lửa lớn,
Chiếu khắp các nẻo tối,
Cũng như thiết luân to,
Chở khắp kẻ chìm đắm,
Dẫn đường cho người mù,
Thuốc thang cho kẻ bệnh,
Thành quách lánh trộm cướp,
Gạo thóc thuở đói kém,
Phải biết ơn Bồ Tát,
Hơn đất chở, trời che,
Dẫu hết kiếp tuyên dương,
Cũng chỉ nêu chút phần,
Nguyện những người đứng in,
Tiêu trừ hết nghiệp chướng,
Phước huệ đều tăng trưởng,
Mọi việc đều như ý,
Sống được hưởng ngũ phước,
Mất sẽ lên chín phẩm,
Các tổ tông quá khứ,
Nhờ đây sanh Tịnh Độ,
Cha mẹ trong hiện tại,
Đều trường thọ, khỏe mạnh,
Tất cả các con cháu,
Đều rạng danh gia đình,
Năm tháng thường sung túc,
Trộm cướp đều đổi dạ,
Nhà nhà trọng từ thiện,
Chốn chốn hành nhân nghĩa,
Ngõ hầu thói bạc bẽo,
Thành nồng hậu, chất phác,
Pháp giới chư hữu tình,
Cùng viên thành Chủng Trí.

Mùa Xuân năm Bính Dần, tức năm Dân Quốc 15 (1926), Thích Ấn Quang hòa-nam

Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng

Quyển 4 hết

Trọn Bộ

(hoàn tất cảo bản ngày mồng 07 tháng 07 năm 2010.

Tu chỉnh lần thứ nhất ngày 06 tháng 03 năm 2011)

 

Hồi Hướng

Cuốn sách nhỏ này được ra đời nhờ sự khuyến thỉnh của một đạo hữu sau khi đọc Ấn Quang Văn Sao Tam Biên, và sẽ không thể nào hoàn thành trọn vẹn nếu không có sự cổ vũ tích cực của đạo hữu Vạn Từ trong suốt quá trình chuyển ngữ cũng như các vị huynh trưởng Đức Phong và Chơn Phù đã phát Bồ Đề tâm tái giảo duyệt, trình bày và ấn tống. Chân thành cảm tạ các đạo hữu Minh Tiến, Đức Phong, Chơn Phù, Vạn Từ và Huệ Trang đã bỏ công giảo chánh, chỉ giáo, phủ chánh những chỗ sai lầm. Nếu việc làm liều lĩnh này vì tiếc pháp và tham pháp biết lượng sức mình của nhóm cư sĩ chúng con có chút phần công đức nào đều xin hồi hướng thế giới hòa bình, tai nạn tiêu diệt, tổ tiên, sư trưởng, phụ mẫu, quyến thuộc của chúng con và của tất cả liên hữu Tịnh tông đều được vãng sanh. Những ai dù thấy hay nghe, dù tùy hỷ hay hủy báng đều cùng kết duyên với Từ Phụ Quán Thế Âm Bồ Tát, đều cùng được vãng sanh An Dưỡng. Tất cả liên hữu do thấy nghe hạnh nguyện của Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ càng tin sâu, nguyện thiết, chuyên niệm hồng danh từ phụ A Di Đà Phật và Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ cùng nhau hội ngộ nơi Liên Bang để mau chứng Vô Sanh Nhẫn, cùng trở lại tiếp độ chúng sanh trong nhà lửa Sa Bà cùng chứng chân thường, cùng sanh An Lạc quốc.

[1] Lý Mật (582-619) là một tướng lãnh quân phiệt cuối thời Tùy. Ông ta là người xứ Liêu Dương (Liêu Đông), là chắt của Trụ Quốc Tướng Quân Lý Bật nhà Tây Ngụy, được tập tước, theo hầu Tùy Dượng Đế. Một hôm, Tùy Dượng Đế thấy Lý Mật tướng mạo phi phàm bèn cật vấn. Biết là Tùy Dượng Đế muốn giết hại, Lý Mật bỏ trốn về ẩn cư tại quê nhà. Về sau, Lý Mật theo phò con trai của Dương Tố là Dương Huyền Cảm (Dương Tố là một trong những công thần của nhà Tùy, bị Tùy Dượng Đế nghi ngờ sát hại), tùng chinh Cao Câu Ly để thừa dịp dấy loạn, hòng diệt nhà Tùy. Do chuẩn bị không kỹ càng, cuộc dấy loạn bất thành, Lý Mật phải bỏ trốn, rồi gia nhập loạn quân Ngõa Cương của Địch Nhượng, tạo nhiều công lao lớn, được Địch Nhượng phong làm Tư Đồ, thanh thế Ngõa Cương ngày càng lừng lẫy. Cuối cùng, Lý Mật sát hại Địch Nhượng chiếm binh quyền. Về sau, Lý Mật nghe lời chiêu dụ, toan xua quân thôn tính quyền thần nhà Tùy là Vũ Văn Hóa Cập, nhưng bị quan giữ thành Lạc Dương là Vương Thế Sung đánh úp Ngõa Cương, khiến Lý Mật đại bại phải chạy về Tây. Bộ hạ đắc ý của Lý Mật là Đơn Hùng Tín cũng theo về hàng Vương Thế Sung. Lý Mật đành phải theo phò Đường Cao Tổ (Lý Uyên). Sau đấy, Lý Mật ngầm phản Đường, chiếm cứ huyện Đào Lâm, xua quân chiếm núi Hùng Nhĩ, nhưng thất bại, cuối cùng bị quân nhà Đường giết chết.

[2] Phương Bá, còn gọi là Hầu Bá, vốn là một từ ngữ chỉ một chư hầu hùng mạnh, đứng đầu các chư hầu một vùng (chẳng hạn như Tề Hoàn Công thời Chiến Quốc). Về sau, các chức Thứ Sử đời Hán, chức Thái Phỏng Sứ, Quán Sát Sứ đời Đường và Bố Chánh Sứ đời Minh – Thanh đều được gọi là Phương Bá.

[3] Biệt Giá là chức quan đã có từ thời Hán, có nhiệm vụ phụ tá quan Thứ Sử một châu. Do khi theo quan Thứ Sử tuần hành, viên quan này được phép ngồi riêng một cỗ xe nên mới có danh xưng Biệt Giá. Thời Tùy – Đường có lúc chức quan này được đổi thành Trưởng Sử, rồi lại đổi thành Biệt Hạ như cũ.

[4] Tức là Đạo Đức Kinh.

[5] Đây là lần chinh phạt Cao Câu Ly (cổ Đại Hàn) của Dương Huyền Cảm dưới thời Tùy Dượng Đế. Khi Đường Thái Tông thống nhất sơn hà, do xứ Tân La (một vương quốc cổ của Đại Hàn ở phía Nam Cao Câu Ly, thuở ấy trên bán đảo Đại Hàn có ba vương quốc là Cao Câu Ly, Bách Tế và Tân La) cấu kết với nhà Đường để thôn tính Cao Câu Ly nên Đường Thái Tông lại xua quân đi đánh Cao Câu Ly lần nữa. Lãnh thổ Cao Câu Ly khi ấy bao gồm một phần tỉnh Liêu Đông của Trung Hoa hiện thời và gần như toàn bộ miền Bắc bán đảo Đại Hàn.

[6] Nguyên văn “vũ thư” (thư truyền tin, thời cổ có gắn lông chim, ngụ ý tin tức phải giao chuyển, thực hiện cấp bách). Tuy về sau không ai gắn lông chim nữa, nhưng các thư từ, mệnh lệnh khẩn cấp trong quân đội vẫn gọi là “vũ thư”.

[7] Tuyển nhân: Người thi đậu, được bổ đi làm quan.

[8] Chỉ dinh thự của vị quan đứng đầu một châu.

[9] Nguyên văn “liên câu” (蓮鉤), chỉ chân bó của phụ nữ Trung Hoa thuở xưa. Vào thời cổ, không rõ từ lúc nào, chỉ trừ con gái những gia đình quá nghèo, hầu như toàn bộ phụ nữ Trung Hoa bị bó chân từ bé (khoảng năm sáu tuổi), các ngón chân bị bẻ gập xuống lòng bàn chân rồi bó vải chặt, có rắc thuốc cho các ngón khỏi hư thối, đi giày thật nhỏ. Thân thể tiếp tục lớn lên nhưng xương bàn chân không dài ra được, sẽ bị cong vòng lên giống như cái móc, nên mới gọi là Câu. Khi di chuyển, người bị bó chân chỉ có thể đi loạng choạng từng bước ngắn dựa vào gót chân và đầu mũi chân, trông khập khiễng, chệch choạng, nhưng thi nhân Trung Hoa lại khen là “thướt tha, yểu điệu”. Nếu tháo vải bó chân ra, người nữ ấy sẽ không thể nào đứng được. Ngoài ra, Triệu Phi Yến đời Hán chân bó rất nhỏ, có thể đứng gọn trong hai bàn tay của vua. Vua say mê, bảo chân Phi Yến đẹp như cánh sen, cho người dùng vàng đúc thành hoa sen khảm trên mặt đất, bảo Triệu Phi Yến bước trên đó, gọi là “bộ bộ sanh liên” (từng bước nảy hoa sen). Do vậy, người Hoa thường gọi chân bó là “liên câu” (cái móc hoa sen). Khi người Mãn Châu chiếm được Trung Hoa cũng bắt chước người Hán bó chân, mãi cho đến khi Dân Quốc thành lập, chánh quyền nghiêm cấm thì tục lệ bó chân mới chấm dứt.

[10] Nguyên văn “dịch phu”, là lính chạy chân hoặc cưỡi ngựa để giao chuyển công văn, thư từ cho chánh quyền, giống như người giao thư hiện thời. Mỗi trạm chuyển tiếp được gọi là Dịch.

[11] Sát Viện là một phân viện của Ngự Sử Đài (hai viện kia là Đài Viện và Điện Viện). Các quan trực thuộc viện này được gọi là Giám Sát Ngự Sử hoặc gọi tắt là Thị Ngự. Viện này có trách nhiệm giám sát các quan, đàn hặc những kẻ lạm quyền, trái pháp, cũng như phối hợp với Hình Bộ và Đại Lý Tự để thẩm tra những vụ trọng án nhằm ngăn ngừa hai cơ quan ấy lạm quyền, ép cung tội nhân oan uổng. Ông Phùng được gọi là Sát Viện, tức là chỉ giữ một chức quan trong Sát Viện chứ không phải là người đứng đầu cơ quan này.

[12] Khu Mật Viện là cơ cấu quan trọng trong chánh quyền thời cổ. Cơ quan này được lập ra vào thời Đường Đại Tông với danh xưng Khu Mật Sứ, do các hoạn quan đảm nhiệm, với nhiệm vụ giúp vua phê duyệt tấu chương và truyền đạt mệnh lệnh. Về sau, Đường Trang Tông đổi Khu Mật Sứ thành Khu Mật Viện, và tăng quyền lực cho cơ quan này, nhằm phân chia bớt quyền uy của Tể Tướng, nhưng Khu Mật Viện thiên trọng việc binh bị và thành viên của Khu Mật Viện gồm toàn những vị đại thần tài năng, chứ không sử dụng thái giám nữa. Đến đời Liêu, Khu Mật Viện bị tách làm hai: Bắc Khu Mật Viện lo quân cơ, Nam Khu Mật Viện chưởng quản quan lại. Đến đời Tống, vai trò của Khu Mật Viện cực kỳ quan trọng, cơ cấu phức tạp hơn, chia thành 12 phòng, đóng vai trò thống lãnh mọi hoạt động của chánh quyền (can dự, điều động cả sáu bộ), có quyền dò xét các quan nếu cần thiết, ngay cả hoàng thân quốc thích cũng không thể tránh khỏi sự giám sát của Khu Mật Viện. Khu Mật Viện do một quan văn đứng đầu, quan võ làm phó. Thoạt đầu, để tránh chuyện tể tướng chuyên quyền, nhà Tống quy định Tể Tướng không được tham dự Khu Mật Viện. Khu Mật Viện thường do hoàng thân quốc thích hay đại thần uyên bác, tín cẩn nắm giữ. Kể từ đời Tống Ninh Tông, Khu Mật Viện thường do Tể Tướng kiêm nhiệm.

[13] Một kỷ là mười hai năm.

[14] Tức bài kệ: “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh, như lộ, diệc như điển. Ưng tác như thị quán”.

[15] “Cáp nhi” là bồ câu.

[16] Ma Ni Giáo (Manichaeism, còn gọi là Mâu Ni Giáo, Minh Giáo hoặc Ma Giáo), vốn là đạo thờ lửa do Mani sáng lập tại Ba Tư vào giữa thế kỷ thứ 3 tại vùng Asuristan thuộc lãnh thổ Babylon của vương triều Sassanid. Giáo nghĩa của Ma Ni Giáo có xen tạp một phần tư tưởng của Cơ Đốc giáo. Mani chủ trương từ thời nguyên thủy đã có hai thế giới đối lập là quang minh và tối tăm tồn tại độc lập. Dần dà thế giới hắc ám xâm lấn thế giới quang minh, phát sinh đại chiến, khiến cho thế giới rối loạn. Nói cách khác, trong thế giới luôn có sự đối kháng giữa hắc ám và quang minh. Do mâu thuẫn với các giáo sĩ Công giáo và Bái Hỏa Giáo (Zoroastrianism), Mani bị hạ ngục và chết trong tù. Tuy thế, đạo của Mani vẫn được lan truyền sang phương Đông và phương Tây. Từ phương Tây, đạo Ma Ni truyền sang tận La Mã và Ai Cập. Năm 354, sử gia Hilary xứ Poitiers cho biết tín đồ đạo Mani khá đông tại nước Pháp. Thánh phụ Augustine (Augustine of Hippo) của Công Giáo từng là tín đồ của Ma Ni giáo trước khi cải đạo sang Công Giáo. Đạo Mani được truyền vào Trung Hoa dưới thời Võ Tắc Thiên do Mihr-Ohrzmazd (sử Trung Hoa thường gọi ông ta là Phất Đa Đản). Để thích ứng với văn hóa Trung Hoa, họ dịch Thượng Đế trong đạo họ thành Minh Tôn, nên từ đó, đạo này được gọi là Minh Giáo. Thoạt đầu, chánh quyền Trung Hoa nghi kỵ Minh Giáo, Đường Huyền Tông hạ lệnh cấm truyền đạo này ngay trước khi loạn An Lộc Sơn xảy ra. Sau loạn An Lộc Sơn, do dân Hồi Hột đa số là tín đồ Ma Ni giúp nhà Đường dẹp loạn nên triều đình cho phép Minh Giáo được công khai truyền đạo. Đến năm Đại Lịch thứ 3 (768) đời Đường, chùa Đại Vân Quang Minh của Ma Ni Giáo được xây tại Trường An. Đến thời Đường Vũ Tông, do nước Hồi Hột bị suy yếu, không còn ích lợi cho nhà Đường, Vũ Tông bèn hạ lệnh cấm đạo Ma Ni rất gắt. Tuy thế, Minh Giáo vẫn lưu truyền trong dân gian, và những kẻ cơ hội thường dựa vào tín đồ Minh Giáo để làm loạn, chẳng hạn trong năm Trinh Minh thứ sáu (920), Vô Ất dùng cờ hiệu Minh Giáo khởi nghĩa tại Trần Châu (thuộc Hoài Dương, Hà Nam hiện thời). Từ đó, liên tục trong các triều đại kế tiếp, tín đồ Minh Giáo thường sách động quần chúng khởi nghĩa như Phương Lạp, Chung Tương thời Bắc Tống, Hàn Sơn Đồng, Lưu Phước Thông vào đời Nguyên. Châu Nguyên Chương (Minh Thái Tổ) cũng theo Minh giáo để dựa vào thế lực của phe đảng Hàn Sơn Đồng. Do vậy, mới đặt quốc hiệu là Đại Minh. Sau khi thành công, Châu Nguyên Chương trở mặt đàn áp Minh Giáo. Về sau, những giáo phái dân gian như Bạch Liên, Long Hoa Trai Hội v.v… cũng pha trộn lung tung các tín điều của Minh giáo với Phật giáo và các tín ngưỡng mê tín dân gian, thậm chí thành lập một đạo riêng mang danh xưng là Nhất Quán Đạo.

[17] Chư Sanh: Dưới thời Minh – Thanh, người đã đậu kỳ thi Hương (những triều đại trước gọi là Tú Tài) được gọi là Cống Sanh hay Sanh Đồ, tùy theo là học trò do huyện giới thiệu lên tỉnh hay tự đi thi. Do đều có chữ Sanh nên những người thi Hương được gọi là Chư Sanh. Phải là chư sanh rồi mới được đi thi Hội và thi Đình.

[18] Đây là quy định từ năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 8 (983) đời Tống Thái Tổ đối với thứ hạng đỗ đạt trong kỳ thi Đình. Thi Đình (Điện Thí) do Võ Tắc Thiên sáng lập vào đời Đường, người đi thi phải vào thi trong điện vua, do Hoàng Đế đích thân chủ trì trông thi. Về sau, các kỳ thi Đình do các đại thần uyên bác chủ trì. Vua chỉ duyệt đề thi, xem các quyển thi được chấm đỗ đầu, ban yến và dự lễ xướng danh tân khoa. Đến đời Tống, Tống Thái Tổ chia những người đậu thi Đình (gọi chung là Tiến Sĩ) thành ba hạng:

  1. Hạng nhất (nhất giáp): Chỉ lấy ba người đậu, tức là Trạng Nguyên, Thám Hoa, Bảng Nhãn. Gọi chung là Tiến Sĩ Cập Đệ.
  2. Hạng nhì (nhị giáp), gọi chung là Tiến Sĩ Xuất Thân.
  3. Hạng ba (tam giáp), gọi chung là Đồng Tiến Sĩ Xuất Thân.

Những người đỗ đầu trong hạng nhị giáp và tam giáp sẽ được gọi là Truyền Lô. Hạng Mộng Nguyên đỗ thứ năm trong hàng Nhị Giáp tức là dưới bốn người trong Nhị Giáp và ba người trong Nhất Giáp nên đúng là hàng thứ tám như trong bảng trời đã ghi.

[19] Quận Hoàng: Thành Hoàng của một quận.

[20] Theo quy chế đời Đường, vợ quan Tứ Phẩm gọi là Quận Quân, vợ quan Ngũ Phẩm gọi là Huyện Quân. Mẹ của các vị quan ấy được gọi chung là Thái Quân. Về sau, danh từ Thái Quân được dùng như một mỹ từ để gọi mẹ những người có chức tước đôi chút.

[21] Kinh này có tên gọi đầy đủ là Phật Thuyết Nguyệt Thượng Nữ Kinh do ngài Xà Na Quật Đa dịch vào đời Tùy, được đánh số 480, xếp vào tập 14 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh. Nguyệt Thượng Nữ là con gái của người họ Ly Xa thành Tỳ Da Ly là Tỳ Ma La Cật. Cô gái sanh ra đã có phước tướng, khiến các kho báu xuất hiện, các báu đầy dẫy, thân có quang minh chói lấp ánh sáng mặt trăng nên được đặt tên là Nguyệt Thượng. Con trai của vương công, quý tộc, hào môn đều muốn cưới Nguyệt Thượng, tranh nhau đem tiền của săn đón khiến Tỳ Ma La Cật hết sức lo âu. Cô nói kệ khuyên cha đừng lo âu vì không ai có thể làm hại cô được, rồi truyền báo cho mọi người biết sau bảy ngày cô sẽ chọn chồng. Trong bảy ngày ấy, cô thọ Bát Quan Trai Giới. Vào ngày Rằm, Phật liền dùng thần lực hóa ra đóa sen báu trong tay Nguyệt Thượng rồi hiện hình tượng Như Lai trong đóa sen đó, nói kệ tán thán công đức của Như Lai, khiến cô sanh tâm hoan hỷ, và dạy cô pháp sâu. Khi mọi người tụ tập đầy đủ, cô liền bay lên không nói kệ đoạn trừ tham dục. Mọi người nghe xong, sanh tâm nhàm chán tham dục, dứt tham, sân, si. Sau đó, cô luận pháp với ngài Xá Lợi Phất và Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, hiện các thần biến rồi xin quy y Phật và xuất gia.

[22] Tiên quân: Mỹ từ do con gọi cha đã khuất.

[23] Vỹ Nam Khang (746-806), tên thật là Vỹ Cao, là Thứ Sử Lũng Châu thời ấy. Ông này là người đất Kinh Triệu (Tây An), được Đường Đức Tông phong làm Điền Phán Quan (chức quan coi việc canh nông), kiêm Thứ Sử Lũng Châu. Về sau, do có công tổ chức quân Phụng Nghĩa nên được phong làm Lưu Nam Tây Xuyên Tiết Độ Sứ, rồi Tả Kim Ngô Vệ Tướng Quân. Ông cai quản đất Thục hơn hai mươi năm, được phong làm Nam Khang Quận Vương, nên thường được gọi là Vỹ Nam Khang.

[24] Lưu Tịch làm quan đến chức Ngự Sử Trung Thừa, vốn là bộ hạ của Vỹ Nam Khang. Khi Vỹ Nam Khang mất vào năm Vĩnh Trinh nguyên niên (805), Lưu Tịch dâng thư xin triều đình phong làm Tây Xuyên Tiết Độ Sứ, nhưng Đường Hiến Tông lại phong chức ấy cho Viên Tư, chỉ phong cho Lưu Tịch chức Cấp Sự Trung. Lưu Tịch liền dấy quân chống lại, ngăn cản Viên Tư vào đất Tây Xuyên. Do vừa lên ngôi, Đường Hiến Tông chưa rõ hư thực, đành phải phong hắn làm Công Bộ Thượng Thư kiêm lãnh Tây Xuyên Tiết Độ Sứ. Rồi hắn lại đòi làm Tiết Độ Sứ cả vùng Tam Xuyên, bị triều đình cự tuyệt, Lưu Tịch bèn đem binh đánh chiếm Tử Châu. Về sau, Lưu Tịch bị Cao Hà Ngụ bắt được, xử trảm.

[25] Nguyên văn “tri lưu hậu sự”. Đây là quy chế bắt đầu từ thời Đường Huyền Tông, nhằm ngăn ngừa chuyện tranh chấp quyền bính tại các biên trấn. Khi viên quan Tiết Độ Sứ hoặc Quan Sát Sứ chết, triều đình chưa kịp bổ người tới thay, hoặc họ có việc phải vào chầu vua thì sẽ cử một người tạm nắm giữ quyền hành gọi là “Tiết Độ Sứ Tri Lưu Hậu Sự”. Về sau, đặt hẳn thành một chức quan giữ nhiệm vụ xử lý thường vụ trong một châu quận. Khi Vỹ Nam Khang mất, Lưu Tịch tự xưng là Tri Lưu Hậu Sự.

[26] Thành ngày xưa có hai lớp tường lớp trong gọi là Thành, lớp ngoài gọi là Quách.

[27] Thiếu Bảo là một chức quan có trách nhiệm phò tá, cố vấn cho Thái Tử, làm phó cho quan Thái Bảo. Từ thời Bắc Châu trở đi, Thiếu Bảo cùng với Thiếu Sư và Thiếu Phó được gọi là Tam Cô, ngạch Tùng Nhất Phẩm, là cố vấn chủ yếu của Thái Tử trong việc tập luyện cai trị cũng như chịu trách nhiệm phụ giúp quan Thái Bảo bảo vệ an toàn cho Thái Tử trong khi các quan Thái Sư và Thiếu Sư dạy văn chương, Thái Phó và Thiếu Phó dạy võ nghệ và thao lược. Tuy thế, cũng có trường hợp, những chức vị này chỉ là tước hiệu được ban tặng nhằm tạo vinh dự cho các vị đại thần chứ không có thực quyền.

[28] Thân binh: Lính trực tiếp hầu cận, bảo vệ một chỉ huy.

[29] Thoạt đầu, kinh Kim Cang không chia thành từng phần, Chiêu Minh Thái Tử (Tiêu Thống, con cả của Lương Vũ Đế) đã chia kinh thành 32 phần, với mỗi phần, đặt một tiểu đề giúp người đọc dễ dàng lãnh hội ý nghĩa chánh yếu của kinh nên các bản kinh Kim Cang hiện thời đều tuân theo cách thức phân định này. Chẳng hạn, phần thứ nhất là Pháp Hội Nhân Do, phần thứ hai là Thiện Hiện Khải Thỉnh…

[30] “Liễu tạ” ở đây là cái nhà hóng mát, chung quanh có trồng liễu.

[31] Tần Tông Quyền (?-889) là một tướng lãnh quân phiệt cuối thời Đường. Thoạt đầu, hắn làm nha tướng ở Hứa Châu. Năm Quảng Minh nguyên niên (880), Hoàng Sào dấy loạn đánh chiếm Trường An, Đường Đức Tông phải chạy vào Tứ Xuyên, Tần Tông Quyền đem quân theo Dương Phục Quang đánh Hoàng Sào. Bị đánh bại, hắn bèn đầu hàng Hoàng Sào, tự xưng là Thái Châu Tiết Độ Sứ. Khi Hoàng Sào bị quân nhà Đường hợp sức với quân Sa Đà của Lý Khắc Dụng đánh bại, phải tự tử vào ngày Mười Bảy tháng Tám năm Trung Hòa thứ 4 (884), Tông Quyền bèn chiếm cứ vùng Thái Châu xưng đế, cướp bóc khắp nơi. Năm Quang Khải thứ 3 (887), Tông Quyền dốc toàn lực tấn công Biện Châu, bị Châu Ôn hợp sức với binh bốn trấn đánh bại. Thế lực của Tần Tông Quyền suy vi dần. Đến năm Long Kỷ nguyên niên (889), Tần Tông Quyền bị bộ tướng là Quách Phan bắt sống, nộp cho Châu Ôn.

[32] Sách Thái Bình Quảng Ký chép đoạn này rõ ràng hơn so với lời trích dẫn của ông Lưu Khế Tịnh, sách chép: “Họ Dương do thấy lòng người sợ hãi, bèn dụ vị tướng dưới quyền của con trai Tần Tông Quyền là Triệu Đức Ngôn như sau: ‘Nếu ông giết con trai Tông Quyền thì tôi sẽ khuyên mọi người cử ông làm Tiết Độ Sứ’. Triệu Đức Ngôn nghe theo. Do vậy, tình hình trong quân phủ mới yên, dân được sống yên vui như cũ”.

[33] Hành Nhạc chính là Hành Sơn, còn gọi là Nam Nhạc, là một trong Ngũ Nhạc (Ngũ Nhạc được coi là năm ngọn núi đánh dấu địa phận của Trung Nguyên thuở xưa). Theo truyền thuyết, ngay từ thời Nghiêu Thuấn, núi này đã được phong tặng làm nơi tế trời đất của lịch đại đế vương. Thời cổ, núi còn có tên là Thọ Nhạc. Núi nằm ở thành phố Hành Dương thuộc huyện Hành Sơn, tỉnh Hồ Nam. Theo Đạo Giáo, Hành Sơn nằm trong địa vị sao Chẩn mà sao Chẩn là vị thần chủ quản thọ mạng nhân gian nên núi mới có tên là Thọ Sơn, được coi là một thánh địa trọng yếu của Đạo Giáo.

[34] Tân Đầu Lô (Pindola Bharadvaja), gọi đủ là Tân Đầu Lô Phả La Đọa, là một vị đại đệ tử của đức Phật. Do thi thố thần thông không đúng chỗ (thị hiện thần thông bay lên cao để lấy bát bằng gỗ trầm hương do nhà vua thách thức), Ngài bị đức Phật phạt không được nhập Niết Bàn mà phải thường trụ tại thế gian để làm phước điền cho nhân gian. Do vậy, mỗi khi cử hành trai tăng, trong văn tác bạch của Phật giáo Trung Hoa luôn cung thỉnh ngài Tân Đầu Lô đầu tiên rồi mới thỉnh chư sơn đại đức, cũng như ghế chủ tọa thường để trống để dành cho ngài Tân Đầu Lô. Tại Nhật Bản, Ngài được đặc biệt tôn sùng vì dân Nhật tin Ngài có khả năng trị bệnh, và thường dâng lên tượng Ngài những chiếc yếm đỏ và trắng với ước vọng Ngài sẽ che chở cho con cái họ được bình yên.

[35] Kinh này có tên gọi đầy đủ là Phật Thuyết Quán Đảnh Tùy Nguyện Vãng Sanh Thập Phương Tịnh Độ Kinh, còn có tên là Phổ Quảng Bồ Tát Kinh, do ngài Bạch Thi Lê Mật Đa dịch dưới thời Đông Tấn. Đây chính là quyển thứ mười một trong bộ Phật Thuyết Quán Đảnh Kinh.

[36] “Đổi thành tên thứ nhất” chính là đỗ Tiến Sĩ Đệ Nhất Giáp, tức một trong ba người đỗ đầu.

[37] Bạch Lạc Thiên chính là Bạch Cư Dị (772-846), là một thi sĩ trứ danh thời Thịnh Đường, tên tự là Lạc Thiên, hiệu là Hương Sơn Cư Sĩ, quê ở Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây. Ông làm quan đến chức Giảo Thư Lang, Tán Thiện Đại Phu, về sau bị tể tướng Vũ Nguyên Hành biếm làm Tư Mã Giang Châu, rồi làm Thứ Sử Hàng Châu, rồi Thứ Sử Tô Châu, thăng lên làm Thái Tử Thiếu Phó. Cuối đời quy hướng Tịnh Ðộ, hiện còn bài Phát Nguyện Văn, ý tứ rất chân thành. Chết già ở Hương Sơn (Lạc Dương). Ông nổi tiếng với những bài thơ làm theo lối Nhạc Phủ. Ông còn để lại tập thơ Bạch Thị Trường Khánh Tập.

[38] Thuở xưa để làm giày cho chắc, người ta thường dùng bện cỏ thành đế giày, lót thật nhiều lớp vải cũ hay giấy bản dầy cho chắc, trước khi khâu da hay phủ vải thô lên trên. Việc này thường được gọi là “cách bối” (袼褙), hay chỉ gọi gọn là “bối”.

[39] Châu Lợi Bàn Đặc Ca (Suddhipanthaka hoặc Ksudrapanthaka), còn phiên âm là Châu Lợi Bàn Đà Già, hoặc Châu Lợi Bàn Đặc, Châu Đồ Bán Thác Ca, dịch nghĩa là Kế Đạo hoặc Tiểu Lộ. Ngài có hai anh em, do mẹ khi mang thai trên đường trở về quê, chuyển bụng sanh bên đường nên đều đặt tên là Bàn Đặc (Bàn Đặc là con đường). Ngài sanh sau nên gọi là Châu Lợi Bàn Đặc (tức Tiểu Lộ). Anh cực thông minh, em cực ngu độn, Phật dạy bài kệ bốn chữ mà Ngài cứ đọc sau quên trước, mãi mới nhớ được. Khi đã liễu giải bèn chứng ngay quả A La Hán. Đây là quả báo do đời trước bỏn xẻn pháp mà ra.