Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

II. PHÁT ĐẠI THỆ NGUYỆN ĐỆ LỤC
(TT)

KINH VĂN:

Ngã tác Phật thời, quốc vô phụ nữ. Nhược hữu nữ nhân, văn ngã danh tự, đắc thanh tịnh tín, phát Bồ Đề tâm, yếm hoạn nữ thân, nguyện sinh ngã quốc, mạng chung tức hóa nam tử, lai ngã sát độ. Thập phương thế giới, chư chúng sinh loại, sinh ngã quốc giả, giai ư thất bảo trì liên hoa trung hóa sinh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.

VIỆT DỊCH:

Lúc tôi thành Phật, nước không có phụ nữ. Nếu có nữ nhân nghe danh hiệu tôi sinh lòng tin thanh tịnh, phát Bồ Đề tâm, chán ngán thân nữ, nguyện sinh cõi tôi, chết đi liền hóa thành nam tử sinh về cõi tôi. Các loài chúng sinh trong mười phương thế giới sinh về cõi tôi đều hóa sinh trong hoa sen nơi ao bảy báu. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

GIẢNG:

Ngã tác Phật thời, quốc vô phụ nữ” (Lúc tôi thành Phật, nước không có phụ nữ). Đây là nguyện thứ hai mươi hai “Quốc vô nữ nhân”. Ngài Đạo Tuyên, luật sư đời Đường có dẫn kinh như sau: “Thập phương thế giới, hữu nữ nhân xứ, tức hữu địa ngục” (Mười phương thế giới chỗ nào có nữ nhân, chỗ đó có địa ngục). Nay Cực Lạc không có ba ác đạo, ắt hẳn chẳng có phụ nữ, chỉ thuần là người đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu. Đó là vì giữa nam nữ dễ sinh tình ái, trở thành duyên thoái chuyển, đây cũng là cắt đứt duyên tạo địa ngục. Vì vậy, cõi đồng cư Cực Lạc thù thắng hơn Sa Bà nhiều.

Thật sự, chuyển thân nam, bạn nên biết: Đây là Thích Ca Mâu Ni Phật phương tiện nói; cách nói này là tùy theo “Tục Đế” mà nói. Nếu nói theo “Chân Đế” thì: Thế giới Tây Phương Cực Lạc là pháp giới bình đẳng, không có tướng nam nữ, chỉ một tướng. Sinh đến thế giới Cực Lạc, tướng mạo thân thể hoàn toàn không khác với A Di Đà Phật.

Nhược hữu nữ nhân, văn ngã danh tự, đắc thanh tịnh tínlai ngã sát độ” (Nếu có nữ nhân nghe danh hiệu tôi, sinh lòng tin thanh tịnh… sinh về cõi tôi). Đây là nguyện thứ hai mươi ba “Yểm nữ chuyển nam” (Chán thân nữ chuyển thành thân nam). Trong “Quán niệm Pháp môn”, Đại Sư Thiện Đạo giải thích nguyện này như sau: “Ấy là do sức bổn nguyện của Phật Di Đà nên nếu nữ nhân xưng danh hiệu Phật thì ngay trong lúc lâm chung liền chuyển thân nữ trở thành nam tử. Di Đà dắt tay, Bồ Tát nâng thân, đặt ngồi trên hoa sen báu theo Phật vãng sinh” và “Hết thảy nữ nhân nếu chẳng nhờ sức danh hiệu của Phật Di Đà thì trong ngàn kiếp, vạn kiếp, kiếp số như cát sông Hằng, trọn chẳng thể đổi được thân nữ”.

Ngay như Phật Thích Ca lúc còn tu nhân, phải mất cả một đại kiếp tu hành siêng năng mới dần dà thoát khỏi thân nữ, đủ   thấy người nữ muốn chuyển thành thân nam thật chẳng dễ dàng! Nay do nghe danh hiệu Phật “đắc thanh tịnh tín” (sinh lòng tin thanh tịnh). Do lòng tin thanh tịnh mà “phát Bồ Đề tâm”, nhàm chán thân nữ, nguyện sinh Cực Lạc, tin sâu, nguyện thiết ắt khởi thắng hạnh niệm Phật, được bổn nguyện của Phật gia hộ, nên lúc lâm chung liền chuyển nữ thành nam, vãng sinh Cực Lạc.

Thập phương thế giới chư chúng sinh loại”: Bao gồm vô lượng, vô biên cõi nước chư Phật, tất cả những chúng sinh này không phân biệt tộc loại, thảy đều tương phản. Từ phương thức đời sống khác nhau, văn hóa khác nhau, tín ngưỡng khác nhau.v.v… tất cả đều không phân biệt; ngày nay chúng ta gọi là “đa nguyên văn hóa”, đây chính là tánh đức. Chúng ta đọc kinh, nghiên cứu giáo lý, những chỗ này phải đặc biệt chú ý, nhất định không thể lơ là. Nếu học Phật mà trong lòng vẫn phải quấy, nhân ngã thì bạn đã hoàn toàn sai rồi.

Trong tâm Phật không có giới hạn. Chúng ta học Phật cũng vậy, đối với tất cả chúng sinh một mực đối đãi bình đẳng: Lễ kính bình đẳng, xưng tán bình đẳng, cúng dường bình đẳng v.v… đây gọi là học Phật. Nếu như hậu đây bạc kia, lập tức liền phải giác ngộ, ý niệm này vừa khởi, lập tức niệm A Di Đà Phật. A Di Đà Phật là vô lượng giác, cũng chính là chân thành, thanh thịnh, bình đẳng, chánh giác đánh bạt đi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chúng ta. Nhà Phật có câu: “Buông bỏ đồ đao, lập địa thành Phật”.

– Cái gì là đồ đao?

– Mê hoặc là đồ đao! Buông xả chính là Phật!

– Vì sao không thể buông xả?

– Chưa rõ ràng tường tận!

Cho nên, Phật pháp chân thật là biết khó, hành dễ. Tu hành chứng quả chẳng qua là chuyển đổi được ý niệm, chân thật là chuyển phàm thành thánh, chuyển mê thành ngộ. Năm xưa, Thế Tôn trong pháp hội giảng kinh, thính chúng có người nghe chưa đến phân nửa thì đã khai ngộ chứng quả. Tôn giả A Nan, trong hội Lăng Nghiêm, nghe đến quyển thứ ba (trong số mười quyển), ông liền tán Phật, ông khai ngộ rồi! Ma-Đăng-Già nữ nghe kinh được phân nửa, liền chứng được tam quả v.v…

Ngày nay, chúng ta không thể chuyển đổi được là do phiền não, tập khí trói buộc. Chúng ta phải giác ngộ: Phiền não, tập khí không phải là thứ tốt. Con người sống ở thế gian, chân thật phải nhìn thấu, buông bỏ cách nghĩ, cách thấy, cách làm của chính mình, tiếp nhận giáo huấn của Phật Đà. Chư Phật, Bồ Tát ứng hóa ở thế gian, du hí thần thông, các ngài thật tự tại, thật đẹp mắt! Chân thật như Hoa Nghiêm nói: “Lý sự vô ngại, sự sự vô ngại” đến đi tự do; các ngài lấy lợi sinh làm chủ, không có tư lợi.

Sinh ngã quốc giả, giai ư thất bảo trì liên hoa trung hóa sinh”. (Sinh trong cõi tôi đều hóa sinh trong hoa sen nơi ao bảy báu). Đây là nguyện thứ hai mươi bốn “Liên hoa hóa sinh”. Phẩm thứ mười bốn trong kinh này chép:

Nhược hữu chúng sinh minh tín Phật trí, nãi chí thắng trí, đoạn trừ nghi hoặc, tín kỷ thiện căn, tác chư công đức, chí tâm hồi hướng, giai ư thất bảo hoa trung tự nhiên hóa sinh, già phu nhi tọa. Tu du chi khoảnh, thân tướng, quang minh, trí tuệ, công đức như chư Bồ Tát, cụ túc thành tựu” (Nếu có chúng sinh tin rõ Phật trí, cho đến thắng trí, đoạn trừ nghi hoặc, tin vào thiện căn của chính mình, tạo các công đức, chí tâm hồi hướng thì tự nhiên hóa sinh, ngồi xếp bằng trong hoa sen bảy báu. Trong khoảnh khắc, được thành tựu đầy đủ thân tướng, quang minh trí tuệ, công đức như các Bồ Tát).

Gần đây, tôi nghe một đồng tu đến nói với tôi: Hiện tại có người nói thế giới Tây Phương Cực Lạc người đầy hết rồi, các người niệm Phật không cách gì đi được! Nhất định phải đổi sang niệm Bồ Tát Di Lặc hoặc Phật Dược Sư, cầu sinh Đông Phương Tịnh Độ. Tây phương Tịnh Độ người đầy rồi, phải đổi thôi! Cách nói này trên kinh tìm không thấy, đó là ma nói, không phải Phật nói! Vạn nhất không nên nghe người dạy sai. Người dẫn đạo sai lầm này quả báo sẽ rất thảm! Đây là khiến cho nhiều người đoạn mất đi đời này vãng sinh Tịnh Độ! Tôi nghĩ những người này đời quá khứ chắc có oán thù với bạn mà vẫn chưa báo, sợ bạn đến thế giới Cực Lạc rồi không có cơ hội báo, phải mau kéo lại, chuẩn bị báo thù, đây không phải là tâm tốt! Chúng ta nhất định phải rất rõ ràng, tường tận, định đặt tín tâm chân thật, y giáo phụng hành, phát nguyện cầu sinh, tương lai nhất định thành tựu.

Liên Trì Đại Sư viết trong Di Đà Sớ Sao rằng: “Lục đạo chúng sinh nơi thân trung ấm (Thân Trung Ấm (Bardo) là thân trong giai đoạn chuyển tiếp từ lúc chết cho đến lúc tái sinh. Theo Mật tông, giai đoạn này chỉ kéo dài bốn mươi chín ngày sau khi chết) tự cầu cha, mẹ. Vãng sinh cõi lành thì như trong khoảng búng ngón tay liền hóa sinh trong hoa sen. Hoa sen ấy là cung huyền diệu để thoát thân phàm, là nhà thần diệu để an tuệ mạng”. Cụ Hoàng Niệm Tổ giải thích: Hết thảy chúng sinh trong sáu nẽo, sau khi mạng chung, hiện thành thân Trung Ấm. Nơi thân Trung Ấm ấy, do túc nghiệp nhân duyên của tự thân mà đi tìm cha mẹ trong thế gian, gieo thân vào chỗ bụng mẹ đầy phân nhơ để kết thành cái thân trược nhiễm tội nghiệp; sao bằng vãng sinh về cõi lành, lâm chung được Phật tiếp dẫn, trong khoảng khảy móng tay, hóa sinh trong hoa sen, liền sinh sang cõi An Lạc. Hoa sen ấy chính là cung điện huyền diệu để thoát bỏ thân phàm phu, là căn nhà thần diệu để an dưỡng tuệ mạng của đương nhân. Những lời này đã hiển lộ A Di Đà Phật đại nguyện sâu xa, bi tâm tột bực, diệu đức khó lường.

Quyển mười lăm sách Đại Nhật Kinh Sớ có câu: “Như người đời cho hoa sen là thanh tịnh tốt lành, khiến mọi người vui sướng, nay trong bí tạng, cũng lấy diệu pháp liên hoa của Đại Bi Thai Tạng làm bí mật cát tường bậc nhất, hết thảy thân gia trì pháp môn ngồi trên đài hoa ấy”. Như vậy chín phẩm sen nơi Cực Lạc thật đã hiển thị mật ý của Đại Nhật Như Lai: Toàn thể đều là bí mật cát tường tối thắng.

KINH VĂN:

Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sinh, văn ngã danh tự, hoan hỉ tín nhạo, lễ bái qui mạng, dĩ thanh tịnh tâm, tu Bồ Tát hạnh, chư thiên thế nhân, mạc bất trí kính. Nhược văn ngã danh, thọ chung chi hậu, sinh tôn quí gia, chư căn vô khuyết, thường tu thù thắng phạm hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.

VIỆT DỊCH:

Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sinh, nghe danh hiệu tôi, hoan hỉ tin ưa, lễ bái, qui mạng, dùng tâm thanh tịnh tu Bồ Tát hạnh. Chư thiên, người đời ai chẳng cung kính. Nếu nghe tên tôi, sau khi hết tuổi thọ sẽ sinh vào nhà tôn quí, các căn chẳng khuyết, thường tu phạm hạnh thù thắng. Nếu chẳng được thế, chẳng lấy Chánh Giác.

GIẢNG:

Chương này gồm ba nguyện. Từ câu “Văn ngã danh tự” (Nghe danh hiệu tôi) đến “mạc bất trí kính (không ai chẳng cung kính) là nguyện thứ hai mươi lăm “Thiên nhân lễ kính” (Trời người lễ kính). Từ “Nhược văn ngã danh” (Nếu nghe tên tôi) đến “chư căn vô khuyết” (các căn chẳng khuyết) là nguyện thứ hai mươi sáu “văn danh đắc phước” (nghe tên được phước). Phần còn lại là nguyện thứ hai mươi bảy “Tu thù thắng hạnh” (Tu hạnh nguyện thù thắng).

Văn ngã danh tự” (Nghe danh hiệu tôi).

Cụ Hoàng Niệm Tổ nói: Nguyện thứ mười tám “Thập niệm ắt sinh” (Mười niệm ắt vãng sinh) ở phần trước là chánh nhân vãng sinh, là cốt lõi của bốn mươi tám nguyện. Hai nguyện mười chín và hai mươi triễn khai nguyện thứ mười tám. Nguyện hai mươi mốt đặc biệt chú trọng những chúng sinh có đủ túc nghiệp, nếu biết hối lỗi, phát Bồ Đề Tâm, nhất hướng chuyện niệm cũng đều được vãng sinh, chẳng đọa ác đạo nữa. Nguyện hai mươi ba chuyên vì phụ nữ: Nghe danh phát lòng tin trong sạch, phát tâm Bồ Đề, cầu sinh Tịnh Độ, khi tuổi thọ hết chuyển thành thân nam, vãng sinh Cực Lạc. Những nguyện trên đều là nghe danh hiệu phát tâm, được vãng sinh Tịnh Độ, đều là những sự lợi ích bậc thượng.

Chương này nói về sự lợi ích bậc hạ. Ấy là vì chúng sinh căn khí chẳng đồng nên khi nghe danh phát tâm tin ưa khác nhau, hoặc do đại tâm chẳng vững vàng, hoặc do tín nguyện chẳng sâu, hoặc do trì niệm chẳng chuyên đến nổi chẳng thể hoàn toàn khế hợp các đại nguyện của A Di Đà Phật. Cho nên, đời sau họ chưa thể thoát khỏi sinh tử, chỉ có thể đạt được phước báo trong hiện tại và vị lai, nên phước được hưởng thua kém các nguyện trước.

Hoan hỉ tín nhạo” (Hoan hỉ tin ưa), chữ “tín” ở đây là thật tin, tín tâm kiên định; theo Hòa Thượng Tịnh Không: Tín tâm kiên định có hai nguyên do:

– Thứ nhất là thiện căn sâu dày từ vô lượng kiếp.

– Thứ hai là thâm nhập kinh tạng.

Đạo tràng ngày ngày giảng kinh, không ngoài giúp mọi người xây dựng tín tâm kiên định, đạt Bất Thoái Chuyển. Người xưa nói: “Ba ngày không đọc sách Thánh Hiền, mặt mũi hoàn toàn khác”, đó chính là thoái chuyển. Thế nên phải nỗ lực mà đọc tụng.

– Thế nào là nỗ lực?

– Nỗ lực đọc tụng chính là đem tư tưởng kiến giải, ngôn hạnh chính mình, mỗi lần đọc tụng phải đối chiếu những lời Phật dạy ta đã làm đến được chưa? Chỗ nào chưa làm được? Đây là nỗ lực đọc tụng, giải hành tương ưng. Hành giúp cho giải, giải giúp cho hành.

Người biết dụng công từ sơ phát tâm đến Như Lai quả địa luôn luôn tinh tấn, không lười mõi. Loại người này tu hành chứng quả ngay trong đời này, đâu cần phải mất đến ba đại A-tăng-kỳ kiếp, không cần thiết! Đây là người chân thật giác ngộ, chân thật tu hành; trong bổn kinh nói: Đây là đệ tử thứ nhất của Như Lai.

Việc này trên kinh Phật thường nói: “Thâm giải nghĩa thú”, chữ “thâm” này không có đáy! Ví như bộ kinh này, cái hiểu của Bồ Tát Sơ Trụ không bằng cái hiểu của Bồ Tát Nhị Trụ; cái hiểu của Bồ Tát Nhị Trụ không thể sánh bằng cái hiểu của Bồ Tát Tam Trụ v.v… Bồ Tát địa vị càng cao, giải được càng sâu, càng rộng. Đây là vấn đề công phu. Cho nên chúng ta học Phật chớ nên được ít cho là đủ, cho rằng bộ kinh này ta đã học qua rồi, ta cũng biết giảng v.v… Vậy thì bạn đã dừng lại ở cảnh giới này không thể tiến thêm một bước nào, thật đáng tiếc!

Lễ bái qui mạng” là tu hành. “Lễ bái” không phải bảo bạn mỗi ngày chỉ lạy A Di Đà Phật, đó là hiểu cạn! Đó chỉ là hình thức! Nếu hiểu sâu hơn: “Lễ bái” chính là “lễ kính chư Phật” như trong mười nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền; cũng chính là đối với tất cả người, tất cả việc, tất cả vật phải cung kính như cung kính A Đi Đà Phật, đây gọi là “lễ bái”. “Qui mạng” là tận hình thọ; “thọ trì, đọc tụng vì người diễn nói” đó gọi là “qui mạng”. “Qui” là quay đầu, “Y” là nương tựa. “Qui y” là chân thật quay đầu, nương vào giáo huấn của bộ kinh này: Những gì trên kinh Phật dạy chúng ta làm, chúng ta nhất định tận lực mà làm; những gì Phật dạy chúng ta không nên làm, chúng ta tuyệt đối không trái phạm. Quyết không thể nói làm một lễ qui y trên hình thức là xong rồi, thật không có ích gì! Cho nên tu học trong Phật pháp trọng thực chất, không trọng hình thức.

Dĩ thanh tịnh tâm” (Dùng tâm thanh tịnh): Tâm thanh tịnh chính là tâm chân thành, tâm bình đẳng, tâm giác ngộ, tâm từ bi.

Tu Bồ Tát hạnh, chư thiên thế nhân, mạc bất trí kính” (Tu Bồ Tát hạnh, chư thiên, người đời ai chẳng cung kính). Theo chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ: “Tu Bồ Tát hạnh” ở đây chỉ Lục Độ, vạn hạnh là tu rộng rãi nhiều điều lành. Kinh này dạy ba bậc vãng sinh đều phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm. Do phát tâm là vua của các nguyện; trì danh là đệ nhất trong các hạnh, nếu thiếu những chánh nhân vãng sinh này, cho dù có làm rất nhiều việc thiện cũng không khế hợp với bổn nguyện của A Di Đà Phật, nên khó bề chứng đạo ngay trong đời này; có chăng chỉ được trời, người cung kính mà thôi!

Thế Tôn trên Kinh Kim Cang dạy: “Lìa tất cả tướng tu tất cả thiện”. Lìa tất cả tướng chính là tâm thanh tịnh; Tu tất cả thiện chính là “tu Bồ Tát hạnh”. Lìa tướng là nhìn thấu; tu hành là buông bỏ. Buông bỏ giúp nhìn thấu, nhìn thấu giúp buông bỏ. Tâm thanh tịnh sinh trí tuệ. Bồ Tát hạnh là phương tiện, cũng chính là “hằng thuận chúng sinh, tùy hỉ công đức”.

– Làm thế nào tu tâm thanh tịnh?

– Phải ngay trong “hành” mà tu tâm thanh tịnh!

“Hành” là sinh hoạt, làm việc, thù đáp. Trong đây học “không dính tướng”, tâm liền thanh tịnh. “Không dính tướng”, câu nói này vẫn rất mơ hồ! Trên Kinh Kim Cang nói rất cụ thể, tất cả tướng đó là: Tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả. Phật dùng bốn tướng này bao quát tất cả tướng thế, xuất thế gian. Bao gồm tất cả các hiện tượng đều không rời bốn phạm vi này. Ra khỏi bốn phạm vi này chính là lìa tất cả tướng, tâm mới thanh tịnh. Lời nói này, nếu vẫn chưa thể hội, chúng ta nói rõ hơn một chút: Đối với tất cả pháp thế, xuất thế gian, buông bỏ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, tâm liền thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là chân tâm, là chân như tự tánh, nhất định phải tu từ trên sự tướng.

Mỗi ngày sáu căn chúng ta tiếp xúc với cảnh giới sáu trần rõ ràng tường tận, thấu suốt phân minh, đây là “tướng có”. Tâm địa thanh tịnh, một trần không nhiễm, đó là “tánh không”. “Không” và “có” là một không phải hai. Đây là “quán chiếu”. Người chân thật tu hành, chân thật dụng công, suốt hai mươi bốn giờ, không một phút giây nào quên đi “quán chiếu”. Không “quán chiếu” thì công phu gián đoạn, phiền não, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước liền khởi hiện hành!

Cho nên, phải cảnh giác, nếu có thể giữ mãi sự quán chiếu, thì bạn không phải là phàm phu mà là thánh nhân. Tu hành là tu sửa cách nhìn, cách nghĩ, cách nói, cách làm sai lầm của chính mình; từ nơi khởi tâm động niệm, ngay chỗ muốn mở miệng nói chuyện, nơi động tác của thân thể, đây gọi là chân thật biết dụng công.

Trên Kinh Di Đà, Phật nói: “Không thể thiếu thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sinh về nước kia”. Ngày nay, chúng ta duyên đầy đủ, chỉ sợ thiện căn phước đức kém. Thiện căn kém là lý giải không đủ thấu triệt, phước đức ít là vẫn còn giải đãi lười biếng. Ba điều kiện này đều đầy đủ, con người này là của thế giới Cực Lạc; là Phật Bồ Tát của thế giới Cực Lạc, không phải phàm phu, họ chân thật “qui mạng”.

Tóm lại, tâm thanh tịnh tu “Bồ Tát hạnh” rất là quan trọng. “Bồ Tát hạnh” chính là nhìn thấu, buông xả, tùy duyên niệm Phật.

Sơ Tổ Tịnh Tông chúng ta, vào thời đại Đông Tấn, Viễn Công Đại Sư Lô Sơn mở đầu, Niệm Phật Đường của ngài là ghi danh tham gia, gồm một trăm hai mươi ba người, mỗi mỗi đều thành tựu. Danh số là nhất định, bạn báo danh rồi thì không thể thoái xuất. Đạo tràng là có giới hạn, kiết giới thì không được vượt qua, hoạt động nhất định ở trong khuôn khổ. Đó là đạo tràng chân thật niệm Phật. Chúng ta chỉ thử nghiệm, các bạn nếu như chân thật muốn niệm Phật, năm tới nếu duyên hội chín muồi, chúng ta sẽ kiến lập đạo tràng chân thật niệm Phật. Ghi danh tham gia, bước vào Niệm Phật Đường này phải kiết giới, không thể vượt qua giới hạn.

Đương nhiên, hiện tại chúng ta cũng không chọn lấy phương thức như ngài Viễn Công đã làm dốc hết sức lực. Chúng ta có thể chọn lấy ba loại phương thức: Một loại thượng phẩm ba năm, thành thật, trung thực niệm Phật ba năm, không thể xa khỏi giới hạn. Trung phẩm thì một năm; Hạ phẩm thì nửa năm. Nếu bạn không thể đến đó niệm Phật suốt sáu tháng thì đừng bước vào; nơi đó không có phần của bạn! Bạn đến đạo tràng luyện tập này thì được, có thể bước vào bước ra. Nếu là “chân thật Niệm Phật Đường” thì không cho phép!

Chúng ta không định thời gian quá dài; đến nơi đó chỉ lão thật, trung thực niệm Phật ba năm. Sau ba năm, nếu vẫn ưa thích tiếp tục niệm thì ở lại. Ba năm một kỳ, niệm tiếp ba năm, bằng không thì niệm xong ba năm, bạn có thể hạ sơn. Tôi muốn mở Niệm Phật Đường này. Hiện tại, Đông Thiên Mục Sơn, Hàn Châu đến tìm tôi. Tôi có ý định muốn ở Đông Thiên Mục Sơn xây Niệm Phật Đường.

– Số người nhiều hay ít?

– Viễn Công Đại Sư định số người là một trăm hai mươi ba người. Chúng ta không dám vượt qua Tổ Sư, danh sách cũng là một trăm hai mươi ba người, có thể ít không thể nhiều hơn. Trong đó phân Thượng, Trung, Hạ: “Hạ phẩm” sáu tháng, đến kỳ hạn có thể đi. Nếu có người Hạ phẩm khác, có thể thế vào vị trí này. “Trung phẩm” một năm, “Thượng phẩm” ba năm. Duyên rất có thể sẽ thành tựu. Đây là khó được, không dễ dàng! Cho nên, chúng ta ở nơi đây luyện tập, chân thật muốn đi thì luyện tập trước. Luyện tập tốt rồi, nếu không có vấn đề gì thì ghi danh. Nếu không dám ba năm, thì trước tiên mở đầu đều sáu tháng cũng được.

Bồ Tát hạnh”, theo bổn kinh này là nghĩa rộng, không phải nghĩa hẹp. Phải hiểu niệm Phật nghĩa là gì? Niệm thế nào mới như pháp? Trong cuộc sống thường ngày phải hiểu được: Sinh hoạt là niệm Phật, làm việc là niệm Phật, thù đáp là niệm Phật v.v… không gì là không phải niệm Phật.

Ngày nay, chúng ta là phàm phu, tất nhiên là có chấp trước. Trên Kinh Di Đà, Phật dạy chúng ta “chấp trì danh hiệu”. Chúng ta đem các chấp trước thảy đều buông bỏ, duy chỉ chấp trước “A Di Đà Phật”, niệm như vậy sẽ đến cõi Phàm Thánh Đồng Cư của thế giới Cực Lạc. Nếu không chấp trước: “Niệm mà không niệm, không niệm mà niệm” thì phẩm vị liền cao. Có người cũng muốn học, vừa học liền hỏng! Chắc chắn học đến ba đường ác đạo! Miệng nói rất hay: “Tôi niệm chính là không niệm”, kỳ thật hoàn toàn sai hết! Họ không hiểu người “niệm mà không niệm, không niệm mà niệm” đó, Phật hiệu suốt hai mươi bốn giờ quyết không gián đoạn, đó là “niệm” cũng gọi là “vô niệm”.

– “Vô niệm” là gì?

– Trong tâm nhất định không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đó gọi là “vô niệm”, “niệm” cùng với “vô niệm” họp lại là một sự việc: Trên sự có “niệm”, trên lý “vô niệm”; trên tướng có “niệm”, trên tánh “vô niệm”, đây gọi là “niệm mà không niệm, không niệm mà niệm”; vạn nhất không nên hiểu lầm ý nghĩa của Phật kinh.

Nhược văn ngã danh, thọ chung chi hậu, sinh tôn quí gia, chư căn vô khuyết” (Nếu nghe tên tôi, sau khi hết tuổi thọ sẽ sinh vào nhà tôn quí, các căn chẳng khuyết): Đây là nguyện thứ hai mươi sáu “văn danh đắc phước” (nghe danh được phước). Chữ “văn” trong kinh này là “tin nhận”, cũng có nghĩa là “Văn Tuệ” trong “Tam Tuệ” của Bồ Tát (như đã đề cập qua ở những phần trước) không phải thông thường chỉ nghe suông, nói bừa, nên mới được quả báo thù thắng như vậy. Người nghe danh hiệu Phật, dẫu đời này không được vãng sinh, đời sau cũng được sinh vào nhà tôn quí.

Sách Đại Luận giảng “sinh tôn quí gia” (sinh trong gia đình tôn quí) như sau: “Sinh dòng sát-lợi thì có thế lực, sinh vào nhà bà- la-môn thì có trí tuệ, sinh vào nhà cư sĩ thì giàu có lớn nên có thể làm lợi ích chúng sinh.

Sách Hội Sớ cũng bảo: “Sinh trong nhà hạ tiện bị đời khinh rẻ, chẳng thể tạo lợi ích rộng rãi.” Cho nên, “nghe danh được phước” là đời sau sinh vào nhà tôn quí. “Chư căn” là sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. “Chư căn vô khuyết” là sáu căn đầy đủ không có khiếm khuyết.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không “chư căn vô khuyết” cũng bao hàm cả ý nghĩa khỏe mạnh sống lâu.

Thường tu thù thắng Phạm Hạnh”: Đây là nguyện thứ hai mươi bảy. Theo chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ: “Phạm Hạnh”, chữ Phạm nghĩa là thanh tịnh. Phạm Hạnh là hạnh thanh tịnh vô dục. Chư thiên đoạn trừ được dâm dục nên gọi là Phạm Thiên. Hạnh đoạn được dâm dục như Phạm Thiên thì gọi là Phạm Hạnh.

Sách Pháp Hoa Sớ của ngài Gia Tường giảng: “Có người bảo hết thảy các giới là Phạm Hạnh, hoặc bảo chỉ thực hành giới đoạn trừ dâm dục là Phạm Hạnh. Vì vậy, Kinh Đại Phẩm dạy: Dâm dục chướng sinh Phạm Thiên, hà huống Bồ Đề!” (Dâm dục còn chướng ngại sinh làm Phạm Thiên, huống hồ là Bồ Đề).

Các ý trên đây đều cho rằng ly dục là Phạm Hạnh, nhưng nếu hiểu sâu xa hơn: “Muôn hạnh để chứng Niết Bàn đều là Phạm Hạnh”.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Nguyện thứ hai mươi bảy này rất quan trọng. Thử nghĩ: Nếu không có nguyện này, chỉ riêng được phước báo trời, người; khi hưởng hết phước chẳng phải là phiền phức đến sao?! Vẫn còn phải đọa lạc! Cho nên, có thêm được nguyện này cũng xem là không tệ! Đời sau vừa được phước báo trời, người vẫn tiếp tục tu hành. Trong tiếp tục tu hành có hai loại thù thắng:

– Thứ nhất, họ chân thật triệt để giác ngộ, triệt để buông xả, họ liền vãng sinh làm Phật.

Thứ hai, tuy chưa triệt để giác ngộ, chỉ được phước báo trời, người; nhưng họ đời đời, kiếp kiếp vẫn có thể giữ được không đọa vào ba đường ác.

Vì sao? Vì họ vẫn còn tiếp tục không ngừng tu Phạm Hạnh! Chúng ta xem thấy Ngộ Đạt Quốc Sư trong Từ Bi Tam-Muội Thủy Sám, mười đời đều là cao tăng, đây chính thuộc về cái nguyện này, là “lợi ích nhất đẳng”.

Phạm Hạnh” dùng lời hiện tại mà nói là tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng. Có đồng tu nói với tôi: Họ từng gặp qua một số đại đức tu hành, tên tuổi rất cao, nghe nói công phu dường như cũng không tệ, có năng lực trị bệnh cho người, gần như có thần thông. Thế nhưng, cái tôi của họ rất lớn, trong mắt không người, rất là kiêu ngạo! Thử nghĩ xem! Đây là đạo đức thế nào?

Chúng ta đọc phần sau của Kinh Lăng Nghiêm có nói về năm mươi Ngũ Ấm ma. Trí tuệ, thần thông, đạo lực, của ma trong biểu hiện bề ngoài cũng gần giống như chư Phật, Bồ Tát. Chỉ một việc: Ma có tính khí, có tính tình trong mắt không người. Chỗ này liền biết được họ tương ưng với năm mươi loại Ngũ Ấm ma, không tương ưng với chư Phật, Bồ Tát. Cho nên, trên Kinh Lăng Nghiêm, Phật nói thời đại của chúng ta “tà sư nói pháp nhiều như cát sông Hằng!” Những tà sư này cũng rất có thế lực, có phước báo hơn hẳn chúng ta rất nhiều, họ cũng có rất nhiều đồ chúng, đây gọi là “Pháp nhược ma cường”. Thế nhưng, đạo này của chúng ta chắc chắn được sinh Tịnh Độ, được thấy Phật A Di Đà; đạo của họ thì không thể! Phân biệt giữa tà và chánh rất đơn giản: Nếu là chánh pháp, chắc chắn phải đoạn phiền não, không thể tăng thêm phiền não.

Trên Pháp Hoa Sớ, ngài Gia Tường có câu:

Phạm Hạnh chi tướng giả, Phạn danh Niết Bàn, tức căn bản pháp luân Đại Niết Bàn giả, Hành tức vạn hạnh, đáo Đại Niết Bàn giả” (Tướng của Phạm Hạnh, tiếng Phạn gọi là Niết Bàn, chính là căn bản của pháp luân Đại Niết Bàn. Thực hành pháp ấy thì là Phạm Hạnh vì đạt đến Niết Bàn vậy.) Cái ý này sâu! Trên Kinh Đại thừa, Thế Tôn đích thực là nói cái ý này. Nghĩa cạn: Phạm Hạnh có thể siêu việt sáu cõi; nghĩa sâu: Không những siêu việt sáu cõi còn siêu việt mười pháp giới. Trong pháp căn bản Đại Niết Bàn: “Hạnh” đích chỉ Lục Độ Vạn Hạnh. Tu Lục Độ Vạn Hạnh liền có thể đạt đến Đại Niết Bàn. Do đây có thể biết ý nghĩa của chữ “Phạm” tuyệt nhiên không hạn cuộc trong trì giới và đoạn dục mà thôi, huống hồ là bổn nguyện của A Di Đà Phật trong nguyện văn này.

– “Thù thắng Phạm Hạnh” chúng ta phải học như thế nào?

–  Trước nhất phải buông bỏ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chính mình, kế đến phải tùy thuận giáo huấn trên Kinh Vô Lượng Thọ.

Đặc biệt trên Kinh Vô Lượng Thọ, kinh văn từ phẩm thứ ba mươi ba đến phẩm thứ ba mươi bảy, Thế Tôn giảng rất tường tận về năm giới mười thiện. Trong khóa tối mỗi ngày đọc qua một lần, phải nỗ lực phản tỉnh, kiểm điểm: Những gì Phật dạy chúng ta làm, chúng ta có làm được chưa? Phật dạy chúng ta không được làm, chúng ta có trái phạm không? Đây gọi là chân thật tu khóa sớm tối, không đến nỗi chỉ trên hình thức mà chẳng có nội dung! Nếu chỉ trên hình thức, chúng ta không chuyển đổi được nghiệp. Đây không phải là trò đùa, diễn kịch! Quan trọng là chúng ta có thật muốn ngay trong đời này vĩnh thoát luân hồi hay không?

– Thế gian này quá khổ! Ngày nay, đối trước ngoại duyên vì sao không thể buông bỏ?!

– Tín nguyện bạn không kiên định! Cho nên, chính mình tuy có học Phật, vẫn không thể nào có được lợi ích chân thật! Chỉ là được chút phước báo nho nhỏ trong nhà Phật mà thôi!

–  Phước báo nhỏ, tương lai đến đâu hưởng?

– Vẫn là không nhất định! Đời sau nếu không thể ở cõi trời, người phải vào đường súc sinh, hoặc đi vào cõi quỉ hưởng phước thì bạn sai rồi! Chúng ta học Phật, trước tiên phải hạ thấp dục vọng, tâm mới có thể thanh tịnh, tâm thanh tịnh niệm Phật mới hữu dụng. Sau đó, tuân theo giáo huấn của Phật: “Phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”.

– Tâm Bồ Đề là gì?

–  Tổng kết trên cương lĩnh mà nói: Tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm chánh giác, tâm từ bi; đây là tâm Bồ Đề. Ngay trong cuộc sống thường ngày đối nhân, xử thế, tiếp vật; tâm Bồ Đề nếu chỉ phát trên miệng thì không ích gì! Nếu chỉ phát trong tâm cũng chưa hữu dụng mà nhất định phải thực tiễn. Thực tiễn tâm Bồ Đề chính là tu “tam phước”, tu “Lục Hòa”, tu “Tam Học”, tu “Lục Độ”, tu mười nguyện của Phổ Hiền, dùng công đức này cầu sinh Tịnh Độ.

Công đức nghe danh hiệu vi diệu khó lường như Kinh Tôn Thắng Đà Ra Ni dạy:

Chư phi điểu, súc sanh, hàm linh chi loại, văn thử đà-ra-ni, nhất kinh ư nhĩ, tận thử nhất thân, cánh bất phục thọ” (Các loài chim bay, súc sinh, hàm linh một phen nghe đà-ra-ni này thoảng qua tai, hết một thân ấy liền chẳng thọ lại nữa).

Kinh Niết Bàn cũng nói:

Thị Đại Niết Bàn diệc phục như thị, nhược hữu chúng sinh, nhất kinh ư nhĩ, khước hậu thất kiếp, bất đọa ác thú” (Đại Niết Bàn này cũng giống như thế. Nếu có chúng sinh một phen nghe được, trong bảy kiếp sau chẳng đọa đường ác). Một phen được nghe đã đạt công đức đến như vậy, huống hồ nghe xong lại tin nhận thì công đức càng lớn lao hơn. Theo cụ Hoàng Niệm Tổ, chữ “Văn” trong kinh này chẳng có nghĩa là nghe suông mà còn là “tin nhận”. Vì vậy, người nghe danh hiệu Phật dẫu đời này không được vãng sinh thì đời sau cũng sẽ “thường tu thù thắng Phạm Hạnh”.