Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

VI. ĐỨC TUÂN PHỔ HIỀN ĐỆ NHỊ
(TT)

Tam Học: Giới-Định-Tuệ

Tất cả pháp mà Thế Tôn dạy trong bốn mươi chín năm qui nạp lại không ngoài ba sự việc: Giới học, Định học, và Tuệ học. Cũng thế, trong Tam Tạng kinh điển chia ra làm ba Tạng: Tạng Kinh, Tạng luật, Tạng luận. “Kinh” là nói “Định học”; “Luật” là “Giới học”, “Luận” là “Tuệ học”. Tam học là tổng cương lĩnh tu học của chúng ta. Nói cách khác, trong cuộc sống khởi tâm động niệm, lời nói việc làm, nhất định phải tương ưng với “Tam Học”, vậy mới là chân thật học Phật.

Vô lượng hạnh nguyện, chỗ này Phật vì chúng ta nói pháp, đem toàn bộ qui nạp thành mấy điều đại cương: Phổ Hiền Bồ Tát có mười đại cương là “Thập đại nguyện vương”, đầy đủ vô lượng hạnh nguyện. Tánh đức, Bồ Tát hạnh có sáu đại cương là Lục Độ gồm: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ.

1. Bố Thí

Bố thí hàm nghĩa rất rộng. Bố thí nếu không trước tướng thì công đức vô lượng. Chấp tướng bố thí đó chỉ là phước báo. Không chấp tướng bố thí, phước đức liền biến thành công đức. Muốn thông minh, trí tuệ nhất định phải tu “Pháp Bố Thí”. Hiện tại, đạo tràng Cư Sĩ Lâm, một tuần lễ giảng kinh bảy ngày, từ đầu đến cuối năm không gián đoạn. Bạn có thể giới thiệu bạn bè đến nghe kinh, đó là “Pháp Bố Thí”. Chúng ta giảng nơi đây đều có thu âm, thu hình làm thành đĩa, bạn đem những đĩa này tặng bạn bè thân thích cũng là “Pháp Bố Thí”. Bên ngoài giảng đường chúng ta, kinh sách kết duyên rất nhiều, mỗi ngày bạn đến có thể thỉnh đem về biếu tặng cho những người quen biết chưa được tiếp xúc với Phật pháp, đây cũng là “pháp Bố Thí”. Quả báo của “Pháp Bố Thí” là khai trí tuệ.

Vô Úy Bố Thí”: Điều thứ nhất là ăn chay, không sát hại, không kết oán thù với tất cả chúng sinh. Sau đó, cần phải “hộ sinh”, bảo hộ an toàn cho tất cả chúng sinh, bảo hộ xã hội an định. Trong Bố thí vô uý cũng bao gồm cả không trộm cắp, không nói hai chiều gây hiềm khích cả đôi bên, tội này rất nặng!

Ngoài Tài Thí, Pháp Thí, Vô uý Thí; bố thí còn dạy ta buông bỏ tất cả ngu si, ác nghiệp sinh tử…, ngay đến thân thể cũng không màng, đây là dùng mạng đi bố thí, hy sinh cái tiểu ngã bản thân để mọi người được an toàn. Sau khi buông bỏ thân nghiệp báo này, liền biến thành tự tại, an vui, mười thân trên quả địa Như Lai cũng thấp thoáng mập mờ xuất hiện. (Bồ Đề thân, Nguyện thân, Hóa thân, Trụ Trì thân, Tướng Hảo Trang Nghiêm thân, Thế lực Thân, Như Ý thân, Phước Đức thân, Trí thân, Pháp thân) đây mới là hạnh phúc chân thật mỹ mãn.

2. Trì Giới

Trì giới là giữ phép, giữ qui củ. Nếu không tuân thủ phép tắc, qui củ; cho dù ở thế pháp hay trong Phật pháp, muốn thành công cũng khó! Chân thật là “Bất y qui củ, bất thành phương viên”. Muốn vẽ vòng tròn, phải dùng “compa” mới có thể vẽ vòng tròn một cách chính xác. Việc nhỏ của thế gian còn như vậy, huống là đại pháp của xuất thế gian. Cho nên, đúng pháp là hiểu được qui củ, nắm được trọng điểm; đây là nhân tố rất quan trọng trong việc học Phật; sự tùy tiện chỉ là thả theo tập khí phiền não của chính mình mà lưu chuyển thì rất khó thành tựu.

3. Nhẫn Nhục

Nhẫn nhục là nhẫn nại. Phải có tâm nhẫn nại lớn, việc càng khó, sức nhẫn nại càng cao; không có tâm nhẫn nại lớn thì mọi việc khó có thể làm đến được viên mãn. Trên kinh, Phật đem sự tướng của con người qui nạp thành ba loại:

– Việc thứ nhất: Phải có tâm nhẫn nại cực lớn, quan trọng nhất là phải khắc phục được phiền não, tập khí từ vô thỉ kiếp đến nay của chính mình, việc này quan trọng hơn bất cứ thứ gì. Người khác có hãm hại, đố kỵ, hủy báng, nhục mạ ta v… đều phải có sức nhẫn chịu, phải thấy như không có việc gì, phải tâm bình khí hòa, tiếp nhận tất cả những chướng ngại.

– Việc thứ hai: Là phải có sức nhẫn chịu trước mọi hoàn cảnh như thời tiết khắc nghiệt thay đổi bất thường, phải nhẫn nại không nên vì thời tiết nóng quá hay lạnh quá mà sinh tâm giải đải đình trệ mọi thời khóa hay gia giảm sự tu học của chính mình. Nhất định phải dũng mãnh, tinh tấn không ngừng.

Trong “Văn Sao” của Đại Sư Ấn Quang, Đại Sư có viết một bức thư rất dài cho một cư sĩ. Cư sĩ này cũng thọ học với Đại Sư, cũng tiếp nhận truyền thụ “Tam qui y”. Ông này gặp nạn, nhà bên cạnh phát hỏa khiến nhà ông cũng cháy rụi! Tài sản trở thành một đống tro! Người vợ cũng do việc này mà qua đời! Nhà tan, người mất! Mỗi ngày từ sáng đến tối ông như ngây như dại, suốt ngày cứ ngu ngu khờ khờ! Có đồng tu đem việc này trình với Đại Sư Ấn Quang, Đại sư đã viết một bức thư rất dài để khai thị cho ông.

Nếu người chân thật học Phật, gặp phải tai nạn này phải nên nghĩ rằng tất cả sự việc ở thế gian đều huyễn hóa, vô thường: Ngày trước có nhà, có tích lũy, còn có bận tâm. Hiện tại, một đám lửa cháy sạch rồi chẳng phải càng tốt hay sao? Không còn bận tâm bất cứ việc gì thì một lòng niệm Phật, quyết định vãng sinh. Ý niệm vừa chuyển thì đám lửa này là “tăng thượng duyên” tốt. Thử hỏi có mấy ai ở trong tai nạn có thể chuyển tâm được?! Việc này nhất định phải tu “nhẫn nhục Ba-la-mật”. Người có trí tuệ cao độ, dù trong tai nạn lớn vẫn xem đó là “nghịch tăng thượng duyên”, không những đối với đạo nghiệp của chính mình không có chướng ngại nào, trái lại còn xúc tiến tiếp tục nâng cao, vậy thì chuẩn xác!

– Việc thứ ba, phải cần cù tu học: Tu hành không phải chỉ thời gian ngắn mà có thể thành tựu. Ngoài ra, cũng cần phải thân cận thiện tri thức, việc này không dễ dàng! Thời xưa, gọi là “hành cước”, hiện tại gọi là “bái sơ”. Thời trước “bái sơ” là tham phỏng thiện -tri- thức, là đi cầu học, đi thỉnh giáo, hoàn toàn khác với hiện nay “bái sơ” là tham quan du lịch. Xưa kia, tham học nổi tiếng nhất, cũng là tấm gương tốt nhất cho người đời đó là Hòa Thượng Triều Châu đã tám mươi tuổi vẫn còn đi “hành cước”, vẫn đến các nơi tham phỏng.

– Sao ngài không ngồi lại nghỉ ngơi cho khỏe?

– Vì chính mình vẫn còn nghi hoặc, vẫn chưa thể đoạn nghi sanh tín, nên cần phải thân cận thiện tri thức, đem cái nghi hoặc trong tâm mà khai mở. Nhờ vậy tín tâm mới thanh tịnh, mới có thể ngồi lại gắng công tu học.

Tóm lại, trong ba sự việc đức Phật đã nêu trên, chúng ta thấy việc thứ nhất là phiền não tập khí rất khó xả. Khó xả mà có thể xả, khó làm mà có thể làm đều nhờ vào sức nhẫn nhục. Cho nên, nhẫn nhục Ba-la-mật trong Lục Độ là điều cốt yếu vô cùng quan trọng, là then chốt thành tựu của chính mình. Thành tựu được sức nhẫn nhục rồi, sau đó mới có thể tiến sâu hơn vào lãnh vực Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ. Nếu không có sức nhẫn nhục thì Tinh tấn, Thiền định, Trí Tuệ theo sau cũng không có!

4. Tinh Tấn

“Tinh” là tinh thuần thì không tạp. “Tấn” là tiến chớ không thoái, đạo nghiệp của bạn nhất định thành tựu. Đạo nghiệp thành tựu thì tất cả đều thành tựu, bao gồm tất cả sự nghiệp trên thế gian cũng đều thành tựu viên mãn. Bồ Tát thị hiện tại gia: Thân phận nam nữ, già trẻ, làm việc các ngành nghề đều là đạo nghiệp. Bạn xem! Khi ý niệm vừa chuyển thì siêu phàm nhập thánh. Phàm phu mỗi ngày mặc áo, ăn cơm là phiền não! Bồ Tát mỗi ngày mặc áo, ăn cơm là tu hành.

5. Thiền Định

Nhờ vào sức Tinh Tấn, sau mới có Thiền Định. Hiện tại, chúng ta xem thấy rất nhiều người tu Định. Mỗi ngày họ ngồi thiền, ngồi được rất lâu nhưng không hề thấy họ được Định! Nguyên nhân là gì? -Thành thật mà nói, họ chưa có nhẫn nhục thì làm sao được Định?! Người khác tán thán mấy câu, họ vui mừng vô kể; nếu mắng họ vài câu thì sân hận trong tâm họ liền khởi dậy mấy ngày, mấy tháng… cũng chưa nguôi, thì làm sao được Định! Cho nên họ xếp bằng ngồi đó, quay mặt vô vách để khởi vọng tưởng, không phải thật vào Định; đây là giả không phải thật! Người chân thật được Định, tâm địa mát mẻ, tự tại.

– Cái gì là Định?

– Trên đề kinh này đã hiển thị: Tâm thanh tịnh là Định, tâm bình đẳng là Định. Tâm thanh tịnh thì không có phiền não, không có tham, sân, si, mạn. Tâm bình đẳng thì không có phải quấy, nhân ngã. Chỉ theo đề kinh này mà tu tập liền có sức Định, có thể đem phiền não, bất bình hoàn toàn tiêu sạch thì đó là sức Định. Sức Định đạt đến trình độ nhất định, trí tuệ liền khai mở, đó chính là “Giác”.

6. Trí tuệ

“Giác” chính là Trí Tuệ Bát Nhã hiện tiền; Bát Nhã hiện tiền thì công đức liền thành tựu. Lúc này, tất cả những phiền não, vọng tưởng, chấp trước đều chuyển thành an vui, trí tuệ. Trong Tướng tông nói:

– Chuyển “Đệ lục ý thức” thành Diệu Quan Sát Trí.

– Chuyển “Mạt-na thức” thành Bình Đẳng Tánh Trí.

– Chuyển “Tiền ngũ thức” thành Thành Sở Tác Trí.

– Chuyển “A lại da thức” thành Đại Viên Cảnh Trí.

Cái “chuyển” này là sức Định sinh Trí Tuệ. Nếu không có phiền não thì lấy đâu để chuyển thành Bồ Đề?! Cho nên, phiền não càng nhiều thì Bồ Đề càng lớn. Trong Phật pháp chỉ nói “chuyển” mà không nói “diệt”. Nếu đem phiền não đoạn diệt thì Bồ Đề cũng mất luôn, phiền phức sẽ to! Giống như nước và sóng: “Sóng” là dụ cho phiền não; “nước” dụ cho bản thể thanh tịnh, Bồ Đề Niết Bàn. Tiêu diệt sóng chính là tiêu diệt cả nước.

– Bồ Đề Niết Bàn là gì?

– Là Tự tánh Bát Nhã! Do mê vọng biến thành phiền não, vốn dĩ là Bồ Đề. Phật pháp nói “Không”, không phải là không ngơ, đoạn diệt mà ý nghĩa rất sâu!

– “Pháp hữu vi”, vì sao nói nó là “không”?

– “Hữu” mà không tự tánh, không có tự thể, chỉ là pháp duyên sinh, duyên khởi tánh không. Phàm hễ do nhân duyên sinh đều không có tự tánh, không có tự thể. Đương thể giai không đều bất khả đắc, không phải không có tướng, không phải không có tác dụng. Tướng và tác dụng chúng ta có thể dùng nhưng quyết không thể chấp trước nó, không thể chiếm hữu nó (vì nó có nhưng vốn không thật có), muốn chiếm hữu nó thì sai rồi! Phàm, Thánh khác nhau chỗ này.

Phía trước chúng ta đã nói qua Tam phước, Lục Hòa, Tam Học Lục Độ , mười nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền. Khi “Tịnh Tông Học Hội” chúng ta thành lập, tuyển chọn năm khóa mục này rất dễ nhớ; mỗi giờ, mỗi phút đều y theo khóa mục này để tu học. Trong năm khóa mục bao gồm hành môn vô lượng vô biên của Bồ Tát. Chúng ta học Phật, nếu không tu sửa tư tưởng, hành vi của chính mình, xem thường những sự việc này thì không luận bạn dụng công như thế nào để cầu giải, thậm chí nói pháp có được hoa trời rơi rụng cũng chẳng được gì! Thầy Lý trước đây nói: “Đáng sinh tử như  thế nào vẫn phải sinh tử như thế đó”, cũng chính là nói: Đối với “liễu sanh thoát tử” ra khỏi ba cõi không có liên quan!

Cho nên, không luận Phật pháp Tiểu thừa hay Đại thừa, từ đầu đến cuối đều chú trọng ở “Hành”. “Hành” là hành vi đời sống, “Giải” vẫn là phương tiện trước “Hành”; “Hành” phía sau có “Nguyện”. Chữ “Hạnh Nguyện” này rất quan trọng. Chúng ta thường xem thấy trên kinh luận, nhất là “Chú Sớ” của Cổ đức thường ví “Hạnh Nguyện” như đôi cánh của chim, như cặp bánh xe. Nói rõ quan hệ giữa “Hạnh” và “Nguyện” vô cùng quan trọng và mật thiết. “Nguyện dĩ đạo hành”: “Nguyện” là chỉ đạo, lãnh đạo cho “Hành”. “Hành dĩ tiễn Nguyện”: “Hành” là thực tiễn cái “Nguyện” trong cuộc sống thường ngày. “Nguyện” quan trọng nhất là phải dùng tâm chân thành làm nền tảng.

Tất cả đại nguyện của Phật, Bồ Tát từ trong nhân địa phát ra đều nương theo “tâm Bồ Đề”. “Tâm Bồ Đề”, ngài Thanh Lương giải thích tương đối tường tận: “Hữu tâm chi lễ, hữu tâm chi tướng, hữu tâm chi đức”. Ngài phân ra ba phương diện này để nói: “Tâm chi lễ” chính là như trên kinh luận đã nói: Trực tâm, thâm tâm, đại bi tâm; đây là cái lễ của tâm. Pháp môn Tịnh Độ thường gọi là Pháp môn phương tiện trong Đại thừa, thế nhưng cũng phải nương vào tâm Bồ Đề. Trong kinh này chúng ta xem thấy ba bậc vãng sinh, điều kiện vãng sinh luôn là phải “Phát Bồ Đề tâm, một lòng chuyên niệm”. Tám chữ này có thể thấy được phát tâm rất là quan trọng.

Có nhiều vị đồng tu xem thường sự việc này, cho rằng tôi niệm Phật chỉ cần “một lòng chuyên niệm” thì được rồi. Đến sau cùng, khi lâm chung vẫn cứ là bối rối chân tay, không được thọ dụng! Nguyên nhân do đâu? Kém khuyết tâm Bồ Đề! Tám chữ điều kiện vãng sinh, bạn chỉ làm được bốn chữ, vẫn chưa đủ! Cho nên không được vãng  sinh! “Thâm tâm”  trong “Phát  Bồ Đề  tâm” chính là “Nguyện tâm” hiếu thiện, hiếu đức. Thông thường tất cả chư Phật Như Lai từ trong “nhân địa” phát ra vô lượng đại nguyện, nếu đem tất cả những đại nguyện đó qui nạp đến sau cùng cũng không ngoài “Tứ Hoằng Thệ Nguyện”. Cho nên, bốn mươi tám nguyện của đức Phật A Di Đà cũng có thể qui nạp thành bốn nguyện là “Tứ Hoằng Thệ Nguyện”. Đây là pháp môn Đại Thừa căn bản, trong đó bao hàm tất cả đại nguyện của chư Phật Như Lai:

1. Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ

Nhất định phải phát tâm nguyện độ tất cả chúng sinh. Vì sao? Phía trước đã nói qua, Bồ Tát nếu không độ chúng sinh, không giáo hóa chúng sinh, tâm Bồ Đề của họ không thể hiển lộ. Nói cách khác, tu học của chính họ không thể viên mãn được công đức. Do đây có thể biết: Tu hành không phải nhốt ở nhà để tu, nhốt ở nhà để tu quyết không thành!

Chúng ta từng nghe có những sự việc: Người xuất gia bế quan; cư sĩ tại gia cũng có bế quan, ở lều tranh cấm túc. Thế nhưng, đây không phải là việc của người mới học có thể làm!

– Đó là những người nào?

– Những người đã tham học, đã thành tựu viên mãn “căn bản trí” và “hậu đắc trí”.

– Sau khi thành Phật rồi làm gì?

– Không phải ngồi không để mọi người cúng dường, lễ bái mà phải phổ độ, giáo hóa chúng Phật pháp là sư đạo, “” là rất tôn quí, tôn sư trọng đạo.

Thời xưa, Phật pháp cùng thế pháp giống nhau. Thầy giáo không thể nói: “Ta đến nhà dạy con”. Không thể nói lời này, làm gì có người cuồng vọng như vậy! Bạn có bao nhiêu bản lĩnh mà   dám dạy người?! Cho nên, Phật và Bồ Tát cũng rất khiêm tốn, không tự mình nói: Ta có học vấn, có đức hạnh, có thể làm thầy người. Không hề nói lời này! Tiếng “thầy” là người khác tôn xưng gọi, chính họ quyết không tự xưng “thầy”.

Họ chân thật đã thành tựu nhưng ngại không nói với người, mọi người cũng không quen biết, sao chịu theo học với họ?! Cho nên, phải treo một bảng hiệu, bảng hiệu này chính là “bế quan”, ở trong núi cấm túc, ngầm bảo với mọi người: Trí tuệ, đức năng tôi đã thành tựu, không còn tham học bên ngoài nữa, ai muốn tham học đều có thể đến chỗ của tôi, ý này là như vậy. Cho nên, “bế quan” là chưa gặp pháp duyên, chưa có người mời thỉnh họ giảng kinh, nên dùng phương pháp này. Phương pháp này là để chờ đợi pháp duyên, cũng chính là chờ người đến thỉnh pháp; một mặt chờ đợi, một mặt chính mình tiến tu.

Người thời xưa cầu học cần phải thân cận thiện tri thức. Ai là thiện tri thức? Người “bế quan” chính là thiện tri thức chân thật, có thể đến họ để tham học, để thỉnh giáo. Nếu bạn nêu ra những nghi vấn mà họ không thể giải quyết, bạn có thể mở cửa “bế quan” của họ, mời họ cùng tham học với bạn. Họ không đủ tư cách “bế quan”, vẫn phải nên làm học trò. Người “bế quan” phải là học trò viên mãn, có thể làm thầy người. Cho nên, “sư đạo” là rất trang nghiêm, cần phải có người thỉnh pháp.

Năm xưa, đức Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện ở thế gian, dưới cội Bồ Đề, đêm nhìn sao sáng ngài thị hiện chứng quả, cũng chính là thành tựu trí tuệ, đức năng cứu cánh viên mãn. Sau khi thành tựu, phải hoằng pháp lợi sinh. Nếu không ai hay biết ngài, không có người đến thỉnh Pháp, ngài phải vào Niết Bàn, liền ở nơi đó mà tọa hóa! Thực tế mà nói, nếu Phật vào Niết Bàn thì thật là đáng tiếc cho thế gian này! Hi hữu lắm mới được Phật thị hiện ở thế gian. Cũng may, thiên nhân ở “Tịnh Cư Thiên” là cõi trời Tứ thiền biết được, liền giáng trần, vì nhân gian chúng ta mà thỉnh Pháp.

Tôi học Phật hơn bốn mươi năm rồi, ở trên đài giảng kinh đến năm nay (năm 2010) là ba mươi chín năm. Tôi đã đi qua rất nhiều nơi, pháp duyên thù thắng không hề vượt qua nơi đây, nói rõ chúng sinh khu vực này thiện căn, phước đức, nhân duyên chín muồi. Nếu như không phải chúng sinh khu vực này nhân duyên chín muồi thì không thể nào có được cảm ứng với chư Phật, Bồ Tát.

– Vì sao Phật, Bồ Tát chọn nơi đây để xây dựng đạo tràng?

– Nhân duyên vô lượng! Không phải phàm phu có thể đoán biết. Đặc biệt khoảng ba, bốn năm gần đây nhất, cho chúng ta cảm xúc rất rõ ràng, thật không thể nghĩ bàn! Cư sĩ Lý Mộc Nguyên, người lãnh đạo và hộ trì đạo tràng này, như phần trước đã nói qua, mười năm trước ông bị bệnh ung thư nghiêm trọng hết cứu chữa rồi. Ông không đi bác sĩ, cũng không uống thuốc, chỉ một lòng niệm Phật đợi A Di Đà Phật đến tiếp dẫn. A Di Đà Phật không đến tiếp dẫn mà cho ông một sứ mệnh ở nơi đây xây dựng đạo tràng Chánh pháp, tiếp dẫn chúng sinh căn tánh chín muồi.

– Thế nào là căn tánh chín muồi?

– Ngay trong đời này quyết vãng sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc để làm Phật. Đó chính là mắt chúng ta xem thấy, còn có thể không tin tưởng sao?

Duyên của Kinh Vô Lượng Thọ không thể nghĩ bàn! Cả đời tôi giảng kinh chưa hề rời khỏi giảng đài, giảng bất cứ kinh luận nào, pháp duyên đều không bằng giảng Kinh Vô Lượng Thọ. Chính tôi có cảm xúc rất sâu sắc: Giảng các kinh khác, thính chúng được hai ba trăm người là không tệ rồi, giảng bộ kinh này tôi thường xem thấy ngồi đầy chỗ. Có người nói với tôi: Ngài chưa thấy, lầu bốn cũng ngồi đầy ấp! Đây không phải do tôi biết giảng, tôi mỗi bộ kinh đều có thể giảng thông. Vì sao giảng kinh khác thì ít người nghe, đến khi giảng kinh này thì thính chúng nhiều như vậy?

Kinh Vô Lượng Thọ có rất nhiều quyển: Giảng quyển khác thì thính chúng không nhiều, giảng quyển này thì thính chúng đặc biệt nhiều. Đây rõ ràng chứng minh tường tận: Chúng ta chọn pháp môn này, chọn quyển kinh này là chọn đúng rồi! Tất cả chư Phật hoan hỉ, long thần hộ pháp ở bên cạnh cũng cổ vũ để chúng ta chân thật đoạn nghi sanh tín, không xen tạp, không gián đoạn, ngay đời này nhất định thành tựu.

Cư sĩ Lý phát đại tâm, chúng ta cùng nhau thương lượng. Ông lần này vì Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Vô Lượng Thọ, đã xây hai tòa tháp bằng đồng, bạn đều xem thấy. Hai tòa tháp này hiện tại là bậc nhất trên toàn thế giới, không nơi nào cao hơn nơi đây. Ông đặt cho nó cái tên là “Hoa Nghiêm song tháp” để kỹ niệm giảng hai bộ kinh lớn này. Trên thực tế, ý nghĩa này rất sâu! Hai bảo tháp này là bảo tháp Kim Cang, trấn định nền tảng kiên cố của đạo tràng, như Kinh Hoa Nghiêm nói: Đất này là Kim Cang thành tựu, Chánh pháp được kiến lập ngay nơi đây. Chúng ta có tâm nguyện báo đáp cư sĩ Lý Mộc Nguuyên, cũng báo đáp chúng sinh khu vực này, duyên đã chín muồi!

– Tâm nguyện này là gì?

– Giảng đường này giảng kinh một năm ba trăm sáu mươi ngày, mỗi ngày đều giảng không thể có một ngày gián đoạn. Ngày rằm, ba mươi chúng ta cũng giảng, ngày mồng một Tết chúng ta cũng giảng. Nhà ăn ở lầu dưới, cơm chay miễn phí; mấy năm trước, một năm nghỉ một ngày, mồng một Tết không phục vụ. Hiện tại, nghe nói ngày mồng một Tết cũng phục vụ luôn, vậy mới là viên mãn!

Ngày nay, đi khắp nơi trên thế giới, có đạo tràng nào một năm ba trăm sáu mươi ngày, mỗi ngày đều giảng kinh, không hề nghe nói qua! Hai tòa tháp này là thứ nhất trên thế giới, đạo tràng chúng ta giảng kinh không hề gián đoạn cũng là thứ nhất thế giới. Ngoài ra, Niệm Phật Đường ở lầu ba, mỗi ngày niệm Phật hai mươi bốn giờ không gián đoạn, một năm ba trăm sáu mươi ngày không gián đoạn, cũng là thứ nhất thế giới. Đạo tràng này giải, hành đều tiến; giải hành tương ưng. Cho nên, ngoài ý nghĩa hai bảo tháp này là “Kim Cang bảo tháp”, trấn định nền tảng của đạo tràng, mà còn là “tháp giải hành”; việc giảng kinh, niệm Phật mỗi ngày không gián đoạn chính là “giải hành”, khích lệ các đồng tu đến đây niệm Phật.

– Niệm Phật như thế nào?

– Bồ Tát Đại Thế Chí dạy chúng ta một nguyên tắc: “Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương tục”. “Tịnh” là không hoài nghi, không xen tạp, “tương tục” là không gián đoạn. Mọi người nghe qua cảm thấy rất khó làm được! Thực tế mà nói, không phải không làm được! Ý nghĩa của “tương tục” rất nhiều: Ví như mỗi ngày bạn hành trì thời khóa sớm tối, mỗi lần độ mươi, mười lăm phút. Mỗi ngày đều đặn như vậy, không thiếu sót ngày nào cũng gọi là “tương tục”. Quan trọng nhất trong mươi, mười lăm phút này bạn không có hoài nghi, không có xen tạp, niệm Phật tiếp nối từng câu, từng câu tương tục. Vậy thì đúng rồi!

Nếu bạn quá bận, thời gian hành trì sớm tối cũng không có! Có thể tùy duyên, hàng năm hoặc hoặc hàng tháng, có chút ngày nghỉ, dành thời gian nghỉ đó: Một nửa xử lý việc cá nhân, một nửa đến đây niệm Phật. Mỗi năm hay mỗi tháng đều đặn như vậy cũng gọi là “tương tục”. Niệm Phật Đường nơi đây giống như đạo tràng Phật thất suốt năm, chúng ta đem phương qui của Đại Sư Ấn Quang trước đây mà thực tiễn ngay nơi đạo tràng này.

Cư Sĩ Lý còn phát tâm, hy vọng tương lai, bên cạnh đạo tràng sẽ xây dựng một thôn Di Đà cúng dường người niệm Phật. Mọi người đến đây, tứ sự cúng dường, cơm áo, ngũ nghỉ đều do nơi đây phụ trách. Bạn không cần mang đến bất cứ thứ gì. Bạn buông bỏ tất cả thân tâm thế giới, đến đây ngày ngày nghe kinh, ngày ngày niệm Phật. Nên biết: Ông xây dựng đây không phải là Viện dưỡng lão mà là thôn Di Đà, cúng dường người chân thật phát tâm niệm Phật cầu vãng sinh Tây Phương Cực Lạc. Bất cứ ai muốn đến Tây Phương Cực Lạc để làm Phật, ông đều hoan hỉ cúng dường, phước báo này quá lớn! Ông cúng dường Phật không phải cúng dường người khác, nên khi bạn đến ở thôn Di Đà này, người người đều là vị Phật sống, nhất định vãng sinh bất thoái thành Phật, vậy thì còn gì bằng?! Cho nên đạo tràng này nhất định phát triễn đến giải hành tương ưng.

Hai tháp đặt nơi này, ý nghĩa rất sâu! Đó là chư Phật Như Lai an định tín tâm chúng ta. Xem thấy khung cảnh này, tín tâm ta liền đầy đủ, nhất định không bị dao động, nhất định phải phát nguyện phổ độ chúng sinh. Muốn phổ độ chúng sinh, trước phải phổ độ mình. Chính mình chưa được độ không thể độ người khác. Thế nhưng, trong kinh thường nói: Chính mình chưa độ, trước lo độ người, đây là “phát tâm của Bồ Tát”. Bạn có phải là Bồ Tát không? Nếu chưa phải Bồ Tát thì khoan vội! Thành Bồ Tát rồi mới có năng lực, bản lĩnh mà nói câu này. Ngày nay, chúng ta là phàm phu không dám nói câu này. Nhất định phải độ mình trước, tức cầu vãng sinh Tây Phương Cực Lạc, sau đó mới có năng lực mà độ hóa chúng sinh.

2. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Phiền não, ngoại duyên rất khó, không dễ gì dẹp bỏ! Đời sống đi đứng, ăn mặc, mỗi ngày vì những sự việc này mà bôn ba tính toán, tâm không thể định! Không luận người giàu sang hay nghèo hèn, tất cả đều lo âu, phiền não. Phiền não đoạn, tâm mới thanh tịnh, mới có năng lực tiếp nhận giáo pháp của Như Lai. Phiền não chưa đoạn, cho dù học pháp môn nào cũng chỉ tăng thêm tà kiến, không tăng thêm trí tuệ.

3. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Thành thật mà nói nếu không có đức năng, không có trí tuệ, làm sao có thể phổ độ chúng sinh! Tất cả chúng sinh căn tánh không đồng, nhu cầu khác nhau; muốn mãn nguyện tất cả chúng sinh khiến họ sinh tâm hoan hỉ, bạn phải là bậc toàn năng, toàn trí. Muốn vậy, bạn phải chân thật phát nguyện, quyết tâm “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”.

4. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành

Không gì hơn là quyết tâm niệm Phật vãng sinh. Nếu không niệm Phật vãng sinh, không tu pháp môn Tịnh Độ, nguyện “thành Phật đạo” này rất khó mà thành tựu! Do vậy, mà Bồ Tát Đẳng Giác, thượng thủ trong thế giới Hoa Tạng là Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát, trên hội Hoa Nghiêm đều phát nguyện cầu sinh Cực Lạc, được thân cận Phật A Di Đà. Tóm lại, ngay đời này, phải ghi nhớ: Muốn đầy đủ “Tứ Hoằng Thệ Nguyện” chỉ có cầu sinh Tịnh Độ.

An trụ nhất thiết công đức pháp trung” (An trụ trong hết thảy pháp công đức): “An” là an ổn, “trụ” là trụ ở nơi đó bất động. Thành thật mà nói: Phàm phu chúng ta thật đáng thương, không có chỗ trụ! Nếu nói:

– Tôi có nhà cửa, phòng ốc là có chỗ trụ.

– Đó chỉ là “thân trụ”! Thân an ổn, nhưng tâm chưa chắc đã an trụ nơi này.

Trên Kinh Kim Cang, tôn giả Tu Bồ Đề thỉnh pháp với đức Phật Thích Ca Mâu Ni: “Ưng vân hà trụ?”. Ý ngài muốn hỏi Phật: Tâm này phải nên trụ vào đâu?

Người thế gian hiểu được “thân trụ”, không hiểu được “tâm trụ”. Cho nên, cả đời bồng bềnh trải qua ngày tháng thật khổ sở, không luận là họ có phước hay không có phước. Có phước họ vẫn khổ; không phước lại càng khổ hơn. Cả đời ưu bi khổ não! Sống như vậy khổ biết dường nào! Do đây có thể biết: “an trụ tâm” là điều rất quan trọng!

Chỗ này “nhất thiết công đức pháp”, pháp công đức này là chỉ Di Đà nguyện hải, sáu chữ hồng danh. An trụ ở “phát Bồ Đề Tâm, nhất hướng chuyên niệm” là pháp an trụ thù thắng hơn bất cứ loại an trụ nào.

Du bộ thập phương, hành quyền phương tiện(Dạo khắp mười phương, hành quyền phương tiện): Phía trước đã an trụ trong Kinh Vô Lượng Thọ, tự mình đạt được tất cả pháp công đức, có được lợi ích chân thật. Tiến thêm bước nữa, là đem công đức của Đại Kinh này mở rộng ra, giới thiệu đến tất cả chúng sinh, tức là “du bộ thập phương”. “Du” là du hóa, “thập phương” là hết thảy mọi nơi, lưu truyền cùng khắp. Đây cũng là biểu thị “thần thông du hí” của Đại Sĩ, du hành tự tại, hóa độ hết thảy chúng sinh trong mười phương thế giới.

Hành quyền phương tiện”: “Quyền” là quyền nghi, quyền biến, người thế gian hay nói “thông quyền đạt biến”, “Hành quyền phương tiện” tức là “thiện xảo phương tiện”, khéo léo, thích nghi với từng chúng sinh, khiến họ hoan hỉ tiếp nhận Phật pháp, tiếp nhận Kinh Vô Lượng Thọ, tiếp nhận Pháp môn Tịnh Độ. Điều này vô cùng quan trọng.

Du bộ” cũng có nghĩa là tham học. Người ở thế giới Tây Phương Cực Lạc mỗi ngày đều trải khắp mười phương thế giới để lễ bái chư Phật. Bái Phật chính là thăm hỏi, thân cận chư Phật Như Lai, vừa thừa sự cúng dường vừa nghe giáo huấn của các ngài. Cơ hội tu phước, tu tuệ thật quá viên mãn, thử hỏi họ làm sao không thành Phật.

Trong mười phương cõi nước chư Phật, nhất định họ sẽ gặp lại quá khứ bạn bè, quyến thuộc, đồng tham, đồng học nhiều đời, nhiều kiếp, liền có cơ hội giáo hóa họ. “Hành quyền phương tiện”: Chữ “phương tiện” này chính là “Tùy loại hóa thân, tùy cơ diễn giáo”. Ở Tây Phương Cực Lạc, người “hạ hạ phẩm vãng sinh”, chỉ cần thấy qua A Di Đà Phật, được ở bên cạnh ngài, đi nhiễu quanh một vòng, liền có được năng lực đến thế giới khác “Tùy loại hóa thân”; như Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ môn nói: Đáng dùng thân gì để độ, liền có năng lực thị hiện ra thân đó. Loại năng lực này, theo như kinh Đại Thừa nói: Cần phải đạt đến “Viên giáo Sơ Trụ” Bồ Tát hoặc “Biệt giáo Sơ Địa” Bồ Tát, cũng chính là phải phá được một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp thân mới có năng lực này.

Phật, Bồ Tát trong mười pháp giới không có năng lực “Tùy loại hóa thân”; nhưng, Bồ Tát trong “Pháp giới nhất chân” có thể làm được. Công đức lợi ích thù thắng này tra hết Đại Tạng Kinh cũng không tìm ra được.

Nhập Phật pháp tạng, cứu cánh bỉ ngạn(Nhập Phật pháp tạng, rốt ráo đến bờ kia): “nhập” là khế nhập, là chứng đắc; “Phật” là Phật tánh. Phật tánh chính là chân tâm, bổn tánh của mỗi người chúng ta. “Phật pháp tạng” là chỉ cho Trí tuệ, đức năng vốn đủ trong tự tánh. “Nhập Phật pháp tạng”, câu nầy đồng nghĩa với câu “Thiện nhập Phật tuệ, thông đạt đại trí” của kinh Pháp Hoa; nói theo Thiền tông là “minh tâm kiến tánh”.

Người có thể vào “Phật pháp tạng”, chính như Kinh Hoa Nghiêm nói là Pháp Thân Đại Sĩ, không phải người thông thường. Pháp Thân Đại Sĩ là thành Phật rồi nhưng là Phật chưa viên mãn, chỉ mới phá được một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, họ liền có năng lực ở tận hư không khắp pháp giới độ hóa chúng sinh. Trong “Viên giáo”, chúng ta thấy từ Sơ Trụ trở lên: Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác tổng cộng có bốn mươi mốt ngôi thứ, bốn mươi mốt ngôi thứ Pháp Thân Đại Sĩ này bao gồm cả Đẳng Giác Bồ Tát đều gọi là “Phần chứng vị”, không phải viên mãn. Cho nên, câu “nhập Phật pháp tạng” là “Phần chứng vị”.

Chúng ta mỗi niệm cầu sinh Tây Phương Cực Lạc thế giới, cũng chính là muốn tham gia “Liên Trì hải hội” vào “Phật pháp tạng”, đó là cách nói của Tịnh Độ tông.

Người xưa nói: Nếu thấy được Phật Di Đà lo gì không khai ngộ! Khai ngộ đó chính là “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật” của Thiền tông. Do đây có thể biết: Thấy Phật cũng đồng với đại triệt đại ngộ. Thế nhưng, trong Tông môn dùng phương pháp “tham cứu” để đạt đến cảnh giới này. Phương pháp này rất khó đối với thời đại chúng ta, gần như không còn thấy ai có được thành tựu.

Pháp sư Đàm Hư, cách thời đại chúng ta hơn nửa thế kỷ, ngài thường hay khai đạo cho hậu học. Ngài nói: Chính mình trong đời đã thấy qua rất nhiều thiện-tri-thức xuất gia, lẫn tại gia tu hành, họ chỉ được Định; chưa hề thấy hoặc nghe qua người nào được khai ngộ! Đây đích thật ngài đã gián tiếp khẳng định Hòa Thượng Hư Vân của Thiền tông, cùng thời đại với ngài, cũng chỉ mới được Thiền định; không thể khẳng định ngài được khai ngộ! Được Thiền định cũng không dễ rồi! Được Thiền định, nếu chính họ không phát nguyện, tương lai nhất định sinh về cõi trời Tứ Thiền, địa vị này rất cao, phước báo cũng rất lớn. Chúng ta biết lão Hòa Thượng Hư Vân phát nguyện thân cận Bồ Tát Di Lặc; ngài đích thật sinh đến “Đâu Suất nội viện” việc này một chút cũng không giả! Người, niệm Phật chúng ta nhất định phải hiểu được then chốt của việc tu học: Niệm Phật thành Phật, con đường thẳng tắt, ổn định, mau chóng đáng tin.

Cứu cánh bỉ ngạn” là rốt ráo đến bờ kia. Chúng ta nơi đây chăm chỉ, vận dụng tu tập Pháp môn Niệm Phật: niệm Phật là nhân, thành Phật là quả. Trong “Tứ Hoằng Thệ Nguyện”, chúng ta cũng mạnh mẽ phát nguyện độ khắp chúng sinh, nhưng chưa thể thực hiện! Tâm có thừa mà sức không đủ! Ở thế giới Tây Phương Cực Lạc thì khác hẳn! Cho dù là “Hạ hạ phẩm vãng sinh”, phiền não tập khí một phẩm cũng chưa đoạn, họ vẫn có năng lực đến tận hư không khắp pháp giới cúng dường chư Phật, độ hóa chúng sinh. Dựa vào cái gì? Nhờ vào sức gia trì của Bổn Nguyện Phật A Di Đà!

Mới biết được pháp môn Tịnh Độ thù thắng không gì bằng! Thế, xuất thế gian không pháp môn nào có thể sánh được. Ngay trong đời này chúng ta có duyên gặp được, không phải là sự ngẫu nhiên hay trùng hợp. Trong kinh đức Phật nói: Phải có thiện căn, phước đức, nhân duyên từ vô lượng kiếp, đời này mới gặp được; sau khi gặp được chúng ta có thể thành tựu hay không? Trên kinh Phật nói người gặp được có thể phân làm bốn loại:

1. Người thượng thượng căn: Nghe rồi liền tin, tin rồi liền phát nguyện, chăm chỉ nỗ lực tu hành, y giáo phụng hành, ngay đời này họ nhất định được vãng sanh.

2. Người không thể tự động tự phát: Rất dễ dàng lười biếng, giải đải, cần có người động viên khích lệ, họ mới phấn chấn đoạn ác tu thiện, niệm Phật cầu sinh, hạng người này cũng có thể vãng sanh.

3. Người căn tánh kém một chút: Phải có thiện tri thức cần lao khẩn thiết khuyên bảo hết lời, lâu dần trong xã hội họ vấp  phải nhiều chướng ngại, thiệt thòi, lỗ lã, họ mới chịu hồi đầu, tương đối không dễ, cũng có thể thành tựu.

4. Người có tri kiến bất chánh: Cho dù chư Phật, Bồ Tát có đến khuyên bảo, họ cũng không thể quay đầu! Loại người này chúng ta xem thấy rất nhiều, đó là do tập khí, phiền não, nghiệp chướng của họ quá nặng: Bên ngoài gặp phải ác duyên như danh vọng, lợi dưỡng; trong tâm lại đầy ấp tham, sân, si, mạn. Nội ngoại vừa kết hợp thì bỏ đạo đi mất! Thật vô cùng đáng tiếc! Phật không bỏ rơi họ, vẫn chờ mong họ hồi đầu. Nếu đời này họ không quay đầu thì đời sau hoặc đời đời sau nữa! Thành thật mà nói, chúng ta chớ cười người, chính bản thân chúng ta là loại người đó! Chúng ta đâu phải chỉ đời này mới tu Tịnh Độ, mà trong đời đời kiếp kiếp về trước cũng đã gặp pháp môn này, chẳng qua vì mê hoặc ác duyên bên ngoài mà trôi lăn sinh tử!