Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

VI. ĐỨC TUÂN PHỔ HIỀN ĐỆ NHỊ
(TT)

Cụ túc vô lượng hạnh nguyện, an trụ nhất thiết công đức pháp trung” (Đầy đủ vô lượng hạnh nguyện, an trụ trong hết thảy các pháp công đức). Hai câu này khen ngợi thật đức của Đại sĩ. “Cụ túc” là đầy đủ, viên mãn, không thiếu sót; “vô lượng” là nhiều vô số, chẳng thể dùng thí dụ so sánh, cũng không cách chi tính đếm được, “hạnh” là các đại hạnh như Lục Độ, Tứ Nhiếp v.v…, “nguyện” là các nguyện thù thắng như “Tứ hoằng thệ nguyện”, mười đại nguyện… “nguyện” để dẫn dắt “hạnh”; “hạnh” để viên mãn “nguyện”. “Hạnh” như đôi chân, “nguyện” như đôi mắt, nương tựa lẫn

Hạnh, nguyện là tánh đức chẳng phải từ bên ngoài. “Hạnh” cũng là hành vi đời sống, bao gồm thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ý nghiệp. Hành vi của ba nghiệp này phải tương ưng với mười cương lĩnh của Bồ Tát Phổ Hiền, nếu trái với mười cương lĩnh này là sai lầm. Chúng ta thông thường rất khó đạt đến tiêu chuẩn của Phổ Hiền. Vậy phải làm sao? Phải thuận theo phương hướng, mục tiêu như trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ mà Thế Tôn đã đề ra. Phương hướng, mục tiêu đó chính là ba loại tịnh nghiệp. Trong chú giải của Đại Sư Thiện Đạo, đặc biệt vì chúng ta nhấn mạnh: Phải tu từ “Tịnh Nghiệp Tam phước”, đó là:

1.   Phước Thứ Nhất

Thuộc phước báo nhân thiên, gồm có bốn câu: “Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp”. Người học Phật, học làm Bồ Tát, trước phải làm người tốt. Đại sư Ấn Quang đề xướng “giữ tâm tốt, làm việc tốt, lời nói hay, làm người tốt”. Chữ “dưỡng” ở đây không những chỉ phụng dưỡng, chăm sóc đi đứng, đời sống tuổi già của cha mẹ mà còn phải dưỡng tâm cha mẹ để cha mẹ không lo buồn mà hoan hỉ trải qua ngày tháng, việc này không dễ dàng!

Trung Quốc thời xưa chọn nhân tài lãnh đạo, tiêu chuẩn phải là hiếu tử (người con hiếu). Cho nên, trung thần xuất thân từ hiếu tử: Ở nhà, họ là đứa con tận hiếu, được tuyển chọn ra làm quan, họ liền có thể tận trung với tổ quốc; trung, hiếu là một thể.

Chúng ta thấy tấm gương đại hiếu của người xưa ở Trung Quốc là vua Thuấn. Ông xuất thân trong gia đình khổ khắc: Cha thì quá hung bạo; mẹ ghẻ thường hay hiểm hóc; người em khác mẹ  lại ngạo nghễ tật đố. Thế nhưng, ông vẫn luôn luôn hết lòng phụng sự gia đình, hiếu kính cha mẹ, nhường nhịn với em. Ông đã nêu gương hiếu đạo, phụng dưỡng cha mẹ không những chỉ về thân mà lẫn cả về tâm, vô cùng viên mãn. Sau này, vua Nghiêu mến chuộng đức của ông nên vời về cung gã luôn hai nàng công chúa là Nga Hoàng và Nữ Anh, lại giao chín con trai cho ông dạy dỗ. Tâm hiếu đạo của ông Thuấn thật cảm đến trời, người! Không những người thời đó tán thán ông mà đời sau xem thấy ghi chép này, tâm cung kính thán phục cũng tự nhiên sinh khởi.

Quan điểm “hiếu” của thế gian, của nhà Nho là vậy. Tuy nhiên, nếu dùng tiêu chuẩn của nhà Phật thì vẫn chưa đủ! Cái “hiếu” này chỉ mới làm được có một phần mười! Vì sao vậy? Vì Phật pháp có cái nhìn tường tận, chính xác: sinh mạng là vĩnh hằng, không phải chỉ đời nầy mà còn có đời quá khứ, cả đời vị lai. Nếu để cha mẹ vẫn mãi trôi lăn trong sáu nẽo luân hồi, bạn là người đại bất hiếu! Vậy phải làm sao? Trước tiên, chính bạn phải nỗ lực tu tập, chứng được quả vị Phật viên mãn, chữ “hiếu” này mới đạt đến cứu cánh, mới có khả năng rộng độ tất cả cha mẹ bạn từ vô lượng kiếp đến nay.

Quan điểm “hiếu” trong nhà Phật cùng “hiếu” trong nhà Nho, trên cảnh giới có chỗ khác biệt. Nhưng, học thuyết, tu trì và giáo học của họ đều lấy “hiếu” làm căn bản, đây là điểm tương đồng. Phật pháp khẳng định, người học Phật lễ kính Phật mà bất kính đối với cha mẹ thì việc học Phật của bạn cũng là vô ích! Do nguyên nhân gì? Vừa mở đầu bạn đã sai rồi! Cha mẹ là hai vị Phật sống, bạn không lạy! Lại mỗi ngày lạy Phật tượng gỗ, Phật xi măng v.v… làm sao bạn có thể thành tựu! Chỗ này không phải tôi dạy bạn, mà Thế Tôn dạy bạn! Tuy cha mẹ không cần mỗi ngày bạn phải dậy sớm, hướng đến họ dập đầu ba lạy, không phải vậy! Nhưng, đối với Phật bạn cung kính ra sao thì đối với cha mẹ bạn phải cung kính như vậy. Ngoài cha mẹ ra, bao gồm tất cả chúng sinh đều là Phật, chúng ta cũng phải cung kính, đó mới thật là “tuân tu Phổ Hiền Đại sĩ chi đức”. Chúng ta không nghe kinh suông mà phải nỗ lực làm! Làm cho mọi người thấy đều sinh tâm hoan hỉ, sau đó mới khuyên cha mẹ niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ, đó là đại hiếu.

– “Phụng sự sư trưởng: Đây là sư đạo, sư đạo xây dựng trên nền tảng hiếu đạo. Muốn trở thành người tốt, bạn phải có cống hiến đối với xã hội, nhất định bạn phải trải qua sự đào tạo trong nền giáo dục tốt. Một nền giáo dục tốt phải là nền giáo dục có sự gắn bó, phối hợp mật thiết giữa gia đình và học đường, mới có thể đào tạo được con người có tài lẫn đức cho quê hương đất nước. Là bậc cha mẹ, bạn có trách nhiệm dạy dỗ con cái biết tôn sư trọng đạo, biết kính trọng vâng lời thầy, biết tri ân và báo ân thầy. Mặt khác, thầy giáo có trách nhiệm đem đạo lý giảng dạy cho học sinh hiểu vì sao phải hiếu dưỡng cha mẹ. Đây là sư đạo phải xây dựng trên nền tảng của hiếu đạo.

Từ tâm bất sát”: Muốn nuôi dưỡng lòng từ, quan trọng là không được sát sinh hại vật. Từ bi trong đạo Phật chính là thương yêu. Sự thương yêu này bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, hoàn toàn dựa trên căn bản của lý trí, không phải như yêu thương ích kỷ của thế gian, có cảm tình mới yêu thương.

Tu thập thiện nghiệp”: Mười thiện nghiệp này là nền tảng cơ bản để hoàn thành nhân cách của con người, nhất định phải tuân thủ. Mười nguyên tắc này là: Thân không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm. Miệng không nói dối, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời thêu dệt, không nói lời hung ác. Ý không tham, không giận, không si mê.

Nên biết: Địa cầu chúng ta đang bệnh! Khí hậu cũng khác thường, tai nạn triền miên! Vì sao thế? Do tâm con người không tốt! tham, sân, si đầy dẫy! Như Phật pháp nói: “Y báo tùy theo chánh báo chuyển”. Thế giới ngày nay “ngũ trược ác thế”, tam tai hiểm nạn đều do ác nghiệp. Khế kinh dạy “Đối phó với các ác thì phải đừng ác”. Hạnh phúc hay khổ đau là kết quả của hành vi thiện ác. Hành vi thiện ác tuy thiên sai vạn biệt, cũng không ngoài mười nghiệp đạo vốn sẵn có trong mỗi người chúng ta. Mười thiện nghiệp này là nền tảng của mọi công đức, cũng là định bản hành môn trong tịnh nghiệp đạo tràng chúng ta “mười thiện nghiệp mà khá thì thành nhân loại; mà nhiều thì thành chư thiên (đó là hai nghiệp quả vui thế gian); mà hoàn toàn thì thành Thanh Văn, Độc giác; mà chưa tuyệt đối thì là Bồ Tát; mà đã tuyệt đối thì là Phật Đà (đó là bốn nghiệp quả vui xuất thế)” (Trích Kinh mười thiện nghiệp của Trí Quang dịch, trang 173).

2. Phước Thứ Hai

Phước thứ hai là “Thọ trì tam qui, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi”.

– Hiện tại người qui y Tam Bảo rất nhiều, thế nhưng họ có thọ trì hay không?

– Chưa chắc! Chỉ là hình thức, dáng vẻ mà thôi!

– Vậy thì không thể dùng được! Nhất định phải thọ trì!

– Thế nào là thọ trì?

“Thọ” là hoàn toàn tiếp nhận! “Tiếp nhận”, hai chữ này thật không phải dễ dàng! Nếu đối với đạo lý của “Tam qui y” mà bạn không thông hiểu, không tường tận, bạn làm sao học tập?! Hành pháp của “Tam qui” tức là tác pháp thực tiễn ngay trong cuộc sống thường ngày. Công đức, lợi ích, cảnh giới, chỗ tốt của “Tam qui y”, bạn không biết được, làm sao bạn có thể sinh tâm hoan hỉ?!

Cho nên, truyền thọ “Tam qui y” nhất định phải giảng cho rõ ràng, tường tận, thông suốt, thấu đáo. Chúng ta cử hành nghi thức “Tam qui” thời gian quá ngắn, không cách chi giảng giải tường tận. Tuy nhiên, chúng ta cũng có phương cách bổ cứu. Đồng tu học Phật, không luận bạn đã qui y Phật rồi hay chưa qui y, đều có thể dựa vào hai quyển sách nhỏ: “Nhận thức Phật giáo” và “Tam qui truyền thụ”. Hai quyển này là bài khóa cần thiết cho người thọ trì “Tam qui y”.

Vào khoảng một ngàn ba trăm năm về trước, Lục Tổ Huệ Năng, tổ thứ sáu của Thiền Tông Trung Quốc, ngài giảng “Tam qui y” đã không dùng danh từ “Phật, Pháp, Tăng”. Có thể thấy được cách nói của ngài là khế cơ, thích ứng với căn cơ người hiện tại.

– Vì sao Lục Tổ không nói “Phật, Pháp, Tăng”?

– Đạo lý này chúng ta phải hiểu: Rất có thể, dùng chữ “Phật, Pháp, Tăng” dễ khiến mọi người sinh ra hiểu lầm, không dễ dàng lý giải, không nhận được hiệu quả thực tế. Cho nên, Đại sư ngài đã đổi sang cách nói, dùng “Giác, Chánh, Tịnh”. Phật là “Giác”; Pháp là “Chánh”; Tăng là “Tịnh”. Cách nói này nghe qua có phần dễ hiểu. Hơn nữa, chữ “Giác-Chánh-Tịnh” đều lưu xuất từ tự tánh, không phải từ bên ngoài. “Qui y giác” là “qui y tự tánh giác”. Do đây có thể biết “qui y” không phải là “qui y” người khác. Chữ “Tự” trong “Tự qui y Phật”, “Tự qui y Pháp”, “Tự qui y Tăng” là chỉ cho tự tánh.

-Phật là “Tự tánh Giác”.

-Pháp là “Tự tánh Chánh”.

-Tăng là “Tự tánh Tịnh”.

Điểm này, chúng ta đối với giáo huấn của Phật Đà thật vô vàn bội phục đến năm vóc sát đất! Đức Phật không hề dạy chúng ta qui y ngài. Không hề có! Phật dạy chúng ta “qui y tự tánh Tam Bảo”. Lời nói này nếu không giảng rõ thì rất dễ sinh ra hiểu lầm, biến thành mê tín, nghĩ rằng muốn học Phật phải nương vào Thích Ca Mâu Ni Phật thì sai rồi! Phật nói: “Các con phải tự thắp đuốc mà    đi”, phải nương vào tự tánh của chính mình, không nương vào bất cứ người nào khác. Đức Phật cũng nương vào tự tánh, chúng ta cũng nương vào tự tánh.

“Tự tánh Tam Bảo” quan trọng hơn bất cứ thứ gì. Tự tánh Giác, Tự tánh Chánh, Tự tánh Tịnh là ba đại cương lĩnh trong tu học Phật pháp. Phật dạy ta từ mê quay lại nương vào “tự tánh Giác”, từ tà tri tà kiến quay đầu lại nương vào “tự tánh Chánh” tức Chánh tri, chánh kiến; từ tất cả nhiễm ô quay đầu lại nương vào “tự tánh Tịnh” tức tâm thanh tịnh. Thế là Phật giáo có ba cửa: Cửa Giác, cửa Chánh và cửa Tịnh. Thử xem trình độ, căn tánh của mình thích hợp với cửa nào thì vào cửa đó, không nên miễn cưỡng!

Thiền tông, Tánh tông là vào từ “cửa Giác” nên gọi là “Đại triệt, đại ngộ, minh tâm kiến tánh”. Đó là người căn tánh lanh lợi, thông minh nhất thế gian mới có năng lực tu Pháp môn này. Đại sư Huệ Năng nói: Đối tượng mà ngài tiếp dẫn phải là người “thượng thượng căn”; nếu không phải là người “thượng thượng căn” thì cửa này không thể vào được!

Ngày trước, khi tôi mới học Phật, thầy nói với tôi: “Thiền giống như một bước lên trời”, nếu có bản lĩnh này đương nhiên là rất tốt, giống như lên lầu cao mười tầng, bạn có được công phu từ dưới đất nhảy vọt một cái lên đến lầu mười, thì còn gì để nói, việc này không phải người thông thường có thể làm được! Thế nhưng, nếu bạn không nhảy lên được, rớt trở xuống thì tan xương nát thịt, tiêu rồi!

– Vậy đối với người căn tánh bậc Trung, Hạ phải làm sao?

– Không cần lo! Có cầu thang! Bạn leo cầu thang từng cấp đi lên, chậm một chút nhưng không hề gì!

Giáo hạ là vào từ “cửa Chánh” tức chánh tri, chánh kiến. Nẽo đi trong Phật pháp rất nhiều! Leo cầu thang thời gian quá dài, phải qua ba A-tăng-kỳ kiếp, đó là nói học giáo. Hiện tại, chúng ta không qua hai cửa đầu, vì chúng ta không phải là người thượng căn một bước đến trời; cũng không muốn leo cầu thang vì quá lâu, mệt chết người! Chỉ còn phương pháp là vào “cửa Tịnh” tức là tu học Pháp môn Tịnh Độ.

Niệm A Di Đà Phật tức là vào “cửa Tịnh”, tu tâm thanh tịnh. Thực tế mà nói, cửa này rất dễ dàng, tiện lợi, cho dù thuộc căn tánh nào, chỉ cần biết dùng câu “A Di Đà Phật” để nhiếp phục, tịnh hóa được tất cả ô nhiễm như: Ô nhiễm tinh thần, ô nhiễm tâm lý, ô nhiễm tư tưởng, ô nhiễm kiến giải, thậm chí ô nhiễm cả sinh lý. Sau khi tịnh hóa được những ô nhiễm rồi, bạn nương theo công đức, bổn nguyện của A Di Đà Phật cầu sinh Tây Phương Cực Lạc. Sự thành tựu, thọ dụng này của bạn, so với người căn tánh “thượng thượng căn” của Thiền tông đã vượt xa không biết là cao hơn gấp bao nhiêu lần. Cho nên, Pháp môn Tịnh độ chân thật là thù thắng không chi sánh bằng, được tất cả chư Phật đều xưng tán.

Cụ túc chúng giới”: “Cụ túc” là đầy đủ, trọn vẹn. “Chúng” là rất nhiều, “Giới” là lời giáo huấn của Phật trong tất cả kinh điển. Tất cả kinh thì quá nhiều chúng ta không cách chi thọ trì được hết. Thực tế mà nói, ngay trong đời này, chúng ta chỉ cần thọ trì một bộ kinh, y theo lời dạy của một bộ kinh mà làm cũng rất viên mãn rồi, nhất là bộ Kinh Vô Lượng Thọ này. Phía trước đã nói: Kinh Vô Lượng Thọ chính là cương yếu của Kinh Đại Hoa Nghiêm, là tinh hoa của Kinh Đại Hoa Nghiêm. Kinh này triễn khai chính là toàn bộ Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm triễn khai chính là bộ Đại tạng Kinh. Chúng ta đã chọn đúng bổn kinh cương yếu này, y theo giáo huấn của bổn kinh này mà tu hành, liền đầy đủ được “chúng giới”.

Bất phạm oai nghi”: “Oai nghi” là lễ tiết. Trong thế pháp, quan niệm đạo đức, phong tục tập quán, nhân tình lễ tiết, chúng ta cần phải biết. Nhất là thời đại ngày nay: Tin tức, giao thông thuận tiện, không gian hoạt động của chúng ta rộng lớn, thường hay có kỳ nghỉ, du lịch nước ngoài để tham quan. Đến khu vực nào, phong thổ, phong tục tập quán, nhân tình của khu vực đó, chúng ta phải dọ xét một chút để nhập cảnh tùy tục. Tuy chỉ ở đây thời gian ngắn, nhưng cũng cùng họ kết được chút duyên hoan hoan, hỉ hỉ. Trong duyên hoan hỉ này, chúng ta đem Phật pháp biếu tặng cho họ. Chúng ta ra ngoài mang theo một ít lễ vật nhỏ tùy thân. Đến đâu cũng kết duyên với mọi người, thậm chí có thể mang theo một số danh thiếp in hình Phật rất đẹp, phía sau in mấy câu kinh văn, tùy lúc tặng cho mọi người. Vậy thì rất tốt!

Mỗi niệm không quên quan tâm chúng sinh, thương yêu chúng sinh, giúp đỡ chúng sinh. Tấm hình Phật nhỏ này tặng họ, cũng chính là thương yêu họ, quan tâm và giúp họ, khiến họ xem thấy hoặc nghe qua tai, liền mãi trồng được thiện căn. Nếu họ có hứng thú, có tâm hoan hỉ, chúng ta có thể liên lạc họ, hoặc không ngừng gửi những tặng vật, băng đĩa, băng ghi hình cung cấp cho họ. Mỗi giờ, mỗi phút đều phải lưu tâm đem Phật pháp giới thiệu đến mọi người. Trong giới thiệu này, nhất định phải từ “bất phạm oai nghi” mà làm, khiến mọi người nhìn thấy liền sinh tâm hoan hỉ, không nên để người khác thấy chúng ta liền sinh tâm chán ghét, vậy thì sai rồi! Chúng ta học Phật, phải đem tấm thành tích của mình mà hiển bày ra.

– Tấm thành tích này là gì?

– Là diện mạo, sắc tướng, phong cách của bạn.

Học Phật, sắc diện, tướng mạo phải đổi tốt; thân thể phải đổi tốt. Đây là biểu hiện của nhà Phật.

3. Phước Thứ Ba

Phát Bồ Đề tâm, thâm tín nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả”.

Phát Bồ Đề tâm”: Người niệm Phật phát Bồ Đề tâm chính là phát tâm cầu quả giác ngộ, noi theo sự nghiệp độ sanh của tất cả chư Phật. Quả vị này cao tột không chi hơn nên gọi là “Vô Thượng Bồ Đề”. Kinh Hoa Nghiêm bảo “Nếu quên mất tâm Bồ Đề mà tu các pháp lành, đó là nghiệp ma”. Thật vậy, quên mất Bồ Đề tâm là quên mất mục tiêu giải thoát giác ngộ để lợi mình, lợi ích tất cả chúng sinh thì có khác chi như người cất bước khởi hành mà chẳng biết sẽ đi về đâu, đi với mục đích gì?! Người tu như thế cho dù có dụng công khổ nhọc thế mấy, cuối cùng chỉ mang đến kết quả hưởng phước nhân thiên mà thôi, vẫn trôi lăn trong sáu nẽo luân hồi, chịu vô biên khổ não.

Tâm Bồ Đề là tâm chân thật giác ngộ: Giác ngộ thế gian này là khổ, không, vô thường, nên đối với thế gian nhất định không có tham luyến, gìn giữ tâm thanh tịnh, bình đẳng, giác; đối với tất cả chúng sinh chỉ một mảng từ bi, chính là quan tâm, thương yêu giúp đỡ mọi người.

Tĩnh Am Đại Sư khi xưa đã soạn ra “Phát Bồ Đề Tâm Văn” để khuyến khích tứ chúng, khuyên mọi người nên nghĩ đến mười nhân duyên để phát tâm. Mười duyên ấy là: Vì nghĩ đến công ân Phật, vì công ân cha mẹ, vì nhớ ân sư trưởng, vì tưởng ân tín thí, vì biết ân chúng sinh, vì lo khổ sinh tử, vì tôn trọng tánh linh, vì sám trừ nghiệp chướng, vì hộ trì chánh pháp, vì cầu sinh Tịnh Độ. Trong “cầu sinh Tịnh Độ”, ngài dẫn chứng kinh Di Đà: “Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên đắc sinh bỉ quốc” (Không thể dùng chút ít căn lành, phước đức nhân duyên mà được sinh về nước kia). Nhiều căn lành không    chi hơn là “Phát Bồ Đề tâm”; nhiều phước đức không chi hơn “Trì Danh Niệm Phật”. Nhiếp tâm niệm Phật giây phút hơn bố thí nhiều năm; chân thật phát tâm Bồ Đề hơn tu hành nhiều kiếp, giữ chắc nhân duyên này, nhất định được sinh Cực Lạc.

Nên biết: Tâm Bồ Đề là gốc để vãng sinh Tịnh Độ. Nếu chẳng phát được tâm này, cho dù có siêng tu, mỗi ngày niệm mấy vạn niệm, xâu chuỗi chẳng rời tay, cũng không thể vãng sinh. Phát Bồ Đề tâm là phát khởi “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật”. “Bồ Đề Tâm” là “Tín, Nguyện”; “nhất hướng chuyên niệm” là “Hạnh”.

Ngẫu Ích Đại Sư dạy:

Tâm Vô Thượng Bồ Đề là kim chỉ nam để tu Tịnh Độ. Nhà hàng hải dùng kim chỉ nam để xác định phương hướng. Nếu muốn vượt biển sinh tử về thẳng bờ kia Cực Lạc phải dùng Bồ Đề tâm để dẫn đường, nên người tu tịnh nghiệp chẳng thể không phát Bồ Đề tâm, lại dùng Bồ Đề tâm ấy để trì danh hiệu thì mới là chánh hạnh”.

Nói cách khác, không phát Bồ Đề tâm thì dẫu có trì danh hiệu cũng chưa phải là chánh hạnh.

Sách Di Đà Yếu Giải cũng nói: “Nếu không có Tín, Nguyện thì dẫu có trì danh hiệu đến mức gió lay chẳng động, mưa chẳng thấm ướt, khác nào tường đồng, vách sắt vẫn chẳng đắc cái lý vãng sinh. Kẻ tu Tịnh Nghiệp chẳng thể không biết điều này”.

Thâm tín nhân quả”: “Nhân quả” này không phải là nhân quả thông thường, nhân duyên quả báo, thiện ác của thế gian, cái ý này rất thấp. Trong “Tam Phước”, ý nghĩa của “thâm tín nhân quả” rất sâu; “nhân quả” này là chỉ cho “nhân duyên niệm Phật”: Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả. Thế nhưng hai chữ “niệm Phật”, người ngày nay ít người hiểu được. Nếu “niệm Phật” mà trong tâm không có Phật thì đó gọi là “hát Phật”.

Chữ “niệm” của Trung Quốc rất có trí tuệ, chữ “niệm” do chữ “kim” và chữ “tâm” ghép lại, trong tâm hiện tại của bạn có Phật mới gọi là niệm Phật. Miệng niệm hay không niệm không hề gì, miễn sao trong tâm thật có Phật, mỗi niệm đều là Phật, Phật ở trong tâm chưa từng gián đoạn, con người này chân thật là người niệm Phật, nhớ Phật như mẹ nhớ con, niệm lực này rất mạnh! Cho dù con cái bất hiếu hoặc ở phương xa… người mẹ vẫn ngày ngày nhớ nghĩ đến chúng, nếu có thể đem cái niệm này đổi thành niệm A Di Đà Phật thì quyết sẽ thành Phật.

Có thể nói người chân thật niệm Phật chính là người của thế giới Tây Phương Cực Lạc, là người thừa nguyện tái lai để rộng độ chúng sinh, thật không phải giả! Họ đến thế gian này: Sống vì tất cả chúng sinh, chết cũng vì tất cả chúng sinh, sinh hoạt vì tất cả chúng sinh. Vì chúng sinh tức là chân thật vì chính mình. Nếu vì chính mình mà lơ là với chúng sinh, đó là tâm phàm phu, tâm luân hồi, không phải tâm Bồ Đề.

Đọc tụng Đại Thừa”: Kinh này là kinh Đại Thừa nên không cần phải niệm bất cứ kinh Đại Thừa nào khác. Đọc Kinh Vô Lượng Thọ chính là tiếp thu tổng cương lĩnh, tinh hoa của tất cả kinh Đại Thừa. Cho nên, mỗi ngày đọc tụng kinh này chính là tiếp nhận giáo huấn của Phật Đà.

– Vì sao phải niệm mỗi ngày?

– Vì chưa làm được! Nếu ba ngày không đọc kinh, vọng tưởng chấp trước của ta thảy đều đầy đủ! Sau khi đọc rồi phải ghi nhớ, phải hiểu được ý nghĩa trong kinh, đem nó biến thành tư tưởng, kiến giải, hành vi của chính mình mới có được thọ dụng chân thật. Lúc bấy giờ, chuyển biến ngay tâm lý, phiền não, vọng niệm ít đi thì trí tuệ khai mở, từ đó dung mạo cũng sẽ chuyển biến tốt đẹp hơn.

Trên kinh nói: “Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh”. Nếu mỗi ngày bạn nghĩ tham như: Tham tài, tham sắc, tham danh, tham lợi; khí tham càng nhiều thì dung mạo của bạn càng giống quỷ! Tâm sân hận quá nặng là khuôn mặt địa ngục; ngu si là khuôn mặt súc sinh! – Sao không nghĩ Phật? Ngày ngày nghĩ đến Phật sẽ biến thành mặt Phật. Muốn chính mình lớn lên xinh đẹp, dễ thương, mỗi ngày nên tưởng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát; tưởng đức Phật A Di Đà. Nghĩ tưởng ba năm, tướng mạo bạn chắn chắc sẽ giống Phật, giống Bồ Tát. Tưởng cái gì biến ra cái đó. Ngày ngày nghiên cứu kinh giáo thì Pháp hỉ sung mãn, công việc có bận rộn thế mấy cũng không biết mệt, không cần bất cứ thuốc dinh dưỡng nào của thế gian. Nên biết: Thân thể con người, dinh dưỡng tốt nhất là hoan hỉ.

Khuyến tấn hành giả”: “Khuyến” là khuyến khích. “Khuyến tấn hành giả” là giáo hóa, giúp đỡ, động viên người khác học Phật tiến bộ. Quan trọng nhất chính mình phải làm được tấm gương tốt, khiến người khác xem thấy đều tâm phục, khẩu phục mà tìm đến bạn để cầu học, không cần phải đi tìm họ.

Trong nhà Phật không có chiêu sinh, không có chuyện kéo tín đồ. Đây là “tác sư tác phạm” cũng là phương cách tốt nhất để “khuyến tấn hành giả”. Nếu là người buôn bán, bạn hết lòng phục vụ mọi người, bạn là Bồ Tát thương nhân, Bồ Tát làm buôn bán. Sự nghiệp của bạn không vì mục đích lợi nhuận cá nhân mà vì phục vụ xã hội quần chúng tốt đẹp, đây là đệ nhất mô phạm, cũng chính là sự nghiệp của Bồ Tát, không cần phải đổi thân phận, không nhất định phải đổi hình tướng xuất gia, đây là quan niệm sai lầm!

Trên đây là “Tam phước” thành tựu đức hạnh của chính mình. Thế nhưng, con người không thể tách rời khỏi xã hội mà đơn độc sinh tồn. Con người là động vật xã hội, làm thế nào chung sống với mọi người mà không xảy ra sự hiềm khích, xung đột?! Đức Phật nêu ra sáu pháp “Lục Hòa Kính”, đây là tánh đức mọi người đều có. Khi mê thì không “hòa”, giác ngộ rồi tự nhiên sẽ hòa. Bất luận người tại gia hay xuất gia nếu tuân thủ, nỗ lực y giáo phụng hành sáu pháp hòa kính đều có được lợi ích. Sáu pháp đó là: Kiến hòa đồng giải, giới hòa đồng tu, thân hòa đồng trụ, khẩu hòa vô tranh, ý hòa đồng duyệt lợi hòa đồng quân.

1. Kiến Hòa Đồng Giải

Kiến hòa đồng giải: là nền tảng của sự hòa thuận. “Kiến” là tư tưởng kiến giải. Làm thế nào có thể làm đến được mọi người cùng hiểu? Kinh Địa Tạng nói: Chúng sinh Diêm Phù Đề cang cường, khó giáo hóa. Mọi người đều cho rằng mình đúng, người khác là sai nên dễ sinh ra rất nhiều mâu thuẩn, xung đột! Muốn tránh những xung đột này, nhất định phải xây dựng cùng hiểu. Tiêu chuẩn Phật dạy rất hay: Mỗi người phải nên buông bỏ thành kiến của chính mình, đem cách nghĩ, cách thấy của mình đều buông bỏ, vậy chẳng phải là cùng hiểu hay sao?

2. Giới Hòa Đồng Tu

Chữ “Giới” này cùng với “Trì giới” trong “Lục Độ” là như nhau, là nghĩa rộng không phải nghĩa hẹp. Không như chúng ta nghĩ: “Giới” là trì năm giới, bát quan trai giới, mười giới v.v… là sai rồi! Chữ “giới”, dùng ngôn ngữ hiện tại để nói: “Giới hòa đồng tu” chính là “phải giữ phép”. Nói “giữ phép” để mọi người dễ hiểu, ý này rất rộng! “Giới” là giới điều trong tất cả mọi kinh luận mà Phật đã dạy, chúng ta đều phải tuân thủ. Không những thế, chúng ta còn phải hiểu biết và tuân thủ những lễ tiết căn bản thông thường như phong tục, tập quán, quan niệm đạo đức, pháp tắc qui luật v.v… của quốc gia, xã hội.

Lúc nhỏ, chúng ta phải tiếp nhận giáo dục của cha mẹ, tiếp nhận giáo huấn của thầy giáo, đây là “ giữ phép”. Chúng ta học Phật, nương vào cửa Phật phải bồi dưỡng quan niệm “ giữ phép”. Chỉ cần có thể “giữ phép”, nhất định có thể hòa thuận cùng sống với mọi người. Cuộc sống chúng ta phải có qui củ, có thứ lớp. Qui củ không phải là ràng buộc chúng ta; chư Phật, Bồ Tát cũng nghiêm trì giới luật, đó là đại từ, đại bi thị hiện cho chúng ta thấy.

Phàm phu khởi tâm động niệm đều là bất thiện, họ tạo tác tội nghiệp sẽ bị đọa vào ba đường ác, miên viễn không thể thoát khỏi lục đạo luân hồi, như thế thật đáng thương! Chư Phật, Bồ Tát thị hiện làm bậc mẫu mực cho mọi người xem, khiến ai nấy nhìn thấy đều có thể noi theo những gương lành này. Nhờ thế mà khổ nạn sẽ không còn, thân tâm mạnh khỏe, gia đình hạnh phúc, sự nghiệp thuận lợi, xã hội an định, thiên hạ thái bình. Nếu mọi người đều có thể “giới hòa đồng tu” thì lợi ích không gì sánh bằng.

3. Thân Hòa Đồng Trụ

Mọi người sống trên địa cầu phải biết thương yêu, gìn giữ trái đất này. Ngay đời này chúng ta hưởng thụ cũng phải san sẻ cho người khác hưởng thụ, phải nghĩ đến bảo toàn cho đời sau có được sự hưởng thụ tốt, đây là đại hoàn cảnh. Thu nhỏ lại, là người đồng quốc gia, nhỏ nữa là một đoàn thể, một gia đình, cùng thương yêu hòa thuận, cùng bảo hộ an toàn cho tập thể, đó là “Thân hòa đồng trụ”.

4. Khẩu Hòa Vô Tranh

Phật biết được những hiểu lầm, kết oán của tất cả chúng sinh phần lớn đều phát xuất từ lời nói. Dù vô tình hay cố ý, sự kết oán này sẽ gây chướng nạn rất nhiều trên con đường Bồ Đề. Người xưa dạy: “Nói ít một câu chuyện, niệm nhiều một câu Phật” giúp ta “tâm bình khí hòa”. Một câu A Di Đà Phật là chân ngôn, ngoài câu A Di Đà Phật ra đều là vọng ngữ! Tất cả pháp thế gian đều là giả chớ nên yêu thích! Người hủy báng, nhục mạ ta cũng là giả, hà tất sân hận! Ta là giả, tướng cũng là giả, xem như gió thoảng qua tai! Như như bất động!

Phải học tâm như đất, nhu hòa nhường nhịn, không tiếp nhận là tiêu nghiệp chướng; tiếp nhận là còn tạo nghiệp chướng! Khác nhau chỉ trong một niệm! Có thể người thế gian cho rằng: Bạn là kẻ ngốc, khờ khạo, là dị nhân. Nhưng, chư Phật, Bồ Tát thì tán thán bạn, bạn chắc chắn được sinh về cõi thiện. Nếu không ngừng hướng thượng vươn lên, bạn sẽ thành Phật. Đối với tất cả oan gia trái chủ, mỗi ngày chúng ta đem công đức tu tích được hồi hướng cho họ. Những oan gia trái chủ này ngày ngày tiêu nghiệp chướng cho ta, họ là đại ân nhân của ta không khác!

5. Ý Hòa Đồng Duyệt

Chân thật tu học, tương ưng như pháp, gìn giữ tâm bình khí hòa, vui vẻ hòa hợp với đại chúng, bạn nhất định được “Pháp hỉ sung mãn”. Nếu niệm Phật đã nhiều năm, vẫn không tìm thấy một chút an lạc nào, vậy là bạn chưa vào được cửa! Bạn niệm chưa được tương ưng! Ngày ngày bạn đọc kinh, đạo lý trong kinh bạn không hiểu, không rõ ràng tường tận, không thể thực tiễn những lời Phật dạy ngay trong cuộc sống hàng ngày, bạn có học mà không thể dùng! Nên nhớ: Hiện tại dù chưa đến thế giới Cực Lạc; nhưng an vui, thanh tịnh của thế giới Cực Lạc bạn vẫn có thể hưởng được nơi đây, vậy mới là tu tốt.

6. Lợi Hòa Đồng Quân

Trong “Lục Hòa Kính”, điều thứ nhất và điều sau cùng vô cùng quan trọng. Chữ “lợi” là chỉ phước báo cá nhân của mỗi người chúng ta. “Lợi hòa đồng quân” là có phước cùng hưởng. Ta có được phước báo nên chia sẻ cùng hưởng với tất cả mọi người. Nếu người khác có phước báo, ta không cần hưởng của họ, phải có cái nhận biết này! Chúng ta chỉ chân thật cho ra mà không hề cầu lấy, người chân thật giác ngộ chỉ có phụng hiến mà không cầu nhận, tâm bạn sẽ rất thanh tịnh, tự tại; phước báo bạn sẽ ngày càng tăng trưởng. Vì sao? Vì đức năng trong tự tánh vốn đủ của bạn hiện tiền, chướng ngại trong tự tánh được thanh trừ.

Nếu khởi nghĩ muốn hưởng phước của người khác thì đó là chướng ngại, là vọng tưởng điên đảo, chấp trước!

Tóm lại, sáu phép hòa kính mang lại hạnh phúc, an vui đến tất cả mọi người. Một gia đình có áp dụng “Lục hòa kính”, gia đình đó trở thành “tăng đoàn”. Chữ “tăng đoàn” không riêng chỉ cho người xuất gia mà bất cứ một đoàn thể nào có ít nhất bốn người trở lên, đều y theo “sáu phép hòa kính” mà tu hành, đoàn thể đó gọi là “tăng đoàn”. Chữ “tăng” là ý nghĩa của thanh tịnh, hòa hợp cùng sống chung. “Tăng đoàn” xuất hiện nhất định được chư Phật hộ niệm, long thần hộ pháp bảo hộ. Vì sao vậy? Vì quá hi hữu! Đáng được người tôn kính. Trong “tam qui y” có lời phát nguyện “Qui y Tăng, chúng trung tôn”, “chúng” là đoàn thể. Đoàn thể đáng được mọi người tôn kính, đó chính là “tăng đoàn”, là đoàn thể tu tập sáu phép hòa kính.

Lúc chưa học Phật, trước phải học làm người tốt, Tam phước, Lục Hòa đều là căn bản để làm người. Từ ngay trên nền tảng này mà nâng cao, đó là học Phật. – Học Phật phải bắt đầu từ đâu? Từ Tam học: Giới-Định-Tuệ.

, tạo tội ngũ nghịch, thập ác, lý đáng phải đọa A-Tỳ địa ngục, còn được cứu, chỉ cần chân thật sám hối, thật sự hồi đầu phát nguyện vãng sanh. Sự việc này khiến chúng ta sâu sắc cảm nhận: Đối với những người ác tạo tội nghiệp ở thế gian, chúng ta nhất định cũng không dám khinh thường họ. Vì sao? Biết đâu đến lúc lâm chung, họ chân thật sám hối, niệm Phật được vãng sinh, phẩm vị của họ không chừng còn cao hơn chúng ta. Cho nên, vãng sinh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới gồm hai loại người: Một loại bình thường niệm Phật, đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một loại khi lâm chung sám hối vãng sinh.

Pháp sám hối trong nhà Phật còn dạy chúng ta: Khởi đại bi tâm, oán thân bình đẳng. Nên biết, người khác phỉ báng, nhục mạ, hãm hại ta là do quả báo của đời này hoặc đời trước của ta. Ngày nay, gặp lại họ tương báo lẫn nhau thì nên vui lòng tiếp nhận. Oán thù nên mở không nên trói! Khi tâm oán hận, báo thù không còn nữa, nợ này đến đây đã kết thúc, đây mới là phương cách thông minh, trí tuệ. Được vậy, trên đạo Bồ Đề mới thuận buồm xuôi gió, không còn có chướng ngại. Huống hồ trên kinh Phật nói: “Ư nhất thiết xứ nhi bất trụ tướng”. Kinh Bát Nhã cũng nói: “Ly nhất thiết tướng tức nhất thiết pháp”, bao gồm tất cả hiện tượng, không nên để trong lòng; trước mọi hoàn cảnh chẳng nảy sinh yêu, ghét. Cảnh thuận hay nghịch đều giúp ta trải nghiệm tự thân, tu tâm thanh tịnh. Đây mới thật là người tu đạt đến “tâm an lý đắc”, đời sống chân thật mỹ mãn.

Hiện tại, người thế gian ô nhiễm tinh thần, ô nhiễm tư tưởng, ô nhiễm kiến giải vô cùng nghiêm trọng! Dùng phương pháp gì để phòng bị, để đối trị? Dùng tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng! Trong tâm bình đẳng, quan trọng nhất là oán thân bình đẳng. Oán thân bình đẳng thì mọi thứ khác đều có thể bình đẳng.

5. TÙY HỈ CÔNG ĐỨC

Chúng ta xem thấy nhiều đạo tràng có đặt thùng phước sương, bên trên ghi là thùng công đức, cho rằng tiền để vào đó là có công đức, vậy là sai rồi! Không hề có công đức!

Thuở xưa, vua Lương Võ Đế nổi tiếng là một Phật giáo đồ kiền thành, một đại hộ pháp của nhà Phật. Khi ông còn đương vị, đã kiến tạo bốn trăm tám mươi ngôi đạo tràng, nay gọi là tự viện, qui mô đều rất lớn, khích lệ người xuất gia, độ chúng hàng mấy trăm ngàn người. Lúc tổ sư Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ đến Trung Quốc, nghe danh Lương Võ Đế nhiệt tâm hộ pháp, liền đến bái kiến. Lương Võ Đế rất vui mừng tiếp kiến Tổ Sư, luôn tiện kể lại thành tích của mình cho Bồ Đề Đạt Ma.

Ông hỏi Tổ sư: – Vậy trẫm có được công đức chăng? Đạt Ma Tổ Sư nói: – Không có công đức gì? Vì sao? Việc làm của vua Lương Võ Đế chỉ có thể xem là phước đức, không phải công đức. Công đức phải do chính mình tu tập mới được. Nêu ra một thí dụ: “Trì giới” có “công” (cái “công” này là công phu); được “Định” tức là “đức”. Cho nên “công” là tu nhân, “đức” là chứng quả. Được “Định” mới gọi là công đức. Chưa được Định, việc “trì giới” chỉ là phước báo, chưa được công phu.

– Vì sao có người trì giới được Định, lại có người trì giới không được Định?

– Chính là đúng pháp hay không đúng pháp! Tu học đúng pháp có “công”. Tu học không đúng pháp không có “công”. Điểm này chúng ta phải tường tận.

Lục Tổ ngày xưa dạy người trì giới: “Nhược chân tu đạo nhân, bất kiến thế gian quá”, nếu là người chân chánh tu hành thì không thấy lỗi của thế gian. Không thấy lỗi của thế gian thì việc trì giới của bạn mới tốt, mới có công đức. Nếu trì giới còn thấy lỗi của người không trì giới, sinh tâm xem thường, kết quả trì giới của bạn chỉ được cái cống cao ngã mạn, làm sao được công đức! Có chăng chỉ là phước báo hữu lậu trong sáu đường.

Chỗ này, tôi không nói phước báo nhân thiên mà nói phước báo trong sáu đường. Vì sao? Vì nếu bạn không được thân người, mà được thân súc sinh hay ngạ quỷ, bạn cũng hưởng phước. Bạn thấy đó! Có súc sinh được người nuôi nấng, rất mực yêu thương, chăm sóc, xem chúng như bảo bối, chúng là chủ cả nhà rồi! Phước báo trong cõi ngạ quỷ cũng không nhỏ, trong nhân gian Trung Quốc, chúng ta xem thấy họ cúng bái quỷ thần như: Sơn thần, Thổ địa, Thần hoàng đều là cõi ngạ quỷ. Những quỷ thần này có tu phước nên dù trong cõi quỷ vẫn hưởng được phước.

Tùy hỉ công đức”, ý nghĩa rất sâu. Đức Phật biết được phiền não, tập khí của chúng sinh là do tích lũy từ vô lượng kiếp, thế nên phải biết sám trừ. “Tùy hỉ công đức” là để đối trị tâm ngạo mạn, tâm đố kỵ. Chỉ một niệm chuyển đổi, liền biến thành vô lượng công đức. Phật và chúng sinh khác nhau ở chỗ này. Người thế gian thông thường thấy người khác hơn mình thì sinh tâm đố kỵ, muốn tìm cách phá hoại, gây chướng ngại để họ không thành tựu. Đây là tạo tội nghiệp rất nặng.

Thánh nhân thế gian dạy ta phải “thành nhân chi mỹ”, thấy người khác làm việc thiện, phải tận tâm tận lực mà giúp họ. “Tùy hỉ công đức” là vui theo công đức của họ thì bạn cũng được phần công đức ngang bằng với họ. Ví như nhà họ có ngọn đèn sáng, bạn đến cùng mồi đèn với họ thì ánh sáng đèn của bạn cũng sáng như ngọn đèn của họ, đây là bạn thông minh. Nếu dập tắt ngọn đèn của người thì kết quả bạn cũng chìm trong bóng tối! Hiểu được đạo lý này, chúng ta cũng có thể chuyển công đức của A Di Đà Phật thành công đức của chính mình.

– Bằng cách nào vậy?

– Y theo Kinh Vô Lượng Thọ này mà tu học, hết lòng thọ trì, đọc tụng, vì người diễn nói, đồng tâm, đồng nguyện, đồng đức, đồng hạnh với A Di Đà Phật, vậy thì bạn đã thành công.

6. THỈNH CHUYỂN PHÁP LUÂN

Chúng ta biết rằng trong thế gian chỉ có Phật pháp là chân thật có thể giúp người giác ngộ, phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, liễu sinh tử, xuất tam giới, viên thành Phật đạo, hiện đời gia đình được mỹ mãn, an vui hạnh phúc, sự nghiệp thuận lợi thành công, xã hội hài hòa, quốc gia hưng thịnh, thế giới hòa bình. Đích thật Phật pháp là quảng đại vô biên, tất cả các pháp khác đều không thể sánh bằng.

Tuy nhiên, nếu Phật pháp không có người thuyết thì “tuy trí mạc năng giải”, người thế gian dù có thông minh, trí tuệ đến đâu, đối với Phật pháp họ cũng không cách chi hiểu được, nên phải có người thuyết. Người thuyết pháp không phải tự nhiên mà đến, nhất định phải có người phát tâm thỉnh cầu. Cho nên, thỉnh pháp sư, đại đức đến thuyết giảng kinh, diễn nói Phật pháp là kiết tường bậc nhất, khiến người nghe sinh tâm hoan hỉ, giác ngộ. Có giác ngộ thì tai nạn, nghiệp chướng mới chân thật tiêu trừ. Chuyển đổi sai lầm của mọi người là công đức vô biên, là đệ nhất phước báo.

Chữ “Pháp luân” ở đây có nghĩa là viên mãn. “Luân” là bánh xe, là tròn, là động mới kéo theo khoa học kỹ thuật hiện đại. Ngày nay, khoa học phát triễn chính do động lực của bánh xe khởi động. Ngoài ra còn một ý nghĩa sâu hơn: Tròn là động; tâm vòng tròn là tịnh không động. Phật pháp thường nói: “Động, tịnh không hai; thể tướng nhất như”.

7.   THỈNH PHẬT TRỤ THẾ

Việc này cũng vô cùng quan trọng! Hiện tại, Phật không còn ở thế gian, chúng ta chỉ có thể đắp nắn tượng Phật để cúng dường, tượng trưng cho Phật pháp vẫn thường trụ ở thế gian. Những Pháp sư, Đại đức thay Phật nói pháp, chúng ta phải nên mời họ đến đạo tràng để giảng kinh nói pháp trong thời gian dài. Được vậy, chúng ta mới có thể chân thật được phần lợi ích, vì có mấy ai chỉ nghe kinh một lần mà có thể khai ngộ, liền được chứng quả. Không hề có!

– Nếu không có phải làm sao?

– Phải ngày ngày nghe! Thực tế mà nói, chúng ta ngày nay phước báo không bằng người xưa. Ngày trước, trong Tòng lâm tự viện Trung Quốc, mỗi ngày đều có giảng kinh không hề gián đoạn. Đại Sư Thanh Lương năm xưa ở đời đã giảng Kinh Hoa Nghiêm đến năm mươi lần, việc này lịch sử có ghi chép. Người thân cận với Đại sư, nếu có lòng nhẫn nại, dưới hội của ngài, được nghe qua năm mươi lần, có lý nào mà không ngộ được.

– Chúng ta ngày nay nghe kinh khó khăn là do đâu?

– Một ngày nóng đến mười ngày lạnh!

Đạo tràng Cư Sĩ Lâm, mỗi ngày đều giảng kinh, không quá hai giờ đồng hồ. Trong hai mươi bốn giờ, chỉ có hai giờ nghe kinh, vẫn còn hai mươi hai giờ khởi tâm vọng tưởng, làm sao có được thành tựu! Pháp sư tòng lâm vào thời xưa, mỗi ngày giảng kinh tám tiếng đồng hồ. Một bộ Kinh Hoa Nghiêm, mỗi ngày giảng tám giờ, một năm mới giảng xong viên mãn. Chúng ta mỗi ngày chỉ giảng có hai giờ, phải mất bốn năm mới hoàn tất. Đại Sư Thanh Lương thật hơn người. Ngài sống đến trên một trăm tuổi. Người thời đó gọi ngài là Bồ Tát Hoa Nghiêm, thực tế là không thể nghĩ bàn!

Vào đầu năm Dân Quốc, đạo tràng Trung Quốc đại khái chỉ còn lại một đạo tràng niệm Phật của Đại Sư Ấn Quang ở chùa Linh Nham Sơn, Tô Châu. Đặc sắc của đạo tràng ngài không có giảng kinh, không có Pháp hội, không có kinh sám pháp sự, Phật thất suốt năm, chỉ một câu Phật hiệu niệm đến cùng. Một ngày, sáu cây hương; mỗi cây hương một tiếng rưởi đồng hồ; sáu cây hương là chín giờ đồng hồ. Mỗi ngày niệm Phật chín tiếng đồng hồ, ngày đêm không gián đoạn. Buổi tối là thay phiên, suốt năm làm “tinh tấn Phật thất”. “Tinh tấn Phật thất” của ngài là bảy lần bảy liên kết lại với nhau. Mười cái bảy liên kết lại, thêm hương, chín cây hương niệm Phật. Cho nên, phàm trong Niệm Phật Đường của Ấn Tổ, người niệm Phật ở nơi đó qua vài năm, không luận là tại gia hay xuất gia, cuối cùng họ vãng sinh đều có tướng lạ rất tốt.

Sau khi Ấn Tổ vãng sinh, Diệu Chân Đức Sâm, lão Pháp sư này kế thừa qui củ của Ấn Tổ được một thời gian. Sau năm kháng chiến, đạo tràng cũng suy vi. Hiện tại, chúng ta nếu muốn xây dựng một đạo tràng mới như vậy đều không thể đủ cơ duyên! Chỉ có đạo tràng như vậy mới có thể rèn luyện được chúng sinh, chân thật có thể thành tựu chúng sinh. Cho nên, xây dựng một đạo tràng công đức vô lượng vô biên. Phải xây dựng một đạo tràng chân thật tu học, có người ở đó thành Phật; vãng sinh chính là bất thoái thành Phật, công đức đạo tràng này sẽ rất lớn. Cho nên, thiện tri thức đối với việc tu học của chúng ta là vô cùng quan trọng.

– Làm thế nào lưu được thiện tri thức ở lại đạo tràng?

– Người chân thật học Phật, chân thật tu hành, không có tình riêng, không nói nhân tình. Cho dù nơi đây bạn tiếp đãi rất tốt, rất nồng hậu, cũng không cách chi giữ chân họ lại!

– Vậy phải dùng phương cách gì?

– Phải y giáo phụng hành! Mọi người đều chân thật muốn học, muốn tu, muốn ngay trong đời này thành Phật. Đây chính là “Đại tâm phàm phu” mà Kinh Hoa Nghiêm đã nói. Cho dù không tìm được thiện hữu; Phật, Bồ Tát cũng sẽ hóa thân đến đây chiếu cố mọi người. Vấn đề là chúng ta có chân thật phát tâm chưa? Chân thật mới có thể cảm động được thiện tri thức thường trụ ở khu vực này, chúng ta mới có cơ duyên học tập, huân tu thời gian dài, mới có thể được lợi ích chân thật.

Hiện tại, khoa học phát triễn, người chân thật hiểu được hộ pháp thì quá ít! Chân thật hiểu được hộ pháp đó là Bồ Tát, không phải người thông thường. Người chân thật có đại trí tuệ, đại phước báo không cần xây đạo tràng. Xây đạo tràng không khởi được tác dụng lớn mà nên xây đài truyền hình vệ tinh, giảng kinh hai mươi bốn giờ không ngừng nghỉ, để mọi người trên toàn thế giới đều có thể xem được mà không cần phải đến đạo tràng. Nếu chân thật muốn học Phật, ở nhà họ chỉ cần mở máy truyền hình, một ngày nghe kinh tám tiếng đồng hồ, đây thật sự là đem Phật pháp trực tiếp đến nhà người. Thật vô cùng quan trọng, vô cùng hữu dụng!

Bình thường tổ chức một đoàn hoằng pháp chừng mười mấy, hai mươi người cũng đủ rồi. Những pháp sư này, ngày ngày trong phòng thu âm giảng kinh, ghi hình lại. Xong mang đến đài truyền hình vệ tinh để phát sóng, đây là đại đạo tràng khoa học kỹ thuật cao. Phải xây dựng đạo tràng như vậy, không nên xây chùa, tốn kém nhiều tiền, tiền chôn trong đất thật đáng tiếc! Không có tác dụng lớn!

Ngày nay, phải sử dụng số tiền đó vào những việc hữu dụng hơn như: Bồi dưỡng giảng sư trong phòng thu âm giảng kinh, ghi hình; thiết bị trong phòng thu âm phải thật tốt; cúng dường những pháp sư này để họ chuyên tâm nghiên cứu Phật pháp Đại Thừa, không bận tâm lo lắng về đời sống vật chất. Mỗi bộ kinh giảng đều có ghi hình, thu âm lại, tương lai chính là một bộ “Đại tạng kinh sống”. Chân thật là lợi ích và ý nghĩa vô cùng! Bất cứ nơi đâu, chúng sinh thích nghe kinh gì, chúng ta liền cho phát ra bộ kinh luận đó.

Ngoài giảng kinh, nói pháp, chúng ta cũng giúp người niệm Phật. Hai mươi bốn giờ Phật hiệu không gián đoạn; tượng Phật trang nghiêm nhất hiển thị trên màn hình. Họ vừa xem thấy A Di Đà Phật, vừa nghe được Phật hiệu A Di Đà Phật, theo đó mà niệm.

Trong nhà cũng có thể tu Phật thất, có thể làm được mỗi ngày nghe kinh tám tiếng, niệm Phật tám tiếng. Phước báo này so với người xưa không hề khác biệt. Người xưa phải tận dụng công sức để xây dựng rất nhiều đạo tràng mới có thể phổ độ chúng sinh. Ngày nay, chỉ dùng một đài truyền hình vệ tinh cũng đủ rồi.

Nếu chân thật có tài lực, có loại trí tuệ này, phải nên chính mình là một chuyên nghiệp, hoàn toàn là truyền hình, truyền thanh vệ tinh của Phật giáo, phát sóng cho toàn thế giới.

Ngày nay, chúng ta chưa đủ sức, thiết nghĩ cũng nên đem cái nghĩ cấu tưởng này truyền đạt cho các đồng tu. Mọi người đều có ý niệm này, mỗi người thường nghĩ, thì sự việc này tất sẽ tiến đến thành công. Tâm tưởng sự thành! Nếu chỉ một người nghĩ thì sức mạnh sẽ rất yếu kém.

Thỉnh Phật trụ thế” thật vô cùng quan trọng! Thế giới hiện nay giao thông thuận tiện, các mặt đời sống của con người cũng mở rộng, mỗi khu vực đều cần có Phật pháp; chúng ta không thể nào cung ứng được rất nhiều giảng sư đến khắp nơi giảng kinh nói pháp, đây là việc vô cùng khó khăn! Nhưng nhờ vào khoa học kỹ thuật cao, số người ít vẫn có thể hoàn tất được công việc này.

Có cơ duyên nữa, có thể cần một số phiên dịch, đem Hoa ngữ phiên dịch thành các loại ngôn ngữ cần thiết trên toàn thế giới. Ngày nay, nhờ sự phát triễn khoa học, thuận tiện hơn rất nhiều so với ngày trước. Chúng ta thiếu kém chính là thiếu hộ pháp. Nếu không người phát tâm hộ trì thì sự việc này sẽ rất khó làm! Công trình phiên dịch tương đối gian nan! Phải đem sự việc này làm cho tốt; vẫn là phải giữ qui củ, phương thức dịch kinh của người xưa. Nhất định không thể chỉ có một hoặc hai người mà có thể độc lập dịch ra được một bộ kinh.

Ngày trước, Trung Quốc dịch kinh đều từ tập thể làm ra. Phàm hễ tham gia dịch kinh, đó là một Pháp hội, thỉnh giảng sư, đại đức đến giảng bộ kinh này. Người dịch kinh phải tham gia nghe giảng tường tận mới khởi bản thảo. Nếu có nghi hoặc, lập tức phải hỏi. Sau khi dịch xong cảo bảng, phải đọc cho mọi người nghe, xem đại chúng có ý kiến gì, có từ, ý gì hay hơn không để nhuận danh, để tu đính, luôn là làm cho bản dịch đạt đến tận thiện, tận mỹ, khiến mọi người sinh tâm hoan hỉ khi tiếp xúc với kinh sách này.

Chúng ta xem thấy trên đề kinh Phật, đều có tên người phiên dịch. Người này là chủ biên trong đạo tràng dịch kinh đó, không nhất định phải do ông ta dịch.

– Vì sao phải dùng tên tuổi ông ấy?

– Ông ta hoàn toàn gánh trách nhiệm bản dịch này, cũng chính là chứng minh bản dịch này không sai, có thể lưu thông.

Trong lịch sử có ghi chép: Dịch trường của ngài Cưu Ma La Thập hơn bốn trăm người, dịch trường của Đại Sư Huyền Trang rất lớn, hơn sáu trăm người.

Tóm lại, người phiên dịch phải hiểu được Phật pháp, phải có tu, có học. Nếu chỉ hoàn toàn dựa trên mặt chữ để dịch thì không khéo hóa thành “y văn diễn nghĩa, tam thế Phật oan”, ba đời chư Phật đều bị hàm oan! Cho nên, phải biết “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa” trong bài “Kệ khai Kinh” thật không phải dễ dàng! Không thể khinh suất được!

Sau khi bản thảo thành tựu, vẫn tiếp tục thảo luận, tu đính lại. Tốt nhất, khi in ra bản thảo, nên gửi tặng những đại đức có nghiên cứu, có tu, có học, mời họ xem, mời họ đính chánh. Sau đó mới hoàn thành một quyển hoàn thiện để lưu hành thì sẽ không gặp vấn đề.

Dịch kinh rất khó! Rất quan trọng! Nhất là Kinh Hoa Nghiêm. Trong mỗi câu, mỗi chữ của Hoa Nghiêm đều hàm nghĩa biểu pháp rất sâu, nếu không hiểu nó mà dịch thì toàn văn sẽ biến thành “hai chân cao!” (lưỡng túc tôn), vậy thì thành ra thứ gì chứ?! Điều này nói lên nhân tài dịch kinh, chúng ta phải bồi dưỡng. Họ phải có tu, có học, có thể thông đạt hai loại ngôn ngữ, mới có thể đảm nhiệm công tác này. Nếu đối với kinh luận không thông đạt, cho dù cơ bản văn học họ có tốt đến đâu cũng không thể đảm trách được công việc này. Như kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật pháp không người nói, tuy có trí cũng không thể hiểu”. Người thế gian dù thông minh trí tuệ đến đâu, họ cũng không cách chi hiểu được Phật pháp, bởi kinh điển của Phật luôn luôn là ý ở ngoài lời; mỗi chữ, mỗi câu đều bao hàm rất nhiều ý nghĩa trong đó.

Trong mười nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, thật sự mà nói, chỉ có bảy nguyện: Từ nguyện thứ nhất “Lễ kính chư Phật” đến nguyện thứ bảy “Thỉnh Phật trụ thế” là bảy nguyện. Trong mỗi nguyện đều gồm cả sáu nguyện kia, dung nhiếp lẫn nhau. Ba nguyện sau cùng thuộc về “Hồi hướng”, cũng chính là:

– Hồi hướng Bồ Đề (thường tùy Phật học).

– Hồi hướng chúng sinh (hằng thuận chúng sinh).

– Hồi hướng Pháp giới (phổ giai hồi hướng).

8. THƯỜNG TÙY PHẬT HỌC

Thường tùy Phật học là hồi hướng Chánh Giác, hồi hướng Bồ Đề, Phật pháp hóa đời sống bằng những công tác phúc lợi xã hội. Cương lĩnh này rất trọng yếu! Phật là đối tượng, tấm gương sáng chói tiêu chuẩn nhất cho người học Phật, chúng ta phải theo Phật tu học, đây tức là “Thường tùy Phật học”. Mỗi ngày mở Kinh Vô Lượng Thọ ra đọc là mỗi ngày chúng ta tiếp nhận giáo dục, lời răn của Phật A Di Đà. Dùng tâm chân thành, tâm cung kính để đọc tụng thì mỗi ngày đều có thể khai ngộ, cũng chính là mỗi ngày ánh quang minh của Phật khai sáng trí tuệ cho ta, gia trì ta ngày ngày được Pháp hỉ sung mãn. Đây tức là có thọ dụng. Cứ thế mà nỗ lực, trường kỳ tinh tấn, bất thoái chuyển; sự tu học của chúng ta mỗi ngày một tiến bộ, chỗ giác ngộ mỗi ngày một nâng cao, có như vậy mới thật sự là đệ tử của Phật. Gìn giữ tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm giác ngộ là chúng ta tu theo hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền, thật sự đã làm được “thường tùy Phật học”, quả thật là không có luống qua.

9. HẰNG THUẬN CHÚNG SINH

Chúng ta phải học Bồ Tát Phổ Hiền, phải học Thiện Tài đồng tử năm mươi ba tham vấn. Chúng sinh tập khí không tương đồng, căn tánh thiện ác không giống nhau; không riêng ở thế gian này mà phạm vi mở rộng còn có lục đạo chúng sinh, thập pháp giới chúng sinh, cho đến tha phương thế giới chúng sinh vô lượng vô biên. Chúng ta trong tất cả mọi hoàn cảnh nhân sự, hoàn cảnh vật chất phải “hằng thuận chúng sinh”, phải tu tâm thanh tịnh, tu tâm bình đẳng; những gì thấy chướng mắt, từ từ luyện tập sẽ thấy thuận mắt, đây gọi là tu hành.

10. PHỔ GIAI HỒI HƯỚNG

Phổ giai hồi hướng là hồi hướng pháp giới, hồi hướng tự tánh, hồi hướng chân như, hồi hướng trang nghiêm Phật Tịnh Độ. Bồ Tát Phổ Hiền, trong danh hiệu này hiển thị: Chữ “Phổ”, ý nói Phổ Hiền Bồ Tát là “tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”; “thường tùy Phật học” và “hằng thuận chúng sinh” là nghĩa của chữ “Hiền”. Cho nên, trong ba câu hồi hướng đã bao hàm danh hiệu của Bồ Tát Phổ Hiền.

Bồ Tát Phổ Hiền trong Kinh Hoa Nghiêm đã phát nguyện cầu sinh Cực Lạc thế giới. Sau khi đến Tây Phương Cực Lạc, ngài nói: “Ngã ký vãng sinh bỉ quốc dĩ”, tôi đã vãng sinh đến cõi của Phật A Di Đà; “Hiện tiền thành tựu thử đại nguyện”, câu này rất quan trọng!

– Vì sao Bồ Tát Phổ Hiền phát nguyện cầu sinh Tịnh Độ?

– Vì đến Tây Phương Cực Lạc thấy được A Di Đà Phật thì mười đại nguyện của ngài mới viên mãn. Cho thấy, Tây Phương Cực Lạc thế giới thù thắng không chi sánh bằng, ngay đến Phổ Hiền, Văn Thù vẫn phải cầu sinh. Bồ Tát Phổ Hiền còn nói: “Phổ nguyện trầm nịch chư chúng sinh, tốc vãng Vô Lượng Quang Phật sát”. Nguyện vọng của Phổ Hiền hy vọng tất cả chúng sinh đang trầm luân trong luân hồi lục đạo, mau mau niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ. Đây cũng là phát nguyện “Phổ giai hồi hướng”.