TÂY-PHƯƠNG NHỰT-KHÓA

Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
soạn thuật

 

CHƯƠNG III
TIẾT VIII
GIẢI-THÍCH VỀ PHÁP THỨC NIỆM-PHẬT

A. GIẢI-THÍCH CÂU:

Nam-mô,
Tây-phương Cực-Lạc Thế-Giới,
Ðại-Từ, Ðại-Bi,
Tiếp-dẫn Ðạo-Sự,
A-DI-ÐÀ PHẬT

Ðến đây là phần chánh-yếu, niệm PHẬT để cầu THỰC-CHỨNG.

Từ đầu khóa-lễ (trong quyển TÂY-PHƯƠNG NHẬT-KHÓA)nầy – Tức là bắt đầu từ nơi phần: – LỄ BÁI SÁM-HỐI:

Sắc thân PHẬT Mầu đẹp,
Trong đời không ai bằng …

…………………..

Cho đến cuối câu:

Cửu-phẩm hàm-linh đăng bỉ-ngạn.

(Chín phẩm hàm-linh sanh giải-thoát).

Chúng ta đã chí-thành đối trước (tôn-tượng của)PHẬT, BỒ-TÁT trong PHÁP-HỘI ÐẠO-TRÀNG, lần-lượt hành-trì các pháp-nghi như:

– Lễ bái, sám-hối,

– Tán Phật, niệm chú,

vv…..

được bao nhiêu là các CÔNG-ÐỨC, PHƯỚC LÀNH rồi, … giờ đây đến giai-đoạn NIỆM PHẬT là phần CHÁNH-YẾU nhất để cầu sự ẤN-CHỨNG thực-thể của đức A-DI-ÐÀ PHẬT trong pháp-môn tu Tịnh-Ðộ nầy.

Dưới đây là phần giải-thích sơ-lược về ý-nghĩa của câu niệm:

Nam-mô Tây-Phương Cực-lạc Thế-giới Ðại-Từ, Ðại-Bi, Tiếp-dẫn Ðạo-sư, A-DI-ÐÀ PHẬT.

a. NAM-MÔ:có nghĩa là chí-thành cung-kính.

b. TÂY-PHƯƠNG CỰC-LẠC THẾ-GIỚI:

Là chỉ rõ nơi mà TA hằng luôn cầu mong và tha-thiết muốn được sanh về.

c. ÐẠI-TỪ, ÐẠI-BI:là lời xưng tặng cùng với tâm ngưỡng-vọng của TA ở nơi đức ÐẠI TỪ, ÐẠI BI, ÐẠI HỶ, ÐẠI XẢ của PHẬT dành riêng cho mình và cho tất-cả chúng-sanh trong 9 giới.

d. TIẾP-DẪN ÐẠO-SƯ:là tâm ngưỡng-vọng ở nơi đức “Ðại Ðạo-Sư” đã vì chúng-sanh chúng-ta mà phát khởi ra 48 lời ÐẠI-NGUYỆN và duỗi tay tiếp-dẫn dắt-dìu. Ðó là đứcTÂY-PHƯƠNG GIÁO-CHỦ:

A-DI-ÐÀ PHẬT.

– Vậy thì ở đây TA là người NĂNG-NIỆM,

– A-DI-ÐÀ PHẬT kia là nơi SỞ NIỆM.

Nghĩa là:

– Khi mới bắt đầu niệm PHẬT, thì TA vì còn là một “Bạt địa phàm-phu chúng-sanh” nặng-nề nghiệp-chướng, còn có cái HỮU, do-đó cho nên khi niệm PHẬT còn thấy có:

– ÐÂY (TA)là nơi NĂNG NIỆM.

– KIA (PHẬT)là nơi SỞ NIỆM.

Nhưng cũng đừng có lo-ngại gì về sự việc còn có ÐÂY, KIA làm chi. Chỉ cần chuyên-tâm trì-niệm cho “Niệm-Niệm nối nhau”không dứt, hành-trì như thế lâu ngày thì câu niệm PHẬT ấy sẽ kết lại thành “MỘT KHỐI NHỨT-TÂM”, chừng đó thì ÐÂY – KIA thảy đều dứt sạch hết, lo gì mà không bước được lên bờ giải-thoát ư !

Cho nên trong phần đầu của các khóa-lễ nơi chốn thiền-môn, ở bài văn QUÁN-TƯỞNG có câu kệ rằng:

– NĂNG LỄ, SỞ LỄ tánh không tịch.

là như vậy. Nghĩa là cái “Tánh-thể” của NĂNG là như vậy. Nghĩa là cái “Tánh-thể”của NĂNG (Ðây), và SỞ(Kia)nguyên gốc vốn là không – Vì tất-cả các PHÁP đều là KHÔNG, VÔ-TƯỚNG, VÔ-NGUYỆN cả (xem lại chú-giải ở trước), cho nên gọi là “KHÔNG-TỊCH”.

Bây giờ đây là phần NIỆM PHẬT chánh-yếutrong pháp tu TỊNH-ÐỘ.

Hành-giả phải:

– Ngồi thẳng lưng, ngay-ngắn trước bàn PHẬT, mắt chăm nhìn vào hình (hoặc tượng)PHẬT.

– Tay mặt cầm tràng chuỗi (chuỗi trường 108 hột).

– Miệng xưng danh một câu niệm “Nam-mô A-DI-ÐÀ PHẬT”.

– Lấy ngón tay cái lần một hột chuỗi – (Hoặc là niệm 10 câu thì lần một hột chuỗi, miệng cứ NIỆM PHẬT liên-tục và tay cứ LẦN CHUỖI mãi như thế, đến khi nào hết xâu-chuỗi 108 hột rồi thì):

– Hoặc là tiếp-tục niệm thêm chuỗi thứ hai, thứ ba vv…

– Hoặc là đổi qua phần niệm thánh-hiệu của chư Bồ-tát – QUÁN THẾ-ÂM, ÐẠI THẾ-CHÍ vv…

B. CÁC LỜI DẠY VỀ NIỆM-PHẬT CỦA CHƯ-VỊ TỔ-SƯ.

Ðể cho quý “Liên-hữu” phát (thêm hơn nữa)tâm chí-thành, trân-trọng và hiểu rõ về sự lợi-ích của câu niệm:

Nam-mô A-DI-ÐÀ PHẬT.

Nơi đây người giải-thích xin trích lược lại một ít lời dạy về các phương-cách hành-trì câu niệm PHẬT.

Như sau:

1. NIỆM-NIỆM tương-tục(không gián-đoạn)là như thế nầy:

– Thí-dụ như có người ở nơi đồng vắng bị giặc-cướp cầm gươm rượt theo muốn giết (dụ cho sanh-tử, vô-thường, không tha mạng sống).

Người đó sợ-hải quá, cắm đầu chạy riết, đến chỗ gặp một con sông chắn ngang qua (con sông sanh-tử. Bờ bên nầy là sanh-tử ngạn, bờ bên kia là giải-thoát ngạn).

Người ấy vừa chạy trốn vừa thoáng nghĩ trong đầu rằng:

– Nếu ta lội qua khỏi được con sông nầy, đến BỜ BÊN KIA thì mới mong bảo-toàn thân mạng. Nhưng để y-phục mà lội hay là cởi bỏ ?

Nếu để y-phục mà lội sợ e vướng mắc, lúng-túng tay chân khó bơi. Còn cởi bỏ thì không kịp nữa rồi, vì giặc cướp đã rượt tới sau lưng (đây là dụ cho cái chết đã gần kề không còn xa nữa).

Bấy giờ người ấy chỉ còn có một NIỆM DUY-NHẤT là làm sao cho qua sông được thì thôi chớ không còn có ý-nghĩa chi khác …

Thì người NIỆM PHẬT chúng ta đây cũng y như vậy, nghĩa là:

– Chỉ chuyên tâm tha-thiết niệm,

– Ðừng nghĩ-ngợi điều chi khác cả (tức là dứt hết mọi tạp-tưởng).

– Câu NIỆM PHẬT nầy vừa DỨT thì câu NIỆM PHẬT khác TIẾP-NỐI theo liền (đừng có để phí thời-giờ).

– NIỆM NIỆM nối nhau liên-tục như vậy cho đến MƯỜI NIỆM.

Ðây gọi là “THẬP NIỆM tương-tục” (Tức là 10 niệm nối nhau không dứt).

(ÐÀM-LOAN PHÁP-SƯ dạy).

2. Ðức PHẬT(Thích-Ca và A-DI-ÐÀ)xót thương, khuyên TA nên chuyên xưng danh-hiệu A-DI-ÐÀ Phật.

Bởi vì phép niệm “Xưng danh hiệu A-DI-ÐÀ PHẬT” nầy rất dễ, nếu có thể giữ mãi mỗi niệm nối nhau như thế, lấy suốt cả đời mình để làm hạn-định, thì:

– Mười người tu, mười người vãng-sanh.

– Trăm (ngàn)người tu, trăm (ngàn)người vãng sanh.

………………………….

Tại sao vậy ?

Bởi vì:

– Không có duyên tạp (Không có suy-nghĩ điều chi khác hết)nên được CHÁNH NIỆM.

– Hạp với bản-nguyện của Phật A-DI-ÐÀ (Ðại nguyện thứ 18, 19, 20).

Vì không trái với lời kinh (kinh vô-lượng Thọ, kinh Thập lục Quán, kinh Phật thuyết A-DI-ÐÀ vv…).

– Vì thuận theo lời PHẬT dạy, cho nên dễ vãng-sanh.

(Liên-Tông nhị Tổ – Thiên Ðạo Ðại-Sư dạy).

3. Chí-tâm niệm PHẬT nghĩa là: – Ý nghiệp làm lành.

– Xưng danh hiệu PHẬT nghĩa là: – KHẨU nghiệp làm lành.

– Chấp tay, cúi mình lạy PHẬT nghĩa là: – THÂN nghiệp làm lành.

Nếu giữ ba nghiệp THÂN, KHẨU, Ý làm lành như vậy trọn đời, thì một câu niệm PHẬT có thể diệt được tội nặng trong 80 ức kiếp sanh-tử.

(HOÀI-CẢM ÐẠI-SƯ dạy).

4. Lúc lễ bái, niệm PHẬT và phát-nguyện phải:

– Khẩn-thiết, chí-thành.

– Không xen-lẫn tạp-tưởng.

– Như người sắp-sửa bị giết mà cầu được tha.

– Như người bị giặc-cướp rượt đuổi .. mà muốn được thoát.

– Như bị nước trôi, lửa cháy, một lòng mong được cứu-nạn.

Niệm Phật phải khẩn-cấp và chí-thành như thế thì mới thành-tựu được công-phu.

Tóm lại nếu:

– Nói một đường, làm một nẻo (Tức là miệng thì nói niệm PHẬT mà lòng không chịu niệm).

– Lời nói và hành động chẳng giống nhau.

– Lòng TIN (nơi Tịnh-Ðộ pháp-môn)không vững-chắc.

– Nay thì niệm, mai mốt lại bỏ bê, biếng trễ vv…

Niệm như thế ắt khó được vãng-sanh.

(Liên Tông Lục-Tỗ Vĩnh-Minh đại-sư dạy).

5. Người tu pháp NIỆM PHẬT,dù cho đang khi làm công-việc nặng nhọc chi, song TRONG TÂM LÚC NÀO CŨNG KHÔNG QUÊN CÂU NIỆM PHẬT … Giả-sử như lỡ có quên thì phải cảnh-tỉnh ngay lập-tức và nhiếp-tâm niệm trở lại … Tập như thế lâu ngày thành quen … Ðến khi gần lâm-chung thì dù cho thân có bị bịnh-khổ dày-vò, đau-đớn, nhưng tâm vẫn KHÔNG QUÊN câu niệm PHẬT …

… Khi vừa tắt-thở thì thần-thức liền nương theo câu niệm PHẬT ấy mà đi, quyết-định sẽ được vãng-sanh về nơi CỰC-LẠC ….

(Tuân-Thức đại-sư dạy).

6.a. Người tu Tịnh-độ muốn được vãng-sanhthì việc CHÁNH-YẾU là phải CHUYÊN-TÂM NIỆM PHẬT … còn phần phụ thì phải dứt trừ điều ác, làm những hạnh lành …

Ðem các công-đức ấy mà hồi-hướng và nguyện sanh về chốn Tây-Phương, ắt sẽ được mau thành-tựu, như thuyền đi xuôi gió, lại còn thêm được thuận giòng (nước) vậy.

6..b. Sớm tối chuyên-tâm lễ PHẬTnhư người (làm quan) đi chầu vua không dám sơ-sót. Còn như người niệm PHẬT thì phải:

– Miệng niệm PHẬT, tâm phải tưởng PHẬT.

– Tâm và miệng đều hợp nhau,

– Phát lòng chí-thành, trân-trọng.

– Tin chắc (nơi lời Phật dạy về pháp-môn Tịnh-độ)đừng có nghi-ngờ.

– Mỗi ngày đều phải siêng-năng chớ đừng nên biếng-trễ.

Thì chắc-chắn là sẽ thành-tựu được môn NIỆM PHẬT Tam-muội. Chừng đó lo gì không được vãng-sanh.

(Từ – Chiếu đại-sư dạy).

7. a. Người niệm PHẬT phải nên:

– Giữ một câu Nam-mô A-DI-ÐÀ PHẬT như dựa vào núi Tu-di, lay-chuyển chẳng động (Tức là dù cho có ai bài-bác, phá-hoại thế mấy đi nữa quyết cũng chẳng nghe).Thường nhớ, thường niệm. Sáng cũng niệm, tối cũng niệm, đi cũng niệm, ngồi cũng niệm…

Tâm niệm PHẬT chẳng bỏ qua, câu niệm PHẬT chẳng rời lòng.

Mỗi giờ, mỗi khác, cũng nhớ niệm, niệm hoài không bỏ lỡ, giống như gà ấp trứng phải thường cho hơi ấm tiếp-tục thì trứng mới nở con. Còn niệm Phật hoài mà không bỏ qua thời giờ – gọi là “Tịnh-niệm tương-tục” ắt bông sen của mình sẽ mau nỡ vậy.

7. b. Chuyên lòng xưng danh-hiệu PHẬT, nhứt-tâm, nhứt-ý nắm giữ một câu A-DI-ÐÀ PHẬT.

Bởi vì:

– Chỉ một NIỆM nầy tức là PHẬT A-DI-ÐÀ.

– Chỉ một NIỆM nầy là viên mãnh-tướng (tướng mạnh)phá địa-ngục.

– Chỉ một NIỆM nầy là thanh-gươm báu chém bầy ma, tà.

– Chỉ một NIỆM nầy là ngọn đuốc sáng phá cảnh tối-tăm (Vô-minh).

– Chỉ một NIỆM nầy là con thuyền to vượt qua biển khổ.

– Chỉ một NIỆM nầy là thuốc hay trị dứt bệnh sanh-tử.

– Chỉ một NIỆM nầy là đường tắt mau ra khỏi tam-giới.

– Chỉ một NIỆM nầy là tự-tánh DI-ÐÀ.

– Chỉ một NIỆM nầy là duy-tâm Tịnh-độ.

Giữ chắc một câu NIỆM: – Nam-mô A-DI-ÐÀ PHẬT nầy đừng cho quên mất…

– Có việc cũng niệm như vậy.

– Không việc cũng niệm như vậy.

– Có bệnh cũng niệm như vậy.

– Không bệnh cũng niệm như vậy.

– An-vui cũng niệm như vậy.

– Buồn khổ cũng niệm như vậy.

– Sống cũng niệm như vậy.

– Chết cũng niệm như vậy.

cứ NIỆM NHƯ VẬY mãi thì cần chi phải hỏi ở nơi người khác để tìm ra đúng đường về ư ?

(Ưu-Ðam đại-sư dạy).

8. Kinh “Ðại-Tập Nguyệt-Tạng” dạy:

Niệm Phật lớn tiếng có 10 công-đức là:

  1. Ðánh tan cái tâm hôn-trầm, mê ngủ.
  2. Thiên-ma kinh sợ.
  3. Tiếng vang xa khắp 10 phương.
  4. Ba đường ác được nhờ vào đó mà dứt khổ.
  5. Tiếng động chung-quanh không xâm-nhập vào làm loạn thâm mình được.
  6. Niệm tâm không tán-loạn.
  7. Mạnh-mẽ tinh-tấn.
  8. Chư PHẬT vui-mừng.
  9. Tam-muội hiện-tiền.
  10. Ðược vãng-sanh Cực-lạc.

9. Nên biết pháp-môn TỊNH-ÐỘ nầy chẳng cần lựa chọn kẻ trí, ngu, sang, hèn, nghèo, giàu.

– Cũng chẳng cần phân-biệt kẻ nam, nữ, già, trẻ, tăng, tục.

– Chẳng luận kẻ mới tu hay tu lâu.

Tất-cả đều có thể niệm PHẬT được.

Hoặc niệm lớn, hoặc niệm nhỏ, niệm ra tiếng, niệm thầm, vừa lạy vừa niệm, nghiên-cứu mà niệm, nhiếp-tâm mà niệm, quán-tưởng mà niệm, lần chuỗi mà niệm, vv…

Giữ câu NAM-MÔ A-DI-ÐÀ PHẬT liên-tục không dứt như dòng nước chảy mà niệm, cho đến đi cũng niệm, đứng cũng niệm, ngồi cũng niệm, nằm cũng niệm, ngàn muôn niệm (đời lộn-xộn)đều gom về nơi một câu NAM-MÔ A-DI-ÐÀ PHẬT như thế …

Niệm theo cách nào cũng được, điều cốt yếu là giữ cho lâu-bền đừng lui sụt (đây tức là HẠNH đó),phát lòng TIN quyết-định đừng cho bị lay-chuyển (đây tức là TÍN đó).

Nếu quả thật hành-trì câu niệm PHẬT được đúng như thế, thì cần chi tìm bậc tri-thức để hỏi đường (nào về Cực-lạc)ư !

(Tông-Bổn đại-sư dạy).

10. a.  Niệm-Phật có:

– Niệm thầm (tiếng nhỏ).

– Niệm ra tiếng (lớn).

– Niệm không ra tiếng (mặc niệm).

– Niệm Kim cang trì (se-sẽ động môi, lưỡi mà niệm).

Niệm thầm thì dễ bị hôn-trầm.

Niệm lớn tiếng thì bị mau mệt. (hao hơi)

Duy chỉ có cách niệm “KIM CANG TRÌ” là có thể bền lâu.

Tuy-nhiên cũng không nhứt-định, nếu như thấy cần-thiết thì có thể thay qua, đổi lại cũng không sao.

10. b. Tâm hôn-trầm, tán-loạn đã có lâu kiếp nhiều đời rồi,ắt nhiên không thể nào trong một lúc mà an-định được. Cho nên người niệm PHẬT nếu thấy tâm không được thanh-tịnh cũng đừng có lo-ngại chi. Chỉ cần khi niệm PHẬT, mỗi chữ, mỗi câu, đều do từ nơi TÂM mà phát ra, dụng công-phu như vậy lâu ngày, sẽ có hiệu quả.

10. c. Tạp-niệm là bịnh, niệm PHẬT là thuốc.

Niệm PHẬT chính là hành môn để trị tạp-niệm đó.

Nếu niệm PHẬT mà không thấy hiệu-quả, đó là tại mình dụng công chưa được chơn-thành và tha-thiết.

Cho nên mỗi khi tạp-niệm nổi lên, phải chuyên-tâm, cố-gắng trì-niệm, mỗi chữ, mỗi câu phải rành-rẽ, rõ-ràng. Thì tạp-niệm tự-nhiên được dứt trừ.

10. d. Người học PHẬT, niệm PHẬT đừng quá nên chạy theo hình-thức bên ngoài,chỉ quý là ở nơi CHÂN-THẬT TU-HÀNH.

– Hàng cư-sĩ Phật-tử tại-gia không cần phải cạo tóc, mặc áo đà làm chi. Tự có thể để tóc, mặc áo trang (lam)mà niệm Phật cũng được.

– Người thích thanh-vắng, không cần phải đánh-chông mõ. Tự có thể yên-lặng mà niệm PHẬT cũng được.

– Người sợ công-việc phiền-phức, không cần phải kết bè, lập hội làm chi. Tự mình có thể đóng cửa mà niệm PHẬT.

– Người biết chữ, nếu có thật tâm quyết-tu, không nhứt-định và bắt-buộc phải vào chùa nghe kinh. Tự có thể xem kinh, y theo lời dạy trong ấy mà niệm PHẬT.

– Trãi qua ngàn dặm xa-xôi hành-hương không bằng hiếu-thuận với cha-mẹ mà niệm PHẬT.

– Giao-du với bạn-bè kém đạo-đức, không bằng kẻ dốt-nát mà chuyên-tâm niệm PHẬT.

– Hạnh thấp mà vọng nói đạo-lý cao-siêu, không bằng kẻ thiệt-thà, chất-phát mà niệm PHẬT.

– Tánh ưa-thích sự háo-kỳ, ham cầu sự lịnh-thiêng của thần-thánh, ma-quỷ, không bằng chánh-tâm tin nơi lý nhơn-quả mà niệm PHẬT.

Tóm lại:

a. Người niệm PHẬT:

– Giữ lòng ngay.

– Dứt hạnh-ác.

Ðây gọi là THIỆN-NHƠN.

b. Người niệm PHẬT.

– Nhiếp tâm trừ tán-loạn.

Ðây gọi là HIỀN-NHƠN.

c. Người niệm PHẬT.

– Tỏ-rõ tâm-tánh.

– Dứt được hoặc-nghiệp.

Ðây gọi là THÁNH-NHƠN.

(Liên-Tông Bát-tổ – LIÊN-TRÌ đại-sư dạy).

11. a. Pháp-môn niệm PHẬT không có chi là kỳ-lạ cả.

Chỉ cần: TIN SÂU, NGUYỆN THIẾT và CỐ-GẮNG THẬT-HÀNH mà thôi.

Ðiều cần yếu là phải:

– TIN cho thấu đáo.

– GIỮ cho bền lâu.

– MỘT LÒNG chuyên-niệm.

Mỗi một ngày đêm niệm hoặc là 30 ngàn câu, 50 ngàn câu, 100 ngàn câu niệm PHẬT, nhứt-định không để cho thiếu.

Nếu giữ được như thế trọn đời mà không được vãng-sanh thì chư Phật ba đời thành ra vọng-ngữ.

(Nhứt-định là không có lẽ đó).

11. b. Người chơn-thật niệm PHẬT:

– Buông bỏ cả thân, tâm, ấy là ÐẠI BỐ-THÍ.

– Không khởi tâm Tham, Sân, Si, ấy là ÐẠI TRÌ-GIỚI.

– Không cải-cọ, phải quấy, hơn thua, ấy là ÐẠI NHẪN-NHỤC.’

– Không gián-đoạn, xen tạp, ấy là ÐẠI TINH-TẤN.

– Không để cho vọng-tưởng buông lung, ấy là ÐẠI THIỀN-ÐỊNH.

– Không bị các đường lối tu khác làm cho mê-hoặc, ấy là ÐẠI TRÍ-HUỆ.

………………………….

Trái lại, nếu chẳng như thế thì không được gọi là CHƠN-THẬT NIỆM PHẬT.

11. c. Niệm PHẬT có SỰ-TRÌ và LÝ TRÌ:

1. SỰ-TRÌ là TIN có Phật A-DI-ÐÀ ở phương Tây, có thế-giới Cực-lạc, có 9 phẩm sen vàng … quyết-chí niệm PHẬT, cầu được sanh về nên niệm PHẬT hoài, thiết-tha như con nhớ mẹ không lúc nào quên.

2. LÝ TRÌlà tin Phật A-DI-ÐÀ, cõi Tây-Phương, 9 phẩm sen vàng … trong tâm mình đều có đủ hết, do tâm mình tạo ra hết cả.

Rồi đem câu Nam-mô A-DI-ÐÀ PHẬT ấy, tạo thành ra cái CẢNH để buộc chặc Tâm mình vào đó, khiến cho không lúc nào quên.

(Liên-Tông Cửu-Tổ – NGẪU-ÍCH đại-sư dạy).

12. a. Một chữ NGUYỆN bao gồm cả TÍN và HẠNH.

TÍN là tin nơi TỰ, THA, NHÂN, QUẢ, SỰ và LÝ.

– TIN TỰ là tin tất-cả đều do tâm mình tạo, nên nếu mình niệm PHẬT ắt sẽ được PHẬT tiếp-dẫn.

– Tin THA là tin Phật THÍCH-CA không nói dối, Phật A-DI-ÐÀ chẳng bao giờ nguyện suông.

– Tin NHÂN là tin niệm PHẬT đó chính là gieo nhân vãng-sanh, giải-thoát.

– Tin QUẢ là tin sự vãng-sanh, thành Phật là kết-quả.

– Tin SỰ là tin cõi Tây-Phương và tất-cả sự-tướng nơi nước Cực-Lạc mà Phật thuyết ra trong kinh thảy đều có thật(cũng như cõi Ta-bà nầy có thật vậy).

– Tin LÝ là tin “lý-tánh duy tâm”, tức là TÂM của mình bao trùm hết tất-cả các thế-giới khắp 10 phương.

12. b. HẠNH là thực-hành,là chuyên-trì danh-hiệu (A-DI-ÐÀ PHẬT)không xen-tạp và không tán-loạn (suốt cả đời mình).

12. c. NGUYỆN là mỗi tâm của mình(khởi ra)đều có lòng ưa-thích (cõi Cực-Lạc),mỗi niệm của mình (khởi ra)đều có ý mong-cầu (được sanh về).

Trong 3 điều TÍN, HẠNH, NGUYỆN nầy, người tu Tịnh-độ cần phải hội đủ, quyết-định không thể thiếu được một điều nào cả.

NGUYỆN là điều cần-yếu nhất.

– Có thể có TÍN, HẠNH mà không có NGUYỆN.

Chớ chưa từng thấy có việc:

– Có NGUYỆN mà không có TÍN, HẠNH bao giờ cả. (Cho nên nói chữ NGUYỆN bao gồm cả TÍN và HẠNH chính là như vậy).

12. d. Niệm PHẬT mà không phát-tâm “BỒ-ÐỀ” thì không tương-ưng(không hợp)với bổn-nguyện của Phật A-DI-ÐÀ, sẽ không được vãng-sanh.

(Tâm Bồ-Ðề là tâm: Lợi mình, lợi người , trên cầu thành Phật quả, dưới nguyện độ chúng sanh).

Còn nếu như vẫn có phát-tâm Bồ-Ðề mà không chịu niệm PHẬT (thì)cũng không được vãng-sanh nữa.

Vì vậy nên phải:

– Lấy sự phát-tâm Bồ-đề làm CHÁNH nhơn.

– Niệm PHẬT làm TRỢ (duyên)nhơn.

– Sau đó rồi mới phát-nguyện cầu sanh Cực-lạc.

Người Phật-tử tu Tịnh-độ cần phải biết rõ các điều nầy.

(Liên Tông thập nhứt Tổ. TĨNH-AM đại-sư dạy).

13. Ðại-sư dạy:

a. Thiệt vì sanh-tử,

Phát lòng Bồ-đề.

Lấy TÍN, NGUYỆN sâu,

Trì danh niệm PHẬT.

– 16 chữ nầy là tông yếu (Quan-trọng bực nhất) của pháp-môn tịnh-độ…

(Bởi tất-cả sự khổ trong đời nầy không gì hơn việc sống, chết. Cho nên nếu tu-hành, niệm Phật, mà không cầu để thoát vòng sanh-tử là một điều sai lầm rất lớn).

… Nhưng đã phát ÐẠI-TÂM (Bồ-đề tâm)rồi thì phải tu ÐẠI-HẠNH. Mà trong các hành-môn tu, thì phương-pháp dễ dụng-công, mau thành-tựu, rất yên-ổn, rất viên-đốn (đầy-đủ) thì không có môn tu nào bằng.

DÙNG TÍN, NGUYỆN SÂU,

TRÌ DANH NIỆM PHẬT.

Nói TRÌ-DANH đây là chấp-giữ một câu A-DI-ÐÀ PHẬT trong lòng KHÔNG PHÚT NÀO QUÊN. Nếu quên hoặc là có một niệm nào khác xen vào thì không được gọ là CHẤP-GIỮ (chấp trì).

… Như thế mà hành-trì cho đến trọn đời, ắt sẽ được vào cảnh “Nhứt-tâm bất-loạn” mà thành-tựu được sự-nghiệp Tịnh-độ vậy.

b. Tâm tạo-nghiệp được,

Thì:

Tâm cũng chuyển nghiệp được.

Và:

– NGHIỆP đã do TÂM tạo,

Thì:

Cũng tùy theo TÂM mà chuyển được.

Nếu:

– TÂM mình không chuyển được NGHIỆP

Thì:

Bị NGHIỆP trói buộc.

Còn như:

– NGHIỆP mà không chuyển được theo TÂM,

Thì:

Có thể buộc TÂM.

NHƯNG:

– DÙNG TÂM THẾ NÀO mới chuyển được NGHIỆP ?

ẤY LÀ:

Giữ TÂM hợp với điều kiện ÐẠO-ÐỨC, hợp với PHẬT.

VÀ:

– NGHIỆP làm sao buộc được TÂM ?

ẤY LÀ:

Cứ để TÂM y theo “đường xưa lối cũ”, Buông lung theo cảnh lục-trần.

(Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp)vậy.

(Liên-Tông thập nhị Tổ, TRIỆT-NGỘ đại-sư dạy).

………………………..

TRÊN ÐÂY:

– Người giải-thích đã vì chư-vị PHẬT-TỬ và quý LIÊN-HỮU mà lược-thuật lại đôi lời dạy-bảo về phương-cách niệm-PHẬT của chư Tổ-sư, để làm “Kim chỉ nam” trên con đường tu Tịnh-độ.

Những mong sao cho quý chư hiền học PHẬT, niệm PHẬT, nguyện-cầu được sanh về cõi CỰC-LẠC xem xong rồi nên phát lòng trân-trọng, ít nhiều chi cũng nên y theo đó mà cố-gắng thực-hành….

Và như thế,

Mới mong thành-tựu bước đường “Tây quy” mà lòng ta vẫn hằng luôn ước-ao, mong-mỏi.

Lành vậy thay !

C. GIẢI-THÍCH câu niệm:

Nam mô,
QUÁN THẾ-ÂM BỒ-TÁT.

Nơi các phần giải-thích trước đã có lược qua về đức QUÁN THẾ-ÂM Bồ-tát rồi, đây chỉ xin bổ-túc thêm vào ba ý-nghĩa nữa mà thôi.

1. Sao gọi là QUÁN ?

– QUÁN là cái TRÍ NĂNG-QUÁN (Ðây ý nói là Bồ-tát vì tâm Ðại Từ-bi nên năng ưa quán-sát chúng-sanh bị khổ-sở nơi 6 nẻo luân-hồi để mà tầm phương-chước cứu nạn).Vì thế nên chữ QUÁN đây có nghĩ là NHÌN, NGÓ, XEM XÉT đến.

Còn như nếu nói theo “LÝ” thì ở nơi một bậc đại Bồ-tát như đức QUÁN THẾ-ÂM đây đâu còn có NĂNG (Ðây), SỞ(kia)nữa. Với NGÀI thì NĂNG, SỞ đã viên-dung về MỘT rồi, là NHỨT rồi, là cùng tột tánh CHƠN-NHƯ rồi, xét thấu gốc-gác, ngọn-nguồn rồi, đã thành được (cổ)PHẬT rồi (1) …

Nên nói rằng:

– Cái QUÁN của NGÀI là cái QUÁN KHÔNG-TỊCH (Chứ không phải kiểu như cái QUÁN tầm bậy của mình).

2. THẾ ÂM:

a. Nói theo thông-nghĩa:

– Là cái cảnh được QUÁN, bị QUÁN (tức là SỞ QUÁN).

Mà ai là ÐƯỢC, là BỊ ngài QUÁN đây ?

– Chính là CHÚNG-TA đó vậy.

– Chính là 12 loài chúng-sanh đó vậy.

– Chính là vô-lượng tiếng kêu van, cầu-cứu khác giọng, khác loài, khác lời, khác khổ vv… của các chúng-sanh nơi 3 cõi, sáu đường ÐỒNG THỜI CẦU-CỨU … nên gọi là THẾ-ÂM.

– THẾ là Thế-gian.

– ÂM là âm-thinh.

Vậy THẾ-ÂM đây là ÂM-THANH (CẦU-CỨU)của THẾ-GIAN đó.

Ngài QUÁN THẾ-ÂM Bồ-tát QUÁN xét những ÂM-THANH cầu-cứu của THẾ-GIAN mà hiện đến để: – TẦM-THANH CỨU-KHỔ, CỨU-NẠN vậy.

Thật là một vị Bồ-tát:

– Quảng-đại linh-cảm vô-cùng.

b. NÓI THEO LÝ ÐỆ NHẤT NGHĨA ÐẾ

Kinh dạy:

– Quán CÓ mà chẳng trụ nơi CÓ.

– Quán KHÔNG mà chẳng trụ nơi KHÔNG.

– Nghe DANH ma chẳng loạn theo DANH.

– Quán TƯỚNG mà chẳng trụ nơi TƯỚNG.

(Ðây gọi là TỰ TẠI).

Như vậy thì:

– TÂM chẳng lay-động (được).

– CẢNH chẳng hay chuyển (được).

– TÂM và CẢNH đều KHÔNG.

(Ðây gọi là VÔ-NGẠI).

Ðấy gọi là chơn-thật QUÁN TỰ-TẠI BỒ-TÁT vậy.

NGÀI dùng cái TỰ-TẠI và VÔ-NGẠI ấy mà “tầm-thanh cứu-khổ, ứng-hiện cấp-kỳ”khắp cả 10 phương.

Thế nên từ xưa đến nay các sự linh-ứng, hiệu-nghiệm của NGÀI chẳng thể nào kể ra cho xiết được.

Người giải-thích xin (tạm)kể ra đây một chuyện hiện-đại nhất, ở gần nơi cố Hòa-Thượng ÐẠI-NINH, THÍCH THIỀN-TÂM cư-trụ …

Như sau:

– Nguyên sau ngày 30 tháng 4 năm Ất-Mão, khi thay đổi chánh-thể và chánh-quyền cai-trị rồi thì (đương-nhiên)là có nhiều việc bất bớ xảy ra… oan cũng có, mà ưng cũng có …

Chuyện xảy ra tại xá PHÚ-HỘI, HUYỆN ÐỨC-TRỌNG, TỈNH LÂM-ÐỒNG (ÐÀ-LẠT).

… Chiều tối hôm ấy, “Công-an nhân-dân” xã Phú-Hội đi-tuần, bắt được 11 người thanh-niên – đi làm ruộng về trễ – và gán cho họ vào tội “âm-mưu phản-động”, đem về nhốt vào trong nhà giam tạm của xã, đồng thời đánh điện lên trên công-an quận Lâm-Ðồng yêu cầu ngày mai đem xuống 11 bộ còng để còng tay 11 tên phản-động giải về quận “tiếp-tục điều tra”….

Ðêm ấy tại nhà giam tạm, 11 người nầy ai nấy cũng đều rầu-rĩ, than-thở, xem như bị “đời tàn” rồi. Trong số 11 người nầy thì có một thanh-niên Phật-tử vốn là người tại-gia cư-sĩ có quy-y Tam-bảo nên tin-tưởng và thờ-kính đức Quán Thế-Âm Bồ-tát rất mực chí-thành (Phật-tử của cố Hòa-Thượng).

Trong khi 10 người kia ai cũng đều bối-rối, than khóc, kẻ nhớ vợ, con, người nhớ cha-mẹ, người thì tính phá nhà tù để đào-tẩu vv… thì thanh-niên Phật-tử nầy nằm (tại chỗ)niệm hoài danh-hiệu:

– Nam-mô cứu-khổ, cứu-nạn, quảng-đại linh-cảm QUÁN THẾ-ÂM Bồ-Tát.

Y ta niệm suốt đêm như vậy, mười người kia ai nấy cũng đều cười, chế-nhạo và nói là đến giờ phút nầy mà còn mê-tín dị-đoan vv…

Dù vậy, nhưng Phật-tử nầy cũng vẫn không nản lòng và cứ niệm mãi như thế …

Xế chiều ngày hôm sau, xe công-an quận Ðức-Trọng đem theo “còng tay số 8” xuống để còng “phản-động” – Ðến khi kêu tên từng người ra ngoài cỏng để còng thì chỉ có 10 bộ còng mà thôi.

Công-an xã Phú-Hội nói:

– Chúng tôi đã đánh-điện lên nói là có 11 người và yêu-cầu mang theo 11 bộ còng, sao bây giờ chỉ có 10 bộ thôi, nghĩa là gì ?

Công-an quận Ðức-Trọng nói:

– Kiếm hết cả huyện thì chỉ còn có được 10 bộ còng nầy thôi. Bây giờ chở về trước 10 người cái đã. Vài bửa nữa sẽ mang còng xuống chở tên còn lại …

Người được may-mắn lọt sổ nầy chính là thanh-niên Phật-tử niệm Quán-Âm kể trên.

Buổi chiều hôm đó, ông “Chủ-tịch Ủy-Ban nhân-dân” xã Phú-Hội đi “công-tác” về đến, nghe nói có bắt được “phản động” liền truyền-lệnh dẫn lên phòng làm việc để cho y điều-tra và xem mặt.

Công-an xã liền dẫn tên phản-động còn lại lên cho “xếp” của mình tra-hỏi.

Nhưng không ngờ sau khi thấy mặt “tên phản-động” nầy xong rồi thì ông “Chủ-tịch” ôm bụng cười ngất một hồi … làm cho ai nấy cũng đều ngơ-ngác cả, không biết tại-sao ?

Cười một hồi xong rồi thì ông “Chủ-tịch” mới nói rằng:

– Trời mẹ ơi ! đây là thằng HÙNG con trai cưng của cố “đồng-chí” … là một gia-đình cách-mạng nằm vùng tại đây có công rất lớn … ông già của nó là “liệt-sĩ” công-lao … tao biết rõ thằng nầy mà, nó đâu phải là phản-động, phản tịnh cái con khỉ gì. Thôi, thả nó ra đi kẻo má nó lên chửi bố cho cả đống đấy …

… Sau đó thì thanh-niên nầy có xuống Phương-liên tịnh-xứ, đảnh-lễ cố Hòa-Thượng, kể chuyện nầy cho tôi nghe và nói rằng:

– Nếu không nhờ có Bồ-tát cứu-hộ, khiến cho công-an bị thiếu còng như vậy thì chắc là bây giờ đây tôi bị đi “mò tôm”(tức là bị treo đá ném xuống sông)rồi…

Và…

Ðây là sự linh-cảm và cứu-khổ, cứu nạn của Bồ-tát Quán Thế-Âm vậy.

Trong kinh PHỔ-MÔN có dạy:

– “Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông, cùm, xiềng, xích trói buộc nơi thân, xưng danh-hiệu Quán Thế-Âm Bồ-tát, thảy đều dứt rã. Liền đặng thoát khỏi”

Chính là đây vậy.

D. Giải-thích câu niệm:

Nam-mô
ÐẠI THẾ CHÍ BỒ-TÁT.

Trước cũng đã có giải-thích qua rồi.

Ðây chỉ bổ-túc thêm “chút đỉnh” mà thôi. Kinh “Tư-Ích” dạy rằng:

– Hễ mỗi khi Bồ-tát nầy cất chân bước đi là cả Tam-Thiên Ðại-Thiên thế-giới đồng thời chấn động, cung-điện của Ma-Vương nghiêng-ngã. Vì thế nên gọi là Ðại-lực Ðại Thế-Chí Bồ-tát”…

Trong quyển “Tam-Bảo cảm-ứng” có ghi chuyện như sau;

– “Thân-phụ của ông LÝ TRIỆU ÐÃI, ở huyện DU thuộc tỉnh UNG-CHÂU không tin Phật-pháp, hằng luôn hủy-báng Tam-bảo – Ðêm nọ mộng thấy một vị thần nhơn đến quở-trách và đánh cho một gậy ngang lưng.

Từ đó mang bệnh nặng, mấy hôm sau thổ-huyết (ói ra máu)mà chết.

Ông LÝ TRIỆU-ÐÃI lại là một Phật-tử thuần-thành, biết cha mình chắc-chắn bị đọa vào địa-ngục, nên chí-thành quy-y đức Ðại Thế-Chí Bồ-tát, niệm danh-hiệu Phật, và Bồ-tát Ðại Thế-Chí cầu-siêu cho cha.

Ông lại mướn người thợ giỏi khắc tượng Ðại Thế-Chí Bồ-tát cao 3 thước để thờ-kính, cúng dường.

Trong ngày khởi công, đất-đai khắp nơi đều rung-chuyển, mọi người cho là động-đất (địa chấn)nên bàn-luận tốt, xấu, phân-vân, nghi-ngờ, đủ thứ.

Hai tháng sau, tôn-tượng Ðại Thế-Chí Bồ-Tát thành hình, trang-nghiêm, tốt đẹp.

Ðêm ấy LÝ TRIỆU-ÐÃI nằm mộng thấy có một vị sắc thân màu vàng ánh, đầu đội (mão)bảo-quan, đến nói rằng:

– “Ta là Ðại Thế-Chí Bồ-tát đây. Ngươi có biết nguyên-do của cơn động-đất mấy tháng trước chăng ? Ðó là do ngươi phát-nguyện tạo tượng ta, nên ta đến đây để chứng-minh.

Khi ta đặt chân xuống thế-giới nầy, cõi Ðại-Thiên thảy đều rung-động. Chúng-sanh trong tam-đồ đều được thoát khổ. Ta y theo môn niệm PHẬT chứng vào VÔ-SANH NHẪN, nay nhiếp-thủ các chúng-sanh niệm PHẬT ở khắp 10 phương đem về Cực-lạc.

Do nơi ngươi tạo tượng ta lại kiêm thêm niệm PHẬT, nên ta đã cứu cha của ngươi ra khỏi địa-ngục, đưa về Tịnh-độ.”

LÝ TRIỆU-ÐÃI nghe nói, chắp tay chiêm-ngưỡng Bồ-tát, vừa cúi đầu xuống đỉnh đảnh-lễ thì bỗng giựt mình thức dậy …

Ông rất vui-mừng và cảm-động.

Từ đó ông chuyên tâm niệm PHẬT không hề biếng trể.

Trên đây là phần-niệm thánh-hiệu của: TÂY-PHƯƠNG TAM-THÁNH nơi cõi CỰC-LẠC là:

Nam-mô A-DI-ÐÀ PHẬT,

Nam-mô QUÁN THẾ-ÂM Bồ-tát,

Nam-mô ÐẠI THẾ-CHÍ Bồ-tát,

để cầu THỰC CHỨNG rồi…

Kế tiếp dưới đây là phần giải-thích của câu:

Nam-mô

THANH-TỊNH ÐẠI-HẢI CHÚNG BỒ-TÁT.

– Thanh-Tịnh Ðại-Hải Chúng Bồ-Tát đây là nói chung cho tất-cả các vị Bồ-tát pháp-thân Ðại-sĩ nơi khu-vực Tịnh-độ thứ ba là THẬT-BÁO TRANG-NGHIÊM ÐỘ. (từ các giai-vị THẬP-TRỤ trở lên đến THẬP-ÐỊA, cùng với chư Ðẳng-giác Bồ-tát, chư NHỨT-SANH Bổ-xứ Bồ-tát)nơi cõi CỰC-LẠC.

Số lượng chư Ðại Bồ-Tát nầy đông nhiều đến con số vô-lượng, vô-biên, bất khả xưng kể.

Vì thế nên gọi là ÐẠI-HẢI CHÚNG (chúng đông nhiều như nước trong biển lớn)vậy.

Trong Ðại-bổn A-DI-ÐÀ Kinh (Tức là VÔ-LƯỢNG THỌ KINH)có nói:

1. Cõi Ta-Bà nầy có 67 ức Bồ-Tát bất thối-chuyển, công-đức gần như DI-LẶC Bồ-tát, được sanh về CỰC-LẠC.

2. Cõi của Phật VIỄN-CHIẾU có 180 ức Bồ-tát sẽ được vãng-sanh.

3. Cõi của Phật ÐỨC BỬU-TẠNG có 90 ức Bồ-tát sẽ được vãng-sanh.

4. Cõi của Phật VÔ-LƯỢNG ÂM có 220 ức Bồ-Tát sẽ được vãng-sanh.

5. Cõi của Phật CAM-LỘ VỊ có 350 ức Bồ-Tát sẽ được vãng-sanh.

6. Cõi của Phật LONG-THẮNG có 14 ức Bồ-Tát sẽ được vãng-sanh.

7. Cõi của Phật THẮNG-LỰC có 14 ngàn Bồ-Tát sẽ được vãng-sanh.

8. Cõi của Phật SƯ-TỬ có 500 ức Bồ-Tát sẽ được vãng-sanh.

9. Cõi của Phật LY-CẤU QUANG có 80 ức Bồ-Tát sẽ được vãng-sanh.

10. Cõi của Phật ÐỨC-THỦ có 60 ức Bồ-Tát sẽ được vãng-sanh.

11. Cõi của Phật DIỆU-ÐỨC SƠN có 60 ức Bồ-Tát sẽ được vãng-sanh.

12. Cõi của Phật NHƠN-VƯƠNG có 10 ức Bồ-Tát sẽ được vãng-sanh.

13. Cõi của Phật VÔ-THƯỢNG HOA có vô-số bất khả xưng kể Bồ-Tát sẽ được vãng-sanh.

14. Cõi của Phật VÔ-ÚY có 790 ức Bồ-Tát sẽ được vãng-sanh.

Nầy A-DẬT ÐA (Tức là đức DI-LẶC BỒ-TÁT)chẳng phải có Bồ-Tát trong 14 cõi nước trên đây vãng-sanh về cõi Cực-lạc nầy thôi đâu, mà trong thế-giới ở 10 phương, có vô-lượng cõi nước, chúng Bồ-Tát vãng-sanh cũng giống như vậy, rất đông, rất nhiều.

Dầu cho ta có nói luôn cả ngày đêm, suốt một kiếp cũng chẳng cùng-tận”…

Cho nên,

Niệm thánh-hiệu: Nam-mô THANH-TỊNH ÐẠI-HẢI CHÚNG BỒ-TÁT trên đây tức là;

– NIỆM KHẮP HẾT TẤT-CẢ CHƯ ÐẠI BỒ-TÁT Ở NƠI CÕI CỰC-LẠC vậy.

Sẽ được vô-lượng vô-biên công-đức.

Trên đã giải-thích xong về PHÁP-THỨC niệm PHẬT – cùng với niệm các Thánh-hiệu Bồ-Tát rồi:

Kế tiếp dưới đây, xin được lược-giải sơ qua về bài văn PHÁT-NGUYỆN, HỒI-HƯỚNG để tổng-kết lại toàn-bộ của PHÁP-NGHI niệm PHẬT trong quyển TÂY-PHƯƠNG NHẬT KHÓA nầy.

Giải-thích đoạn 1:

Nay con trì chú xưng niệm Phật,
Thệ phát lòng Bồ-Ðề rộng lớn.
Cúi xin xót thương nhiếp-thọ con,
Chứng-minh sám-hối và sở-nguyện.

(Lược-nghĩa):

Là ý nói: – Hôm nay con trước là TRÌ-CHÚ (các thần-chú có trong pháp-nghi như: Phổ-lễ, Gia-trì sổ-châu, Phổ Thanh-Tịnh, Hộ-thân, Vô-lượng Thọ)và sau nữa là NIỆM PHẬT.

– Con nguyện phát-tâm VÔ-THƯỢNG BỒ-ÐỀ trên cầu thành Phật quả, dưới rộng độ khắp tất-cả chúng-sanh.

– Cúi xin đức A-DI-ÐÀ Thế-tôn, đức QUÁN THẾ-ÂM Bồ-tát, đức ÐẠI THẾ-CHÍ Bồ-tát và chư THÁNH-CHÚNG Bồ-tát thương-xót lấy con, tiếp-độ, dắt-dìu con (cho con được vãng-sanh về nơi Cực-lạc).

– Hôm nay con xin chân-thành sám-hối và phát các điều nguyện như sau:

giải-thích đoạn 2:

Về trước đến nay con tạo ác,
Ðều do vô-thỉ Tham, Sân, Si.
Từ Thân, Miệng, Ý phát-sanh ra,
Tất-cả chí-tâm xin sám-hối.

Là ý nói: 

– Từ nhiều đời trước cho chí đến đời hiện tại đây, con đã tạo ra nhiều tội ác như: Tứ-trọng, ngũ-nghịch, Thập-ác và các tội khác nhiều vô-lượng, vô-biên tính không kể xiết.

Hoặc có tội:

– Tự con gây tạo,

– Hoặc xúi biểu người khác gây-tạo,

– Hoặc là thấy người khác gây-tạo mà tùy-hỷ, vui theo,

– Hoặc có tội mà con còn nhớ,

– Hoặc có tội mà con đã quên,

– Hoặc có tội mà con biết rõ,

– Hoặc có tội mà con không biết rõ.

– Hoặc có tội mà con không biết chắc (còn nghi đó là có tội hay không có tội).

– Hoặc có tội mà con biết chắc (chắn, rõ-ràng).

– Hoặc có tội con che giấu,

– Hoặc có tội con chẳng che giấu …

Sở-dĩ con gây tạo nhiều (loại)tội ác như thế là vì con bị ba cái độc: THAM, SAN, SI che mờ tâm-tánh, nên mất hết cả lương-tri, trở thành ra ngu-si, mê-muội.

Do vì vậy mà tự nơi THÂN, MIỆNG, Ý của con nó “lỡ-lầm” gây tạo ra “bất khả xưng kể” tội-lỗi. Nay con biết tội của con nó nhiều đến nỗi 10 phương hư-không chứa cũng không hết nữa (nếu như nó có hình-tướng).

Cho nên con:

Chí-tâm xin sám-hối như sau:

– “Như thị đẳng, nhứt thiết thế-giới, chư Phật Thế-Tôn, thường trụ tại thế.

Thị chư Thế-Tôn, đương từ niệm ngã. Nhược ngã tiền sanh, tùng vô-thỉ sanh-tử dỉ-lai, sở-tác chúng tội, nhược tự-tác, nhược giáo tha tác, kiến tác tùy-hỷ.

Nhược tháp, nhược Tăng, nhược tứ-phương tăng vật, nhược tự thủ, nhược giáo tha thủ, kiến thủ tùy-hỷ.

Ngũ vô-gián tội, nhược tự tác, nhược giáo tha tác, kiến tác tùy-hỷ.

Thập bất thiện đạo, nhược tự tác, nhược giáo tha tác, kiến tác tùy-hỷ. Sở-tác tội chướng, hoặc hữu phú-tàng, hoặc bất phú-tàng, ưng đọa địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh, chư ác-thú, biên-địa hạ-tiện cập miệt lệ xa, như thị đẳng xứ. Sở tác tội-chướng, kim giai SÁM-HỐI. (1 lạy)

Kim chư Phật Thế-tôn, đương chứng-tri ngã, đương ức-niệm ngã.

Ngã phục ư chư PHẬT THẾ-TÔN tiền, tác như thị ngôn:

– Nhược ngã thử sanh, nhược ngã dư sanh, tằng hành bố-thí, hoặc thủ tịnh-giới, nải-chí thí dữ súc-sanh nhứt đoàn chi tự, hoặc tu tịnh-hạnh.

Sở hữu thiện-căn, thành-tựu chúng-sanh,

Sở hữu thiện-căn, tu hạnh Bồ-đề,

Sở hữu thiện-căn, cập vô-thượng trí,

Sở hữu thiện-căn, nhứt thiết hiện-tập, giảo kế trù-lượng.

Giai tất hồi-hướng A-nậu đa-la tam-miệu tam Bồ-đề.

Như quá-khứ, vị-lai, hiện-tại chư PHẬT sở-tác hồi-hướng.

Ngã diệc như thị hồi-hướng:

– Chúng tội giai sám-hối, chư phước tận tùy-hỷ, cập thỉnh PHẬT công-đức.

NGUYỆN THÀNH VÔ-THƯỢNG TRÍ.

Khứ, lai, hiện-tại PHẬT,
Ư chúng-sanh tối tối-thắng.
Vô-lượng công-đức hải,
Ngã kim quy-mạng lễ. (lạy)

Giải-thích đoạn 3:

Chúng-sanh vô-biên thệ-nguyện độ,
Phiền-não vô-tận thệ-nguyện đoạn.
Pháp-môn vô-lượng thệ-nguyện học,
Phật dạo vô-thượng thệ-nguyện thành.

Ðây là 4 câu kệ rất quan-trọng của các hàng Ðại-Thừa Bồ-Tát tu-tập – kinh gọi là “TỨ HOẰNG THỆ-NGUYỆN”.

Theo đúng như tông-chỉ của TỊNH-ÐỘ PHÁP-MÔN, một hành-giải muốn được vãng-sanh về Cực-Lạc thì phải phát-tâm đại-thừa, phải phát-tâm Bồ-đề, “trên cầu thành Phật-đạo, dưới độ-thoát chúng-sanh”. (Như lời dạy của tổ thứ 11 là ngài Tỉnh-Am, mà người giải-thích đã có trích lục ra ở trước).

Nếu không phát “đại tâm” nầy thì không tương-ưng được với bổn-nguyện của Phật A-DI-ÐÀ, dầu cho có niệm Phật nhiều thế mấy đi nữa cũng khó được vãng-sanh.

Vì thế mà trong bài văn PHÁT-NGUYỆN, HỒI-HƯỚNG đây, soạn-giả VÔ-NHẤT ÐẠI-SƯ, THÍCH THIỀN-TÂM Hòa-thượng, đã y theo ý kinh mà thêm vào bốn câu kệ “TỨ HOẰNG THỆ-NGUYỆN” nầy để ta tụng đọc thường-xuyên cho dễ nhập-tâm.

1. SAO GỌI LÀ CHÚNG-SANH ?

Hai chữ chúng-sanh đây nếu như giảng rộng ra, ắt dài có đến trăm, ngàn trang-giấy, vì thế chỉ xin tóm lược mà thôi.

Trước hết, phải hiểu rằng:

– Chúng-sanh ở đây là mình chớ không phải ai đâu lạ hết (đừng tưởng người khác là chúng-sanh mà quên mất mình đi thì sai lầm và nguy to lắm vậy).

Có 2 loại chúng-sanh là:

1. Hữu-tình chúng-sanh:Tức là 12 loại chúng-sanh có tình, có thức, biết buồn, vui, sướng, khổ, tham sống, sợ chết vv…(Xem lại phần 12 loài chúng-sanh đã giảng ở trước)– Ðây thuộc về phần CHÁNH-BÁO.

2. Vô-tình chúng-sanh: Tức là các loại chúng-sanh không có tình – thức, chẳng biết vui buồn … như cỏ, cây, ngói, đá vv… Ðây thuộc về phần Y-BÁO.

Chữ CHÚNG-SANH trong câu kệ trên đây là nói đến các loài “hữu-tình chúng-sanh” Tức là mình đó vậy.

Lại nữa, HỮU-TÌNH CHÚNG-SANH đây cũng chia thêm ra làm hai loại.

Ấy là:

– NỘI hữu-tình chúng-sanh.

– NGOẠI hữu-tình chúng-sanh.

a. Nội hữu-tình chúng-sanh:

Là các chúng-sanh ở trong “nội tâm” của mình. Ðó là các thứ phiền-não như buồn, vui, thương, ghét, phải, quấy, thấp, cao được, thua, đắc, thất vv… Nói tổng-quát thì đó làTHẬP-SỬ và các phần Tâm-sở vậy.

Muốn được thành-đạo thì mình phải ÐỘ “chúng-nó” trước hết cái đã, khi nào NÓ được tiêu-trừ hết rồi thì mình mới được cảnh NGHIỆP SẠCH, TÌNH KHÔNG, cao đăng thánh-quả.

Làm sao để ÐỘ thoát cho chúng nó ?

– Ðó là phải lần-lượt tu-tập để dứt trừ hết 88 phẩm Kiến-hoặc và 81 phẩm Tư-hoặc (xem lại các phần chú-thích trước)và chứng được từ sơ-quả Tu-đà-Hoàn cho đến tứ quả: là A-la Hán rồi thì mới được giải-thoát ra khỏi vòng chi-phối của các “nội chúng-sanh” nầy, mới dứt được vòng sanh-tử. Thời-gian rất lâu-dài, có khi phải đến vô-lượng kiếp mới xong.

Chớ không phải dễ.

b. Ngoại hữu-tình chúng-sanh:

Là các chúng-sanh ở bên ngoài, có thân danh-sắc, kết-tạo từ nơi thất-đại là: Ðịa, thủy, hỏa, phong, không, căn và thức. Như thân-thể của mình, của mọi người, của mọi loài hữu-tình khác trong 3 cõi, sáu đường vậy.

Bởi sau khi độ “NỘI CHÚNG-SANH” xong và được giải-thoát, trở thành A-la Hán, Duyên-giác rồi thì không nên nhập Niết-Bàn vội mà kế đó phải phát-tâm đại-thừa của BỒ-TÁT, thề-nguyện độ-thoát các loại chúng-sanh khác còn đang nổi-chìm trong biển luân-hồi sanh-tử khổ đau.

Vì các loại chúng-sanh ấy có vô-lượng thân-tướng, vô-lượng tâm hành vv… khác nhau nên gọi là “CHÚNG-SANH VÔ-BIÊN”.

Như đức ÐỊA-TẠNG VƯƠNG BỒ-TÁT có phát đại-nguyện rằng:

Ðịa-ngục vị không, thệ bất thành PHẬT,
Chúng-sanh độ-tận, phương chứng Bồ-đề.

Nghĩa là khi nào:

Ðịa-ngục còn người, ta chẳng thành PHẬT,
Chúng-sanh độ hết, mới chứng Bồ-đề.

Ôi! cao cả thay cho lời đại-nguyện bất tư-nghì ấy.

Nay chúng-ta là con của Phật cũng phải nên nối bước theo NGÀI và chư Ðại Bồ-tát mà phát-tâm rằng:

Chúng-sanh vô-biên, con thề-nguyện độ hết cả vậy.

2. “Phiền-não vô-tận thệ nguyện-đoạn” là sao ?

Ðó là phải dứt-trừ hết các thứ như: Kiến-hoặc, Tư-hoặc, Trần-sa hoặc và Vô-minh hoặc.

a. Hễ dứt trừ xong Kiến-hoặc, Tư-hoặc rồi thì đắc thành được quả-vị giải-thoát như các bậc nhị-thừa thánh-nhơn THANH-VĂN, DUYÊN-GIÁC.

b. Dứt Trần-sa hoặc xong thì thành-tựu được các giai-vị trong hàng THẬP-TÍNH Bồ-Tát.

c. Dứt hết 41 phẩm Vô-minh thì được thành PHẬT.

– Ở các thế giới khác ví-dụ như cõi Ta-Bà của ta đây thì muốn dứt được các món KIẾN, TƯ phiền-não nầy rất là khó vì luôn gặp (nhiều)chướng-duyên nên dễ sanh thối-chuyển. Rất khó chứng-đạo.

– Còn ở cõi Cực-lạc vì không có phiền-não và chướng-ngại, lại được vô-sanh, vô-diệt, sống lâu vô-lượng vô-biên A Tăng-kỳ kiếp. Thêm vào đó là gần-gũi được chư đại Thượng thiện-nhơn như PHẬT và các vị Bồ-tát nên sự tu-chứng rất là dễ-dàng.

Vì thế nên đức bổn-sư THÍCH-CA MÂU-NI Thế-Tôn mới khuyên chúng-ta nên cầu sanh về Cực-Lạc trước đã … là như vậy.

3. “Pháp-môn vô-lượng thệ-nguyện học” là sao ?

Là giáo-môn của PHẬT dạy ra có nhiều đến số vô-lượng vô-biên ta đều nguyện học hết.

Tại-sao vậy ?

– Vì chúng-sanh có vô-lượng vô-biên căn-tánh Thượng, Trung, Hạ sai biệt khác nhau nên cần phải có đủ mọi loại pháp-môn hầu xứng theo căn-tánh của họ mà phương-tiện hóa độ.

Ðó gọi là:

Chúng sanh đa bịnh, Bồ-tát đa hạnh.

Bởi nếu không rộng học vô-lượng giáo-môn của Phật dạy thì làm sao độ-thoát được vô-lượng căn-tánh và chủng-loại chúng-sanh ? Mà nếu không được như thế thì làm sao hoàn-mãn được Bồ-tát hạnh ?

4. “Phật-đạo vô-thượng thệ-nguyện thành” là sao ?

Ðó là phải quyết-tâm chứng-thành quả-vị VÔ-THƯỢNG BỒ-ÐỀ của PHẬT vậy. (Chớ không nên cầu chứng tiểu-quả Nhị-thừa xong mà vội nhập Niết-bàn).

Giải-thích đoạn 4.

Con nguyện lâm-chung dự biết giờ,
Dứt trừ tất-cả điều chướng-ngại.
Diện kiến Tây-Phương Tam thánh-tôn.
Liền được sanh về cõi Cực-Lạc.

Ðây là 4 câu kệ nguyện mà không thể nào thiếu được trong cuộc đời của người Phật-tử tu theo TỊNH-ÐỘ pháp-môn …

Bởi suốt cả khoảng thời đời niệm PHẬT của TA, nếu TA đã chơn-chánh thực-hành đầy-dủ hết các phần LÝ, SỰ của pháp-môn, giữ tròn 3 điều TÍN, HẠNH, NGUYỆN rồi, thì chắc-chắn là sẽ được vãng-sanh.

Tuy thế nhưng cũng chớ vì đấy mà sanh lòng ngã-mạn, xem thường các pháp-môn tu khác, hoặc là giải-đải (lười biếng)qua ngày. Trái lại, mỗi ngày càng phải TU tinh-tấn thêm lên và đọc tụng 4 câu kệ trên thường-xuyên để cho tâm-nguyện của mình càng thêm vững-chắc.

Thí-dụ điển-hình và hiện-đại nhất, là tác-giả của quyển pháp-nghi TÂY-PHƯƠNG NHẬT-KHÓA nầy là cố Hòa-Thượng THÍCH THIỀN-TÂM (xin tìm đọc quyển: Vô-Nhất Ðại-Sư, THÍCH THIỀN-TÂM, Một Cao-Tăng Cận-Ðại

Ngài là người mà khi lâm-chung đã được:

– Biết trước ngày giờ.

– Lưu lại kệ sau cùng.

– Thấy được đức A-DI-ÐÀ.

và an-lành thị-tịch ngay trên bản-tọa (chỗ ngồi), qua bài kệ sau đây:

Ðời TA chí gởi chốn Liên-Trì.
Trần-thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm.
Mừng nay được thấy đức A-DI.

là người Phật-tử tu Tịnh-độ, ta há lòng nào mà không noi theo gương vãng-sanh ấy hay sao ?)

Bốn đoạn kệ-tụng trên là phần “PHÁT-NGUYỆN”. Kế tiếp dưới đây là đoạn kệ HỒI-HƯỚNG sau cùng, kết-yếu lại toàn-thể công-đức tu-hành, niệm Phật của ta trong suốt khóa-lễ (và suốt cả cuộc đời TU, qua đoạn kệ sau chót dưới đây):

Giải-thích đoạn 5:

Xin đem công-đức trì-niệm nầy,
Hồi-hướng bốn ân và ba cõi.
Nguyện khắp pháp-giới các chúng-sanh.
Ðồng sanh CỰC-LẠC thành PHẬT ÐẠO.

Như trên vừa nói, thì đoạn kệ nầy chính là phần HỒI-HƯỚNG sau cùng:

– Bất cứ một pháp-nghi tu-tập nào cũng không được thiếu phần hồi-hướng nầy.

– Bất cứ một người tu nào cũng không được quên đọc-tụng bài kệ HỒI-HƯỚNG nầy ở nơi phần chót cùng của khóa-lễ cả.

Và bài kệ trên đây chính là phần kệ “trùng-tuyên” lại ý-nghĩa của câu nguyện phát tâm “VÔ-THƯỢNG BỒ-ÐỀ” (đã có giảng-giải ở trước là):

– “CON NAY KHẮP VÌ BỐN ÂN, BA CÕI CÙNG PHÁP-GIỚI CHÚNG-SANH, CẦU CHỨNG ÐƯỢC QUẢ-VỊ VÔ-THƯỢNG BỒ-ÐỀ CỦA PHẬT – CHUYÊN-TÂM TRÌ-NIỆM CÂU HỒNG-DANH MUÔN-ÐỨC A-DI-ÐÀ CẦU SANH CỰC-LẠC.

NGUYỆN XIN:

ÐỨC CHA LÀNH A-DI-ÐÀ PHẬT, TỪ-BI GIA-HỘ, XÓT-THƯƠNG TIẾP-ÐỘ”.

(Ngã kim phổ-vị Tứ-ân, Tam-hữu, cập pháp-giới chúng-sanh, cầu ư chư PHẬT nhứt thừa vô-thượng Bồ-đề đạo cố. Chuyên-tâm trì-niệm, A-DI-ÐÀ PHẬT, vạn đức hồng-danh, cầu sanh Cực-lạc.

Duy nguyện:
Từ phụ A-DI-ÐÀ PHẬT,
TỪ BI GIA-HỘ,
AI-LÂN NHIẾP THỌ.

Phần giải-thích đến đây là xong.

Trước khi chấm-dứt mọi phần giải-thích trong quyển pháp-nghi TÂY-PHƯƠNG NHẬT KHÓA nầy, người giải-thích tôi, xin phép được cùng với quý Phật-tử, chư liên-hữu và bổn đạo, cùng nhau dốc-lòng cung-kính lễ-tạ đức Bổn-sư THÍCH-CA Mâu-ni Phật, Tây-phương Tam đại-thánh Từ-tôn và 10 phương Tam-bảo như sau:

CHÍ-TÂM ÐẢNH-LỄ:

Nam-mô:

– TA-BÀ giáo-chủ, bổn-sư THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT.

– Tây-phương CỰC-LẠC thế-giới, Tiếp-dẫn đạo-sư A-DI-ÐÀ PHẬT,

– Ðại-bi QUÁN THẾ-ÂM Bồ-tát,

– Ðại-lực ÐẠI-THẾ-CHÍ Bồ-tát,

– Thanh-tịnh đại-hải chúng BỒ-TÁT.

CẬP:

– Thập-phương tam thế, biến pháp-giới TAM-BẢO.

(Lễ tam-bái – lạy 3 lạy).

CHUNG