Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

II. PHÁT ĐẠI THỆ NGUYỆN ĐỆ LỤC
(TT)

Kiên cố bất thoái”, theo giải thích của cụ Hoàng Niệm Tổ: “Nghĩa là các đại nguyện, đại hạnh trên quyết chẳng lay động, vĩnh viễn không lui sụt. Như phần kệ tụng đã nói: “Ngã hạnh quyết định kiên cố lực, duy Phật thánh trí năng chứng tri, túng sử thân chỉ chư khổ trung, như thị nguyện tâm vĩnh bất thoái”. (Hạnh tôi sức kiên cố quyết định, chỉ Phật thánh trí chứng biết nổi, dẫu thân ở trong các chốn khổ, nguyện tâm như vậy trọn bất thoái) thì “kiên cố” có nghĩa là “bất thoái”.

Nhất tâm niệm ngã” (Nhất tâm niệm tôi), xét theo kinh này: nhất tâm là tín tâm kiên định, chẳng bị các tâm khác não loạn.

Sách Giáo Hạnh Tín Chứng Văn Loại nói:

Tín tâm chính là nhất tâm. Nhất tâm chính là lòng tin chân thật”. Đại sư Hiền Thủ chú giải Kinh Hoa Nghiêm, chú giải của ngài gọi là Thám Huyền Ký, ngài nói: “Nhất tâm giả, tâm vô dị niệm cố” (Nhất tâm là tâm không dị niệm). Cảnh giới này cao! Cách nói này chính là Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát đã nói: “Không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn”, đây gọi là “nhất tâm”. Đại Thế Chí Bồ Tát trên Kinh Lăng Nghiêm dạy chúng ta phương pháp niệm Phật, cũng là một câu này “gom nhiếp sáu căn, tịnh niệm liên tục”. Tám chữ này cùng với: “nhất tâm niệm ngã” là hoàn toàn tương đồng. Tịnh niệm trong đây hoàn toàn không có hoài nghi, không có xen tạp, mới gọi là tịnh niệm.

Chúng ta từ báo cáo của cư sĩ Lưu Tố Vân biết được một tin tức: “Người mang bệnh nặng ở trong phòng cấp cứu”. Chúng ta đều cho rằng đây là hiện tượng bình thường, nhưng thật ra người bệnh này rất đau khổ! Những đau đớn mà họ gặp phải không thể chịu đựng được, cũng không nói ra được nên sinh tâm sân giận, oán hận! Họ khởi cái tâm này, nhất định sẽ vào địa ngục! Thật đáng sợ!

Một số đồng tu có kinh nghiệm, lúc người nhà bệnh nặng sắp tắt hơi, bác sĩ hỏi họ có cần cấp cứu chăng? Người học Phật biết không cần thiết, bác sĩ cũng tán thành vì biết cấp cứu chỉ kéo dài thêm được vài tiếng đồng hồ, nhưng nỗi đau đớn, oán hận mà bệnh nhân phải chịu đựng thì quá lớn không dễ gì hóa giải!

Rất tiếc, hiện nay nhiều nơi đều đưa ra luật pháp: Nếu không để bệnh nhân chết trong bệnh viện là xúc phạm “Pháp lệnh chương qui”! Phải đưa họ đến bệnh viện cấp cứu trước khi chết! Như vậy chẳng phải là đưa mọi người đến địa ngục rồi sao?! Oán hận này kết quá sâu! Đời đời kiếp kiếp oan oan tương báo không bao giờ dứt, việc này thật đáng sợ!

– Phải nên tránh như thế nào?

– Nhất định phải niệm Phật đến ít nhất là “công phu thành khối”, đến lúc lâm chung sẽ được tự tại vãng sinh, không cần đến bệnh viện để chịu khổ. Điều này mỗi chúng ta đều có thể làm được. Người niệm Phật được “nhất tâm”, khi lâm chung không sinh bệnh, trò chuyện vui vẻ, cáo từ mọi người: Phật đến tiếp dẫn, tôi theo ngài về thế giới Cực Lạc! Nói xong là ra đi. Đứng mà đi! Ngồi mà đi! Hiện tượng này có rất nhiều. Cư sĩ Vương Long Thư đời nhà Tống cũng là đứng mà vãng sinh.

Trú dạ bất đoạn” (Ngày đêm chẳng ngớt):

Đại Sư Thiện Đạo nói: “Nhất tâm chuyên niệm danh hiệu A Di Đà Phật, đi, đứng, nằm, ngồi, chẳng luận thời tiết, xa gần, niệm niệm chẳng bỏ” ấy chính là “nhất tâm niệm Phật”.

Chẳng luận thời tiết, xa gần”, theo Hòa thượng Tịnh Không là: Không màng tới thời gian niệm Phật dài hay ngắn. “Niệm niệm chẳng bỏ” là chỉ quan tâm một niệm, đây là Tịnh niệm tương tục cũng chính là “nhất tâm niệm Phật”. Do vì từ “sự” nhập “lý”, nhưng toàn thể của “sự” lại chính là “lý” vậy. Thực tế mà nói, “lý” và “sự” không thể tách rời. Trong “sự” có “lý”, trong “lý” có “sự”. Sau khi được “sự nhất tâm”, họ thường có khai ngộ.

“Sự nhất tâm” là Định, khi khai ngộ liền nhập “lý nhất tâm”. Nếu câu Phật hiệu, niệm niệm không gián đoạn nhưng vẫn còn xen tạp khởi tâm động niệm, đây là “sự nhất tâm”; không còn khởi tâm động niệm mới là “lý nhất tâm”, sai biệt là ở đây. Chung qui vẫn là vấn đề buông bỏ được bao nhiêu. Buông bỏ triệt để là “lý nhất tâm”; chưa buông bỏ triệt để là “sự nhất tâm”.

Chiều nay, Lâm trưởng cư sĩ Lý triệu tập đại biểu của chín tôn giáo Singapore đến đây cùng thảo luận. Buổi dạ tiệc ấm áp thiên hỉ niên, buổi tối nơi đây họ cũng dùng cơm. Chiều nay, tôi đến sớm hơn một chút để nghe họ nói, tôi chỉ dự thính. Chúng ta dùng giáo huấn của Kinh Hoa Nghiêm: Chín tôn giáo này đều là Phật Giáo. “Nhất tức thị đa, đa tức thị nhất”. Nếu đứng trên lập trường của Ki- tô giáo thì chín tôn giáo kia đều là Ki-tô giáo. Nếu đứng trên lập trường của Islam giáo thì chín tôn giáo đó đều là Islam giáo. “Nhất tức thị đa, đa tức thị nhất”; “nhất”, “đa” không hai.

Chữ “nhất” mà Phật nói ở đây không phải là “chuyên nhất”, cũng không phải là “độc nhất” mà là “tùy nhất”. Quan niệm này thật rất chính xác, không sai chút nào. Đây là tư tưởng, cảnh giới của Hoa Nghiêm; thực hiện được điều này thì giữa tôn giáo với tôn giáo làm gì có sự xung đột! Tự nhiên hòa thuận cùng sống; mỗi mỗi đều là đệ nhất; mỗi mỗi đều thông nhiếp tất cả các tôn giáo khác. Thế giới Hoa Nghiêm tốt đẹp đến như vậy. Tuy nói là “nhất” nhưng “nhất” chẳng ngại “đa”; “đa” chẳng ngại “nhất”; đây mới là chân tướng sự thật, mới là chân lý.

Hy vọng đồng tu chúng ta từ chỗ này mà giác ngộ; tâm lượng chúng ta mới lớn, chân thật như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”. Giảng đến chỗ cứu cánh, Phật nói: Hư không pháp giới, tất cả chúng sinh đồng một tự tánh, đồng một Pháp Thân, đồng một trí tuệ. Khế nhập được cảnh giới này, tâm chúng ta mới chân thật làm đến được “nhất tâm niệm ngã” (nhất tâm niệm tôi), mới chân thật là “nhất tâm”, không còn phân biệt, xen tạp vọng tưởng nữa, mới có thể làm đến được thuần nhất.

Trong nguyện văn nói: “Nhất tâm niệm ngã”, ý niệm này rất viên mãn bao gồm cả “sự nhất tâm” và “lý nhất tâm”.

Tóm lại, nguyện thứ mười chín “nghe danh phát tâm” là nhân; nguyện thứ hai mươi “lâm chung tiếp dẫn” là quả. Nhân quả này không phải là nhân quả bình thường như chúng ta thường   nói:

Thiện nhân, thiện quả; ác nhân, ác quả mà là nhân quả của xuất thế gian “Niệm Phật là nhân, vãng sinh thành Phật là quả”.

Hiện nay, chúng ta xem thấy báo cáo của các nhà khoa học về số lượng vũ khí hạt nhân. Họ dự đoán trên toàn cầu có ít nhất là bảy vạn năm ngàn trái, mà oai lực của mỗi quả bom nguyên tử nhỏ nhất cũng gấp mười lần Quảng Đảo và Trường Kỳ, có trái gấp hai mươi lần; thậm chí gấp một trăm lần; còn có quả lớn hơn nữa. Một quả bom nguyên tử có thể hủy diệt cả một thành phố! Chỉ e trên toàn thế giới chưa có đến bảy vạn năm ngàn thành phố.

– Ai đứng ra phát động chiến tranh này?

– Là người bệnh thần kinh! Những kẻ điên!

Thế giới hiện nay người bệnh thần kinh rất nhiều! Điều này đáng sợ hơn chiến tranh! Ngày nay, phương pháp cứu vãn duy nhất chính là đề xướng giáo dục luân lý đạo đức, đặc biệt là nhân quả và giáo dục tôn giáo. Chúng ta hy vọng mỗi tôn giáo trên thế giới đều phải giác ngộ, mọi người cùng nhau cứu vãn xã hội này. Phải đưa tôn giáo trở về với giáo dục mới có thể phát sinh hiệu quả. Nếu tôn giáo vẫn giữ phương thức cầu nguyện như lâu nay sẽ không có hiệu quả, bởi rất nhiều người trong xã hội đều không tin, họ không tiếp thu!

– Cầu nguyện có hiệu quả chăng?

– Giới khoa học chứng minh có hiệu quả, đặc biệt là cầu nguyện tập thể.

Pháp hội trong Phật Giáo là thuộc về cầu nguyện tập thể. Nhưng, đây là trị ngọn không phải trị gốc! Hóa giải thiên tai, người trong xã hội không tin! Họ nói: Căn bản không có thiên tai, quí vị đồn đại, không thể tin! Cho nên, nhất định phải trở về với nền giáo dục.

Ngày nay, trên toàn thế giới xảy ra phiền phức lớn. Từ mầm non đến nghiên cứu sở, không có giáo dục luân lý, giáo dục đạo đức, giáo dục nhân quả, giáo dục tôn giáo nên mới xảy ra vấn đề! Tôn giáo có thể bù đắp, cống hiến cho xã hội những thiếu sót này, thiên hạ sẽ không còn nói tôn giáo là mê tín, đó là vấn đề bức thiết nhất hiện nay.

Chúng tôi cũng dùng rất nhiều phương pháp như kiến nghị lên tổ chức hòa bình tôn giáo thế giới của Liên Hiệp Quốc, nhắc nhỡ họ phải phát động đoàn kết tôn giáo trên toàn thế giới, phải khuyên tất cả tôn giáo trở lại với nền giáo dục, bù đắp những môn học thiếu sót trong xã hội hiện tại. Mặt khác, chúng ta cũng đứng ra tích cực thực hiện, đây là “vô uý bố thí”.

Lâm thọ chung thời, ngã dữ chư Bồ Tát chúng nghênh hiện kỳ tiền, kinh tu du gian, tức sinh ngã sát, tác A Duy Việt Trí Bồ Tát” (Lúc lâm chung, tôi cùng các Bồ Tát chúng hiện đến trước mặt tiếp dẫn, trong khoảnh khắc người ấy liền sinh sang cõi tôi, thành bậc A Duy Việt Trí Bồ Tát).

Hiện nay, tôi xem một số báo cáo của phương Tây, đặc biệt là bác sĩ khoa thần kinh. Họ làm thí nghiệm lâm sàng, dùng thuật thôi miên để nghiên cứu thảo luận kinh nghiệm cận kề cái chết. Có rất nhiều trường hợp chân thật. Bản thân tôi cũng từng trải nghiệm hai lần: Năm bốn mươi lăm tuổi một lần; năm bảy mươi chín tuổi một lần. Nghĩa là cách đây năm năm, có một lần, thật sự có thể vãng sinh.

Năm năm trước, tôi thấy Phật, ngài đến tiếp dẫn. Tôi nghe được âm thanh đàng sau mình. Tôi nhìn Phật, không nhìn lui ở sau nên không biết là ai. Họ hỏi tôi: – Ông còn gì vướng bận chăng? Còn gì lo âu chăng? Còn muốn gặp ai chăng? Còn việc gì chưa hoàn thành chăng? v.v… Họ hỏi rất nhiều. Tôi nói: Tất cả đều không, tôi hy vọng đức Phật đưa tôi cùng đi. Tôi còn nói thêm một câu: Nếu Phật muốn con ở lại thế gian thêm vài năm giúp những chúng sinh khổ nạn cũng được!

Sau đó tỉnh dậy, trong tâm tôi nghĩ: Đáng lý ra là đi năm đó! Lưu lại thế gian không phải vì tôi, tôi không có gì cả, lưu lại là để giúp chúng sinh khổ nạn của thế gian; cũng có thể lưu lại để giảng bộ kinh này. Bộ kinh này đích thật có thể giúp rất lớn cho chúng sinh tu pháp môn Niệm Phật của chín ngàn năm mạt pháp. Bản hội tập của Hạ Liên Cư, chú giải của Hoàng Niệm Tổ, ở đây chúng tôi cùng nhau chia sẻ rất tường tận với mọi người để pháp môn này được lưu truyền mãi mãi.

Trên đây là nguyện thứ hai mươi “lâm chung tiếp dẫn”. Theo cụ Hoàng Niệm Tổ: “Nguyện hai mươi thể hiện sâu xa diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn của phương tiện Tha lực trong Quả giáo. Kẻ phàm phu nghiệp chướng chất chồng lại có thể mang nghiệp đó vãng sinh; đấy toàn là do nguyện này của Phật Di Đà, do sức từ bi đại lực nhiếp thọ của thánh chúng hiện diện lúc lâm chung”.

Ngài Linh Chi (Nguyên Chiếu) đời Tống nói: “Phàm người lâm chung thần thức vô chủ, không một thứ nghiệp chủng thiện hay ác nào lại không phát hiện: hoặc khởi ác niệm, hoặc khởi tà kiến, hoặc sinh quyến luyến, hoặc phát điên rồ, chẳng phải chỉ có một thứ ác tướng… đều là điên đảo cả”. Rõ ràng là phàm phu nghiệp nặng, lúc lâm chung lắm nổi điên đảo, lại bị Tứ Đại bức bách khổ sở, đau đớn khó tả nổi, làm sao có thể chánh niệm trì danh cho được! Chẳng thể trì danh làm sao có thể vãng sinh?! Cho nên, phàm phu vãng sinh chẳng phải do tự lực mà toàn là cậy vào sức gia bị của Đại Nguyện Phật A Di Đà giữ cho chẳng điên đảo nên mới được vãng sinh; như sách A Di Đà Viên Trung Sao, Đại sư U Khê nói:

Chúng sinh Cõi Sa Bà tuy có thể niệm Phật, nhưng Kiến Hoặc còn rối bời chưa thể đoạn trừ được. Khi lâm chung chẳng bị điên đảo thì vốn nào phải do sức mình chủ trì nổi, mà chỉ toàn là cậy vào Di Đà đến cứu vớt thôi. Tuy không có chánh niệm mà giữ nổi chánh niệm nên tâm chẳng điên đảo, liền được vãng sinh”.

Ý tưởng trên càng được diễn tả rõ hơn trong Kinh Tiểu Bổn và Kinh Bi Hoa. Kinh Tiểu Bổn (bản Đường dịch) mang tên là Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh có nói: “Lâm mạng chung thời, Vô Lượng Thọ Phật, dữ kỳ Thanh Văn đệ tử, Bồ Tát chúng câu, tiền hậu vi nhiễu, lai trụ kỳ tiền, từ bi gia hựu, linh tâm bất loạn” (Lúc lâm chung, Vô Lượng Thọ Phật cùng vô lượng Thanh Văn đệ tử, Bồ Tát của ngài trước sau vây quanh, đến đứng trước mặt, từ bi gia hựu khiến tâm chẳng loạn). Rõ ràng là phàm phu khi lâm chung tâm chẳng điên đảo, chẳng tán loạn, chánh niệm trì danh hoàn toàn nhờ vào sức Phật Di Đà từ bi ban ân che chở (gia hựu) vậy.

Nên biết, vãng sinh tự tại công đức rất lớn, biết bao nhiêu người nhìn thấy đều sinh tâm hoan hỉ, khiến người không tin cũng phải tin; người đã tin thì tuyệt đối không còn hoài nghi.

Trước đây, ở Hồng Kông, phu nhân của Tước sĩ Hà Đông, có con trai là Hà Thế Lễ vốn là một tướng quân. Cả gia đình đều là tín đồ đạo Cơ Đốc, chỉ riêng bà mẹ là tin Phật, niệm Phật. Nhưng, Hà Thế Lễ rất hiếu thuận, cũng rất hiếm có! Trong nhà thiết lập một Phật đường cho cụ bà niệm Phật, tránh không ai quấy nhiễu hoặc chướng ngại bà. Gia đình họ là tự do tín ngưỡng. Suốt đời bà cụ chưa từng khuyên con cháu niệm Phật. Khi lâm chung, bà nói với con dâu và cháu: Mẹ sắp đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, khi mẹ đi các con niệm vài câu Phật hiệu đưa tiễn mẹ, xem như là nhân duyên giữa mẹ và con.

Khi lâm chung, gia đình bà mở đại hội vãng sinh. Lúc đó có ký giả đưa tin xem cụ bà vãng sinh ra sao? Cáo biệt mọi người như thế nào? Sau cùng, bà nói: – Phật đã đến tiếp dẫn, mẹ phải đi theo ngài đây! Rồi bà tắt hơi ra đi. Bà vãng sinh độ được rất nhiều người. Về sau, cả gia đình Hà Thế Lễ đều học Phật. Độ cả gia đình! Cụ bà thật tuyệt vời! Bà biểu diễn chiêu sau cùng này khiến cả gia đình đều tin theo Phật. Đây là thật không phải giả! Ngôi nhà “Đông Liên Giác Uyển” chính là sản nghiệp của Hà Đông đã cúng dường Tam Bảo, trở thành một đạo tràng.

Năm 1977, lần đầu tiên tôi đến Hồng Kông giảng kinh, có nghe qua về cụ bà vãng sinh, quả thật đã được Tam Bảo gia trì. Tuy bà có chút bệnh nhưng rất nhẹ. Lúc lâm chung, bà rất tỉnh táo, giao phó mọi việc xong bà mới ra đi. Bản thân bà được tâm hoan hỉ; mọi người tham gia đại hội vãng sinh hôm đó cũng đều rất hoan hỉ.

Ngày xưa, Hồng Kông do người Anh thống trị. Bà biểu diễn chiêu này khiến người ngoại quốc ở đây cũng đều nhìn thấy. Lúc đó, còn có pháp sư Đàm Hư vãng sinh ở Hồng Kông lưu lại xá lợi. Người Anh không tin! Là thật ư?! Viên xá lợi rất cứng, sắt đánh vào không bể! Họ dùng dùi sắt đánh vào, dùi sắt bị lõm nhưng viên xá lợi vẫn không hề hấn gì; người phương Tây lúc đó mới tin. Đây là biểu trưng nói với mọi người, việc này là thật không phải giả!

Kinh Bi Hoa cũng chép: “Lâm chung chi thời, ngã đương dữ đại chúng vi nhiễu, hiện kỳ nhân tiền. Kỳ nhân kiến ngã, tức ư ngã tiền, đắc tâm hoan hỉ. Dĩ kiến ngã cố, ly chư ám ngại, tức tiện xả thân, lại sinh ngã giới” (Lúc lâm chung ta cùng các đại chúng vây quanh hiện trước mặt người ấy. Người ấy thấy ta liền đối trước ta sinh lòng hoan hỉ. Do thấy ta nên lìa các tối tăm, chướng ngại, liền xả thân sinh về cõi ta).

Kinh còn chép lời nguyện sau:

Sở hữu chúng sinh, nhược văn ngã thanh, phát nguyện dục sinh ngã thế giới giả, thị chư chúng sinh lâm mạng chung thời, tất linh kiến ngã, dữ chư đại chúng, tiền hậu vi nhiễu. Ngã ư nhĩ   thời, nhập Vô Ế tam-muội, dĩ tam-muội lực cố, tại ư kỳ tiền, nhi vị thuyết pháp. Dĩ văn pháp cố, tầm đắc đoạn trừ nhất thiết khổ não, tâm đại hoan hỉ, cố đắc Bảo Trí tam-muội. Dĩ tam-muội lực cố, linh tâm đắc Niệm, cập Vô Sanh Nhẫn. Mạng chung chi hậu, tất sinh ngã giới” (Tất cả chúng sinh nếu nghe danh hiệu của ta, phát nguyện muốn sinh trong thế giới ta thì lúc mạng chung, các chúng sinh ấy thảy đều thấy ta và các đại chúng vây quanh trước sau. Ngay khi ấy, ta nhập Vô Ế tam- muội. Do sức tam-muội nên ở trước mặt kẻ đó mà thuyết pháp cho kẻ đó. Do được nghe pháp, kẻ đó liền đoạn trừ hết thảy khổ não, tâm đại hoan hỉ nên đắc Bảo Trí tam-muội. Do sức tam-muội nên tâm đắc Niệm Nhẫn và Vô Sanh Nhẫn. Sau khi mạng chung ắt sinh về cõi ta).

Kinh Bi Hoa đã nói rõ diệu dụng của tha lực một cách thật rành rẽ. Kinh Xưng Tán Tịnh Độ là Tiểu Bổn của kinh này, Kinh Bi Hoa nói về nhân địa của Phật Di Đà và cõi Cực Lạc trang nghiêm. Hai kinh này cùng nói rõ lúc lâm chung, Phật đến tiếp dẫn, nguyện lực nhiếp thọ vãng sinh thù thắng, đủ thấy Di Đà nguyện vương diệu đức khó lường, đại ân đại lực chẳng thể tính kể nổi.

Trong nguyện thứ hai mươi này “lâm chung tiếp dẫn”, chúng ta phải chắc chắn tin tưởng “Đới nghiệp vãng sinh” là chân thật không phải giả.

Năm xưa, tôi ở Hoa Kỳ, Trần Kiến Vân Thượng Sư, ông là Thượng Sư Mật Tông đã từng tuyên bố với đại chúng: “Đới nghiệp” không thể vãng sinh! Ông đề xướng tiêu nghiệp mới có thể vãng sinh. Lúc đó, tôi vừa mới đến Hoa Kỳ, dường như là vào năm 1983. Việc đề xướng này của ông khiến trên thế giới có rất nhiều người niệm Phật bị cách nói này của ông làm chấn động, sinh ra hoài nghi với pháp môn Tịnh Độ. Ngay đến một vị tu hành là lão cư sĩ Châu Tuyên Đức, ông cùng lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam là đồng tham đạo hữu, là bạn  cũ. Lúc đó, ông ở Lu-xăng-chi, ông di dân đến Hoa Kỳ. Tôi vừa xuống phi cơ, ông đón tôi ở phi trường, chúng tôi cùng ngồi một xe. Từ phi trường đến thành phố đại khái khoảng năm mươi phút. Trên đường đi, ông nói với tôi:

– Pháp sư! Thượng Sư Trần nói không thể “đới nghiệp vãng sinh”, vậy thì phải làm sao?!

Thượng Sư Trần, tôi chưa gặp mặt ông ấy. Tôi nghe nói con người này khéo ăn khéo nói; trong giới Phật Giáo ở Hoa Kỳ rất có ảnh hưởng, là truyền Mật Tông, có trước tác cũng không ít. Ông vừa nêu ra như vậy, tôi liền nói:

–  Nếu không thể “đới nghiệp” thì thôi vậy! Không cần đi!

Nghe lời tôi, ông cảm thấy khó hiểu!

– Vì sao vậy?

Ông mở to đôi mắt nhìn tôi không nói ra lời! Tôi thấy sự biểu lộ của ông; đây là nêu ra nghi tình cho ông, khiến ông có thể chuyên chú. Sau đó, tôi nói với ông:

– Nếu “đới nghiệp” không thể vãng sinh, thế giới Cực Lạc chỉ có mỗi A Di Đà Phật, vậy đi làm gì?

Ông cũng không hiểu! Tôi lại nói tiếp:

– Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền là Đẳng Giác Bồ Tát. Đẳng Giác Bồ Tát vẫn còn một phẩm “sanh tướng vô minh” chưa phá, có đúng vậy không?

Ông nói:

– Đúng vậy!

– Trên kinh có nói hay không?

– Có!

– Đó không phải “đới nghiệp” là gì?

Ông liền hiểu ra: Ngay đến Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền đều là “đới nghiệp vãng sinh”, làm sao có thể nói không “đới nghiệp vãng sinh”! Thế giới Tây Phương Cực Lạc, ngoài A Di Đà Phật ra, thảy đều “đới nghiệp”; chỉ là “đới” nhiều hay “đới” ít mà thôi! Người “đới” ít, phẩm vị cao. Người “đới” nhiều phẩm vị thấp. Cho nên, tôi hỏi ông:

– Thế giới Cực Lạc có bốn độ hay không?

– Có!

– Có ba bậc, chín phẩm hay không?

– Trên kinh đều có!

– Nếu không có “đới nghiệp” thì phân ra nhiều giai cấp như vậy để làm gì?

Vậy, ông mới hiểu được rõ ràng. Sau đó, tôi khuyên ông nên lão thật niệm Phật, chớ lầm nghe người. Bạn xem! Một bậc lão thành đã từng thân cận Đại sư Ấn Quang, tu hành cả đời, đến hơn tám mươi tuổi, chỉ nghe người ngoài nói vài câu đã bị mê hoặc, vậy có thể được sao?! Có thể thấy thật không đơn giản! Con người này, phía trước nói “nhất tâm bất loạn”; ông không được “nhất tâm”, cho nên bị cảnh giới chuyển, chỉ nghe người ngoài nói vài câu, lập tức liền hoài nghi, vọng tưởng xen tạp, công phu liền thối thất!

Cho nên, chúng ta nhất định phải tin tưởng, nhất định không hoài nghi đối với việc “đới nghiệp vãng sinh”. Cổ đức nói với chúng ta: Tất cả chúng sinh lúc lâm chung không ai mà không bị nghiệp lực lôi kéo. Lúc này, chính mình không làm chủ được; tất cả nghiệp tập thiện ác đều hiện tiền. Sự thật này, nếu chúng ta lưu ý một chút, có thể nhận ra được, chỗ rõ ràng nhất là bệnh viện.

Ngày trước, tôi ở Đài Loan có ba bạn học phục vụ trong bệnh viện Vinh Dân. Họ đều là bác sĩ điều trị, tuyệt nhiên không tin Phật Giáo, nhưng họ tin có quỉ. Bác sĩ, y tá trong bệnh viện thường thấy quỉ; nhà Phật gọi là đại quỉ vô thường. Chỉ cần thấy đại quỉ vô thường đi tới đi lui trong phòng bệnh, trong tâm họ có điềm biết được người đó nhiều nhất là trong vòng ba ngày sẽ ra đi. Cho nên, từ trường trong bệnh viện không tốt. Người thông thường bước vào bệnh viện, nhất là bệnh viện có lịch sử lâu năm, không khí nơi đó rất âm u, ảm đạm, người thần khí yếu đến đó đều nổi da gà!

Thông thường người bệnh sắp ra đi, trước đó khoảng năm, ba ngày hoặc một tuần lễ liền có hiện tượng: Xem thấy rất nhiều thân bằng quyến thuộc trong nhà, đều là những người đã chết. Họ nói: Người này đến rồi ở ngoài cửa; người kia ở chỗ nào, họ nhìn thấy được. Trên Kinh Địa Tạng, Phật nói: Đó không phải là thân bằng quyến thuộc của họ mà là âm cảnh hiện tiền, cảnh giới này không tốt! Đây chính là oan gia trái chủ của họ biến hiện ra thân bằng quyến thuộc của họ để dẫn dụ họ đi.

Các Tổ sư, đại đức khuyên chúng ta lúc này nên trợ niệm giúp họ. Sau khi họ dứt hơi vẫn tiếp tục trợ niệm, tốt nhất có thể kéo dài thêm mười hai tiếng; chí ít cũng phải tám tiếng. Đây là trợ niệm thông thường; còn đến “Tăng Nghi Quán”, đó chỉ là Phật sự siêu độ, không phải trợ niệm. Lúc trợ niệm, người bệnh vẫn chưa tắt thở, tốt nhất người bệnh phải ở trong nhà của họ. Lúc này là thời khắc quan trọng!

Người trợ niệm là thiện tri thức chân thật của người sắp lâm chung. Khi họ nói thấy một người nào đó, lập tức nói với họ không nên để ý đến. Cho dù là người thiện hay người ác; là oan gia hay quyến thuộc, một mực không để ý, chỉ niệm A Di Đà Phật. Chỉ có A Di Đà Phật hiện tiền mới có thể đi theo ngài. Nếu không phải A  Di Đà Phật; cho dù là Phật, Bồ Tát nào khác hiện đến cũng không nên đi theo, đây là nhắc nhở họ chánh niệm. Ý niệm của họ vừa chuyển, cảnh giới đó liền biến mất. Vào lúc này không thể đọc kinh vì kinh văn quá dài, chỉ nhất tâm niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ.

Hộ trì người bệnh phải ngày đêm không gián đoạn, mỗi giờ mỗi phút phải luôn nhắc nhở họ đề khởi chánh niệm cùng với mọi người niệm Phật. Khi thể lực họ yếu không thể niệm Phật, họ có thể lắng nghe, hoặc giả thấy môi họ mấp máy, việc này quan trọng; sau khi vãng sinh thông thường đều có tướng lạ rất tốt. Tướng lạ này cũng không thể quyết đoán họ được vãng sinh hay không, trừ khi chính họ nói: A Di Đà Phật đến rồi! Tôi thấy được A Di Đà Phật! A Di Đà Phật đến tiếp dẫn tôi v.v… Đây mới là chân thật vãng sinh.

Nếu trong thời gian trợ niệm, họ không hề nói qua rằng thấy có Phật A Di Đà đến hoặc thấy Quán Thế Âm Bồ Tát chi cả, vậy thì rất khó nói! Thế nhưng, chắc chắn họ không bị đọa vào ba đường ác; đời sau họ hưởng phước báo trời, người vẫn là có tướng lạ. Điều quan trọng lúc sinh thời, họ phải tu phước; không có phước báo, lúc lâm chung thần trí không rõ ràng, không nhận biết thân bằng quyến thuộc thì rất khó khăn! Vô cùng khó khăn! Cho dù vậy, chúng ta cũng trợ niệm cho họ. Có trợ niệm vẫn tốt hơn không trợ niệm; dù họ có đọa vào đường ác cũng sẽ được giảm nhẹ thống khổ, đây là khẳng định!

Cho nên, công đức trợ niệm không thể nghĩ bàn! Nếu không có được thiện hữu bên cạnh chăm sóc, nhắc nhỡ; họ xem thấy những oan gia trái chủ này, hoặc khởi tâm quyến luyến không thể buông bỏ, hoặc khởi ác niệm tà kiến, hoặc giả phát cuồng, tướng ác hiện tiền, thảy đều là điên đảo, khổ không nói ra lời, làm sao họ có thể tránh khỏi không bị đọa vào ba đường ác chứ!

Cho nên, phải nhận thức rõ ràng: Phàm phu vãng sinh không phải dựa vào chính mình mà hoàn toàn nương vào A Di Đà Phật bổn nguyện thần lực gia trì. Pháp môn Tịnh Độ, tuy là Pháp môn Nhị lực, nhưng phần lớn đều nhờ Phật lực; chính mình chỉ có thể làm đến được tin sâu, nguyện thiết, y giáo phụng hành. Vạn nhất chớ nên hiểu lầm: Chính ta có năng lực này, liền sinh cống cao ngã mạn, đây là chướng ngại lớn nhất trên đường thành tựu đạo quả giác ngộ.

Do đây có thể biết người học Phật, cho dù học bất cứ tông phái nào, pháp môn nào, điều kiện căn bản là tâm phải thiện, ý phải thiện, hành vi phải thiện. Trồng nhân thiện được quả thiện; quả thiện chính là khi lâm chung thần trí rõ ràng, tín nguyện không suy, được Phật lực gia trì. Người tâm hạnh bất thiện, đợi khi lâm chung, lâm thời ôm chân Phật thì không đáng tin! Cho nên, lúc bình thường phải dụng công phu, phải có một quan niệm chính xác, nhận rõ sự thật, nhất định không tham sống, sợ chết. Con người làm sao không chết! Vấn đề là sau khi chết đi đến nơi nào?

Chân thật là người thông minh trí tuệ, biết được nhân sinh ngắn ngủi, nhất định phải nắm lấy cơ duyên làm việc tốt. Thường ngày phải tập thành thói quen, đại đức xưa chỉ dạy: Mỗi ngày lên giường ngủ xem như chờ chết, liền nghĩ đến A Di Đà Phật sẽ đến tiếp dẫn ta. Ngày ngày đều nghĩ, đến lúc lâm chung, quả nhiên nghĩ được A Di Đà Phật đến thật. Bình thường nếu không có chí nguyện này, đến lúc A Di Đà Phật đến thật thì sinh tâm lo sợ: Ta sắp phải chết rồi! Khi vọng tưởng này vừa khởi, A Di Đà Phật liền đi! Bạn liền đọa lạc!

Trong Niệm Phật Đường của Đại sư Ấn Quang, ngài chỉ treo một chữ “chết”, có thể thấy được ngài không sợ chết; mỗi ngày ngài đều nghĩ “chết”. Thực tế mà nói: Đại sư chính là Bồ Tát Đại Thế Chí của thế giới Tây Phương Cực Lạc tái sinh, hà tất phải làm ra dáng vẻ như vậy?! Ngài không phải phàm phu! Đây là ngài khai thị, dạy bảo chúng ta hãy xem cái chết lúc nào cũng gần kề, tự nhiên mọi thứ đều tan nhạt, đều buông bỏ danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần; không nghĩ ngợi, tính toán lo toan phải quấy, tốt xấu v.v… của thế gian; mỗi giờ mỗi phút tự nhắc nhỡ mình chánh niệm, nhất tâm niệm Phật.

A Duy Việt Trí còn được phiên là A Bệ Bạt Trí, dịch nghĩa là Bất Thoái Chuyển.

Theo sách Di Đà Yếu Giải, Ngẫu Ích Đại Sư nói: “A Bệ Bạt Trí, Hán dịch là Bất Thoái:

Vị Bất Thoái: Vào dòng thánh, chẳng đọa địa vị phàm phu.

Hạnh Bất Thoái: Luôn độ sanh, chẳng đọa địa vị Nhị thừa.

– Niệm Bất Thoái: Tâm tâm lưu nhập biển Tát Bà Nhã (Nhất Thiết Trí).

Trong Cõi Sa Bà này, Sơ Quả của Tạng giáo, bậc Kiến Địa của Thông giáo, bậc Sơ Trụ của Biệt giáo, bậc Tín Địa của Viên giáo gọi là Vị Bất Thoái. Bồ Tát của Thông giáo, bậc Thập Hướng của Biệt giáo, bậc Thập Tín của Viên giáo gọi là Hạnh Bất Thoái. Sơ Địa của Biệt giáo, Sơ Trụ của Viên giáo mới gọi là Niệm Bất Thoái”.

Cụ Hoàng Niệm Tổ giải thích như sau: Bất Thoái có ba thứ, loại cao nhất là Niệm Bất Thoái. Hành giả trong cõi này phải là bậc tu chứng Sơ Hoan Hỉ Địa trong Biệt giáo, hay bậc tu đến Sơ Phát Tâm Trụ trong Viên giáo mới phá được một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân rồi mới có thể trong mỗi niệm chứng nhập biển Tát Bà Nhã (Sarvajña: biển Nhất Thiết Chủng Trí, tức là quả hải của Như Lai). Bỏ cả nhị biên, hoàn toàn qui về Trung Đạo thì mới gọi là “niệm niệm lưu nhập biển Tát Bà Nhã”.

Như vậy, rất khó chứng được Niệm Bất Thoái, nhưng trong nguyện này, Phật lại nói: Mười phương chúng sinh nghe danh  phát tâm, nhất tâm niệm ta, liền sinh trong cõi ta, thành bậc A Duy Việt Trí Bồ Tát. Kinh Tiểu Bổn cũng dạy: “Cực Lạc quốc độ, chúng sinh sinh giả, giai thị A Bệ Bạt Trí” (Chúng sinh sinh về cõi nước Cực Lạc đều là A Bệ Bạt Trí).

Sách Yếu Giải còn giảng: “Nay trong Tịnh Độ, Ngũ Nghịch, Thập Ác; mười niệm thành tựu, ôm nghiệp đi vãng sinh thuộc về hạ hạ phẩm cũng đều được ba thứ Bất Thoái”. Người hạ hạ phẩm mà cũng chứng ba thứ Bất Thoái, trong một đời viên thành Phật quả thì thật là không đâu được như vậy, chỉ riêng mình Cực Lạc có siêu tuyệt, lạ lùng đặc biệt đến thế, dẫu suy nghĩ, biện luận cũng chẳng thể thấu đạt nổi, nên Sách Yếu Giải bảo: “Nếu chẳng phải là do tâm tánh đạt đến cùng cực, do sự un đúc kỳ diệu của trì danh, do đại nguyện của Di Đà thì làm sao mà được như vậy!”.

Cũng theo cụ Hoàng Niệm Tổ: Trong bốn mươi tám nguyện, hai nguyện này như hồng tâm của bia bắn tên, còn nguyện thứ mười tám lại là trung tâm của các hồng tâm vậy.