Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

VI. ĐỨC TUÂN PHỔ HIỀN ĐỆ NHỊ
(TT)

Nghịch lưu thập tâm: Mười loại tâm này đi nghịch dòng sinh tử, có thể giúp chúng ta tiêu tai, giải nạn, hóa giải được vô số tai biến của hiện tại thế gian. Phật ở trong kinh cũng thường nói:

“Nhược nhơn thức tác tâm, đại địa vô thốn thổ”: Nếu người nào cũng chân thật, nhận được cái tâm thì đại địa này không một tấc đất! Cái “đại địa vô thốn thổ” này, ý nói tất cả vấn đề thảy đều được giải quyết. Trở lại mười tâm nghịch lưu như sau:

1. Minh tín nhân quả:

“Minh” là trí tuệ, không phải mê tín. Phật nói trong tất cả kinh đều không rời nhân quả. Thế gian pháp hay Phật pháp đều không rời khỏi qui luật này. Nhân quả tuyệt đối không có mê tín. Cho nên, nhân thiện ắt được quả thiện; nhân ác nhất định cảm ác báo. Tuy nhiên, có một số hiện tượng trong xã hội dường như không tương ưng với nhân quả mà Phật pháp đã nói. Thật ra, không phải thế! Chẳng qua bạn chỉ nhìn thấy hiện tượng trước mắt mà chưa thấu triệt được nhân quả.

Lý nhân quả trong quan điểm Phật pháp, phải thông cả ba đời: Quá khứ, hiện tại và vị lai. Đời trước bạn tu thiện thì đời này bạn được giàu sang phú quí. Cho dù đời này bạn tạo rất nhiều tội nghiệp, cái phước thừa của bạn chưa hưởng hết, nên bạn vẫn tiếp tục hưởng phước. Nhưng, bạn nên biết, trong đời này nếu bạn chỉ hưởng phước mà không chịu tu phước, vẫn gây ác nghiệp thì phước báo của bạn dù lớn cũng tiêu hao rất nhanh. Nếu đời này bạn chưa thọ quả báo thì đời sau, hoặc đời sau nữa bạn sẽ rất thê thảm!

Trái lại, người ngày nay tu phước vẫn gặp hoàn cảnh khổ cực, không may là do đời trước họ không tu phước, ngày nay phải nhận thọ quả báo. Tuy nhiên, những nhân thiện họ tạo ra trong đời này không mất, đời sau họ sẽ được an vui, phú quí. Cho nên, người giàu sang không phải đời đời họ giàu sang, người nghèo khổ không phải đời đời họ chịu nghèo. Tạo hóa rất công bằng. Nhân quả báo ứng không hề sai lệch. Sau khi tin sâu vào lý nhân quả, bạn mới nhận ra trách nhiệm của mình, không đổ lỗi cho người khác hay bất cứ nguyên nhân nào.

2. Sinh trọng tàm quí, tự hổ khắc trách:

Rất biết xấu hổ, chính mình phải phát khởi tâm hổ thẹn, phải chăm chỉ nỗ lực ra công khắc chế mình, khắc phục tất cả phiền não, tập khí từ vô lượng kiếp đến nay.

3. Sinh đại bố úy (lòng rất sợ sệt):

Đường ác dễ vào mà rất khó ra, chớ nên lơ là xem thường. Khi Phật còn tại thế, Kỳ Viên tịnh xá có một ít công trình xây cất, xem thấy dưới đất có một tổ kiến, Phật nhìn thấy chỉ mỉm cười. Các đệ tử đi bên Phật thấy vậy không hiểu vì sao đức Thế Tôn mỉm cười những con kiến này?. Đức Phật nói: Đàn kiến này rất ngu si, bảy vị Phật xuất thế mà nó vẫn chưa thoát thân kiến!

Một vị Phật xuất thế là trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp. Bảy vị Phật xuất thế phải trải qua hai mươi mốt A-tăng-kỳ kiếp mà chúng vẫn chưa thoát thân kiến! Thảo nào rơi vào ác đạo thì thật khó ra!

Đường súc sinh cũng thế! Cõi ngạ quỷ, một ngày bằng một tháng của nhân gian ta. Tuổi thọ của ngạ quỷ (cách tính cũng như nhân gian, một năm mười hai tháng, ba trăm sáu mươi lăm ngày), đoản mạng cũng là một ngàn tuổi, mạng dài thì tới mấy vạn tuổi. Thật đáng sợ! Ngày tháng trong cõi ngạ quỷ không nhìn thấy mặt trời chỉ toàn là một màu tối đen. Thật quá kinh khiếp!

Cõi ngạ quỷ gọi là “Đao đồ”, chữ “Đao” là hình dung thường hay lo sợ có người đến giết mình. Cõi súc sinh gọi là “Huyết đồ”, ăn nuốt lẫn nhau. Địa ngục gọi là “Hỏa đồ” toàn là một biển lửa, thật là trường kỳ đau khổ! Phật dạy chúng ta phải có tâm lo sợ ba đường ác mà nỗ lực tiến tu, đoạn dứt “tham-sân-si” là cội gốc của tam ác đạo.

4. Phát lồ sám hối:

Không nên che dấu, không nên ngụy trang tội lỗi của mình. Phải dũng cảm. Có đủ dũng khí mà thố lộ công khai với mọi người, không sợ mọi người trách cứ. Mọi người trách cứ chính là giúp ta tiêu tai tội nghiệp.

5. Đoạn tương tục tâm:

Nhất định không để cho các ý niệm ác sinh khởi tiếp nối. Ý niệm ác vừa khởi, liền phải hàng phục nó, ngăn dứt nó. Cứ thế mà tu tập, chánh niệm, cảnh giác theo dõi trong từng Sát-na những ý niệm sinh khởi, như vậy mới chân thật làm được đoạn tất cả ác. Sau khi đoạn ác phải tu thiện. Nếu không tu thiện sẽ không thể tích công bồi đức. Chỉ có tích công bồi đức mới có thể thành tựu đại phước, đại thiện cho chính mình. Cho nên năm phần kế tiếp Phật dạy:

6. Phát Bồ Đề tâm

7. Đoạn ác tu thiện: tu công bù lỗi.

8. Thủ hộ chánh pháp:

Gìn giữ chánh pháp, điểm này vô cùng quan trọng! Phải biết hộ pháp còn quan trọng hơn so với hoằng pháp. Thực tế mà nói, thế gian này không phải không có người hoằng pháp, nhân tài hoằng pháp rất nhiều, nếu không gặp được thiện hộ nhiệt tâm, nhân tài hoằng pháp cũng sẽ bị mai một, ngay trong một đời họ chỉ có thể tự lợi mà không thể lợi tha.

Công đức và trách nhiệm của hộ pháp rất lớn. Khi Phật còn tại thế, đem việc hộ pháp này ủy thác cho quốc vương, đại thần, trưởng giả. Họ có năng lực hộ pháp, có oai thế, có tiền của, có thể xây dựng đạo tràng, bố trí an ổn, bồi dưỡng pháp sư, khải thỉnh pháp sư nơi này hoằng pháp lợi sinh. Cho nên, muốn Phật pháp hưng vượng, bốn chúng đệ tử đều phải biết làm công việc hộ pháp này.

Ngày trước, khi tôi còn trẻ học Phật, nếu không gặp được Hàn Quán Trưởng trong ba mươi năm toàn tâm toàn lực hộ trì, chúng ta sẽ không có thành tựu ngày nay. Nếu không có được sự hộ trì của người này, tôi nghĩ chỉ có hai con đường để đi: Một là làm kinh sám, sẽ bỏ việc giảng kinh, không có cơ hội giảng cho mọi người, hai là đành phải hoàn tục! Mới biết công đức hộ pháp không thể nghĩ bàn!

Hộ trì Phật pháp không phải đơn giản! Cả nhà Hàn cư sĩ giúp tôi cũng gặp rất nhiều khổ nạn. Thế nhưng, bà hiểu được, bà sáng suốt, bà không bị quấy nhiễu bởi hoàn cảnh bên ngoài. Trên bục giảng kinh, nếu giảng không hay người khác sẽ cười bạn, đây là chướng ngại nhỏ. Nhưng bạn giảng được không tệ, thính chúng rất hoan hỉ tán thán; người đố kỵ sẽ liền đến, là không thể tránh khỏi! Người đố kỵ sẽ nghĩ hết cách để phá hoại, đến khiêu khích, đến sinh sự! Nhất là ngày trước tôi ở trong nhà của Hàn Quán Trưởng. Tôi là người xuất gia, bước đến không có con đường nào để đi, không có chùa nào có thể dung chứa, phải ở trong nhà cư sĩ hết mười bảy năm, không phải thời gian ngắn! Người khiêu khích sinh sự là không  thể tránh khỏi! Người trong nhà của họ phải có sức nhẫn chịu được. Nếu như không thể nhẫn chịu được, họ sẽ nói:

– Pháp sư à! Không được rồi! Ông ở đây, tôi không thể chịu đựng nổi áp lực bên ngoài, thì tôi đành phải ra đi!

Rất may! Người trong nhà họ sáng suốt, họ có thể chịu đựng được bất cứ dèm pha, nhục mạ gì, họ đều không để ý. Việc này cũng rất khó làm, không phải dễ dàng! Cho nên, thành tựu của chúng ta, chân thật là rất cảm kích đối với bà. Không có bà, sẽ không có thành tựu ngày hôm nay, cũng không có thư viện Hoa Tạng ở Đài Bắc, cũng không có Tịnh Tông Học Hội. Cho nên, công đức hộ trì thật chẳng thể nghĩ bàn!

Hộ trì phải có trí tuệ chân thật, có Định lực chân thật. Trí tuệ có thể phân biệt phải quấy; Định lực giúp không bị cảnh giới bên ngoài quấy nhiễu, có thể kiên trì, sau cùng mới có thể thành tựu. Cho nên, khi Quán Trưởng vãng sinh, hai lần nhìn thấy A Di Đà Phật đến an ủi bà, xem thấy hải hội Liên Trì. Điềm lạ đích thật là tương ưng với công đức của bà.

Ngày nay, bạn thấy người xuất gia chúng tôi đắp cái y này, màu sắc này là màu cà phê, không phải y màu đỏ, áo tràng màu vàng như thông thường. Ngày trước, khi Hàn Quán Trưởng bệnh nặng, có một hôm tôi bỗng nghĩ ra màu sắc y của chúng ta không như pháp! Phật nói: Y nhiễm sắc tránh dùng năm loại màu chính là: đỏ, vàng, xanh, trắng, đen. Cho nên, y phục nhà Phật là màu ca sa, là y nhiễm sắc không phải chính sắc.

Tôi nghĩ đến điểm này liền điện thoại cho tiệm may Tăng phục, mời họ may cho chúng tôi loại y phục như pháp này. Chủ tiệm may Tăng phục buổi tối liền đến thư viện đo y phục cho chúng tôi, luôn tiện tôi nhờ ông ấy có thể hoàn tất nhanh hơn một chút để may cho chúng tôi. Ông nói: Buổi trưa A Di Đà Phật đến tiệm may   dặn bảo: thư viện có việc gấp, bảo ông mau làm cho xong. Ông nói: Vật liệu may mặc ông đã chuẩn bị xong hết. Thật là không thể nghĩ bàn! Chúng ta khởi một niệm đúng pháp, liền có thể cảm ứng được A Di Đà Phật.

Hộ Pháp”: Chúng ta có thể thỉnh những bậc cao tăng, đại đức, không luận là tại gia hay xuất gia đến giảng kinh, chỉ cần họ chân thật có tu, có học thì có thể mời họ. Thế nhưng, họ đến giảng kinh phải thông hiểu đại chúng đang tu pháp môn gì? Họ giảng kinh luận gì? Nhất định phải phù hợp với việc tu học của đại chúng thì mới đúng. Mọi người đều tu pháp môn Niệm Phật, đều cùng một mục tiêu cầu sinh Tịnh Độ, nếu mời Pháp sư đến giảng về tham thiền, về trì chú thì sai rồi, việc này không nên!

Người hộ pháp không những bảo hộ chính mình mà còn phải hộ pháp cho đại chúng. Ở đây, chúng ta không kỳ thị mà chỉ gìn giữ tín tâm, định tâm của đại chúng, thâm tín thiết nguyện, tuyệt đối không để người khác làm sai lệch mục tiêu! Trong Phật pháp thường nói: “Muốn Phật pháp hưng thịnh, chỉ có Tăng khen Tăng”. Đôi bên tán thán lẫn nhau, Phật pháp mới có thể hưng khởi.

Thế nhưng, hiện tại thông thường, nhất là Pháp sư trẻ tuổi, chưa nhận được giáo huấn chính qui, không hiểu được đạo lý này, đến đâu họ luôn là người giới thiệu về mình, chính mình tu học con đường này rất tốt. Họ có thành kiến, nên đối với pháp môn khác, họ liền có phê bình, vậy thì rất dễ dàng dẫn sai người khác tu học! Việc này thông thường chúng ta gọi là không biết lễ phép!

Người xưa thường nói: “Thà làm động nước trăm sông, không động tâm người tu niệm”. Họ đã tu Pháp môn này mười năm, hai mươi năm rồi thì không nên tùy tiện dao động họ. Đó là một việc rất tàn khốc! Phá hoại tín tâm của người khác, khiến họ đâm ra hoài nghi, nhiễu loạn lòng người là việc không nên làm! Cho nên, bất cứ nơi nào mời chúng ta đến giảng, chúng ta phải hỏi thăm dự liệu trước: Chỗ họ tu theo pháp môn gì? Tu được bao lâu? Do ai hướng dẫn? v.v…Nếu đạo tràng đó không phải chuyên tu một pháp môn nào, thì ta có thể tùy tiện giảng. Có đạo tràng không tìm được Pháp sư hoằng pháp, cứ thấy Pháp sư nào đi ngang qua đó, cũng đều thỉnh hết, cứ mặc họ tùy tiện giảng không cần phải chọn lựa!

Cho nên, hoằng pháp có được hiệu quả hay không, then chốt là ở hộ pháp. Người đại hộ pháp, nhất định phải có đại trí tuệ, có tổ chức, có nhân lực lẫn tài lực. Nếu không có phước báo, chỉ có trí tuệ thì đành học giảng kinh.

Thủ hộ chánh pháp vô cùng quan trọng! Chánh pháp có thể cửu trụ thế gian hay không? Có thể lợi ích chúng sinh hay không? đều ở sự khéo léo hộ trì.

Cư sĩ Lý Mộc Nguyên nói rất hay: “Chúng ta không có phước báo, A Di Đà Phật có đại phước báo. Chúng ta không có trí tuệ, A Di Đà Phật có đại trí tuệ. Cả đời chúng ta chỉ cần dựa vào A Di Đà Phật: Không có trí tuệ cũng biến thành có trí tuệ; không có phước báo cũng thành có phước báo. Dựa núi này thật tốt! Chân thật dựa được chắc”. Cho nên, Lý Mộc Nguyên đã tìm được cái núi tốt để dựa.

Mười năm qua, từ nơi công việc của Phật giáo được thuận buồm xuôi gió. Cách dựa núi này của ông thật hay, thật chắc, thật khiến mọi người nghe qua đều cảm động! Lý Mộc Nguyên, mười năm trước đã bị bệnh ung thư. Năm đầu tiên khi tôi gặp ông, ông rất mập như Bồ Tát Di Lặc với cái bụng rất to, người rất tráng kiện. Năm thứ hai, thứ ba sau đó, bỗng chốc ông liền ốm xuống. Lúc đó, tôi vẫn không để ý! Ông nói với tôi: Bác sĩ đã chẩn đoán ông bị ung thư và nói thọ mạng ông nhiều nhất chỉ còn khoảng sáu tháng! Những phim chụp quang tuyến, những báo cáo về bệnh trạng của ông, nay vẫn còn khoảng ba, bốn mươi tấm phim chụp, nội tạng bên trong không còn chỗ nào tốt.

Ông là một Phật tử thuần thành, biết chính mình mắc căn bệnh này là không thể cứu, nên đem tất cả tài sản, việc buôn bán trong nhà thảy đều giao hết cho vợ; thẻ tín dụng đều trả cho ngân hàng, trên người ông không còn bất cứ thứ gì. Ở đạo tràng Cư Sĩ Lâm, ông làm công quả, sống một ngày làm một ngày, đợi lúc vãng sinh. Bạn xem! Ông đã đợi mười mấy năm, sức khỏe lại càng ngày càng tốt! Hiện tại đi tái khám mới hay không có thứ bệnh nào. Cho nên, giới y học ở Singapore cho ông là một kỳ tích. Bởi ông không có khám bệnh, không tìm bác sĩ, không hề uống thuốc, tất cả đều buông bỏ! Có người giới thiệu ông bác sĩ giỏi, ông vẫn không tìm gặp, chỉ chuyên tâm niệm Phật, chờ Phật đến tiếp dẫn. Tế bào ung thư trong toàn thân ông quả nhiên tiêu hết. Hơn nữa, hiện tại thân thể ông khỏe mạnh còn vượt hẳn hơn người thường.

Ông nói với tôi, năm trước thăm viếng Trung Quốc Đại Lục, đến phương Bắc khí hậu lạnh, ông cũng chỉ mặc chiếc áo sơ mi. Ông không lạnh! Mùa đông, thân thể ông phát nhiệt, mùa hạ thân ông mát. Thật không thể nghĩ bàn! Cuộc đời còn lại, ông chân thật hy sinh! Chân thật phụng hiến! Triệt để vì Phật pháp, vì xã hội, vì chúng sinh! Ông cùng với A Di Đà Phật, với chư Phật Như Lai, đồng tâm, đồng nguyện, đồng hiểu, đồng làm. Tín tâm của ông thật sự vô cùng kiên định.

Mười năm trước lâm bệnh phải chết, đó là do “nghiệp báo thân”của ông. Hiện tại, ông chuyển “nghiệp báo thân” của ông thành “thân nguyện lực”; “nguyện thân” chính là thừa nguyện trở lại. Phước báo ông ngày nay là do chư Phật Như Lai gia trì, do tất cả chúng sinh có phước, ông liền có phước. Đó là hiện thân ông nói pháp ngay trước mắt chúng ta. Cũng có thể nói, ông là Bồ Tát sống!

Ông ăn uống rất đơn giản, có người biếu ông thức ăn ngon, bổ dưỡng, ông liền tặng lại cho người khác, bản thân ông không cần đến.

Trường hợp của cư sĩ Lý Mộc Nguyên là “chuyển nghiệp sám”; căn bệnh ngặt nghèo đó là “nghiệp báo”, ông có thể chuyển. Nên biết, ông có thể chuyển, chúng ta cũng có thể chuyển. Trường hợp cá nhân tôi, thầy tướng xem tôi đoản mạng, không sống quá bốn mươi lăm tuổi, tôi cũng đã chuyển nghiệp. Cả đời này học Phật thì ngay đời này chuyển. Đích thật là vậy! Tôi chuyển còn nhẹ nhàng hơn Lý Mộc Nguyên. Ông còn mang một chút bệnh, tôi chỉ bệnh qua một tháng vào năm bốn mươi lăm tuổi. Tôi biết tuổi thọ mình đã đến nên cũng không tìm bác sĩ, cũng không uống thuốc. Mỗi ngày chỉ ăn một ít cháo lỏng với một ít rau, niệm A Di Đà Phật chờ vãng sinh. Niệm qua một tháng thì hết bệnh.

9. Niệm mười phương Phật:

Chính là niệm A Di Đà Phật. Vì sao? Vì mười phương ba đời tất cả chư Phật đều niệm A Di Đà Phật; chúng ta niệm A Di Đà Phật chẳng phải là niệm mười phương chư Phật hay sao? Nếu không tin, mỗi ngày lạy vạn Phật, lạy mười hai ngàn danh hiệu Phật, có niệm được hết mười phương chư Phật chăng? – Không hề niệm được! Mười phương chư Phật vô lượng, vô biên, bạn mới niệm có mười hai ngàn niệm, vậy thì sót lọt rất nhiều! Niệm một câu A Di Đà Phật, xin nói với bạn: Sẽ không sót một vị Phật nào.

Cũng thế, bạn tụng Kinh Vô Lượng Thọ cũng chính là bạn đã tụng tất cả kinh mà chư Phật đã giảng. Vì sao? Vì mười phương ba đời tất cả chư Phật, không vị nào mà không giảng Kinh Vô Lượng Thọ, các kinh khác thì không nhất định phải giảng. Chúng ta phải hiểu được đạo lý này. Kinh Vô Lượng Thọ là giới thiệu thế giới Tây Phương Cực Lạc, cũng chính là khuyên chúng ta niệm A Di Đà Phật cầu sinh Tịnh Độ. Chúng ta phải ngay chỗ này mà xây dựng tín tâm kiên cố.

10. Quán tội tánh không:

Trên kinh Phật nói “vạn pháp giai không”, “vạn pháp do duyên sinh”. Phàm hễ do duyên sinh thì ngay nơi thể đều không, không thể có được. Tất cả tội nghiệp cũng là biểu thị trong tất cả vạn pháp. Cho nên, tội nghiệp ngay nơi thể của nó cũng là không. Phép quán này chỉ dành cho những bậc đã chứng đắc, có trí tuệ chân thật mới khế nhập được “Không tánh”. Đối với phàm phu chúng ta ngã chấp, pháp chấp còn quá sâu nặng, vạn lần không nên nghĩ tội nghiệp là không, rồi cứ tha hồ tạo tội, đó là sai lầm rất lớn. Cho nên, phải tỉ mỉ mà thể hội được điểm này.

Tóm lại, qua hai mươi điều: “Thuận lưu thập tâm” “Nghịch lưu thập tâm”, đức Phật đã chỉ dạy rất tường tận cho chúng ta, mười tâm nên tránh và mười tâm nên phát khởi hầu tiêu tai tội nghiệp, thoát vòng sinh tử. Nếu không thể nhớ hết được những lời dạy trên, chỉ còn cách sám hối đơn giản và hiệu quả nhất đó là niệm Phật.

Ngày trước, năm đầu nhà Thanh, Từ Vân Quán Đảnh Pháp sư có trước tác mười thể loại rất phong phú, trong đó có một bộ “Sớ Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh”, ngài nói: Tất cả chúng sinh tạo tội nghiệp cực trọng, bất cứ kinh luận sám pháp nào cũng không cách chi sám trừ được hết tội nghiệp, duy chỉ niệm A Di Đà Phật mới có thể sám trừ hết tội nghiệp. Lời nói của ngài thật có căn cứ, không phải tùy tiện. Công án này ngay nơi “Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh”, trong đó nói vua A-Xà-Thế nghe lời xúi giục của Đề Bà Đạt Đa giết cha, hại mẹ, phá hòa hợp tăng, làm thân Phật ra máu, ông thảy đều phạm hết. Tội nghiệp như vậy, bao gồm tất cả pháp sám hối trong kinh luận của Phật đều không có cách chi sám trừ hết tội nghiệp của ông ấy. Thế mà trong “A Xà Thế Vương Kinh” có đề cập: Đến phút lâm chung, ông chân thật sám hối, một lòng niệm A Di Đà Phật cầu sinh Tịnh độ, ông thật đã được vãng sinh. Không những được vãng sinh mà phẩm vị của ông còn rất cao là “Thượng phẩm trung sinh”.

Cho thấy, Pháp môn Tịnh Độ rất thù thắng, tạo tội ngũ nghịch, thập ác, lý đáng phải đọa A-Tỳ địa ngục, còn được cứu, chỉ cần chân thật sám hối, thật sự hồi đầu phát nguyện vãng sanh. Sự việc này khiến chúng ta sâu sắc cảm nhận: Đối với những người ác tạo tội nghiệp ở thế gian, chúng ta nhất định cũng không dám khinh thường họ. Vì sao? Biết đâu đến lúc lâm chung, họ chân thật sám hối, niệm Phật được vãng sinh, phẩm vị của họ không chừng còn cao hơn chúng ta. Cho nên, vãng sinh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới gồm hai loại người: Một loại bình thường niệm Phật, đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một loại khi lâm chung sám hối vãng sinh.

Pháp sám hối trong nhà Phật còn dạy chúng ta: Khởi đại bi tâm, oán thân bình đẳng. Nên biết, người khác phỉ báng, nhục mạ, hãm hại ta là do quả báo của đời này hoặc đời trước của ta. Ngày nay, gặp lại họ tương báo lẫn nhau thì nên vui lòng tiếp nhận. Oán thù nên mở không nên trói! Khi tâm oán hận, báo thù không còn nữa, nợ này đến đây đã kết thúc, đây mới là phương cách thông minh, trí tuệ. Được vậy, trên đạo Bồ Đề mới thuận buồm xuôi gió, không còn có chướng ngại. Huống hồ trên kinh Phật nói: “Ư nhất thiết xứ nhi bất trụ tướng”. Kinh Bát Nhã cũng nói: “Ly nhất thiết tướng tức nhất thiết pháp”, bao gồm tất cả hiện tượng, không nên để trong lòng; trước mọi hoàn cảnh chẳng nảy sinh yêu, ghét. Cảnh thuận hay nghịch đều giúp ta trải nghiệm tự thân, tu tâm thanh tịnh. Đây mới thật là người tu đạt đến “tâm an lý đắc”, đời sống chân thật mỹ mãn.

Hiện tại, người thế gian ô nhiễm tinh thần, ô nhiễm tư tưởng, ô nhiễm kiến giải vô cùng nghiêm trọng! Dùng phương pháp gì để phòng bị, để đối trị? Dùng tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng! Trong tâm bình đẳng, quan trọng nhất là oán thân bình đẳng. Oán thân bình đẳng thì mọi thứ khác đều có thể bình đẳng.

5. TÙY HỈ CÔNG ĐỨC

Chúng ta xem thấy nhiều đạo tràng có đặt thùng phước sương, bên trên ghi là thùng công đức, cho rằng tiền để vào đó là có công đức, vậy là sai rồi! Không hề có công đức!

Thuở xưa, vua Lương Võ Đế nổi tiếng là một Phật giáo đồ kiền thành, một đại hộ pháp của nhà Phật. Khi ông còn đương vị, đã kiến tạo bốn trăm tám mươi ngôi đạo tràng, nay gọi là tự viện, qui mô đều rất lớn, khích lệ người xuất gia, độ chúng hàng mấy trăm ngàn người. Lúc tổ sư Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ đến Trung Quốc, nghe danh Lương Võ Đế nhiệt tâm hộ pháp, liền đến bái kiến. Lương Võ Đế rất vui mừng tiếp kiến Tổ Sư, luôn tiện kể lại thành tích của mình cho Bồ Đề Đạt Ma.

Ông hỏi Tổ sư: – Vậy trẫm có được công đức chăng? Đạt Ma Tổ Sư nói: – Không có công đức gì? Vì sao? Việc làm của vua Lương Võ Đế chỉ có thể xem là phước đức, không phải công đức. Công đức phải do chính mình tu tập mới được. Nêu ra một thí dụ: “Trì giới” có “công” (cái “công” này là công phu); được “Định” tức là “đức”. Cho nên “công” là tu nhân, “đức” là chứng quả. Được “Định” mới gọi là công đức. Chưa được Định, việc “trì giới” chỉ là phước báo, chưa được công phu.

– Vì sao có người trì giới được Định, lại có người trì giới không được Định?

– Chính là đúng pháp hay không đúng pháp! Tu học đúng pháp có “công”. Tu học không đúng pháp không có “công”. Điểm này chúng ta phải tường tận.

Lục Tổ ngày xưa dạy người trì giới: “Nhược chân tu đạo nhân, bất kiến thế gian quá”, nếu là người chân chánh tu hành thì không thấy lỗi của thế gian. Không thấy lỗi của thế gian thì việc trì giới của bạn mới tốt, mới có công đức. Nếu trì giới còn thấy lỗi của người không trì giới, sinh tâm xem thường, kết quả trì giới của bạn chỉ được cái cống cao ngã mạn, làm sao được công đức! Có chăng chỉ là phước báo hữu lậu trong sáu đường.

Chỗ này, tôi không nói phước báo nhân thiên mà nói phước báo trong sáu đường. Vì sao? Vì nếu bạn không được thân người, mà được thân súc sinh hay ngạ quỷ, bạn cũng hưởng phước. Bạn thấy đó! Có súc sinh được người nuôi nấng, rất mực yêu thương, chăm sóc, xem chúng như bảo bối, chúng là chủ cả nhà rồi! Phước báo trong cõi ngạ quỷ cũng không nhỏ, trong nhân gian Trung Quốc, chúng ta xem thấy họ cúng bái quỷ thần như: Sơn thần, Thổ địa, Thần hoàng đều là cõi ngạ quỷ. Những quỷ thần này có tu phước nên dù trong cõi quỷ vẫn hưởng được phước.

Tùy hỉ công đức”, ý nghĩa rất sâu. Đức Phật biết được phiền não, tập khí của chúng sinh là do tích lũy từ vô lượng kiếp, thế nên phải biết sám trừ. “Tùy hỉ công đức” là để đối trị tâm ngạo mạn, tâm đố kỵ. Chỉ một niệm chuyển đổi, liền biến thành vô lượng công đức. Phật và chúng sinh khác nhau ở chỗ này. Người thế gian thông thường thấy người khác hơn mình thì sinh tâm đố kỵ, muốn tìm cách phá hoại, gây chướng ngại để họ không thành tựu. Đây là tạo tội nghiệp rất nặng.

Thánh nhân thế gian dạy ta phải “thành nhân chi mỹ”, thấy người khác làm việc thiện, phải tận tâm tận lực mà giúp họ. “Tùy hỉ công đức” là vui theo công đức của họ thì bạn cũng được phần công đức ngang bằng với họ. Ví như nhà họ có ngọn đèn sáng, bạn đến cùng mồi đèn với họ thì ánh sáng đèn của bạn cũng sáng như ngọn đèn của họ, đây là bạn thông minh. Nếu dập tắt ngọn đèn của người thì kết quả bạn cũng chìm trong bóng tối! Hiểu được đạo lý này, chúng ta cũng có thể chuyển công đức của A Di Đà Phật thành công đức của chính mình.

– Bằng cách nào vậy?

– Y theo Kinh Vô Lượng Thọ này mà tu học, hết lòng thọ trì, đọc tụng, vì người diễn nói, đồng tâm, đồng nguyện, đồng đức, đồng hạnh với A Di Đà Phật, vậy thì bạn đã thành công.

6. THỈNH CHUYỂN PHÁP LUÂN

Chúng ta biết rằng trong thế gian chỉ có Phật pháp là chân thật có thể giúp người giác ngộ, phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, liễu sinh tử, xuất tam giới, viên thành Phật đạo, hiện đời gia đình được mỹ mãn, an vui hạnh phúc, sự nghiệp thuận lợi thành công, xã hội hài hòa, quốc gia hưng thịnh, thế giới hòa bình. Đích thật Phật pháp là quảng đại vô biên, tất cả các pháp khác đều không thể sánh bằng.

Tuy nhiên, nếu Phật pháp không có người thuyết thì “tuy trí mạc năng giải”, người thế gian dù có thông minh, trí tuệ đến đâu, đối với Phật pháp họ cũng không cách chi hiểu được, nên phải có người thuyết. Người thuyết pháp không phải tự nhiên mà đến, nhất định phải có người phát tâm thỉnh cầu. Cho nên, thỉnh pháp sư, đại đức đến thuyết giảng kinh, diễn nói Phật pháp là kiết tường bậc nhất, khiến người nghe sinh tâm hoan hỉ, giác ngộ. Có giác ngộ thì tai nạn, nghiệp chướng mới chân thật tiêu trừ. Chuyển đổi sai lầm của mọi người là công đức vô biên, là đệ nhất phước báo.

Chữ “Pháp luân” ở đây có nghĩa là viên mãn. “Luân” là bánh xe, là tròn, là động mới kéo theo khoa học kỹ thuật hiện đại. Ngày nay, khoa học phát triễn chính do động lực của bánh xe khởi động. Ngoài ra còn một ý nghĩa sâu hơn: Tròn là động; tâm vòng tròn là tịnh không động. Phật pháp thường nói: “Động, tịnh không hai; thể tướng nhất như”.

7.   THỈNH PHẬT TRỤ THẾ

Việc này cũng vô cùng quan trọng! Hiện tại, Phật không còn ở thế gian, chúng ta chỉ có thể đắp nắn tượng Phật để cúng dường, tượng trưng cho Phật pháp vẫn thường trụ ở thế gian. Những Pháp sư, Đại đức thay Phật nói pháp, chúng ta phải nên mời họ đến đạo tràng để giảng kinh nói pháp trong thời gian dài. Được vậy, chúng ta mới có thể chân thật được phần lợi ích, vì có mấy ai chỉ nghe kinh một lần mà có thể khai ngộ, liền được chứng quả. Không hề có!

– Nếu không có phải làm sao?

– Phải ngày ngày nghe! Thực tế mà nói, chúng ta ngày nay phước báo không bằng người xưa. Ngày trước, trong Tòng lâm tự viện Trung Quốc, mỗi ngày đều có giảng kinh không hề gián đoạn. Đại Sư Thanh Lương năm xưa ở đời đã giảng Kinh Hoa Nghiêm đến năm mươi lần, việc này lịch sử có ghi chép. Người thân cận với Đại sư, nếu có lòng nhẫn nại, dưới hội của ngài, được nghe qua năm mươi lần, có lý nào mà không ngộ được.

– Chúng ta ngày nay nghe kinh khó khăn là do đâu?

– Một ngày nóng đến mười ngày lạnh!

Đạo tràng Cư Sĩ Lâm, mỗi ngày đều giảng kinh, không quá hai giờ đồng hồ. Trong hai mươi bốn giờ, chỉ có hai giờ nghe kinh, vẫn còn hai mươi hai giờ khởi tâm vọng tưởng, làm sao có được thành tựu! Pháp sư tòng lâm vào thời xưa, mỗi ngày giảng kinh tám tiếng đồng hồ. Một bộ Kinh Hoa Nghiêm, mỗi ngày giảng tám giờ, một năm mới giảng xong viên mãn. Chúng ta mỗi ngày chỉ giảng có hai giờ, phải mất bốn năm mới hoàn tất. Đại Sư Thanh Lương thật hơn người. Ngài sống đến trên một trăm tuổi. Người thời đó gọi ngài là Bồ Tát Hoa Nghiêm, thực tế là không thể nghĩ bàn!

Vào đầu năm Dân Quốc, đạo tràng Trung Quốc đại khái chỉ còn lại một đạo tràng niệm Phật của Đại Sư Ấn Quang ở chùa Linh Nham Sơn, Tô Châu. Đặc sắc của đạo tràng ngài không có giảng kinh, không có Pháp hội, không có kinh sám pháp sự, Phật thất suốt năm, chỉ một câu Phật hiệu niệm đến cùng. Một ngày, sáu cây hương; mỗi cây hương một tiếng rưởi đồng hồ; sáu cây hương là chín giờ đồng hồ. Mỗi ngày niệm Phật chín tiếng đồng hồ, ngày đêm không gián đoạn. Buổi tối là thay phiên, suốt năm làm “tinh tấn Phật thất”. “Tinh tấn Phật thất” của ngài là bảy lần bảy liên kết lại với nhau. Mười cái bảy liên kết lại, thêm hương, chín cây hương niệm Phật. Cho nên, phàm trong Niệm Phật Đường của Ấn Tổ, người niệm Phật ở nơi đó qua vài năm, không luận là tại gia hay xuất gia, cuối cùng họ vãng sinh đều có tướng lạ rất tốt.

Sau khi Ấn Tổ vãng sinh, Diệu Chân Đức Sâm, lão Pháp sư này kế thừa qui củ của Ấn Tổ được một thời gian. Sau năm kháng chiến, đạo tràng cũng suy vi. Hiện tại, chúng ta nếu muốn xây dựng một đạo tràng mới như vậy đều không thể đủ cơ duyên! Chỉ có đạo tràng như vậy mới có thể rèn luyện được chúng sinh, chân thật có thể thành tựu chúng sinh. Cho nên, xây dựng một đạo tràng công đức vô lượng vô biên. Phải xây dựng một đạo tràng chân thật tu học, có người ở đó thành Phật; vãng sinh chính là bất thoái thành Phật, công đức đạo tràng này sẽ rất lớn. Cho nên, thiện tri thức đối với việc tu học của chúng ta là vô cùng quan trọng.

– Làm thế nào lưu được thiện tri thức ở lại đạo tràng?

– Người chân thật học Phật, chân thật tu hành, không có tình riêng, không nói nhân tình. Cho dù nơi đây bạn tiếp đãi rất tốt, rất nồng hậu, cũng không cách chi giữ chân họ lại!

– Vậy phải dùng phương cách gì?

– Phải y giáo phụng hành! Mọi người đều chân thật muốn học, muốn tu, muốn ngay trong đời này thành Phật. Đây chính là “Đại tâm phàm phu” mà Kinh Hoa Nghiêm đã nói. Cho dù không tìm được thiện hữu; Phật, Bồ Tát cũng sẽ hóa thân đến đây chiếu cố mọi người. Vấn đề là chúng ta có chân thật phát tâm chưa? Chân thật mới có thể cảm động được thiện tri thức thường trụ ở khu vực này, chúng ta mới có cơ duyên học tập, huân tu thời gian dài, mới có thể được lợi ích chân thật.

Hiện tại, khoa học phát triễn, người chân thật hiểu được hộ pháp thì quá ít! Chân thật hiểu được hộ pháp đó là Bồ Tát, không phải người thông thường. Người chân thật có đại trí tuệ, đại phước báo không cần xây đạo tràng. Xây đạo tràng không khởi được tác dụng lớn mà nên xây đài truyền hình vệ tinh, giảng kinh hai mươi bốn giờ không ngừng nghỉ, để mọi người trên toàn thế giới đều có thể xem được mà không cần phải đến đạo tràng. Nếu chân thật muốn học Phật, ở nhà họ chỉ cần mở máy truyền hình, một ngày nghe kinh tám tiếng đồng hồ, đây thật sự là đem Phật pháp trực tiếp đến nhà người. Thật vô cùng quan trọng, vô cùng hữu dụng!

Bình thường tổ chức một đoàn hoằng pháp chừng mười mấy, hai mươi người cũng đủ rồi. Những pháp sư này, ngày ngày trong phòng thu âm giảng kinh, ghi hình lại. Xong mang đến đài truyền hình vệ tinh để phát sóng, đây là đại đạo tràng khoa học kỹ thuật cao. Phải xây dựng đạo tràng như vậy, không nên xây chùa, tốn kém nhiều tiền, tiền chôn trong đất thật đáng tiếc! Không có tác dụng lớn!

Ngày nay, phải sử dụng số tiền đó vào những việc hữu dụng hơn như: Bồi dưỡng giảng sư trong phòng thu âm giảng kinh, ghi hình; thiết bị trong phòng thu âm phải thật tốt; cúng dường những pháp sư này để họ chuyên tâm nghiên cứu Phật pháp Đại Thừa, không bận tâm lo lắng về đời sống vật chất. Mỗi bộ kinh giảng đều có ghi hình, thu âm lại, tương lai chính là một bộ “Đại tạng kinh sống”. Chân thật là lợi ích và ý nghĩa vô cùng! Bất cứ nơi đâu, chúng sinh thích nghe kinh gì, chúng ta liền cho phát ra bộ kinh luận đó.

Ngoài giảng kinh, nói pháp, chúng ta cũng giúp người niệm Phật. Hai mươi bốn giờ Phật hiệu không gián đoạn; tượng Phật trang nghiêm nhất hiển thị trên màn hình. Họ vừa xem thấy A Di Đà Phật, vừa nghe được Phật hiệu A Di Đà Phật, theo đó mà niệm.

Trong nhà cũng có thể tu Phật thất, có thể làm được mỗi ngày nghe kinh tám tiếng, niệm Phật tám tiếng. Phước báo này so với người xưa không hề khác biệt. Người xưa phải tận dụng công sức để xây dựng rất nhiều đạo tràng mới có thể phổ độ chúng sinh. Ngày nay, chỉ dùng một đài truyền hình vệ tinh cũng đủ rồi.

Nếu chân thật có tài lực, có loại trí tuệ này, phải nên chính mình là một chuyên nghiệp, hoàn toàn là truyền hình, truyền thanh vệ tinh của Phật giáo, phát sóng cho toàn thế giới.

Ngày nay, chúng ta chưa đủ sức, thiết nghĩ cũng nên đem cái nghĩ cấu tưởng này truyền đạt cho các đồng tu. Mọi người đều có ý niệm này, mỗi người thường nghĩ, thì sự việc này tất sẽ tiến đến thành công. Tâm tưởng sự thành! Nếu chỉ một người nghĩ thì sức mạnh sẽ rất yếu kém.

Thỉnh Phật trụ thế” thật vô cùng quan trọng! Thế giới hiện nay giao thông thuận tiện, các mặt đời sống của con người cũng mở rộng, mỗi khu vực đều cần có Phật pháp; chúng ta không thể nào cung ứng được rất nhiều giảng sư đến khắp nơi giảng kinh nói pháp, đây là việc vô cùng khó khăn! Nhưng nhờ vào khoa học kỹ thuật cao, số người ít vẫn có thể hoàn tất được công việc này.

Có cơ duyên nữa, có thể cần một số phiên dịch, đem Hoa ngữ phiên dịch thành các loại ngôn ngữ cần thiết trên toàn thế giới. Ngày nay, nhờ sự phát triễn khoa học, thuận tiện hơn rất nhiều so với ngày trước. Chúng ta thiếu kém chính là thiếu hộ pháp. Nếu không người phát tâm hộ trì thì sự việc này sẽ rất khó làm! Công trình phiên dịch tương đối gian nan! Phải đem sự việc này làm cho tốt; vẫn là phải giữ qui củ, phương thức dịch kinh của người xưa. Nhất định không thể chỉ có một hoặc hai người mà có thể độc lập dịch ra được một bộ kinh.

Ngày trước, Trung Quốc dịch kinh đều từ tập thể làm ra. Phàm hễ tham gia dịch kinh, đó là một Pháp hội, thỉnh giảng sư, đại đức đến giảng bộ kinh này. Người dịch kinh phải tham gia nghe giảng tường tận mới khởi bản thảo. Nếu có nghi hoặc, lập tức phải hỏi. Sau khi dịch xong cảo bảng, phải đọc cho mọi người nghe, xem đại chúng có ý kiến gì, có từ, ý gì hay hơn không để nhuận danh, để tu đính, luôn là làm cho bản dịch đạt đến tận thiện, tận mỹ, khiến mọi người sinh tâm hoan hỉ khi tiếp xúc với kinh sách này.

Chúng ta xem thấy trên đề kinh Phật, đều có tên người phiên dịch. Người này là chủ biên trong đạo tràng dịch kinh đó, không nhất định phải do ông ta dịch.

– Vì sao phải dùng tên tuổi ông ấy?

– Ông ta hoàn toàn gánh trách nhiệm bản dịch này, cũng chính là chứng minh bản dịch này không sai, có thể lưu thông.

Trong lịch sử có ghi chép: Dịch trường của ngài Cưu Ma La Thập hơn bốn trăm người, dịch trường của Đại Sư Huyền Trang rất lớn, hơn sáu trăm người.

Tóm lại, người phiên dịch phải hiểu được Phật pháp, phải có tu, có học. Nếu chỉ hoàn toàn dựa trên mặt chữ để dịch thì không khéo hóa thành “y văn diễn nghĩa, tam thế Phật oan”, ba đời chư Phật đều bị hàm oan! Cho nên, phải biết “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa” trong bài “Kệ khai Kinh” thật không phải dễ dàng! Không thể khinh suất được!

Sau khi bản thảo thành tựu, vẫn tiếp tục thảo luận, tu đính lại. Tốt nhất, khi in ra bản thảo, nên gửi tặng những đại đức có nghiên cứu, có tu, có học, mời họ xem, mời họ đính chánh. Sau đó mới hoàn thành một quyển hoàn thiện để lưu hành thì sẽ không gặp vấn đề.

Dịch kinh rất khó! Rất quan trọng! Nhất là Kinh Hoa Nghiêm. Trong mỗi câu, mỗi chữ của Hoa Nghiêm đều hàm nghĩa biểu pháp rất sâu, nếu không hiểu nó mà dịch thì toàn văn sẽ biến thành “hai chân cao!” (lưỡng túc tôn), vậy thì thành ra thứ gì chứ?! Điều này nói lên nhân tài dịch kinh, chúng ta phải bồi dưỡng. Họ phải có tu, có học, có thể thông đạt hai loại ngôn ngữ, mới có thể đảm nhiệm công tác này. Nếu đối với kinh luận không thông đạt, cho dù cơ bản văn học họ có tốt đến đâu cũng không thể đảm trách được công việc này. Như kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật pháp không người nói, tuy có trí cũng không thể hiểu”. Người thế gian dù thông minh trí tuệ đến đâu, họ cũng không cách chi hiểu được Phật pháp, bởi kinh điển của Phật luôn luôn là ý ở ngoài lời; mỗi chữ, mỗi câu đều bao hàm rất nhiều ý nghĩa trong đó.

Trong mười nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, thật sự mà nói, chỉ có bảy nguyện: Từ nguyện thứ nhất “Lễ kính chư Phật” đến nguyện thứ bảy “Thỉnh Phật trụ thế” là bảy nguyện. Trong mỗi nguyện đều gồm cả sáu nguyện kia, dung nhiếp lẫn nhau. Ba nguyện sau cùng thuộc về “Hồi hướng”, cũng chính là:

– Hồi hướng Bồ Đề (thường tùy Phật học).

– Hồi hướng chúng sinh (hằng thuận chúng sinh).

– Hồi hướng Pháp giới (phổ giai hồi hướng).

8. THƯỜNG TÙY PHẬT HỌC

Thường tùy Phật học là hồi hướng Chánh Giác, hồi hướng Bồ Đề, Phật pháp hóa đời sống bằng những công tác phúc lợi xã hội. Cương lĩnh này rất trọng yếu! Phật là đối tượng, tấm gương sáng chói tiêu chuẩn nhất cho người học Phật, chúng ta phải theo Phật tu học, đây tức là “Thường tùy Phật học”. Mỗi ngày mở Kinh Vô Lượng Thọ ra đọc là mỗi ngày chúng ta tiếp nhận giáo dục, lời răn của Phật A Di Đà. Dùng tâm chân thành, tâm cung kính để đọc tụng thì mỗi ngày đều có thể khai ngộ, cũng chính là mỗi ngày ánh quang minh của Phật khai sáng trí tuệ cho ta, gia trì ta ngày ngày được Pháp hỉ sung mãn. Đây tức là có thọ dụng. Cứ thế mà nỗ lực, trường kỳ tinh tấn, bất thoái chuyển; sự tu học của chúng ta mỗi ngày một tiến bộ, chỗ giác ngộ mỗi ngày một nâng cao, có như vậy mới thật sự là đệ tử của Phật. Gìn giữ tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm giác ngộ là chúng ta tu theo hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền, thật sự đã làm được “thường tùy Phật học”, quả thật là không có luống qua.

9. HẰNG THUẬN CHÚNG SINH

Chúng ta phải học Bồ Tát Phổ Hiền, phải học Thiện Tài đồng tử năm mươi ba tham vấn. Chúng sinh tập khí không tương đồng, căn tánh thiện ác không giống nhau; không riêng ở thế gian này mà phạm vi mở rộng còn có lục đạo chúng sinh, thập pháp giới chúng sinh, cho đến tha phương thế giới chúng sinh vô lượng vô biên. Chúng ta trong tất cả mọi hoàn cảnh nhân sự, hoàn cảnh vật chất phải “hằng thuận chúng sinh”, phải tu tâm thanh tịnh, tu tâm bình đẳng; những gì thấy chướng mắt, từ từ luyện tập sẽ thấy thuận mắt, đây gọi là tu hành.

10. PHỔ GIAI HỒI HƯỚNG

Phổ giai hồi hướng là hồi hướng pháp giới, hồi hướng tự tánh, hồi hướng chân như, hồi hướng trang nghiêm Phật Tịnh Độ. Bồ Tát Phổ Hiền, trong danh hiệu này hiển thị: Chữ “Phổ”, ý nói Phổ Hiền Bồ Tát là “tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”; “thường tùy Phật học” và “hằng thuận chúng sinh” là nghĩa của chữ “Hiền”. Cho nên, trong ba câu hồi hướng đã bao hàm danh hiệu của Bồ Tát Phổ Hiền.

Bồ Tát Phổ Hiền trong Kinh Hoa Nghiêm đã phát nguyện cầu sinh Cực Lạc thế giới. Sau khi đến Tây Phương Cực Lạc, ngài nói: “Ngã ký vãng sinh bỉ quốc dĩ”, tôi đã vãng sinh đến cõi của Phật A Di Đà; “Hiện tiền thành tựu thử đại nguyện”, câu này rất quan trọng!

– Vì sao Bồ Tát Phổ Hiền phát nguyện cầu sinh Tịnh Độ?

– Vì đến Tây Phương Cực Lạc thấy được A Di Đà Phật thì mười đại nguyện của ngài mới viên mãn. Cho thấy, Tây Phương Cực Lạc thế giới thù thắng không chi sánh bằng, ngay đến Phổ Hiền, Văn Thù vẫn phải cầu sinh. Bồ Tát Phổ Hiền còn nói: “Phổ nguyện trầm nịch chư chúng sinh, tốc vãng Vô Lượng Quang Phật sát”. Nguyện vọng của Phổ Hiền hy vọng tất cả chúng sinh đang trầm luân trong luân hồi lục đạo, mau mau niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ. Đây cũng là phát nguyện “Phổ giai hồi hướng”.