Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

II. PHÁT ĐẠI THỆ NGUYỆN ĐỆ LỤC
(TT)

KINH VĂN:

Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sinh, văn ngã danh hiệu, phát Bồ Đề tâm, tu chư công đức, phụng hành lục Ba La Mật, kiên cố bất thoái. Phục dĩ thiện căn hồi hướng, nguyện sinh ngã quốc, nhất tâm niệm ngã, trú dạ bất đoạn. Lâm thọ chung thời, ngã dữ chư Bồ Tát chúng, nghênh hiện kỳ tiền, kinh tu du gian, tức sinh ngã sát, tác A Duy Việt Trí Bồ Tát. Bất đắc thị nguyện bất thủ Chánh Giác.

VIỆT DỊCH:

Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sinh, nghe danh hiệu tôi liền phát Bồ Đề tâm, tu các công đức, phụng hành sáu Ba La Mật, kiên cố bất thoái. Lại đem các thiện căn hồi hướng nguyện sinh cõi tôi, nhất tâm niệm tôi, ngày đêm chẳng ngớt. Lúc lâm chung, tôi cùng các Bồ Tát chúng hiện đến đón trước mặt, trong khoảnh khắc liền sinh sang cõi tôi, thành bậc A Duy Việt Trí Bồ Tát. Chẳng thỏa nguyện này, chẳng lấy Chánh Giác.

GIẢNG:

Chương này gồm nguyện thứ mười chín “văn danh phát tâm” (nghe danh phát tâm) và nguyện thứ hai mươi “lâm chung tiếp dẫn”. “Văn ngã danh hiệu” (Nghe danh hiệu tôi). Chữ danh hiệu ở đây chỉ cho danh hiệu vị giáo chủ cõi Cực Lạc là A Di Đà Phật.

Phát Bồ Đề tâm”: Bồ Đề là tiếng Phạn, cựu dịch là Đạo; tân dịch là Giác. Bồ Đề tâm là tâm cầu chân Đạo, tâm cầu Chánh Giác; còn có nghĩa là tâm tự giác, giác tha. Tâm Bồ Đề vô cùng rộng lớn, là “tâm bao thái hư, lượng khắp pháp giới”; cũng có thể nói tâm Bồ Đề là tâm giác ngộ cứu cánh viên mãn. Đại thừa kiến lập ở tâm Bồ Đề. Người Tiểu thừa không có phát tâm Bồ Đề, cho nên họ không ra khỏi mười pháp giới, có niệm Phật cũng không thể vãng sinh!

– Tâm giác ngộ cái gì?

– Giác ngộ hư không pháp giới, tất cả chúng sinh là “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, chân thật tường tận tất cả các pháp từ tâm tưởng sinh, tất cả tận hư không pháp giới chúng sinh đều cùng một thể tự tánh. Đây là bạn chân thật giác ngộ, gọi là đại triệt đại ngộ. Sau khi ngộ rồi, tâm trạng bạn đối nhân xử thế, tiếp vật hoàn toàn thay đổi. Lúc chưa khai ngộ là mê, mỗi niệm đều tự tư tự lợi. Sau khi ngộ rồi, mỗi niệm vì tất cả chúng sinh. Nếu nói tỉ mỉ, theo Vãng Sinh Yếu Tập, thì có hai thứ Bồ Đề tâm:

1. Duyên Sự Bồ Đề Tâm (Đây chính là Hạnh Nguyện Bồ Đề tâm trong Mật tông). Tâm này dùng Tứ Hoằng Thệ Nguyện làm Thể.

– “Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ” là nhân của Ứng Thân Bồ Đề.

– “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn” là nhân của Pháp Thân Bồ Đề.

– “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học” là nhân của Báo Thân Bồ Đề .

– “Vô Thượng Bồ Đề thệ nguyện chứng” là nguyện cầu chứng đắc Phật quả Bồ Đề.

Do thành tựu ba hạnh nguyện trước nên chứng được Tam thân Bồ Đề viên mãn rồi lại lợi ích khắp hết thảy chúng sinh.

2. Duyên Lý Bồ Đề Tâm (Đây chính là tâm Thắng Nghĩa Bồ Đề trong Mật Tông). Tâm Bồ Đề nói trong kinh này là Tâm Bồ Đề tối thượng tức là Duyên Lý Bồ Đề tâm.

Theo Sách Tông Yếu của Sư Nguyên Hiểu, hai thứ Bồ Đề tâm là:

1. Tùy Sự Phát Tâm

Là phiền não vô số nguyện đều đoạn cả; thiện pháp vô lượng nguyện đều tu cả, chúng sinh vô biên nguyện đều độ cả. Quyết định nguyện thành tựu ba điều này. Tâm thứ nhất làm chánh nhân cho Đoạn Đức của Như Lai, tâm kế đó là chánh nhân cho Trí Đức của Như Lai, tâm thứ ba là chánh nhân của Ân Đức. Ba Đức hợp thành quả Bồ Đề Vô Thượng. Ba tâm này gọi chung là nhân của Vô Thượng Bồ Đề.

Nhân, quả tuy khác nhưng rất rộng lớn, bình đẳng không sót, không gì mà nó chẳng bao gồm, như kinh nói: ‘Phát tâm tất cánh nhị vô biệt, như thị nhị tâm, tiền tâm nan. Tự vị đắc độ, tiên độ tha, thị cố ngã lễ sơ phát tâm’ (Cả hai thứ phát tâm và rốt ráo không sai biệt. Trong hai tâm như thế, tâm trước là khó do chính mình chưa đắc độ mà đã độ người khác trước. Vì vậy, tôi lễ bậc sơ phát tâm). Quả báo của tâm này tuy là Bồ Đề (thành Phật) nhưng hoa báo lại là Tịnh Độ (vãng sinh). Vì sao như thế? Bồ Đề tâm lượng rộng lớn vô biên, dài lâu vô hạn nên cảm được y báo Tịnh Độ rộng lớn không ngằn mé, chánh báo thọ mạng dài lâu vô lượng. Ngoại trừ Bồ Đề tâm, không thứ gì khác có khả năng làm được như thế. Vì vậy bảo tâm này là chánh nhân cho Bồ Đề. Đấy là nói về tướng trạng của Tùy Sự Phát Tâm vậy.

2. Thuận Lý Phát Tâm

Là tin hiểu các pháp đều như huyễn mộng, chẳng có, chẳng không, dứt nói năng, bặt suy lường. Dùng lòng tin hiểu đó để phát tâm rộng lớn, tuy chẳng thấy có phiền não hay thiện pháp, nhưng chẳng bác rằng không có gì để tu, để đoạn. Vì vậy, tuy nguyện đoạn tất cả, tu tất cả, nhưng chẳng trái nghịch Vô Nguyện tam-muội. Tuy nguyện đều độ vô lượng hữu tình, nhưng chẳng có (quan niệm) người độ và kẻ được độ, nên có thể tùy thuận Không, Vô Tướng như kinh dạy: ‘Như thị diệt độ vô lượng chúng sinh, thật vô chúng sinh đắc diệt độ giả’ (Diệt độ vô lượng chúng sinh như vậy, nhưng thật không có chúng sinh nào được diệt độ) v.v… Phát tâm như thế chẳng thể nghĩ bàn. Đấy là nói về Thuận Lý Phát Tâm.

Tùy Sự Phát Tâm còn có thể bị thoái chuyển, kẻ bất định tánh cũng có thể phát được tâm ấy. Thuận Lý Phát Tâm thì chẳng bị thoái chuyển, chỉ căn tánh Bồ Tát mới có thể phát nổi. Phát tâm như thế công đức vô biên. Giả sử chư Phật trong suốt kiếp nói các công đức ấy còn chẳng thuật đủ được”.

Đoạn kinh văn trên đây của Sư Nguyên Hiểu. Ngài là người Hàn Quốc, là lưu học sinh rất xuất sắc tại Trung Quốc vào thời nhà Đường. Sau đó ngài trở về Hàn Quốc trở thành Nhất Đại Tổ Sư. Sách Tông Yếu là ngài viết chú giải về Kinh Vô Lượng Thọ, trong đây ngài có giải thích về tâm Vô Thượng Bồ Đề. Ngài cũng nói về Tùy Sự Phát Tâm và Thuận Lý Phát Tâm, rất tương tợ với Duyên Sự Bồ Đề Tâm và Duyên Lý Bồ Đề Tâm trong Vãng Sinh Yếu Tập phía trước. Ở trước nói Tứ Hoằng Thệ Nguyện; ở đây ngài chỉ nói ba câu nhưng ý nghĩa cũng tương tợ với Tứ Hoằng Thệ Nguyện.

Hòa Thượng Tịnh Không giải thích tư tưởng trong sách Tông Yếu của Sư Nguyên Hiểu ở phần trên như sau:

1. Tùy Sự Phát Tâm

Tùy sự là phiền não vô số nguyện đều đoạn cả”; phiền não là mê, là chướng ngại, phá hoại thiện pháp, khiến tâm giác không thể hiện tiền. Đây là cửa ải đầu tiên của đoạn phiền não:

–  Thứ nhất phải buông bỏ Thân Kiến tức là Vô Ngã, hoàn toàn không có tự tư tự lợi, không có cái ta.

–  Thứ hai là buông bỏ Biên Kiến, tức là buông bỏ đối lập giữa mình và người, xã hội hòa thuận, hóa giải xung đột.

– Thứ ba là buông bỏ Giới thủ Kiến.

– Thứ tư là buông bỏ Kiến thủ Kiến.

Kết hợp hai loại Giới thủ Kiến và Kiến thủ Kiến, người xưa gọi là Thành Kiến. Thành Kiến thuộc về nhân là Giới thủ Kiến; Thành Kiến thuộc về quả là Kiến thủ Kiến. Người không có thành kiến, tâm địa thanh tịnh, ở thế gian này họ có thể như Bồ Tát Phổ Hiền “hằng thuận chúng sinh, tùy hỉ công đức”, tất cả mọi việc đối với họ đều tốt.

– Sau cùng là buông bỏ Tà Kiến chính là buông bỏ tất cả những tư tưởng sai lầm.

Thiện pháp vô lượng nguyện đều tu”: “thiện pháp” ở đây là lợi ích tất cả chúng sinh. Chữ thiện ở đây không phải là thiện của thiện ác. Thiện của thiện ác chỉ là thiện” tương đối, là thiện có đối lập, như vậy là bất thiện. Thiện ít nhất phải đạt được bốn chỉ tiêu như trong Hoàn Nguyên Quán của Pháp sư Hiền Thủ là: tùy duyên diệu dụng, oai nghi hữu tắc, nhu hòa chất trực, và đại chúng sinh khổ, mới thật là thiện.

Chúng sinh vô biên nguyện đều độ”:

– Độ như thế nào?

– Phải dạy họ! Chúng sinh có giác ngộ quay đầu, đây mới gọi là được độ.

– Chúng sinh khổ! Khổ từ đâu đến?

– Mê thất tự tánh là khổ! Họ có phiền não, có tập khí, họ tạo ác nghiệp phải chịu khổ báo. Phật, Bồ Tát thương xót chúng sinh, giúp họ lìa khổ được vui: “Giác ngộ” tức là lìa khổ, hiểu rõ tức là được vui.

Kế đến, kinh văn giải thích rất hay:

Sơ, đoạn phiền não”, đoạn phiền não là “Như Lai Đoạn Đức chánh nhân”. Đây là nói về Tam Đức: Đoạn Đức, Trí Đức và Ân Đức. Chúng ta học Phật, đầu tiên phải học “Đoạn Đức” của Phật. “Đoạn” là buông bỏ.

– Đoạn phiền não như thế nào?

– Phải thể nhập kinh tạng, nếu không thì không thể đoạn được. Bởi thế, trước đây thầy dạy tôi trước phải nhìn thấu, sau mới buông bỏ.

–  Vì sao chưa buông bỏ?

– Vì chưa nhìn thấu nên không buông bỏ được! Nhìn thấu tự nhiên sẽ buông bỏ. Nhìn thấu giúp buông bỏ; buông bỏ giúp nhìn thấu. Hai phương pháp này hổ tương thành tựu.

“Buông bỏ” là “phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”; “nhìn thấu” là “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Phải dõng mãnh tinh tấn mới có thể học đến cảnh giới của Phật. Kế đến:

Thiện pháp vô lượng nguyện đều tu”: Đây là “Như Lai Trí Đức chánh nhân”.

Chúng sinh vô biên nguyện đều độ”: Là “Như Lai Ân Đức chánh nhân”.

Nói “nhân quả tuy khác”, đây là nói tám vạn bốn ngàn pháp môn của Phật, phương pháp tuy có khác nhưng mục tiêu chỉ có một.

Kinh nói “Phát tâm tất cánh nhị vô biệt, như thị nhị tâm, tiền tâm nan. Tự vị đắc độ, tiên độ tha, thị cố ngã lễ sơ phát tâm” (Cả hai thứ phát tâm cuối cùng đều như nhau. Hai tâm như vậy, tâm trước khó, do tự mình chưa được độ mà đã độ người trước, cho nên tôi lễ bậc sơ phát tâm). “Phát tâm” ở đây là “Phát Bồ Đề tâm”, là nói về Tứ Hoằng Thệ Nguyện. Đối với hàng sơ học, phải thật sự phát tâm. Tâm này là khẳng định phương hướng, khẳng định mục tiêu. Đoạn phiền não là Đoạn Đức; học pháp môn là Trí Đức; độ chúng sinh là Ân Đức. Ba đức này thành tựu mục tiêu sau cùng “Phật Đạo Vô Thượng thệ nguyện thành”.

Người có tâm từ bi khẩn thiết, tự mình chưa được độ nhưng độ chúng sinh trước. Việc này, trong hàng Bồ Tát có biểu pháp; đó chính là Bồ Tát Địa Tạng, đúng là quên mình vì người, điều này rất khó có được! Kinh Hoa Nghiêm nói Tứ Tịnh Đức của Pháp Thân Bồ Tát, điều sau cùng là “Đại chúng sinh khổ” (Thay chúng sinh chịu khổ). Trong ba Đức nói trên, quan trọng nhất là Đoạn Đức và Trí Đức. Đoạn Đức là đức hạnh, Trí Đức là trí tuệ. Không có đức hạnh, không có trí tuệ làm sao độ chúng sinh?! Có trí tuệ, không có đức hạnh cũng không được.

Quả báo của tâm này tuy là Bồ Đề (thành Phật) nhưng hoa báo lại là Tịnh Độ (vãng sinh)”. Đây là nói đối với hàng Trung, Hạ căn tánh. Chúng ta biết “đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánhchỉ có hàng “Thượng Thượng Căn” mới có phần. Thông thường mà nói,  ba căn “Thượng, Trung, Hạ” đều không làm được. Do đây có thể biết phiền não, rất khó đoạn, vô cùng khó khăn.

– Nguyên nhân là gì?

– Chúng ta ở trong lục đạo quá lâu! Những tập khí phiền não này đều nuôi dưỡng từ trong lục đạo. Cổ nhân có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Trong lục đạo, người mê muội nhiều, người giác ngộ ít. Cho dù giác, nhưng giác chưa triệt để, cao nhất cũng chỉ là tu thiện tích đức mà thôi!

– Mục đích tu thiện tích đức là gì?

– Hy vọng quả báo đời sau càng tốt hơn! Cho nên, họ không ra khỏi lục đạo luân hồi!

Trong tình huống này, có thể nói Phật, Bồ Tát vô cùng từ bi. Chúng ta phải cảm kích Phật A Di Đà đã vì chúng sinh mà kiến lập nên thế giới Cực Lạc, giúp người tập khí phiền não rất nặng như chúng ta cũng có thể thành tựu ngay trong đời này, cho nên nói “hoa báo ở Tịnh Độ”.

Sau khi đến thế giới Cực Lạc, sự thù thắng thọ dụng có được vượt xa ngoài sức tưởng tượng của chúng ta, như trong nguyện này nói: Tất cả đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát, không đáng nễ ư? A Duy Việt Trí Bồ Tát siêu việt mười pháp giới. Chúng ta vãng sinh đến Tây Phương Cực Lạc tự nhiên được vượt qua mười pháp giới. Pháp môn này thật vô cùng thù thắng, hi hữu khó gặp, đời này chúng ta đã gặp được. Nên nhớ! Nguyên tắc chung vẫn là Vô Ngã (không có cái ta) mới ra khỏi được lục đạo luân hồi.

Thế giới Tây Phương Cực Lạc, cõi Phàm Thánh Đồng Cư có Ngã, cõi Phương Tiện Hữu Dư cũng có Ngã. Nhưng, trong thế giới đó không có ba đường ác, vĩnh viễn không có thoái chuyển. Vãng sinh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc được bốn mươi tám  nguyện của Phật A Di Đà gia trì, những gì trong bốn mươi tám nguyện nói, đến thế giới Cực Lạc đều đầy đủ cả, không thiếu thứ gì. Trí tuệ, thần thông, đạo lực của họ hầu như không có gì khác với A Di Đà Phật.

– Ở thế giới Cực Lạc có cần tu chăng?

– Phải tu! Ta không thể vĩnh viễn nương tựa Phật A Di Đà. Ở đó, chúng ta phải cố gắng tu tập, cố gắng đoạn phiền não. Sau khi đoạn tận phiền não mới tự tu được. Trước khi chưa đoạn tận, phải dựa vào Phật A Di Đà, như con cái chưa trưởng thành phải nương nhờ cha mẹ, khi trưởng thành phải tự lập. Phật A Di Đà giống như cha mẹ, chăm sóc chúng sinh rất mực, mỗi người đều được thành tựu.

Đoạn văn trên lại nói: “Bồ Đề tâm lượng rộng lớn vô biên, dài lâu vô hạn nên chiêu cảm được y báo cõi Tịnh Độ rộng lớn không ngằn mé, chánh báo thọ mạng dài lâu vô lượng”. Câu “tâm lượng Bồ Đề rộng lớn vô biên, dài lâu vô hạn”, mười hai chữ này rất quan trọng! Cổ nhân có câu: “Lượng lớn phước lớn”. Tâm lượng không lớn đó là chướng ngại việc vãng sinh. Người niệm Phật chân chính, tâm lượng phải rộng mở.

Kinh Đại thừa nói: “Tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”, đó là tâm Bồ Đề, cũng là chân tâm của chính mình. Vì sao bây giờ tâm lượng lại biến thành nhỏ bé như vậy?! Hai người sống với nhau cũng không thể bao dung, ngày ngày cải nhau?! Đây là tập khí phiền não không phải là bổn thiện; đó là “tập tánh” không phải “bản tánh”. “Bản tánh” là thật, vĩnh viễn bất biến. “Tập tánh” là giả, giả đương nhiên có thể đoạn; “thật” tự nhiên hiện tiền.

Phật A Di Đà là chân tâm chiêu cảm nên thế giới Cực Lạc, y chánh trang nghiêm. Chúng ta cũng dùng chân tâm tu “Tứ hoằng thệ nguyện”, nhất định sẽ chiêu cảm được cõi Tịnh của Phật A Di Đà. Vãng sinh đến thế giới Cực Lạc, điều đầu tiên ta đạt được là  chánh báo thọ mạng dài lâu. “Vô lượng thọ” này, cổ nhân nói đó là “vô lượng của hữu lượng”, không phải vô lượng thật! Vì sao?

Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói rất rõ: Nếu vãng sinh đến thế giới Cực Lạc vào cõi Đồng Cư, Hạ Hạ Phẩm vãng sinh, nhờ sức bổn nguyện của Phật A Di Đà gia trì tất cả đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát, đến khi “hoa nở thấy Phật ngộ vô sanh” (ngộ vô sanh tức là ngang bằng với Viên giáo Sơ Trụ Bồ Tát) phải trải qua mười hai kiếp, tự thân mới chứng được. Thời gian này cũng không dài, nếu so với tu hành trong các cõi nước của chư Phật, phải tu đến vô lượng kiếp; ở thế giới Cực Lạc chỉ mười hai kiếp là thành công, đây là “vô lượng của hữu lượng”.

– Sau khi “hoa nở thấy Phật ngộ vô sanh” thì sao?

– Sẽ biến thành “vô lượng thật”, tức là “vô lượng của vô lượng”, là “thật sự vô lượng thọ”.

Ngoại trừ tâm Bồ Đề, không thứ gì khác có khả năng làm được như thế. Vì vậy bảo tâm này là chánh nhân cho Bồ Đề”. Đây là nói rõ tướng trạng của “tùy sự phát tâm”. “Tùy sự phát tâm” chính là “Tứ Hoằng Thệ Nguyện”, đích thật chúng ta có thể học được điều này.

2. Thuận Lý Phát Tâm

Nếu càng thấu triệt về “Lý” thì sự buông bỏ sẽ dễ dàng hơn; không hiểu về “Lý” rất khó buông bỏ!

– Lý là gì?

– Lý là tự tánh, là Chân như, Bổn tánh. Trong Tam Tự Kinh nói: “Nhân chi sơ tánh bổn thiện”. Nếu chúng ta tùy thuận tánh bổn thiện mà phát tâm sẽ rất dễ. “Tùy sự” vẫn là tùy “tập tánh”; “Thuận lý” là tùy “bản tánh”, không giống nhau.

Thuận Lý mà phát tâm, tin hiểu các pháp đều như mộng huyễn: “Phi hữu, phi vô, ly ngôn tuyệt lự” (Chẳng có, chẳng không, dứt nói năng, bặt suy lường). Tất cả pháp này bao gồm hiện tượng vật chất, hiện tượng tinh thần và hiện tượng tự nhiên; ba loại hiện tượng này đều giả không thật. Kinh Kim Cang nói: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”. “Phi hữu, phi vô” (chẳng có, chẳng không), chúng ta không thể nói nó có, cũng không thể nói là không. Chẳng hạn như chúng ta xem truyền hình, tướng hiện ra trên màn hình, không thể nói nó có vì quả thật nó không tồn tại; nếu nói nó “không”, nhưng rõ ràng nó ngay trước mắt! Thật sự, cái “có” đó là “huyễn có”, tướng “có”, tánh “không”; sự “có”, lý “không”, đây là chân tướng sự thật.

Ngày nay, các nhà khoa học lượng tử, căn cứ vào nghiên cứu phát hiện của họ, nói rằng: Thế giới này quả thật không có thứ gì gọi là vật chất. Họ nói: Bản chất của vật chất là ý niệm.

– Vật chất từ đâu sinh ra?

– Từ ý niệm tích lũy liên tục sản sinh ra. Đây chính là nói rõ: Hiện tượng vật chất sinh ra từ hiện tượng tinh thần.

– Hiện tượng tinh thần từ đâu mà có?

– Họ nói: Từ không sinh ra có!

Tư tưởng này gần giống như trên Kinh Đại thừa Bồ Tát Xứ Thai Kinh nói, trong đó đức Phật Thích Ca Mâu Ni đưa ra một vấn đề hỏi Bồ Tát Di Lặc: “Tâm hữu sở niệm”, ý nói tâm con người bình thường hay khởi ý niệm, trong niệm này có bao nhiêu ý niệm vi tế? Có bao nhiêu tướng (là hiện tượng vật chất)? Có mấy thức (là hiện tượng tinh thần)? Bồ Tát Di Lặc trả lời: – Trong một khảy móng tay có ba mươi hai ức, một trăm ngàn niệm (tức là ba trăm hai chục triệu niệm) tích lũy liên tục sinh ra. Lại nói: Niệm niệm thành hình (hình tức là tướng), hình đều có thức (thức chính là “thọ, tưởng, hành, thức”). Trong mỗi ý niệm đều có “sắc-thọ-tưởng-hành-thức”, “sắc” chính là “tướng”, giáo lý Đại Thừa thường nói là Ngũ Uẩn.

– Có ý niệm chăng?

–  Ý niệm cũng không thể nói “có”, cũng không thể nói “không”.

Nếu nói “có”, nó đã không tồn tại! Thời gian nó tồn tại quá ngắn. Nếu dùng giây làm đơn vị, trong một giây, khảy nhanh nhất có thể khảy được năm lần. Như vậy, trong một giây có đến một ngàn sáu trăm triệu niệm vi tế, chúng ta không thể nào cảm nhận ra được, điểm này phù hợp với khám phá của các nhà khoa học hiện nay: “Hiện tượng do ý niệm tích lũy liên tục mà hình thành”.

Trong Hoàn Nguyên Quán nói rất hay: “Ý niệm vừa khởi liền chu biến pháp giới, xuất sanh vô tận”. Trong kinh Phật nói rõ ràng hơn các nhà khoa học rất nhiều, không phải trong “không” sinh ra “có” mà là “tự tánh gặp duyên”; “duyên” này chính là “động”, bây giờ các nhà khoa học gọi là “định luật đàn hồi”, cũng rất tương tợ như trong Phật pháp nói: “Nhất niệm bất giác mà có vô minh”. “Nhất niệm bất giác” này là “động”. Chấn động này vô cùng vi tế, chúng ta không thể nào phát hiện được, vì tâm chúng ta quá thô. Nhưng Bồ Tát Di Lặc rất tuyệt vời, ngài thấy rất rõ.

– Dùng phương pháp gì để thấy?

– Dùng tâm thanh tịnh mới thấy được! Thông thường chúng ta gọi là “Định công”. “Định công” đến mức độ thâm sâu mới có thể nhìn thấy. Trong Kinh Đại thừa nói: Bồ Tát Bát Địa tức Bất Động Địa trở lên mới thấy được. Trong Phật pháp dùng Thiền định để thấy còn vi tế hơn máy móc nhiều.

Qua sự kiện trên, chứng minh vật chất không phải thật, tinh thần cũng không phải thật, “nhất niệm bất giác” đó cũng không phải thật. Cho nên, không thể nói nó có, cũng không thể nói nó không. Nếu nói “có” tức là chấp tướng, nếu nói “không” cũng là chấp tướng, mê lại càng sâu! Cho nên, Phật chỉ nói: “Bất khả thuyết! Bất khả thuyết!” Đây không phải không thể nói mà là nếu nói thì đã khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước rồi!

Trong kinh Phật nói: Chỉ có “ngộ” mới biết, không khai ngộ không thể hiểu được! “Ngộ” này là “đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh” thấy được thể, tướng và tác dụng của chân tánh; đây thật sự là nhìn thấu. Chân tánh tồn tại mọi lúc mọi nơi; bất kỳ một pháp nào cũng đều phải nương nó làm thể; không có nó; mọi hiện tượng đều không thể phát sinh; nó là bản thể của tất cả vạn pháp.

Ly ngôn tuyệt lự” (Dứt nói năng, bặt suy lường) là chỗ chứng đắc, không thể dùng lời nói diễn đạt được, “lự” là suy nghĩ, “tuyệt lự” là bặt suy nghĩ, có suy nghĩ cũng nghĩ không ra! Vì sao? Vì tự tánh không phải là vật chất, cũng không phải tinh thần nên đệ lục ý thức không thể duyên tới được! Do đó, tự tánh đúng là “ly ngôn tuyệt lự”, không thể nói, cũng không thể suy nghĩ.

Dùng lòng tin hiểu đó để phát tâm rộng lớn”.

–   Tâm rộng lớn này phát như thế nào?

– Nếu nói: “Phát” tức là đã khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước thì biến thành phàm phu mất rồi! Chữ “phát” ở đây không phải “phát” như trong tưởng tượng của chúng ta, nó chỉ là hình dung từ, “phát” có nghĩa là tâm tánh rộng lớn tự nhiên hiển lộ. Chỉ cần ta buông bỏ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước; toàn thể tự tánh tự nhiên hiện bày, đây gọi là “phát tâm rộng lớn”.

Tuy không thấy có phiền não hay thiện pháp”, nhưng họ thấu rõ chân tướng sự vật nên “nhi bất bác vô” tức là “chẳng bác rằng: không có gì để tu, để đoạn”. Nghĩa là họ cũng không bài trừ những huyễn tướng trong lục đạo và mười pháp giới. Họ rất rõ ràng biết đây là giả, vì giả nên không có chướng ngại gì, giống như ta xem truyền hình, hiểu rõ đối với toàn bộ Ti vi và sự cấu tạo của nó, biết được những ảnh tượng trên màn hình đều là huyễn tướng; màn hình Ti-vi không nhiễm chút trần, hoàn toàn sạch sẽ.

– Có cần đoạn tận những tướng này chăng?

– Không cần thiết! Vì tướng là giả, đích thật không ô nhiễm đến màn hình.

Sau khi kiến tánh, thấy toàn bộ mười pháp giới, thấy luân hồi lục đạo hoàn toàn giống như xem hình ảnh trên màn hình đều “phi không, phi hữu, phi giả, phi chân”, đó là tâm thanh tịnh.

Không có gì để tu, để đoạn”: Họ không bài trừ đoạn phiền não, cũng không bài trừ tu pháp môn. Vì sao? Vì rất nhiều người không thể hiểu chân tướng, có nói với họ về chân tướng sự thật cũng không nói rõ được; đây là “hằng thuận chúng sinh, tùy hỉ công đức”; trong Hoàn Nguyên Quán gọi là “Tùy duyên diệu dụng”, chỉ có người thật sự thấu triệt mới có thể làm đến được; người không hiểu, muốn học cũng học không giống! Cho nên, “tuy nguyện đoạn tất cả, tu tất cả nhưng chẳng trái nghịch Vô Nguyện tam-muội”. “Vô Nguyện tam-muội” chính là chân tâm của họ.

– Đây là ai?

– Là người giác ngộ!

Sau khi thật sự khai ngộ, minh tâm kiến tánh, họ ở thế gian này hiển lộ bốn đức trong Hoàn Nguyên Quán, đây thật sự là “vô duyên đại từ, đồng thể đại bi”, chân thật là chịu khổ thay chúng sinh.

Đương thời, đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã làm gương cho chúng ta; các đời Tổ sư, đại đức cũng có không ít người đạt đến cảnh giới của Phật Thích Ca, như trong Ngũ Đăng Hội Nguyên có hơn một ngàn bảy trăm trường hợp công án. Trong Truyền Đăng Lục ghi chép: Giáo Môn được “đại khai viên giải”; Tịnh tông đạt được “Lý Nhất Tâm bất loạn”. Chúng ta tổng hợp lại, Phật Giáo truyền đến Trung Quốc hai ngàn năm nay, khế hợp cảnh giới, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh ít nhất cũng phải trên ba ngàn người.

Dự đoán này không quá đáng, rất chắc chắn, họ thị hiện cho chúng ta thấy không khác gì khi đức Thích Ca Mâu Ni Phật còn tại thế. Đây gọi là từ bi vô tận “Tuy nguyện đều độ vô lượng hữu tình nhưng chẳng có (quan niệm) người độ, và kẻ được độ. Đây là nỗ lực làm nhưng không chấp tướng. Kinh Kim Cang nói: Buông bỏ bốn “tướng”, cả đến bốn “kiến” cũng buông bỏ, tâm hoàn toàn thanh tịnh như trên đề kinh này là thanh tịnh, bình đẳng, giác, “nên có thể tùy thuận Không, Vô Tướng như kinh dạy: ‘Như thị diệt độ vô lượng chúng sinh, thật vô chúng sinh đắc diệt độ giả’ (Diệt độ vô lượng chúng sinh như vậy nhưng thật không có chúng sinh nào được diệt độ). Chữ “Diệt” ở đây là diệt phiền não; “độ” là giúp chúng sinh “liễu sinh tử, xuất tam giới, chứng Bát Niết Bàn”. Nên nói: “Phát tâm như thế chẳng thể nghĩ bàn. Đấy là nói về “Thuận Lý phát tâm”.

“Lý” trong kinh điển Đại thừa, tuy không phải chứng ngộ; nhưng niệm nhiều, nghe nhiều dần dần lý giải gọi là “giải ngộ”. “Giải ngộ” có thể giúp chúng ta “tùy sự phát tâm”, như vậy chính mình nắm chắc vãng sinh thế giới Cực Lạc. Đặc biệt là hiện nay thiên tai dồn dập, rất nhiều đồng tu đến hỏi:

– Chúng ta làm sao để ứng phó vấn đề này?

– Trong kinh, Phật dạy chúng ta phải thật thà niệm Phật.

Trước thời Càn Long, nhà Thanh, Pháp sư Quán Đảnh dạy rằng: “Thế, xuất thế gian gặp thiên tai hay bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào, tất cả mọi phương pháp trong kinh điển Đại thừa đều không thể giải quyết. Sau cùng vẫn còn một phương pháp là nhất tâm chuyên niệm Phật A Di Đà, không gì không thể giải quyết”. Trong khai thị này, quan trọng nhất chính là “nhất tâm chuyên niệm”.

Trong nhiều năm gần đây, chúng ta từng thấy trong số đồng học, họ chỉ cần hai, ba năm chí tâm niệm Phật, đã được hiệu quả rất tốt: Biết trước giờ chết, thân không bệnh khổ, được Phật đến tiếp dẫn, đứng vãng sinh, ngồi vãng sinh, đoan tướng hi hữu, những sự việc này có thể giả được ư?! Trong mắt tôi, những người này đều không phải người thường mà là Phật, Bồ Tát tái sinh, đến biểu diễn cho chúng ta thấy. Trong Tam Chuyển Pháp Luân, họ làm “chứng chuyển”, chứng minh cho chúng ta thấy về sự tướng. Chúng ta thấy được chứng cứ có thể không tin chăng?! Nếu còn có nghi hoặc, xen tạp, vậy thì phải nhanh chóng tiếp tục nỗ lực từ trong kinh điển. Nếu không bắt đầu từ kinh giáo, đó chính là mê tín.

Chúng ta đọc kinh điển Đại thừa, lại nghe được báo cáo của các nhà khoa học. Bất luận từ “vũ trụ vĩ quan” hay “Lượng tử lực học”, ngày càng tiếp cận kinh Phật, đây là việc tốt. Ta có lý do tin rằng hai, ba mươi năm sau tôn giáo trên thế giới nếu muốn tồn tại cũng rất khó khăn, không hề đơn giản! Riêng Phật Giáo được truyền thừa mãi mãi vì Phật Giáo không còn là tôn giáo mà đã biến thành khoa học. Khoa học cao cấp!

Hôm nay đọc đoạn kinh này, y theo “Lý phát tâm” nghĩa là “Thuận Lý Phát Tâm”, tin hiểu các pháp đều như huyễn mộng, “phi hữu, phi vô, ly ngôn tuyệt lự”. Ngày nay, các nhà lượng tử học đã chứng minh nhưng không rõ ràng như Phật nói. Nếu họ phát tâm học Phật, tốc độ thành tựu của họ chắc chắn nhanh hơn chúng ta  nhiều, vì họ có nền tảng, vừa nghe kinh Phật họ liền hiểu ngay, cũng như khi chúng ta thâm nhập được thuần thục kinh điển, vừa thấy báo cáo của họ, chúng ta lập tức liền hiểu ngay.

Trong bài “Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn” cũng viết: “Phát Bồ Đề tâm là vua trong các điều lành”. Sách Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận lại bảo: “Nên biết rằng Bồ Đề tâm là nguồn cội của chư Phật, là tuệ mạng của chúng sinh. Vừa mới phát tâm này đã thành Phật đạo vì đã tương ứng với Phật trí, bất tư nghị trí, bất khả xưng trí, trí Đại Thừa rộng lớn, trí tối thượng thắng không gì sánh tày vậy”. Hơn nữa, ba bậc vãng sinh trong kinh này đều do “Phát Bồ Đề tâm, một dạ chuyên niệm” đủ thấy “phát Bồ Đề tâm” thật là điều quan trọng hàng đầu.

Theo cụ Hoàng Niệm Tổ: “Xét ra, vì nguyện thứ hai mươi sáu là “văn danh đắc phước” (nghe tên được phước) và nguyện thứ bốn mươi bảy “văn danh đắc nhẫn” (nghe tên được nhẫn) thì nguyện thứ mười chín “văn danh phát tâm” này phải nên được hiểu là: “Do nghe danh hiệu của Phật, được Phật gia bị nên phát tâm Bồ Đề”. Hiểu như thế sẽ liền thấy rõ công đức của danh hiệu A Di Đà Phật chẳng thể nghĩ bàn! Sức hoằng thệ nguyện của đấng Nguyện Vương chẳng thể nghĩ bàn!”

Tu chư công đứctrú dạ bất đoạn” (Tu các công đức … ngày đêm chẳng ngớt) là đại hạnh sẽ làm sau khi phát đại tâm. Câu này và câu trước đó hợp thành toàn văn của nguyện thứ mười chín là “văn danh phát tâm”. Do nghe danh hiệu Phật A Di Đà nên phát tâm tu các đại hạnh.

Tu chư công đức, phụng hành Lục Ba La Mật” (Tu các công đức, phụng hành sáu Ba La Mật).

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Đại hạnh (hạnh lớn) phải bao gồm các tiểu hạnh (hạnh nhỏ). Ngày xưa không cần cách nói này. Vì sao? Vì các tiểu hạnh này là qui củ làm người, mọi người đều tu, chưa làm người tốt sao có thể thành Phật?! Có nền tảng của hạnh nhỏ mới có thể tu hạnh lớn. Hạnh lớn ở đây là Lục Ba La Mật, là sáu đại hạnh của Bồ Tát tu. Hạnh nhỏ là trời, người tu cũng rất quan trọng, tuyệt đối không được lơ là.

Đệ tử Phật ở thế gian phải làm gương cho đại chúng xã hội. Tiêu chuẩn của tấm gương tốt này là: “Đệ tử qui”, “Cảm ứng thiên”, “Thập thiện nghiệp”. Từ xưa đến nay, ba nền tảng này là qui củ, là gia giáo, mỗi gia đình nam nữ, già trẻ đều phải tuân thủ. Không có qui củ không giống một gia đình. Cho nên, những hạnh nhỏ này từ nhỏ đã học rồi.

Nhưng gần nhất là một trăm năm nay họ đã lơ là đối với giáo dục truyền thống. Từ sau chiến tranh Trung-Nhật, chúng ta thật sự đã quên nó; chẳng những không còn nhìn thấy có ai thực hành mà cũng không nghe ai nói đến! Họ rất xa lạ đối với những danh từ này! Những năm gần đây, đồng tu học Phật đã tìm lại những thứ này, không tìm lại không thể thành tựu! Đây là học Phật căn bản; không có căn bản, cành lá, hoa, quả từ đâu ra?!

Trong lời nguyện, chữ Lục Ba La Mật chỉ Lục Độ bao trùm cả vạn hạnh. “Độ” là vượt qua biển sinh tử đạt đến bờ Niết Bàn. Sáu Độ là: Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định và Bát Nhã.

1. Bố Thí

Chân Đế của Bố Thí, theo Hòa Thượng Tịnh Không là buông bỏ hết thảy mọi hư huyễn của thế gian. Tất cả pháp thế và xuất thế gian là “pháp hữu vi”. Gọi là “pháp hữu vi” vì có sinh diệt, có biến hóa, đó là “pháp duyên sinh” gọi là “nhân duyên sinh pháp”, tất cả các thứ này đều buông bỏ hết. Phật pháp cũng là “nhân duyên   sinh pháp”, chúng sinh có “cảm” là nhân; Phật, Bồ Tát có “ứng” là quả. Phật pháp kiến lập ở thế gian không lìa nhân quả, cho nên nó cũng không phải thật, cũng cần buông bỏ.

– Buông bỏ bằng cách nào?

– Không phải buông bỏ từ “sự” mà phải buông bỏ từ   trong tâm.

– Vì sao?

– Vì pháp thế và xuất thế gian: “sự” có “lý” không; “tướng” có “tánh” không. Nếu tương ưng với điều này nghĩa là giác ngộ; giác ngộ gọi là Phật pháp, không tương ưng với pháp thế gian. Thật ra, thế và xuất thế gian cũng không có giới hạn, chỉ là giác và mê mà thôi. “Giác” là xuất thế; “mê” thì không thể thoát ly luân hồi lục đạo nên gọi là thế gian.

Trong Hoàn Nguyên Quán, đức thứ nhất là “tùy duyên diệu dụng”. “Tùy duyên” là hằng thuận chúng sinh; “diệu dụng” là không nhiễm chút trần tức là buông bỏ, đây mới thật sự là “bố thí Ba La Mật”. Nếu không như vậy, cho dù có bố thí cũng chỉ là cầu phước báo thế gian, bố thí đó thì không viên mãn vì không tương ưng với tự tánh. Cho nên, bình thường chúng ta phải luyện tâm thanh tịnh, học không nhiễm trước, không bị cảnh giới bên ngoài làm ô nhiễm, không chấp trước tất cả pháp thế và xuất thế gian, trong tâm chỉ có Phật A Di Đà; ngoài Phật A Di Đà ra không có gì cả. Công phu này thuần thục, chắc chắn sẽ vãng sinh.

2. Trì Giới

Nói một cách đơn giản là giữ qui củ. Lúc trẻ, tôi học Phật, thầy đem bốn trọng giới trong giới Bồ Tát nói với chúng tôi rất nhiều lần, tuyệt đối không được phạm bốn giới trọng này; trong đó giới thứ nhất là “không làm quốc phản”, nghĩa là tuyệt đối không làm những việc tổn hại đến quốc gia. Vì sao? Vì tội quá lớn! Như Trung Quốc có mười ba ức người, nếu làm việc tổn hại đến quốc gia, kết tội là kết tội với mười ba ức người, thật phiền phức biết bao! Làm sao trả hết được! Ví như xâm phạm thiết bị công cộng, cho dù rất nhỏ, như điện thoại công cộng trộm lấy mang về nhà dùng, chủ nhân là mười ba ức người, cho nên trái chủ cũng là mười ba ức người!

Trong “Giới Kinh”, Phật nói: “Người tội ngũ nghịch, Phật có thể cứu; nếu trộm vật Tam Bảo, Phật không cứu được!” Vật của quốc gia cũng giống như vật của Tam Bảo. Đất nước nhỏ, ít người, tội nhẹ một chút. Quốc gia lớn, đông người thì tội thật đáng sợ! Thà chết đói, chết lạnh cũng không thể xâm phạm một chút tài vật nào.

3. Nhẫn Nhục

Ý nghĩa thật sự trong kinh Phật là nhẫn nại, bền lòng. Muốn cầu học, phải có tâm nhẫn nại, bền chí mới đạt đến thành công. Bí quyết của thành công đều ở nơi sức nhẫn nại. Cổ nhân nói: “Nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu”. “Nhất môn thâm nhập” là Trì giới. Lúc chưa khai ngộ phải chuyên học một môn, tuyệt đối không được học hai môn, như vậy tâm mới Định. Mục đích Trì giới là tâm phải được Định; mục đích của Định là khai Trí tuệ. Giới là nhân, Định là quả; Định lại là nhân; khai Trí tuệ là quả. Nếu không có nhẫn nại không thể làm được.

Nhất định phải tu Nhẫn Nhục Ba La Mật, tập trung ý nghĩ và tinh thần của mình vào một nơi. Trong kinh, Phật dạy “chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện”. Ý niệm chúng ta rất tán loạn như ánh sáng của ngọn đèn tỏa khắp. Nếu tập trung ánh sáng vào một điểm liền biến thành tia “laser”, sức mạnh này rất lớn. Cũng thế, chúng ta tập trung các ý niệm tán loạn lại một điểm, đó tức là Định, trong kinh gọi là tam-muội. Tam-muội khởi tác dụng là thần thông hiện tiền như: Thiên nhãn, Thiên nhĩ, Tha tâm, Túc mạng cho đến Thần Túc Thông (Thần Túc Thông là biến hóa) đều có thể hiện tiền. Vì sao? Kinh Phật nói rất rõ: “Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh”. Cho nên, Định có thể hiện thần thông. Thần thông là bản năng tự tánh của chính mình, do vì tâm tán loạn nên năng lực này mất đi. Nếu tập trung được ý niệm, năng lực này lập tức khôi phục.

4. Tinh Tấn

“Tinh” là thuầnkhông tạp; “tấn” là không lui sụt, nghĩa là “nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu”, đó gọi là tinh tấn. Nếu học quá nhiều, quá tạp, tâm sẽ loạn không gọi là tinh tấn mà là “loạn tấn”. Những gì họ học được chỉ là thường thức không phải trí tuệ. Tâm tinh tấn là tâm Định. Học nhiều thứ, quảng học đa văn, tâm đó là loạn, cũng gọi là tâm trôi nổi. Nhẫn Nhục và Tinh Tấn là tiền phương tiện của Thiền Định. Trước khi được Định cần phải đầy đủ hai yếu tố này. Trong pháp môn Tịnh Độ, tất cả đều qui về “Niệm Phật tam-muội”, đây là Tinh Tấn thật sự.

5. Thiền Định

Thiền là tiếng Phạn, Định là tiếng Hoa, ghép chung là “Hoa- Phạn hợp dịch”. Thiền là không chấp tướng (chúng ta thường nói: Không chấp trước, không phân biệt), thông thường dịch là “Tịnh lự”, là tâm thanh tịnh, “lự” ở đây là hình dung từ, thật ra họ không có tư lự. Phàm phu, khi có ai hỏi vấn đề gì, phải suy nghĩ mới trả lời, như vậy gọi là “lự”. Người tu được Thiền Định, họ không có “lự” nhưng rất thấu suốt vấn đề. Ý nói: Khi không khởi tác dụng, tâm họ là Định, là vô tri, là Bát Nhã vô tri; nhưng khi khởi tác dụng, tâm họ là “vô sở bất tri”. Thiền là thể, Bát Nhã là tác dụng; Bát Nhã là thể, Thiền là tác dụng, hổ tương lẫn nhau. Không có trí tuệ chân thật sẽ không được Định. Không có Định công, trí tuệ sẽ không khai mở.

6. Trí Tuệ (Bát Nhã)

Bát Nhã là tiếng Phạn dịch âm, thông thường dịch là trí tuệ, nhưng nó còn có ý nghĩa rất sâu sắc: Trí tuệ Bát Nhã chân thật, trí tuệ vô sở bất tri. Trong ngôn ngữ Trung Quốc không tìm thấy được chữ tương ứng, nên khi dịch kinh vẫn dùng âm Phạn.

Sáu hạng mục trên của Bồ Tát tu ngay trong cuộc sống hàng ngày như: Mặc áo, ăn cơm, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác đều phải tương ưng với năm hạng mục còn lại. Chẳng hạn như trong Bố Thí có Trì giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Bát Nhã, trong Trì giới có Bố Thí, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Bát Nhã v.v… Kinh Hoa Nghiêm nói: “Một là tất cả, tất cả là một”, bất cứ một pháp nào cũng đều hàm nhiếp tất cả pháp, tất cả tức là một.

Từ trong giáo nghĩa này, chúng ta lãnh hội được toàn thể vũ trụ là nhất thể, không thể phân tích. Bất luận là hiện tượng vật chất, hiện tượng tinh thần cho đến hiện tượng tự nhiên, mỗi niệm phát ra tin tức trùm khắp bên ngoài, đồng thời mỗi niệm cũng tiếp nhận tin tức của toàn thể vũ trụ, đã nói lên “một là tất cả, tất cả là một”. Triễn khai Lục Độ cũng chính là vô lượng vô biên tế hạnh của Bồ Tát.