KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Trí Nghiêm
Giảo chính: Hòa Thượng Quảng Độ

 

HỘI THỨ NHẤT

LXXIII. PHẨM TỊNH ĐỘ PHƯƠNG TIỆN

(Giữa quyển 394 đến đầu quyển 395)

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy vì an trụ nhóm chánh tánh định hay vì an trụ nhóm bất định?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy đều an trụ nhóm chánh tánh định, chẳng phải nhóm bất định.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy vì an trụ nhóm chánh tánh định nào? Là Thanh văn thừa, hay là Độc giác thừa, hay là Phật thừa?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát ấy đều an trụ nhóm chánh tánh định Phật thừa, chẳng phải an trụ nhóm chánh tánh định nhị thừa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy khi nào thì trụ nhóm chánh tánh định, từ khi mới phát tâm, hay ngôi vị Bất thối? Hay thân tối hậu chăng?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát ấy, hoặc từ khi mới phát tâm, hoặc ở bậc Bất thối, hoặc thân tối hậu, đều an trụ nhóm chánh tánh định.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát an trụ nhóm chánh tánh định có bị đọa vào các đường ác chăng?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! An trụ nhóm chánh tánh định, Đại Bồ-tát quyết định không đọa vào các đường ác. Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Các vị ở địa thứ tám, hoặc Dự lưu, hoặc Nhất lai, hoặc Bất-hoàn, hoặc A-la-hán, hoặc Độc giác có ai lại đọa vào đường ác chăng?

Thiện Hiện đáp:

– Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát an trụ nhóm chánh tánh định cũng giống như thế, quyết định chẳng đọa vào các đường ác. Vì sao? Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy từ khi mới phát tâm tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; an trụ pháp không nội, an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; tu hành bốn niệm trụ, tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; an trụ Thánh đế khổ, an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; tu hành bốn tịnh lự, tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tu hành tám giải thoát, tu hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; tu hành pháp môn Đà-la-ni, tu hành pháp môn Tam-ma-địa; tu hành pháp môn giải thoát không, tu hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; tu hành bậc Cực hỷ, tu hành bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; tu hành năm loại mắt, tu hành sáu phép thần thông; tu hành mười lực Phật, tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; tu hành pháp không quên mất, tu hành tánh luôn luôn xả; tu hành trí nhất thiết, tu hành tánh trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; tu hành tất cả hạnh Đại Bồ-tát; tu hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, chế phục đoạn trừ tất cả pháp ác bất thiện.

Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này mà Đại Bồ-tát ấy lại đọa đường ác thì đó là điều không có. Đại Bồ-tát ấy nếu sanh lên cõi trời Trường thọ, thì đó cũng là điều không có, có nghĩa là ở những nơi ấy, các thiện pháp thù thắng chẳng có hiện hành. Đại Bồ-tát ấy nếu sanh chốn biên địa hạ tiện hoặc trong hạng người bần tiện không biết Phật pháp, thì đó là điều không có, nghĩa là ở những nơi ấy chẳng có thể tu hành thiện pháp thù thắng, phần nhiều phát khởi ác kiến, chẳng tin nhân quả, thường ưa làm theo các nghiệp xấu ác, chẳng nghe danh hiệu Phật, danh hiệu Pháp, danh hiệu Tăng, cũng không có bốn chúng đó là chúng Bí-sô, chúng Bí-sô-ni, chúng cận sự nam, chúng cận sự nữ. Các Đại Bồ-tát ấy nếu sanh vào nhà tà kiến, thì đó là điều không có, nghĩa là sanh vào nhà chấp trước các điều thấy biết sai lầm, bác bỏ không có diệu hạnh, ác hạnh và quả báo, chẳng tu các pháp thiện, ưa làm các điều ác.

Này Thiện Hiện! Với tâm mới phát cầu quả vị giác ngộ cao tột. Đại Bồ-tát cầu hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, đem ý ưa thích thù thắng mà thọ nhận hành trì mười đạo nghiệp bất thiện thì đó là điều không có.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm thành tựu công đức thiện căn như thế, đối với các chỗ ác chẳng thọ sanh lại, thì vì sao Thế Tôn mỗi khi vì chúng nói về chuyện đời trước của mình, hoặc trăm hoặc ngàn đời, trong đó cũng có lúc sanh vào các đường ác, thiện căn khi ấy nó ở đâu?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Chẳng phải Đại Bồ-tát do nghiệp bất tịnh mà thọ thân trong đường ác, chỉ vì lợi lạc các loài hữu tình, do nguyện ấy mà thọ thân kia.

Này Thiện Hiện! Các A-la-hán, Độc giác đâu có phương tiện thiện xảo như Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, khi thọ thân bàng sanh, có người thợ săn đến muốn làm hại, liền khởi an nhẫn, từ bi vô thượng, vì muốn khiến người ấy được lợi lạc nên tự xả thân mạng mà không làm hại kẻ kia.

Này Thiện Hiện! Do nhân duyên ấy, nên biết Đại Bồ-tát, vì muốn làm lợi ích các hữu tình, vì muốn đại từ đại bi mau viên mãn, nên tuy hiện thọ các loại thân bàng sanh nhưng chẳng bị nhiễm tội lỗi của bàng sanh.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát an trụ thiện pháp nào vì muốn lợi lạc các hữu tình mà thọ thân như thế?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát có thiện pháp nào mà chẳng viên mãn?

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát vì đắc quả vị giác ngộ cao tột, nên tất cả thiện pháp đều nên viên mãn.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm cho đến lúc an tọa tòa Bồ-đề mầu nhiệm, ở trong khoảng giữa, không có thiện pháp nào mà chẳng nên viên mãn; cần phải viên mãn đủ tất cả thiện pháp mới đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu còn một thiện pháp chưa có thể viên mãn mà đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì đó là điều không có. Vì vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm cho đến lúc an tọa tòa Bồ-đề mầu nhiệm, ở khoảng trung gian ấy thường học viên mãn tất cả thiện pháp. Học rồi, sẽ đắc trí nhất thiết tướng, đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí tương tục, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Tại sao Đại Bồ-tát thành tựu tất cả pháp vô lậu cao thượng bạch tịnh như thế, mà sanh đường ác, thọ thân bàng sanh?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Như Lai thành tựu tất cả pháp vô lậu bạch tịnh chăng?

Thiện Hiện đáp:

– Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy! Như Lai thành tựu tất cả pháp vô lậu bạch tịnh.

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Như Lai hóa làm thân loài bàng sanh, lợi ích hữu tình, làm Phật sự chăng?

Thiện Hiện đáp:

– Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy! Như Lai hóa làm thân loài bàng sanh lợi ích hữu tình, làm các Phật sự.

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Khi Như Lai hóa làm thân bàng sanh, thì có phải thật bàng sanh chịu khổ chăng?

Thiện Hiện đáp:

– Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không! Khi Như Lai hóa làm thân bàng sanh, thì chẳng phải thật bàng sanh, chẳng thọ các khổ?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cũng giống như thế, tuy thành tựu tất cả pháp vô lậu bạch tịnh, nhưng vì thành thục các hữu tình, nên phương tiện thiện xảo thọ thân bàng sanh; do thọ thân ấy, tùy theo căn cơ thành thục các loài hữu tình.

Lại nữa, Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Có A-la-hán, các lậu  hết hẳn, có thể hóa thân làm các sự việc, do sự việc ấy làm người khác sanh hoan hỷ chăng?

Thiện Hiện đáp:

– Bạch Thế Tôn! Có như vậy! Bạch Thiện Thệ! Có như vậy! Có A-la-hán các lậu hết hẳn, có thể hóa thân làm các sự việc, do sự việc ấy khiến người sanh hoan hỷ.

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cũng giống như thế, tuy thành tựu tất cả pháp vô lậu bạch tịnh, nhưng vì lợi lạc các hữu tình nên phương tiện thiện xảo thọ thân trong đường ác, theo căn cơ thành thục hữu tình. Tuy thọ thân ấy nhưng chẳng cùng chúng chịu các khổ não, lại cũng chẳng bị tạp nhiễm tội lỗi của loài ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Có nhà ảo thuật hoặc đệ tử của y hóa làm các loài như voi, ngựa v.v… khiến người xem hoan hỷ nhảy nhót, đối với họ có thật voi, ngựa v.v… chăng?

Thiện Hiện đáp:

– Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không! Đối với họ thật không có voi, ngựa v.v…

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cũng giống như thế, tuy thành tựu tất cả pháp vô lậu bạch tịnh, nhưng vì lợi ích các hữu tình, nên hiện thọ thân các loài bàng sanh; tuy thọ thân của chúng nhưng thật chẳng phải chúng, cũng chẳng bị nhiễm ô tội lỗi của chúng.

Khi ấy cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát phương tiện thiện xảo quảng đại như thế, tuy thành tựu Thánh trí vô lậu bạch tịnh, nhưng vì hữu tình thọ các loại thân, tùy theo căn cơ họ, hiện làm lợi ích.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát an trụ những thắng pháp bạch tịnh nào mà có thể thực hiện phương tiện quyền xảo như thế, tuy thọ thân các loài bàng sanh nhưng chẳng ô nhiễm tội lỗi của chúng?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể thực hiện phương tiện thiện xảo như thế, tuy đến vô lượng hằng hà sa thế giới trong mười phương, hiện các loại thân làm lợi ích an lạc các loài hữu tình kia, nhưng ở trong đó, chẳng sanh nhiễm trước. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp hoàn toàn không có sở đắc, nghĩa là hoàn toàn chẳng đắc năng nhiễm, sở nhiễm và nhân duyên của sự nhiễm. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Không chẳng thể nhiễm trước không, không cũng chẳng thể nhiễm trước pháp khác, cũng không có pháp khác có thể nhiễm trước không. Vì sao? Vì trong không, tánh không còn chẳng thể nắm bắt được huống là có pháp khác có thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Như vậy gọi là pháp không chẳng thể nắm bắt được. Các Đại Bồ-tát an trụ trong pháp này có thể chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát có phải chỉ an trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế, có thể thực hiện phương tiện thiện xảo như thế hay là cũng an trụ pháp khác?

Phật bảo:

– Này Thiện Hiện! Đâu có pháp nào khác chẳng nhập Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tại sao lại nghi là an trụ pháp khác?

– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế, nếu tự tánh là không thì làm sao Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ tất cả pháp.

Bạch Thế Tôn! Chẳng phải ở trong không có thể nói có pháp nhiếp thọ hay chẳng nhiếp thọ.

– Này Thiện Hiện! Đâu chẳng phải tự tánh các pháp đều không.

– Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy!

– Này Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp tự tánh đều là không thì trong cái không đâu chẳng nhiếp thọ tất cả pháp.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Tại sao Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa an trụ trong tự tánh không của tất cả pháp dẫn phát thần thông Ba-la-mật-đa? Chư Đại Bồ-tát an trụ thần thông Ba-la-mật-đa ấy có thể đi đến vô lượng hằng hà sa thế giới khắp mười phương để cúng dường chư Phật, nghe thọ chánh pháp, ở chỗ chư Phật trồng các thiện căn?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, quán khắp vô lượng hằng hà sa thế giới trong mười phương và chư Phật cùng pháp đã thuyết, tự tánh đều không thì chỉ có thế tục giả nói danh tự; danh tự thế tục giả nói như thế, cũng tự tánh không.

Này Thiện Hiện! Nếu mười phương thế giới và chư Phật cùng pháp đã thuyết, giải nói danh tự, tự tánh chẳng không thì cái không đã nói đáng lẽ chẳng cùng khắp; vì cái không đã nói chẳng phải chẳng cùng khắp cho nên tất cả pháp tự tánh đều không.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, do quán khắp không, phương tiện thiện xảo, mới có thể dẫn phát thần thông thù thắng Ba-la-mật-đa; an trụ thần thông Ba-la-mật-đa này, lại có thể dẫn phát thiên nhãn, thiên nhĩ, thần cảnh, tha tâm, túc trú, tùy niệm và trí tuệ thần thông thù thắng biết lậu tận.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát chẳng phải lìa thần thông Ba-la-mật-đa mà có thể tự tại thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Cho nên thần thông Ba-la-mật-đa là đạo Bồ-đề, các Đại Bồ-tát đều nương đạo này cầu hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Khi cầu hướng đến, có thể tự viên mãn tất cả thiện pháp, cũng có thể khiến người tu các thiện pháp; tuy làm việc ấy, nhưng đối với thiện pháp chẳng sanh chấp trước. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy biết các thiện pháp tự tánh đều không, chẳng phải tự tánh không có sự chấp trước; nếu có chấp trước thì có mê đắm; do không chấp trước nên cũng không mê đắm, vì trong tự tánh không không có mê đắm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ thần thông thù thắng Ba-la-mật-đa, dẫn phát thiên nhãn thanh tịnh hơn người, dùng thiên nhãn ấy quán tất cả pháp đều tự tánh không.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì thấy tất cả pháp, tự tánh không, nên chẳng nương vào pháp tướng mà tạo tác các nghiệp, tuy vì hữu tình nói pháp như thế, nhưng cũng chẳng thủ đắc tướng của các hữu tình và sự an lập của chúng. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy lấy vô sở đắc làm phương tiện, dẫn phát thần thông Ba-la-mật-đa, dùng thần thông Ba-la-mật-đa ấy thường khởi thần thông theo bi nguyện mà làm việc.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy dùng thiên nhãn cực kỳ thanh tịnh hơn người có thể thấy vô lượng hằng hà sa thế giới khắp mười phương; thấy rồi dẫn phát thần cảnh trí thông đi đến các nơi ấy làm lợi ích các loài hữu tình, hoặc dùng bố thí Ba-la-mật-đa mà làm lợi ích,  hoặc dùng tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà làm lợi ích; hoặc dùng bốn niệm trụ mà làm lợi ích, hoặc dùng bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà làm lợi ích; hoặc dùng bốn tịnh lự mà làm lợi ích, hoặc dùng bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà làm lợi ích; hoặc dùng tám giải thoát mà làm lợi ích, hoặc dùng tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà làm lợi ích; hoặc dùng pháp Thanh văn mà làm lợi ích; hoặc dùng pháp Độc giác mà làm lợi ích; hoặc dùng pháp Bồ-tát mà làm lợi ích; hoặc dùng pháp chư Phật mà làm lợi ích.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy nếu thấy hữu tình ở mười phương thế giới nhiều xan tham, thì vô cùng thương xót, nói pháp thế này: Hữu tình các ngươi nên hành bố thí. Những ai xan tham thì chịu bần cùng khổ sở; do bần cùng nên không có oai đức, tự lợi còn chẳng được huống là có thể lợi người. Vì vậy, các ngươi nên siêng năng bố thí, đã tự an lạc cũng có thể làm an lạc người khác. Chớ vì sự bần cùng mà cấu xé lẫn nhau, như vậy thì đều chẳng phải thoát nỗi khổ trong các đường ác.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy nếu thấy hữu tình ở mười phương thế giới hủy phạm tịnh giới, thì vô cùng thương xót, nói pháp thế này: Hữu tình các ngươi nên trì tịnh giới. Các người phá giới chịu khổ trong các đường ác, người phá giới không có oai đức, tự lợi còn chẳng được huống là có thể lợi tha. Do nhân duyên phá giới hoặc sanh địa ngục nhận chịu khổ quả, hoặc sanh bàng sanh nhận chịu khổ quả, hoặc sanh quỉ giới nhận chịu khổ quả. Nếu các ngươi đọa vào trong các đường ác nhận chịu khổ quả, tự cứu còn chẳng được, huống là có thể cứu người. Vì vậy, các ngươi nên giữ tịnh giới, chẳng nên dung nạp tâm phá giới dù chỉ khoảng một sát-na, huống là thời gian dài. Chớ buông thả tâm mình, sau sanh lo buồn hối hận.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy nếu thấy hữu tình ở mười phương thế giới lại sân giận nhau, triền miên kết hận, làm tổn não nhau, thì vô cùng thương xót, nói pháp thế này: Hữu tình các ngươi nên tu an nhẫn, chớ sân giận nhau, kết hận hại nhau. Các tâm sân giận chẳng thuận thiện pháp, tăng trưởng ác pháp, hiện đời suy tổn. Các ngươi do tâm sân hận này, nên khi thân hoại mạng chung sẽ đọa địa ngục, sanh bàng, quỉ giới thọ khổ kịch liệt. Vì vậy, các ngươi chẳng nên dung nạp tâm sân hận dù chỉ trong khoảng sát-na, huống là để nó nối tiếp dài lâu. Nay đây các ngươi nên khởi tâm từ, lần lượt duyên vào, làm điều lợi ích.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy nếu thấy hữu tình ở mười phương thế giới biếng lười giải đãi, thì vô cùng thương xót, nói pháp thế này: Hữu tình các ngươi nên siêng tinh tấn, đối với thiện pháp chớ biếng lười giải đãi. Những kẻ giải đãi đối với thiện pháp và các thắng sự đều chẳng thể thành. Do đây các ngươi sẽ đọa địa ngục, bàng sanh, quỉ giới chịu vô lượng khổ. Vì vậy, các ngươi chẳng nên dung nạp tâm giải đãi này, dù chỉ khoảng một sát-na, huống là để nó tương tục lâu dài.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy nếu thấy hữu tình ở mười phương thế giới thất niệm, tán loạn, tâm chẳng tịch tịnh, thì vô cùng thương xót, nói pháp thế này: Hữu tình các ngươi nên tu tịnh lự, chớ sanh tâm thất niệm tán loạn; tâm như thế chẳng thuận thiện pháp, tăng trưởng ác pháp, bị suy tổn ngay. Do đây các ngươi khi thân hoại mạng chung, sẽ đọa địa ngục, bàng sanh, quỉ giới thọ vô lượng khổ. Vì vậy, các ngươi chẳng nên dung nạp tâm tương ưng thất niệm tán loạn, dù chỉ khoảng một sát-na, huống là để cho tương tục lâu dài.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy nếu thấy hữu tình ở mười phương thế giới ngu si ác tuệ, thì vô cùng thương xót, nói pháp thế này: Hữu tình các ngươi nên tu thắng tuệ, chớ khởi ác tuệ; người khởi ác tuệ đối với các đường thiện còn chẳng có thể đến được, huống là được giải thoát. Do nhân duyên ác tuệ này, các ngươi sẽ đọa địa ngục, bàng sanh, quỉ giới thọ vô lượng khổ. Vì vậy, các ngươi chẳng nên dung nạp tâm tương ưng ngu si ác tuệ, dù chỉ khoảng một sát-na, huống là để cho nó tương tục lâu dài.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy nếu thấy hữu tình ở mười phương thế giới nhiều tham dục, thì vô cùng thương xót, phương tiện dạy bảo dẫn dắt khiến tu quán bất tịnh. Nếu thấy hữu tình nhiều sân nhuế, thì vô cùng thương xót, phương tiện dạy bảo dẫn dắt khiến tu quán từ bi. Nếu thấy hữu tình nhiều ngu si, thì vô cùng thương xót, phương tiện dạy bảo dẫn dắt khiến tu quán duyên khởi. Nếu thấy hữu tình nhiều ngã mạn, thì vô cùng thương xót, phương tiện dạy bảo dẫn dắt khiến tu quán phân biệt giới. Nếu thấy hữu tình nhiều tầm từ, thì vô cùng thương xót, phương tiện dạy bảo dẫn dắt khiến tu quán trì tức niệm. Nếu thấy hữu tình hành tà đạo, thì vô cùng thương xót, phương tiện dạy bảo dẫn dắt khiến nhập chánh đạo, đó là đạo Thanh văn, hoặc đạo Độc giác, hoặc đạo Như Lai, phương tiện vì họ mà nói pháp thế này: Sở chấp của các ngươi, tự tánh đều không, chẳng phải trong pháp không có thể có sở chấp; vì không có sở chấp là tướng không vậy.

Này Thiện Hiện! Như thế, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa cần phải an trụ thần thông Ba-la-mật-đa, mới có thể tự tại tuyên thuyết chánh pháp, lợi ích an lạc các loại hữu tình.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát xa lìa thần thông Ba-la-mật-đa thì chẳng có thể tự tại tuyên thuyết chánh pháp, làm việc lợi ích cho các hữu tình.

Này Thiện Hiện! Như chim không cánh chẳng có thể bay lượn tự tại trong hư không để đến nơi xa. Các Đại Bồ-tát cũng giống như thế, nếu không có thần thông Ba-la-mật-đa thì chẳng có thể tự tại tuyên thuyết chánh pháp làm việc lợi ích cho các hữu tình. Vì vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên dẫn phát thần thông Ba-la-mật-đa; nếu dẫn phát thần thông Ba-la-mật-đa thì có thể tùy ý tuyên thuyết chánh pháp, lợi ích an lạc cho các loài hữu tình.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy dùng thiên nhãn vô cùng thanh tịnh hơn người quán khắp vô lượng hằng hà sa thế giới trong mười phương và quán các loài hữu tình sanh ở nơi ấy; thấy rồi dẫn phát thần cảnh trí thông, trải qua chốc lát đi đến cõi ấy, dùng tha tâm trí, như thật rõ biết tâm và tâm sở pháp của các hữu tình, tùy theo căn cơ, vì họ nói pháp yếu, đó là nói bố thí, hoặc nói tịnh giới, hoặc nói an nhẫn, hoặc nói tinh tấn, hoặc nói tịnh lự, hoặc nói Bát-nhã; hoặc nói bốn niệm trụ, hoặc nói bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc nói bốn tịnh lự, hoặc nói bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc nói tám giải thoát, hoặc nói tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc nói pháp môn Đà-la-ni, hoặc nói pháp môn Tam-ma-địa; hoặc nói pháp môn giải thoát không, hoặc nói pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc nói pháp không nội, hoặc nói pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc nói Thánh đế khổ, hoặc nói Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc nói nhân duyên, hoặc nói đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; hoặc nói các pháp từ duyên sanh ra; hoặc nói vô minh, hoặc nói hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; hoặc nói đạo Thanh văn, hoặc nói đạo Độc giác, hoặc nói đạo Bồ-tát, hoặc nói Bồ-đề, hoặc nói Niết-bàn, khiến các hữu tình nghe pháp ấy rồi đều được lợi ích an lạc thù thắng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy dùng thiên nhĩ hơn người vô cùng thanh tịnh có thể nghe tất cả tiếng nhơn, phi nhơn; do thiên nhĩ này có thể nghe chư Phật ở vô lượng hằng hà sa thế giới khắp mười phương thuyết pháp; nghe rồi không lẫn lộn, đều có thể thọ trì, vì các hữu tình như thật tuyên thuyết, hoặc thuyết bố thí, hoặc thuyết tịnh giới, hoặc thuyết an nhẫn, hoặc thuyết tinh tấn, hoặc thuyết tịnh lự, hoặc thuyết Bát-nhã, như thế cho đến hoặc thuyết Niết-bàn, khiến hữu tình kia nghe pháp ấy rồi đều được lợi ích an lạc thù thắng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy dùng tha tâm trí thông tối thanh tịnh, như thật rõ biết tâm và tâm sở pháp của các loài hữu tình, tùy theo căn cơ của chúng, vì chúng thuyết pháp yếu, đó là thuyết bố thí, hoặc thuyết tịnh giới, hoặc thuyết an nhẫn, hoặc thuyết tinh tấn, hoặc thuyết tịnh lự, hoặc thuyết Bát-nhã, như vậy cho đến hoặc thuyết Niết-bàn, khiến hữu tình kia nghe pháp ấy rồi đều được lợi ích an lạc thù thắng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy dùng túc trú tùy niệm trí thông có thể nhớ các chuyện đời trước của mình và người; do túc trú tùy niệm trí thông này như thật nhớ biết danh hiệu sai khác của chư Phật và chúng đệ tử quá khứ. Nếu các hữu tình ưa nghe các sự việc đời quá khứ mà được lợi ích thí liền vì họ mà tuyên thuyết các sự việc đời trước. Nhân phương tiện này vì họ thuyết chánh pháp đó là thuyết bố thí, hoặc thuyết tịnh giới, hoặc thuyết an nhẫn, hoặc thuyết tinh tấn, hoặc thuyết tịnh lự, hoặc thuyết Bát-nhã, như vậy cho đến hoặc thuyết Niết-bàn, khiến hữu tình kia nghe pháp ấy rồi đều được lợi ích an lạc thù thắng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy dùng thần cảnh trí thông cực nhanh chóng đi đến vô lượng hằng hà sa thế giới khắp mười phương, thân cận cúng dường chư Phật Thế Tôn, ở chỗ chư Phật, trồng các cội lành rồi trở về quốc độ mình vì các hữu tình tuyên thuyết các sự thù thắng ở các phương khác. Nhân phương tiện này vì họ thuyết chánh pháp, đó là thuyết bố thí, hoặc thuyết tịnh giới, hoặc thuyết an nhẫn, hoặc thuyết tinh tấn, hoặc thuyết tịnh lự, hoặc thuyết Bát-nhã, như vậy cho đến hoặc thuyết Niết-bàn, khiến hữu tình kia nghe pháp ấy rồi đều được lợi ích an lạc thù thắng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy dùng lậu tận trí thông tùy sở đắc, như thật rõ biết các loài hữu tình lậu hết hay chưa hết, cũng như thật biết phương tiện lậu hết vì người chưa hết tuyên thuyết pháp yếu, đó là thuyết bố thí, hoặc thuyết tịnh giới, hoặc thuyết an nhẫn, hoặc thuyết tinh tấn, hoặc thuyết tịnh lự, hoặc thuyết Bát-nhã, như vậy cho đến hoặc thuyết Niết-bàn, khiến hữu tình kia nghe pháp ấy rồi đều được lợi ích an lạc thù thắng.

Này Thiện Hiện! Như vậy, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên dẫn phát thần thông Ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát ấy tu tập thần thông Ba-la-mật-đa được viên mãn, nên tùy theo ý thích thọ các loại thân nhưng chẳng bị tội lỗi khổ, vui làm ô nhiễm. Như hóa thân của Phật tuy có thể thực hiện các sự việc nhưng chẳng bị tội lỗi khổ vui làm tạp nhiễm. Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên du hý thần thông Ba-la-mật-đa. Nếu du hý thần thông Ba-la-mật-đa thì có thể thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát chẳng thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật thì chẳng bao giờ đắc sở cầu là quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tư lương Bồ-đề của các Đại Bồ-tát nếu chưa đủ thì nhất định chẳng có thể đắc sở cầu là quả vị giác ngộ cao tột.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Những gì là Bồ-đề tư lương của Đại Bồ-tát, mà các Đại Bồ-tát cần phải đủ Bồ-đề tư lương như thế mới có thể chứng đắc sở cầu là quả vị giác ngộ cao tột?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Tất cả thiện pháp đều là Bồ-đề tư lương của Đại Bồ-tát, các Đại Bồ-tát cần phải đủ Bồ-đề tư lương như thế mới chứng đắc sở cầu là quả vị giác ngộ cao tột.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Những gì là tất cả thiện pháp, mà các Đại Bồ-tát thành tựu các thiện pháp ấy mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm tu hành bố thí Ba-la-mật-đa; tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; trong đó hoàn toàn không phân biệt chấp trước, nghĩa là nghĩ như thế này; Đây là bố thí v.v… do điều này, vì điều này mà tu bố thí v.v… ba sự phân biệt chấp trước ấy đều không có, biết tất cả pháp tự tánh là không; do đó việc tu Ba-la-mật-đa vì có thể tự làm lợi ích, cũng có thể làm lợi ích cho tất cả hữu tình, khiến thoát sanh tử, chứng đắc Niết-bàn cho nên nói là thiện pháp, cũng gọi là Bồ-đề tư lương của Bồ-tát, cũng gọi là đạo Đại Bồ-tát. Chúng Đại Bồ-tát quá khứ, vị lai, hiện tại tu hành đạo này đã đắc, sẽ đắc và hiện đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng đã, sẽ và hiện khiến hữu tình vượt qua biển lớn sanh tử, chứng vui Niết-bàn.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm, tu hành bốn niệm trụ, tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; trong đó hoàn toàn không phân biệt chấp trước, nghĩa là nghĩ thế này: Đây là bốn niệm trụ v.v… do điều này, vì điều này mà tu bốn niệm trụ v.v… ba sự phân biệt chấp trước ấy đều không có, biết tất cả pháp, tự tánh là không. Do việc tu bốn niệm trụ v.v… có thể tự làm lợi ích, cũng có thể làm lợi ích cho tất cả hữu tình, khiến thoát sanh tử, chứng đắc Niết-bàn, cho nên nói là thiện pháp, cũng gọi là Bồ-đề tư lương của Bồ-tát, cũng gọi là đạo Đại Bồ-tát. Chúng Đại Bồ-tát quá khứ, vị lai, hiện tại do hành đạo này nên đã đắc, sẽ đắc và hiện đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng khiến cho hữu tình đã, sẽ và hiện thoát khỏi biển lớn sanh tử, chứng vui Niết-bàn.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm, an trụ pháp không nội, an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; trong đó hoàn toàn không phân biệt chấp trước, nghĩa là nghĩ thế này: Đây là pháp không nội v.v… do điều này, vì điều này mà an trụ pháp không nội v.v… ba thứ phân biệt chấp trước ấy đều không có, biết tất cả pháp, tự tánh không. Do việc an trụ pháp không nội v.v… ấy có thể tự làm lợi ích, cũng có thể làm lợi ích cho tất cả hữu tình, khiến thoát sanh tử, được vui Niết-bàn, nên nói là thiện pháp, cũng gọi là Bồ-đề tư lương, cũng gọi là đạo Đại Bồ-tát. Chúng Đại Bồ-tát quá khứ, vị lai, hiện tại do tu hành đạo này, nên đã đắc, sẽ đắc và hiện đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng khiến hữu tình đã, sẽ và hiện thoát khỏi biển lớn sanh tử, chứng vui Niết-bàn.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm, an trụ Thánh đế khổ, an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; trong đó hoàn toàn không phân biệt chấp trước, nghĩa là nghĩ thế này: Đây là Thánh đế khổ v.v… do điều này, vì điều này mà an trụ Thánh đế khổ v.v… ba sự phân biệt chấp trước ấy hoàn toàn không có, biết tất cả pháp, tự tánh là không, do đó sự an trụ Thánh đế khổ v.v… có thể tự làm lợi ích, cũng có thể làm lợi ích cho tất cả hữu tình, khiến thoát sanh tử, chứng đắc Niết-bàn, cho nên nói là thiện pháp, cũng gọi là Bồ-đề tư lương của Bồ-tát, cũng gọi là đạo Đại Bồ-tát. Chúng Đại Bồ-tát quá khứ, vị lai, hiện tại do hành đạo này, nên đã đắc, sẽ đắc và hiện đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng khiến cho hữu tình đã, sẽ và hiện thoát khỏi biển lớn sanh tử, chứng vui Niết-bàn.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm tu hành bốn tịnh lự, tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc; trong đó hoàn toàn không phân biệt chấp trước, nghĩa là nghĩ thế này: Đây là bốn tịnh lự v.v… do điều này, vì điều này mà tu bốn tịnh lự v.v… ba sự phân biệt chấp trước ấy hoàn toàn không có, biết tất cả pháp, tự tánh là không, do đó sự tu bốn tịnh lự v.v… có thể tự làm lợi ích, cũng có thể làm lợi ích cho tất cả hữu tình, khiến thoát sanh tử, chứng đắc Niết-bàn, cho nên nói là thiện pháp, cũng gọi là Bồ-đề tư lương của Bồ-tát, cũng gọi là đạo Đại Bồ-tát. Chúng Đại Bồ-tát quá khứ, vị lai, hiện tại hành đạo này, nên đã đắc, sẽ đắc và hiện đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng khiến cho hữu tình đã, sẽ và hiện thoát khỏi biển lớn sanh tử, chứng vui Niết-bàn.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm tu hành tám giải thoát, tu hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; trong đó hoàn toàn không phân biệt chấp trước, nghĩa là nghĩ thế này: Đây là tám giải thoát v.v… do điều này, vì điều này mà tu tám giải thoát v.v… ba sự phân biệt chấp trước ấy hoàn toàn không có, biết tất cả pháp, tự tánh là không. Do việc tu tám giải thoát v.v… có thể tự làm lợi ích, cũng có thể làm lợi ích cho tất cả hữu tình, khiến thoát sanh tử, chứng đắc Niết-bàn, cho nên nói là thiện pháp, cũng gọi là Bồ-đề tư lương của Bồ-tát, cũng gọi là đạo Đại Bồ-tát. Chúng Đại Bồ-tát quá khứ, vị lai, hiện tại hành đạo này, nên đã đắc, sẽ đắc và hiện đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng khiến cho hữu tình đã, sẽ và hiện thoát khỏi biển lớn sanh tử, chứng vui Niết-bàn.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm, tu hành pháp môn Đà-la-ni, tu hành pháp môn Tam-ma-địa; trong đó hoàn toàn không phân biệt chấp trước, nghĩa là nghĩ thế này: Đây là pháp môn Đà-la-ni v.v… do điều này, vì điều này mà tu pháp môn Đà-la-ni v.v… ba sự phân biệt chấp trước ấy hoàn toàn không có, biết tất cả pháp, tự tánh là không. Do việc tu pháp môn Đà-la-ni v.v… có thể tự làm lợi ích, cũng có thể làm lợi ích cho tất cả hữu tình, khiến thoát sanh tử, chứng đắc Niết-bàn, cho nên nói là thiện pháp, cũng gọi là Bồ-đề tư lương của Bồ-tát, cũng gọi là đạo Đại Bồ-tát. Chúng Đại Bồ-tát quá khứ, vị lai, hiện tại hành đạo này, nên đã đắc, sẽ đắc và hiện đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng khiến cho hữu tình đã, sẽ và hiện thoát khỏi biển lớn sanh tử, chứng vui Niết-bàn.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm, tu hành pháp môn giải thoát không, tu hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; trong đó hoàn toàn không phân biệt chấp trước, nghĩa là nghĩ thế này: Đây là pháp môn giải thoát không v.v… do điều này, vì điều này mà tu pháp môn giải thoát không v.v… ba sự phân biệt chấp trước ấy đều không có, biết tất cả pháp, tự tánh không. Do việc tu pháp môn giải thoát không ấy v.v… có thể tự làm lợi ích, cũng có thể làm lợi ích cho tất cả hữu tình, khiến thoát sanh tử, chứng đắc Niết-bàn, cho nên nói là thiện pháp, cũng gọi là Bồ-đề tư lương của Bồ-tát, cũng gọi là đạo Đại Bồ-tát. Chúng Đại Bồ-tát quá khứ, vị lai, hiện tại hành đạo này, nên đã đắc, sẽ đắc, hiện đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng khiến cho hữu tình đã, sẽ và hiện thoát khỏi biển lớn sanh tử, chứng Niết-bàn an lạc.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm, tu hành bậc Cực hỷ, tu hành bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; trong đó hoàn toàn không phân biệt chấp trước, nghĩa là nghĩ thế này: Đây là bậc Cực hỷ v.v… do điều này, vì điều này mà tu bậc Cực hỷ v.v… ba sự phân biệt chấp trước ấy đều không có, biết tất cả pháp, tự tánh không. Do việc tu bậc Cực hỷ v.v… có thể tự làm lợi ích, cũng có thể làm lợi ích cho tất cả hữu tình, khiến thoát sanh tử, chứng đắc Niết-bàn, cho nên nói là thiện pháp, cũng gọi là Bồ-đề tư lương của Bồ-tát, cũng gọi là đạo Đại Bồ-tát. Chúng Đại Bồ-tát quá khứ, vị lai, hiện tại hành đạo này, nên đã đắc, sẽ đắc, hiện đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng khiến cho hữu tình đã, sẽ và hiện thoát khỏi biển lớn sanh tử, chứng đắc Niết-bàn an lạc.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm, tu hành năm loại mắt, tu hành sáu phép thần thông; trong đó hoàn toàn không phân biệt chấp trước, nghĩa là nghĩ thế này: Đây là năm loại mắt v.v… do điều này, vì điều này mà tu năm loại mắt v.v… ba sự phân biệt chấp trước ấy đều không có, biết tất cả pháp, tự tánh không. Do việc tu năm loại mắt v.v… có thể tự làm lợi ích, cũng có thể làm lợi ích cho tất cả hữu tình, khiến thoát sanh tử, chứng đắc Niết-bàn, cho nên nói là thiện pháp, cũng gọi là Bồ-đề tư lương của Bồ-tát, cũng gọi là đạo Đại Bồ-tát. Chúng Đại Bồ-tát quá khứ, vị lai, hiện tại hành đạo này, nên đã đắc, sẽ đắc, hiện đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng khiến cho hữu tình đã, sẽ và hiện thoát khỏi biển lớn sanh tử, chứng đắc Niết-bàn an lạc.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm tu hành mười lực Phật, tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; trong đó hoàn toàn không phân biệt chấp trước, nghĩa là nghĩ thế này: Đây là mười lực Phật v.v… do điều này, vì điều này mà tu mười lực Phật v.v… ba sự phân biệt chấp trước ấy đều không có, biết tất cả pháp, tự tánh không. Do việc tu mười lực Phật v.v… có thể tự làm lợi ích, cũng có thể làm lợi ích cho tất cả hữu tình, khiến thoát sanh tử, chứng đắc Niết-bàn, cho nên nói là thiện pháp, cũng gọi là Bồ-đề tư lương của Bồ-tát, cũng gọi là đạo Đại Bồ-tát. Chúng Đại Bồ-tát quá khứ, vị lai, hiện tại hành đạo này, nên đã đắc, sẽ đắc, hiện đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng khiến cho hữu tình đã, sẽ và hiện thoát khỏi biển lớn sanh tử, chứng đắc Niết-bàn an lạc.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm, tu hành pháp không quên mất tu hành tánh luôn luôn xả; trong đó hoàn toàn không phân biệt chấp trước, nghĩa là nghĩ thế này: Đây là pháp không quên mất v.v… do điều này, vì điều này mà tu pháp không quên mất v.v… ba sự phân biệt chấp trước ấy đều không có, biết tất cả pháp, tự tánh không. Do việc tu pháp không quên mất v.v… này có thể tự làm lợi ích, cũng có thể làm lợi ích cho tất cả hữu tình, khiến thoát sanh tử, chứng đắc Niết-bàn, cho nên nói là thiện pháp, cũng gọi là Bồ-đề tư lương của Bồ-tát, cũng gọi là đạo Đại Bồ-tát. Chúng Đại Bồ-tát quá khứ, vị lai, hiện tại hành đạo này, nên đã đắc, sẽ đắc, hiện đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng khiến cho hữu tình đã, sẽ và hiện thoát khỏi biển lớn sanh tử, chứng đắc Niết-bàn an lạc.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm, tu hành trí nhất thiết, tu hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; ở trong đó hoàn toàn không phân biệt chấp trước, nghĩa là nghĩ thế này: Đây là trí nhất thiết v.v… do điều này, vì điều này mà tu trí nhất thiết v.v… ba sự phân biệt chấp trước ấy đều không có, biết tất cả pháp, tự tánh không. Do việc tu trí nhất thiết v.v… có thể tự làm lợi ích, cũng có thể làm lợi ích cho tất cả hữu tình, khiến thoát sanh tử, chứng đắc Niết-bàn, cho nên nói là thiện pháp, cũng gọi là Bồ-đề tư lương của Bồ-tát, cũng gọi là đạo Đại Bồ-tát. Chúng Đại Bồ-tát quá khứ, vị lai, hiện tại hành đạo này, nên đã đắc, sẽ đắc, hiện đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng khiến cho hữu tình đã, sẽ và hiện thoát khỏi biển lớn sanh tử, chứng đắc Niết-bàn an lạc.

Thiện Hiện! Nên biết, lại có vô lượng công đức tu hành của các chúng Bồ-tát đều gọi là thiện pháp, cũng gọi là Bồ-đề tư lương, cũng gọi là đạo Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát cần phải tu thiện pháp thù thắng như thế khiến viên mãn cùng tột mới có thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Cần phải chứng đắc trí nhất thiết trí rồi mới có thể chuyển bánh xe Chánh pháp không sai lạc, khiến các hữu tình giải thoát sanh tử, chứng đắc Niết-bàn cứu cánh thường lạc.