KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Trí Nghiêm
Giảo chính: Hòa Thượng Quảng Độ

 

HỘI THỨ NHẤT

LXIX. PHẨM CÁC PHÁP BÌNH ĐẲNG

(Giữa quyển 379 đến đầu quyển 386)

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Làm sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, đối với tất cả pháp hoàn toàn đạt thật tướng?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Như hóa Phật mà Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hoá ra chẳng hành tham, chẳng hành sân, chẳng hành si; chẳng hành sắc, cũng chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức; chẳng hành nhãn xứ, cũng chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng hành sắc xứ, cũng chẳng hành thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng hành nhãn giới, cũng chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chẳng hành sắc giới, cũng chẳng hành thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chẳng hành nhãn thức giới, cũng chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chẳng hành nhãn xúc, cũng chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chẳng hành các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng hành các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; chẳng hành địa giới, cũng chẳng hành thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng hành nhân duyên, cũng chẳng hành đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; chẳng hành pháp từ các duyên sanh ra; chẳng hành vô minh, cũng chẳng hành hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng hành bố thí Ba-la-mật-đa, cũng chẳng hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng hành bốn tịnh lự, cũng chẳng hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chẳng hành bốn niệm trụ, cũng chẳng hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; chẳng hành pháp môn giải thoát không, cũng chẳng hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chẳng hành pháp không nội, cũng chẳng hành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng hành chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì; chẳng hành Thánh đế khổ, cũng chẳng hành Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng hành tám giải thoát, cũng chẳng hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chẳng hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng hành bậc Cực hỷ, cũng chẳng hành bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; chẳng hành năm loại mắt, cũng chẳng hành sáu phép thần thông; chẳng hành mười lực Phật, cũng chẳng hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng hành đại từ, cũng chẳng hành đại bi, đại hỷ, đại xả; chẳng hành pháp không quên mất, cũng chẳng hành tánh luôn luôn xả; chẳng hành trí nhất thiết, cũng chẳng hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chẳng hành ba mươi hai tướng đại sĩ, cũng chẳng hành tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; chẳng hành quả Dự lưu, cũng chẳng hành quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác; chẳng hành tất cả hạnh Đại Bồ-tát, cũng chẳng hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; chẳng hành pháp nội, cũng chẳng hành pháp ngoại; chẳng hành tùy miên, cũng chẳng hành triền; chẳng hành pháp thế gian, cũng chẳng hành pháp xuất thế gian; chẳng hành pháp hữu lậu, cũng chẳng hành pháp vô lậu; chẳng hành pháp hữu vi, cũng chẳng hành pháp vô vi; chẳng hành đạo, cũng chẳng hành đạo quả.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, cũng giống như thế, đối với tất cả pháp, hoàn toàn không có sở hành. Như vậy là hoàn toàn đạt thật tướng các pháp, đó là đối với pháp tánh không phân biệt.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Người mà Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biến hoá ra hiện tu Thánh đạo như thế nào?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Người mà Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biến hoá đó nương vào và tu Thánh đạo chẳng nhiễm, chẳng tịnh, cũng chẳng luân hồi sanh tử trong năm đường.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Làm thế nào các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thông đạt các pháp đều không có thật?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Người mà chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biến hoá ra là thật có, rồi y vào sự thật có ấy, có nhiễm, có tịnh, và có sự luân hồi trong năm đường chăng?

Thiện Hiện đáp:

– Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không! Chẳng phải người mà chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biến hoá ra có chút sự thật, chẳng phải nương vào việc ấy mà có nhiễm, có tịnh, cũng không luân hồi sanh tử trong năm đường.

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, đối với tất cả pháp hoàn toàn thông đạt thật tướng, cũng giống như thế, thông đạt các pháp hoàn toàn không có thật sự.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Có phải tất cả sắc đều như hóa chăng? Tất cả thọ, tưởng, hành, thức cũng như hóa chăng? Tất cả nhãn xứ đều như hóa chăng? Tất cả nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng như hóa chăng? Tất cả sắc xứ đều như hóa chăng? Tất cả thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng như hóa chăng? Tất cả nhãn giới đều như hóa chăng? Tất cả nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng như hóa chăng? Tất cả sắc giới đều như hóa chăng? Tất cả thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng như hóa chăng? Tất cả nhãn thức giới đều như hóa chăng? Tất cả nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng như hóa chăng? Tất cả nhãn xúc đều như hóa chăng? Tất cả nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng như hóa chăng? Tất cả các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đều như hóa chăng? Tất cả các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng như hóa chăng? Tất cả địa giới đều như hóa chăng? Tất cả thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng như hóa chăng? Tất cả nhân duyên đều như hóa chăng? Tất cả đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng như hóa chăng? Tất cả pháp từ duyên sanh ra đều như hóa chăng? Tất cả vô minh đều như hóa chăng? Tất cả hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng như hóa chăng? Như thế cho đến tất cả pháp thế gian đều như hóa chăng? Tất cả pháp xuất thế gian cũng như hóa chăng? Tất cả pháp hữu lậu đều như hóa chăng? Tất cả pháp vô lậu cũng như hóa chăng? Tất cả pháp hữu vi đều như hóa chăng? Tất cả pháp vô vi cũng như hóa chăng?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói, tất cả pháp đều như hóa!

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều như sự biến hoá thì các thứ được biến hoá đều không có sắc thật, cũng không có thọ, tưởng, hành, thức thật; các sự biến hoá đều không có nhãn xứ thật, cũng không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thật; các sự biến hoá đều không có sắc xứ thật, cũng không có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thật; các sự biến hoá đều không có nhãn giới thật, cũng không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới thật; các sự biến hoá đều không có sắc giới thật, cũng không có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới thật; các sự biến hoá đều không có nhãn thức giới thật, cũng không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới thật; các sự biến hoá đều không có nhãn xúc thật, cũng không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc thật; các sự biến hoá đều không có các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thật, cũng không có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra thật; các sự biến hoá đều không có địa giới thật, cũng không có thủy, hỏa, phong, không, thức giới thật; các sự biến hoá đều không có nhân duyên thật, cũng không có đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên thật; các sự biến hoá đều không có các pháp từ duyên sanh ra thật; các sự biến hoá đều không có vô minh thật, cũng không có hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thật; các sự biến hoá đều không có pháp thế gian thật, cũng không có pháp xuất thế gian thật; các sự biến hoá đều không có pháp hữu lậu thật, cũng không có pháp vô lậu thật; các sự biến hoá đều không có pháp hữu vi thật, cũng không có pháp vô vi thật; các sự biến hoá đều không có pháp tạp nhiễm thật, cũng không có pháp thanh tịnh thật; các sự biến hoá đều không có luân hồi sanh tử trong năm đường thật, cũng không có giải thoát sanh tử trong năm đường thật, tại sao Đại Bồ-tát đối với các hữu tình có việc làm của bậc thắng sĩ?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Đại Bồ-tát khi xưa hành đạo Bồ-tát, có thấy hữu tình có thể thoát các đường địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, trời, người chăng?

Thiện Hiện đáp:

– Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Các Đại Bồ-tát khi xưa hành đạo Bồ-tát chẳng thấy có hữu tình có thể thoát ba cõi. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì các Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp biết, thấy, thông đạt đều như huyễn hóa, hoàn toàn chẳng phải thật có.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp biết, thấy, thông đạt đều như huyễn hóa, hoàn toàn chẳng phải thật có thì Đại Bồ-tát vì việc gì mà tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì việc gì mà tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; vì việc gì mà tu hành bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; vì việc gì mà tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; vì việc gì mà tu hành tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; vì việc gì mà tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; vì việc gì mà tu hành bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; vì việc gì mà tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông; vì việc gì mà tu hành mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; vì việc gì mà tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; vì việc gì mà tu hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; vì việc gì mà tu hành tất cả hạnh Đại Bồ-tát; vì việc gì mà tu hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; vì việc gì mà nghiêm tịnh cõi Phật, vì việc gì mà thành thục hữu tình?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu các hữu tình đối với tất cả pháp có thể tự biết rõ đều như huyễn hóa, hoàn toàn chẳng phải thật có, thì Đại Bồ-tát chẳng nên trải qua vô số kiếp vì các hữu tình hành đạo Bồ-tát; vì các hữu tình đối với tất cả pháp chẳng có thể tự biết đều như huyễn hóa, hoàn toàn chẳng phải thật có. Cho nên, Đại Bồ-tát trải qua vô số kiếp vì các hữu tình, hành đạo Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp chẳng biết như thật đều như huyễn hóa, hoàn toàn chẳng phải thật có, thì chẳng nên trải qua vô số kiếp, vì các hữu tình tu hạnh Bồ-tát, nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình; vì Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp rõ biết như thật đều như huyễn hóa, hoàn toàn chẳng phải thật có, nên trải qua vô số kiếp vì các hữu tình tu hạnh Bồ-tát nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp như mộng, như huyễn, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như sự biến hóa, như ảo thành thì hữu tình được biến hóa trụ tại chỗ nào để các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa cứu vớt khiến giải thoát?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Hữu tình được biến hóa trụ tại danh tướng hư vọng phân biệt, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, từ chỗ danh tướng hư vọng phân biệt ấy, cứu vớt khiến giải thoát.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Cái gì gọi là danh? Cái gì gọi là tướng?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Danh đều là khách, đều là giả lập, đều thuộc về đặt bày, gọi đây là sắc, đây là thọ, tưởng, hành, thức; đây là nhãn xứ, đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; đây là sắc xứ, đây là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; đây là nhãn giới, đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; đây là sắc giới, đây là thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; đây là nhãn thức giới, đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; đây là nam, đây là nữ; đây là tiểu, đây là đại; đây là địa ngục, đây là bàng sanh, đây là quỷ giới, đây là người, đây là trời; đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian; đây là pháp hữu lậu, đây là pháp vô lậu; đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi; đây là quả Dự lưu, đây là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, đây là quả vị Độc giác; đây là tất cả hạnh Đại Bồ-tát; đây là quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; đây là phàm phu, đây là Thanh văn, đây là Độc giác, đây là Bồ-tát, đây là Như Lai.

Này Thiện Hiện! Tất cả danh xưng như thế đều là giả lập, vì làm rõ các nghĩa, đặt bày các danh xưng, cho nên tất cả danh xưng đều chẳng phải thật có; các pháp hữu vi cũng chỉ có danh, do đó vô vi cũng chẳng phải thật có. Phàm phu ngu si ở trong vọng chấp, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, phương tiện thiện xảo giáo hóa khiến xa lìa, nói thế này: Danh là phân biệt, do vọng tưởng sanh khởi, cũng là các duyên hòa hợp giả lập. Các ngươi chẳng nên chấp trước chúng; danh không thật có, tự tánh đều không. Chẳng phải người có trí chấp trước pháp không.

Này Thiện Hiện! Như thế, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, phương tiện thiện xảo, vì các hữu tình, thuyết pháp lìa danh.

Này Thiện Hiện! Đó gọi là danh. Còn cái gì gọi là tướng?

Này Thiện Hiện! Tướng có hai thứ mà phàm phu ngu si chấp trước. Những gì là hai? Một là sắc tướng, hai là vô sắc tướng. Thế nào là sắc tướng?

Này Thiện Hiện! Các sắc hiện có, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc nội, hoặc ngoại, hoặc thô, hoặc tế, hoặc liệt, hoặc thắng, hoặc viễn, hoặc cận, trong các pháp không ở sát na này, phàm phu ngu si phân biệt chấp trước,  gọi là sắc tướng. Thế nào là vô sắc tướng?

Này Thiện Hiện! Đó là trong các pháp vô sắc hiện có, phàm phu ngu si thủ tướng phân biệt, sanh các phiền não, đó gọi là vô sắc tướng. Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, phương tiện thiện xảo, giáo hóa các hữu tình xa lìa hai tướng, lại giáo hóa an trụ trong cảnh giới vô tướng; tuy giáo hóa an trụ trong cảnh giới vô tướng, nhưng chẳng khiến họ rơi vào chấp nhị biên, gọi đây là tướng, đây là vô tướng.

Này Thiện Hiện! Như thế, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, phương tiện thiện xảo, khiến các hữu tình, xa lìa các tướng, an trụ cảnh giới vô tướng nhưng chẳng chấp trước.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp chỉ có danh tướng, những danh tướng ấy đều là giả lập, phân biệt sanh khởi, chẳng phải thật có tánh, thì tại sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, đối với các thiện pháp, có thể tự tăng tiến, cũng có thể khiến người khác tăng tiến thiện pháp. Do thiện pháp của mình được tăng tiến, nên có thể khiến các bậc lần lượt viên mãn, cũng có thể an lập các loại hữu tình, tùy theo căn cơ, đắc quả ba thừa.

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu trong các pháp có chút sự thật, chẳng phải chỉ là giả lập, có danh tướng, thì Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, nên đối với thiện pháp, chẳng tự tăng tiến, cũng chẳng khiến người tăng tiến thiện pháp.

Này Thiện Hiện! Vì trong các pháp không chút sự thật, chỉ có giả lập các danh và tướng, vì vậy, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, lấy vô tướng làm phương tiện, có thể viên mãn Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô tướng làm phương tiện có thể viên mãn tịnh lự Ba-la-mật-đa, lấy vô tướng làm phương tiện có thể viên mãn tinh tấn Ba-la-mật-đa; lấy vô tướng làm phương tiện, có thể viên mãn an nhẫn Ba-la-mật-đa; lấy vô tướng làm phương tiện, có thể viên mãn tịnh giới Ba-la-mật-đa; lấy vô tướng làm phương tiện, có thể viên mãn bố thí Ba-la-mật-đa; lấy vô tướng làm phương tiện, có thể viên mãn bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; lấy vô tướng làm phương tiện, có thể viên mãn bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; lấy vô tướng làm phương tiện, có thể viên mãn pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; lấy vô tướng làm phương tiện, có thể viên mãn pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; lấy vô tướng làm phương tiện, có thể viên mãn chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; lấy vô tướng làm phương tiện, có thể viên mãn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; lấy vô tướng làm phương tiện, có thể viên mãn tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; lấy vô tướng làm phương tiện, có thể viên mãn tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; lấy vô tướng làm phương tiện, có thể viên mãn bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; lấy vô tướng làm phương tiện, có thể viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông; lấy vô tướng làm phương tiện, có thể viên mãn mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; lấy vô tướng làm phương tiện, có thể viên mãn pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; lấy vô tướng làm phương tiện, có thể viên mãn trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; lấy vô tướng làm phương tiện, đối với các thiện pháp, tự viên mãn rồi, cũng có thể khiến người viên mãn thiện pháp.

Này Thiện Hiện! Như thế, vì tất cả pháp không có một chút sự thật, chỉ có giả lập các danh và tướng. Các Đại Bồ-tát đối với chúng, chẳng khởi điên đảo chấp trước, thì đối với các thiện pháp, có thể tự tăng tiến, cũng có thể khiến người tăng tiến thiện pháp.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu trong các pháp, có pháp tướng thật như đầu sợi lông, thì Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, đối với tất cả pháp chẳng nên biết vô tướng, vô niệm, cũng không tác ý tánh vô lậu rồi, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, an lập hữu tình ở pháp vô lậu. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì các pháp vô lậu đều vô tướng, vô niệm, vô tác ý.

Này Thiện Hiện! Như thế, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, an lập hữu tình ở pháp vô lậu, mới gọi là việc lợi tha chơn thật.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp thật vô lậu tánh, vô tướng, vô niệm, cũng không tác ý, thì vì duyên gì Thế Tôn từng nói thế này: Đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian, đây là pháp hữu lậu, đây là pháp vô lậu, đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi, đây là pháp hữu tội, đây là pháp vô tội, đây là pháp hữu tránh, đây là pháp vô tránh, đây là pháp lưu chuyển, đây là pháp hoàn diệt, đây là pháp cộng, đây là pháp bất cộng, đây là pháp Thanh văn, đây là pháp Độc giác, đây là pháp Bồ-tát, đây là pháp Như Lai?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Các pháp thế gian cùng với pháp tánh vô lậu, vô tướng … có khác nhau chăng?

Thiện Hiện đáp:

– Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Pháp Thanh văn v.v… cùng với pháp tánh vô lậu, vô tướng … có khác nhau chăng?

Thiện Hiện đáp:

– Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Pháp thế gian v.v… chính là pháp tánh vô lậu, vô tướng, vô niệm v.v…

Thiện Hiện thưa:

– Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy!

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Hoặc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc quả vị Độc giác, hoặc pháp của các Đại Bồ-tát, hoặc quả vị giác ngộ cao tột chính là pháp tánh vô lậu, vô tướng, vô niệm v.v…

Thiện Hiện thưa:

– Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy!

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này, nên biết tất cả pháp đều là vô tướng v.v…

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi học tất cả pháp đều là vô tướng, vô niệm, vô tác ý, thường có thể tăng ích sở hành là thiện pháp, đó là bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; hoặc bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; hoặc Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; hoặc pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; hoặc tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; hoặc năm loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả; hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Tất cả các Phật pháp như thế đều do học vô tướng, vô niệm, vô tác ý mà được tăng ích. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát, trừ pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, không có pháp quan trọng nào khác phải học. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ba pháp môn giải thoát có thể thu nhiếp tất cả pháp diệu thiện. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không quán tất cả pháp tự tướng đều không; pháp môn giải thoát vô tướng quán tất cả pháp xa lìa các tướng; pháp môn giải thoát vô nguyện quán tất cả pháp xa lìa sở nguyện. Do ba pháp môn này có thể thu nhiếp tất cả thiện pháp thù thắng, lìa ba pháp môn này, mà tu tập thiện pháp thù thắng thì chẳng sanh trưởng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát có thể học ba pháp môn giải thoát như thế, thì có thể học năm uẩn, cũng có thể học mười hai xứ; cũng có thể học mười tám giới; cũng có thể học sáu giới; cũng có thể học bốn Thánh đế; cũng có thể học bốn duyên; cũng có thể học các pháp từ duyên sanh ra; cũng có thể học mười hai duyên khởi; cũng có thể học pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng có thể học chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng có thể học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí Ba-la-mật-đa; cũng có thể học bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; cũng có thể học bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng có thể học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng có thể học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng có thể học tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng có thể học năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng có thể học mười lực Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng có thể học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng có thể học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng có thể học nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình; cũng có thể học vô lượng, vô biên các Phật pháp khác.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Làm sao Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học năm uẩn?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết sắc, thọ, tưởng, hành, thức là có thể học năm uẩn.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết sắc?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết tướng của sắc, như thật biết sự sanh của sắc, như thật biết sự diệt của sắc, như thật biết chơn như của sắc thì gọi là như thật biết sắc.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết tướng của sắc?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết sắc, rốt ráo có lỗ hổng, rốt ráo có chỗ hở, giống như bọt nước, tánh chẳng bền chắc thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết tướng của sắc.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết sự sanh của sắc?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết sắc không từ đâu đến, không đi về đâu; tuy không đến, không đi nhưng tương ưng với pháp sanh, thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết sự sanh của sắc.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết sự diệt của sắc?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết sắc không từ đâu đến, không đi về đâu; tuy không đến, không đi, nhưng tương ưng với pháp diệt, thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết sự diệt của sắc.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết chơn như của sắc?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết chơn như của sắc không sanh, không diệt, không đến, không đi, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, tánh của nó thường như chẳng hư vọng, chẳng đổi khác, cho nên gọi là chơn như, thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết chơn như của sắc.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết thọ?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết tướng thọ, như thật biết sự sanh của thọ, như thật biết sự diệt của thọ, như thật biết chơn như của thọ, thì gọi là như thật biết thọ.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết tướng của thọ?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết thọ rốt ráo như ung nhọt, rốt ráo như mũi tên, giống như bọt nổi, hư ngụy chẳng trụ, chóng khởi, chóng diệt, thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết tướng của thọ.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết sự sanh của thọ?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết thọ không từ đâu đến, không đi về đâu; tuy không đến, không đi nhưng tương ưng với pháp sanh, thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết sự sanh của thọ.

Này Thiện Hiện! Thế nào gọi là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết sự diệt của thọ?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết thọ không từ đâu đến, không đi về đâu; tuy không đến, không đi nhưng tương ưng với pháp diệt, thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết sự diệt của thọ.

Này Thiện Hiện! Thế nào gọi là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết chơn như của thọ?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết chơn như của thọ không sanh, không diệt, không đến, không đi, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, tánh của nó thường như chẳng hư vọng, chẳng đổi khác, nên gọi là chơn như, thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết chơn như của thọ.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết tưởng?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết tướng của tưởng, như thật biết sự sanh của tưởng, như thật biết sự diệt của tưởng, như thật biết chơn như của tưởng, thì như vậy là như thật biết tưởng.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết tướng của tưởng?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết tưởng giống như sóng nắng, chẳng thể nắm bắt được, do hư vọng khát ái mà khởi tưởng ấy, giả bày đặt có, giả phát ra lời nói, thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết tướng của tưởng.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết sự sanh của tưởng?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết tưởng không từ đâu đến, không đi về đâu; tuy không đến, không đi nhưng tương ưng với pháp sanh, thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết sự sanh của tưởng.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết sự diệt của tưởng?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết tưởng không từ đâu đến, không đi về đâu; tuy không đến, không đi nhưng tương ưng với pháp diệt, thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết sự diệt của tưởng.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết chơn như của tưởng?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết chơn như của tưởng không sanh, không diệt, không đến, không đi, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, tánh của nó thường như chẳng hư vọng, chẳng đổi khác nên gọi là chơn như, thì này Thiện Hiện! Như vậy gọi là như thật biết chơn như của tưởng.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết hành?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết tướng của hành, như thật biết sự sanh của hành, như thật biết sự diệt của hành, như thật biết chơn như của hành, thì như vậy là như thật biết hành.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết tướng của hành?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, biết như thật về hành như cây chuối lột bỏ từng bẹ thì không còn gì cả, minh, vô minh v.v… do các duyên tạo thành, nghiệp, phiền não v.v… hòa hợp giả lập, thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết tướng của hành.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết sự sanh của hành?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết hành không từ đâu đến, không đi về đâu; tuy không đến, không đi nhưng tương ưng với pháp sanh, thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết sự sanh của hành.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết sự diệt của hành?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết hành không từ đâu đến, không đi về đâu; tuy không đến, không đi nhưng tương ưng với pháp diệt, thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết sự diệt của hành.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết chơn như của hành?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết chơn như của hành không sanh, không diệt, không đến, không đi, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, tánh của nó thường như chẳng hư vọng, chẳng đổi khác, nên gọi là chơn như, thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết chơn như của hành.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết thức?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết tướng của thức, như thật biết sự sanh của thức, như thật biết sự diệt của thức, như thật biết chơn như của thức, thì như vậy gọi là như thật biết thức.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết tướng của thức?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết thức giống như trò huyễn, do các duyên hòa hợp, giả an lập là có, thật chẳng thể nắm bắt được, giống như nhà ảo thuật hoặc đệ tử của ông, ở ngã tư đường, biến hóa làm bốn loại quân lính, đó là quân voi, quân ngựa, quân xe, quân bộ; hoặc lại biến hóa làm các hình sắc khác, tướng tuy như có, nhưng kỳ thực là không. Thức cũng như thế, thật chẳng thể nắm bắt được, thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết tướng của thức.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết sự sanh của thức?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết sự sanh của thức không từ đâu đến, không đi về đâu; tuy không đến, không đi nhưng tương ưng với pháp sanh, thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết sự sanh của thức.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết sự diệt của thức?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết sự diệt của thức không từ đâu đến, không đi về đâu; tuy không đến, không đi nhưng tương ưng với pháp diệt, thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết sự diệt của thức.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết chơn như của thức?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết chơn như của thức không sanh, không diệt, không đến, không đi, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, tánh của nó thường như chẳng hư vọng, chẳng đổi khác nên gọi là chơn như, thì này Thiện Hiện! Đó là như thật biết chơn như của thức.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết sắc và tự tánh của sắc là không, như thật biết thọ và tự tánh của thọ là không, như thật biết tưởng và tự tánh của tưởng là không, như thật biết hành và tự tánh của hành là không, như thật biết thức và tự tánh của thức là không, thì này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học năm uẩn.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học mười hai xứ?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết nhãn xứ và tự tánh của nhãn xứ là không, như thật biết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ và tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không; như thật biết sắc xứ và tự tánh của sắc xứ là không, như thật biết thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không; như thật biết nội xứ và tự tánh của nội xứ là không, như thật biết ngoại xứ và tự tánh của ngoại xứ là không, thì này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học mười hai xứ.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học mười tám giới?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết nhãn giới và tự tánh của nhãn giới là không; như thật biết sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không; như thật biết nhĩ giới và tự tánh của nhĩ giới là không, như thật biết thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không; như thật biết tỷ giới và tự tánh của tỷ giới là không, như thật biết hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không; như thật biết thiệt giới và tự tánh của thiệt giới là không, như thật biết vị giới, thiệt thức vị giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không; như thật biết thân giới và tự tánh của thân giới là không, như thật biết xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không; như thật biết ý giới và tự tánh của ý giới là không, như thật biết pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không, thì này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học mười tám giới.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể học sáu giới?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết địa giới và tự tánh của địa giới là không, như thật biết thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không, thì này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học sáu giới.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học bốn Thánh đế?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết Thánh đế khổ, như thật biết Thánh đế tập, như thật biết Thánh đế diệt, như thật biết Thánh đế đạo, thì đó gọi là có thể học bốn Thánh đế.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết Thánh đế khổ?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết khổ là tướng bức bách, tự tánh vốn không, xa lìa hai pháp, là sự thật của bậc thánh: Khổ tức là chơn như, chơn như tức là khổ, không hai, không khác, chỉ có bậc chân thánh có thể biết như thật, thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết Thánh đế khổ.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết Thánh đế tập?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết tập là tướng sanh khởi, tự tánh vốn không, xa lìa hai pháp, là sự thật của bậc thánh: Tập tức là chơn như, chơn như tức là tập, không hai, không khác, chỉ có bậc chân thánh có thể như thật biết, thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết Thánh đế tập.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết Thánh đế diệt?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết diệt là tướng tịch tịnh, tự tánh vốn không, xa lìa hai pháp, là sự thật của bậc thánh: Diệt tức là chơn như, chơn như tức là diệt, không hai, không khác, chỉ có bậc chân thánh mới có thể như thật biết, thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết Thánh đế diệt.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết Thánh đế đạo?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết đạo là tướng xuất ly, tự tánh vốn không, xa lìa hai pháp, là sự thật của bậc thánh: Đạo tức là chơn như, chơn như tức là đạo, không hai, không khác, chỉ có bậc chân thánh có thể như thật biết, thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết Thánh đế đạo.

Này Thiện Hiện! Như vậy là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học bốn Thánh đế.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học bốn duyên?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết nhân duyên, như thật biết đẳng vô gián duyên, như thật biết sở duyên duyên, như thật biết tăng thượng duyên, thì đó gọi là có thể học bốn duyên.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết nhân duyên?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết nhân duyên là tướng chủng tử, tự tánh vốn không, xa lìa hai pháp thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết nhân duyên.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết đẳng vô gián duyên?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết đẳng vô gián duyên là tướng khai phát, tự tánh vốn không, xa lìa hai pháp, thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết đẳng vô gián duyên.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết sở duyên duyên?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết sở duyên duyên là tướng trụ trì, tự tánh vốn không, xa lìa hai pháp, thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết sở duyên duyên.

Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết tăng thượng duyên?

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết tăng thượng duyên là tướng chẳng ngại, tự tánh vốn không, xa lìa hai pháp, thì này Thiện Hiện! Đó gọi là như thật biết tăng thượng duyên.

Này Thiện Hiện! Như vậy là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học bốn duyên.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học các pháp từ duyên sanh ra?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết tất cả pháp từ duyên sanh ra, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng đoạn, chẳng thường, chẳng một, chẳng khác, chẳng đến, chẳng đi, dứt các hý luận, bản tánh vắng lặng thì này Thiện Hiện! Đó gọi là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học các pháp từ duyên sanh ra.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học mười hai duyên khởi?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết vô minh là không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, tự tánh vốn không, xa lìa hai pháp, như thật biết hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, tự tánh vốn không, xa lìa hai pháp thì này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học mười hai duyên khởi.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết pháp không nội chẳng có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể an trụ, như thật biết pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể an trụ thì, này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết chơn như không hý luận, không phân biệt mà có thể an trụ, như thật biết pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì không hý luận, không phân biệt mà có thể an trụ, thì này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí Ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết bố thí Ba-la-mật-đa không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập; như thật biết tịnh giới cho đến trí Ba-la-mật-đa không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập, thì này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học bố thí cho đến trí Ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, biết như thật bậc Cực hỷ không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập; như thật biết bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập, thì này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết bốn niệm trụ không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập; như thật biết bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập, thì này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết bốn tịnh lự không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập; như thật biết bốn vô lượng, bốn định vô sắc không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập, thì này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết tám giải thoát không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập; như thật biết tám thắng xứ, chín thứ đệ, mười biến xứ không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập, thì này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ, mười biến xứ.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết tất cả pháp môn Đà-la-ni không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập; như thật biết tất cả pháp môn Tam-ma-địa không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập, thì này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học năm loại mắt, sáu phép thần thông?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết năm loại mắt không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập; như thật biết sáu phép thần thông không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập, thì này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học mười lực Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết mười lực Như Lai không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập; như thật biết bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập, thì này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học mười lực Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết đại từ không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập; như thật biết đại bi, đại hỷ, đại xả không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập, thì này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết pháp không quên mất không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập; như thật biết tánh luôn luôn xả không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập, thì này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết trí nhất thiết không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập; như thật biết trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập, thì này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật biết nghiêm tịnh cõi Phật không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập; như thật biết thành thục hữu tình không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập, thì này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học vô lượng, vô biên các Phật pháp khác?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, biết như thật vô lượng, vô biên các Phật pháp khác không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập, thì này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể học vô lượng, vô biên các Phật pháp khác.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật rõ biết năm pháp uẩn v.v… triển chuyển sai biệt thì có phải dùng sắc uẩn phá hoại pháp giới; cũng dùng thọ, tưởng, hành, thức uẩn phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng nhãn xứ phá hoại pháp giới; cũng dùng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng sắc xứ phá hoại pháp giới; cũng dùng thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng nhãn giới phá hoại pháp giới; cũng dùng sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng nhĩ giới phá hoại pháp giới; cũng dùng thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng tỷ giới phá hoại pháp giới; cũng dùng hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng thiệt giới phá hoại pháp giới; cũng dùng vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng thân giới phá hoại pháp giới; cũng dùng xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng ý giới phá hoại pháp giới; cũng dùng pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng địa giới phá hoại pháp giới; cũng dùng thủy, hỏa, phong, không, thức giới phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng Thánh đế khổ phá hoại pháp giới; cũng dùng Thánh đế tập, diệt, đạo phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng nhân duyên phá hoại pháp giới; cũng dùng đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng các pháp từ các duyên sanh ra phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng vô minh phá hoại pháp giới; cũng dùng hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng pháp không nội phá hoại pháp giới; cũng dùng pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng chơn như phá hoại pháp giới; cũng dùng pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng bố thí Ba-la-mật-đa phá hoại pháp giới; cũng dùng tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí Ba-la-mật-đa phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng bậc Cực hỷ phá hoại pháp giới; cũng dùng bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng bốn niệm trụ phá hoại pháp giới; cũng dùng bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng bốn tịnh lự phá hoại pháp giới; cũng dùng bốn vô lượng, bốn định vô sắc phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng tám giải thoát phá hoại pháp giới; cũng dùng tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng tất cả pháp môn Đà-la-ni phá hoại pháp giới; cũng dùng tất cả pháp môn Tam-ma-địa phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng pháp môn giải thoát không phá hoại pháp giới; cũng dùng pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng năm loại mắt phá hoại pháp giới; cũng dùng sáu phép thần thông phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng mười lực Như Lai phá hoại pháp giới; cũng dùng bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng đại từ phá hoại pháp giới; cũng dùng đại bi, đại hỷ, đại xả phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng pháp không quên mất phá hoại pháp giới; cũng dùng tánh luôn luôn xả phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng trí nhất thiết phá hoại pháp giới; cũng dùng trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng nghiêm tịnh cõi Phật phá hoại pháp giới; cũng dùng thành thục hữu tình phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác. Có phải dùng vô lượng, vô biên các Phật pháp khác phá hoại pháp giới chăng? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác.

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu lìa pháp giới mà có pháp khác có thể nắm bắt được, có thể nói được, thì pháp ấy có thể phá hoại pháp giới, nhưng lìa pháp giới thì không có pháp có thể nắm bắt được, nên không có pháp nào khác có thể phá hoại pháp giới. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn biết lìa pháp giới không có pháp có thể nắm bắt được. Vì đã biết không có pháp lìa pháp giới, cũng chẳng vì người khác phô bày tuyên thuyết, cho nên pháp giới không có pháp nào có thể phá hoại được.

Này Thiện Hiện! Như thế, Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên học pháp giới không hai, không sai khác là tướng chẳng thể phá hoại.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát muốn học pháp giới thì nên học cái gì?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn học pháp giới thì nên học tất cả pháp. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều nhập pháp giới.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Ngài nói tất cả pháp đều nhập pháp giới?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Như Lai dù có ra đời, hoặc chẳng ra đời, các pháp vẫn như vậy, đều nhập pháp giới, không có tướng sai biệt, chẳng do Phật nói. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp thiện hoặc pháp phi thiện, hoặc pháp hữu ký, hoặc pháp vô ký, hoặc pháp hữu lậu, hoặc pháp vô lậu, hoặc pháp thế gian, hoặc pháp xuất thế gian, hoặc pháp hữu vi, hoặc pháp vô vi, đều nhập pháp giới tánh không, vô tướng, vô vi. Cho nên, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, muốn học pháp giới, nên học tất cả pháp. Nếu học tất cả pháp tức là học pháp giới.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều nhập pháp giới, không hai, không khác, thì tại sao Đại Bồ-tát phải học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng học tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa? Tại sao Đại Bồ-tát phải học sơ thiền, cũng học đệ nhị, đệ tam, đệ tứ thiền? Tại sao Đại Bồ-tát phải học từ vô lượng, cũng học bi, hỷ, xả vô lượng? Tại sao Đại Bồ-tát phải học định Không vô biên xứ, cũng học định Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ? Tại sao Đại Bồ-tát phải học bốn niệm trụ, cũng học bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo? Tại sao Đại Bồ-tát phải học pháp môn giải thóat không, cũng học pháp môn giải thóat vô tướng, vô nguyện? Tại sao Đại Bồ-tát phải học tám giải thóat, cũng học tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ? Tại sao Đại Bồ-tát phải học tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng học tất cả pháp môn Tam-ma-địa? Tại sao Đại Bồ-tát phải học pháp không nội, cũng phải học pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh? Tại sao Đại Bồ-tát phải học chơn như, cũng học pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì? Tại sao Đại Bồ-tát phải học Thánh đế khổ, cũng học Thánh đế tập, diệt, đạo? Tại sao Đại Bồ-tát phải học năm loại mắt, cũng học sáu phép thần thông? Tại sao Đại Bồ-tát phải học mười lực Phật, cũng học bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng? Tại sao Đại Bồ-tát phải học đại từ, cũng học đại bi, đại hỷ, đại xả? Tại sao Đại Bồ-tát phải học pháp không quên mất, cũng học tánh luôn luôn xả? Tại sao Đại Bồ-tát phải học trí nhất thiết, cũng học trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng? Tại sao Đại Bồ-tát phải học viên mãn ba mươi hai tướng đại sĩ, cũng học viên mãn tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc? Tại sao Đại Bồ-tát phải học sanh vào dòng dõi lớn Sát-đế-lợi, dòng dõi lớn Bà-la-môn, dòng dõi lớn trưởng giả, dòng dõi lớn cư sĩ? Tại sao Đại Bồ-tát phải học sanh vào chúng trời Tứ đại vương, trời Ba mươi ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại? Tại sao Đại Bồ-tát phải học sanh vào cõi trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm? Tại sao Đại Bồ-tát phải học sanh vào cõi trời Quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh? Tại sao Đại Bồ-tát phải học sanh vào cõi trời Tịnh, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh? Tại sao Đại Bồ-tát phải học sanh vào cõi trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả? Tại sao Đại Bồ-tát phải học pháp sanh vào cõi trời Vô tưởng hữu tình nhưng chẳng thích sanh nơi ấy? Tại sao Đại Bồ-tát phải học pháp sanh vào cõi trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh nhưng chẳng thích sanh vào đó? Tại sao Đại Bồ-tát phải học pháp sanh vào cõi trời Không vô biên xứ, trời Thức vô biên xứ, trời Vô sở hữu xứ, trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ nhưng chẳng thích sanh vào đó? Tại sao Đại Bồ-tát phải học sơ phát tâm Bồ-đề, cũng phải học đệ nhị, đệ tam, đệ tứ, đệ ngũ, đệ lục, đệ thất, đệ bát, đệ cửu, đệ thập phát tâm Bồ-đề? Tại sao Đại Bồ-tát phải học sơ địa Bồ-tát, cũng học đệ nhị, đệ tam, đệ tứ, đệ ngũ, đệ lục, đệ thất, đệ bát, đệ cửu, đệ thập địa Bồ-tát? Tại sao Đại Bồ-tát phải học bậc Thanh văn nhưng chẳng tác chứng, cũng phải học bậc Độc giác nhưng chẳng tác chứng? Tại sao Đại Bồ-tát phải học Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, cũng phải học thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật? Tại sao Đại Bồ-tát phải học biện tài Đà-la-ni vô ngại, cũng học đạo Bồ-tát, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật? Học như thế rồi, đắc trí nhất thiết trí, biết tất cả pháp, tất cả chủng tưởng.

Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trong pháp giới có các thứ phân biệt như thế.

Bạch Thế Tôn! Sẽ không có Bồ-tát do sự phân biệt này mà hành điên đảo, trong cái không hý luận, khởi các hý luận. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì trong chơn pháp giới hoàn toàn không có việc phân biệt hý luận.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải sắc, cũng chẳng lìa sắc; pháp giới chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng lìa thọ, tưởng, hành, thức. Pháp giới tức là sắc, sắc tức là pháp giới; pháp giới tức là thọ, tưởng, hành, thức; thọ, tưởng, hành, thức tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải nhãn xứ, cũng chẳng lìa nhãn xứ; pháp giới chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cũng chẳng lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Pháp giới tức là nhãn xứ, nhãn xứ tức là pháp giới; pháp giới tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải sắc xứ, cũng chẳng lìa sắc xứ; pháp giới chẳng phải thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cũng chẳng lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Pháp giới tức là sắc xứ, sắc xứ tức là pháp giới; pháp giới tức là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải nhãn giới, cũng chẳng lìa nhãn giới; pháp giới chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, cũng chẳng lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Pháp giới tức là nhãn giới, nhãn giới tức là pháp giới; pháp giới tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải sắc giới, cũng chẳng lìa sắc giới; pháp giới chẳng phải thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, cũng chẳng lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Pháp giới tức là sắc giới; sắc giới tức là pháp giới; pháp giới tức là thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; thanh, hương, vị, xúc, pháp tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải nhãn thức giới, cũng chẳng lìa nhãn thức giới; pháp giới chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, cũng chẳng lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Pháp giới tức là nhãn thức giới; nhãn thức giới tức là pháp giới; pháp giới tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải nhãn xúc, cũng chẳng lìa nhãn xúc; pháp giới chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, cũng chẳng lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Pháp giới tức là nhãn xúc; nhãn xúc tức là pháp giới; pháp giới tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lìa các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; pháp giới chẳng phải các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lìa các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Pháp giới tức là các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra tức là pháp giới; pháp giới tức là các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải địa giới, cũng chẳng lìa địa giới; pháp giới chẳng phải thủy, hỏa, phong, không, thức giới,cũng chẳng lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Pháp giới tức là địa giới, địa giới tức là pháp giới; pháp giới tức là thủy, hỏa, phong, không, thức giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải nhân duyên, cũng chẳng lìa nhân duyên; pháp giới chẳng phải đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, cũng chẳng lìa đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Pháp giới tức là nhân duyên, nhân duyên tức là pháp giới; pháp giới tức là đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải các pháp từ duyên sanh ra, cũng chẳng lìa các pháp từ duyên sanh ra. Pháp giới tức là các pháp từ duyên sanh ra; các pháp từ duyên sanh ra tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải vô minh, cũng chẳng lìa vô minh; pháp giới chẳng phải hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, cũng chẳng lìa hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Pháp giới tức là vô minh, vô minh tức là pháp giới; pháp giới tức là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải bố thí Ba-la-mật-đa, cũng chẳng lìa bố thí Ba-la-mật-đa; pháp giới chẳng phải tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng lìa tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Pháp giới tức là bố thí Ba-la-mật-đa, bố thí Ba-la-mật-đa tức là pháp giới; pháp giới tức là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải bốn tịnh lự, cũng chẳng lìa bốn tịnh lự; pháp giới chẳng phải bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng chẳng lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Pháp giới tức là bốn tịnh lự, bốn tịnh lự tức là pháp giới; pháp giới tức là bốn vô lượng, bốn định vô sắc; bốn vô lượng, bốn định vô sắc tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải bốn niệm trụ, cũng chẳng lìa bốn niệm trụ; pháp giới chẳng phải bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, cũng chẳng lìa bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo. Pháp giới tức là bốn niệm trụ, bốn niệm trụ tức là pháp giới; pháp giới tức là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải pháp môn giải thoát không, cũng chẳng lìa pháp môn giải thoát không; pháp giới chẳng phải pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, cũng chẳng lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Pháp giới tức là pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát không tức là pháp giới; pháp giới tức là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải pháp không nội, cũng chẳng lìa pháp không nội; pháp giới chẳng phải pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cũng chẳng lìa pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh. Pháp giới tức là pháp không nội, pháp không nội tức là pháp giới; pháp giới tức là pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh; pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải Thánh đế khổ, cũng chẳng lìa Thánh đế khổ; pháp giới chẳng phải Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng chẳng lìa Thánh đế tập, diệt, đạo. Pháp giới tức là Thánh đế khổ, Thánh đế khổ tức là pháp giới; pháp giới tức là Thánh đế tập, diệt, đạo; Thánh đế tập, diệt, đạo tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải tám giải thoát, cũng chẳng lìa tám giải thoát; pháp giới chẳng phải tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, cũng chẳng lìa tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Pháp giới tức là tám giải thoát, tám giải thoát tức là pháp giới; pháp giới tức là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni; pháp giới chẳng phải tất cả pháp môn Tam-ma-địa, cũng chẳng lìa tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Pháp giới tức là tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Đà-la-ni tức là pháp giới; pháp giới tức là tất cả pháp môn Tam-ma-địa; tất cả pháp môn Tam-ma-địa tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải bậc Cực hỷ, cũng chẳng lìa bậc Cực hỷ; pháp giới chẳng phải bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, cũng chẳng lìa bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân. Pháp giới tức là bậc Cực hỷ, bậc Cực hỷ tức là pháp giới; pháp giới tức là bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân; bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải năm loại mắt, cũng chẳng lìa năm loại mắt; pháp giới chẳng phải sáu phép thần thông, cũng chẳng lìa sáu phép thần thông. Pháp giới tức là năm loại mắt, năm loại mắt tức là pháp giới; pháp giới tức là sáu phép thần thông; sáu phép thần thông tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải mười lực Phật, cũng chẳng lìa mười lực Phật; pháp giới chẳng phải bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, cũng chẳng lìa bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng. Pháp giới tức là mười lực Phật, mười lực Phật tức là pháp giới; pháp giới tức là bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải đại từ, cũng chẳng lìa đại từ; pháp giới chẳng phải đại bi, đại hỷ, đại xả, cũng chẳng lìa đại bi, đại hỷ, đại xả. Pháp giới tức là đại từ, đại từ tức là pháp giới; pháp giới tức là đại bi, đại hỷ, đại xả; đại bi, đại hỷ, đại xả tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải pháp không quên mất, cũng chẳng lìa pháp không quên mất; pháp giới chẳng phải tánh luôn luôn xả, cũng chẳng lìa tánh luôn luôn xả. Pháp giới tức là pháp không quên mất, pháp không quên mất tức là pháp giới; pháp giới tức là tánh luôn luôn xả, tánh luôn luôn xả tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải trí nhất thiết, cũng chẳng lìa trí nhất thiết; pháp giới chẳng phải trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng chẳng lìa trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Pháp giới tức là trí nhất thiết, trí nhất thiết tức là pháp giới; pháp giới tức là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải ba mươi hai tướng đại sĩ, cũng chẳng lìa ba mươi hai tướng đại sĩ; pháp giới chẳng phải tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, cũng chẳng lìa tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc. Pháp giới tức là ba mươi hai tướng đại sĩ, ba mươi hai tướng đại sĩ tức là pháp giới; pháp giới tức là tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải quả Dự lưu, cũng chẳng lìa quả Dự lưu; pháp giới chẳng phải quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, cũng chẳng lìa quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác. Pháp giới tức là quả Dự lưu, quả Dự lưu tức là pháp giới; pháp giới tức là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải tất cả hạnh Đại Bồ-tát, cũng chẳng lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát; pháp giới chẳng phải quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, cũng chẳng lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Pháp giới tức là tất cả hạnh Đại Bồ-tát, tất cả hạnh Đại Bồ-tát tức là pháp giới; pháp giới tức là quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải pháp thế gian, cũng chẳng lìa pháp thế gian; pháp giới chẳng phải pháp xuất thế, cũng chẳng lìa pháp xuất thế. Pháp giới tức là pháp thế gian, pháp thế gian tức là pháp giới; pháp giới tức là pháp xuất thế, pháp xuất thế tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải pháp hữu lậu, cũng chẳng lìa pháp hữu lậu; pháp giới chẳng phải pháp vô lậu, cũng chẳng lìa pháp vô lậu. Pháp giới tức là pháp hữu lậu, pháp hữu lậu tức là pháp giới, pháp giới tức là pháp vô lậu, pháp vô lậu tức là pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải pháp hữu vi, cũng chẳng lìa pháp hữu vi; pháp giới chẳng phải pháp vô vi, cũng chẳng lìa pháp vô vi. Pháp giới tức là pháp hữu vi, pháp hữu vi tức là pháp giới; pháp giới tức là pháp vô vi, pháp vô vi tức là pháp giới.

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Trong chơn pháp giới không có tất cả các thứ phân biệt hý luận.

Này Thiện Hiện! Sắc chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa sắc riêng có pháp giới; thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa thọ, tưởng, hành, thức riêng có pháp giới. Sắc tức là pháp giới, pháp giới tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức tức là pháp giới, pháp giới tức là thọ, tưởng, hành, thức.

Này Thiện Hiện! Nhãn xứ chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa nhãn xứ riêng có pháp giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ riêng có pháp giới. Nhãn xứ tức là pháp giới, pháp giới tức là nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tức là pháp giới; pháp giới tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Này Thiện Hiện! Sắc xứ chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa sắc xứ riêng có pháp giới; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ riêng có pháp giới. Sắc xứ tức là pháp giới, pháp giới tức là sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tức là pháp giới; pháp giới tức là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Này Thiện Hiện! Nhãn giới chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa nhãn giới riêng có pháp giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới riêng có pháp giới. Nhãn giới tức là pháp giới, pháp giới tức là nhãn giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới tức là pháp giới; pháp giới tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.

Này Thiện Hiện! Sắc giới chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa sắc giới riêng có pháp giới; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp giới riêng có pháp giới. Sắc giới tức là pháp giới, pháp giới tức là sắc giới; thanh, hương, vị, xúc, pháp tức là pháp giới; pháp giới tức là thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.

Này Thiện Hiện! Nhãn thức giới chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa nhãn thức giới riêng có pháp giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới riêng có pháp giới. Nhãn thức giới tức là pháp giới, pháp giới tức là nhãn thức giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới tức là pháp giới, pháp giới tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.

Này Thiện Hiện! Nhãn xúc chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa nhãn xúc riêng có pháp giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc riêng có pháp giới. Nhãn xúc tức là pháp giới, pháp giới tức là nhãn xúc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc tức là pháp giới, pháp giới tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.

Này Thiện Hiện! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra riêng có pháp giới; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra riêng có pháp giới, các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra tức là pháp giới, pháp giới tức là các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra tức là pháp giới, pháp giới tức là các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra.

Này Thiện Hiện! Địa giới chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa địa giới riêng có pháp giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới riêng có pháp giới. Địa giới tức là pháp giới, pháp giới tức là địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới tức là pháp giới, pháp giới tức là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Này Thiện Hiện! Nhân duyên chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa nhân duyên riêng có pháp giới; đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên riêng có pháp giới. Nhân duyên tức là pháp giới, pháp giới tức là nhân duyên; đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên tức là pháp giới, pháp giới tức là đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên.

Này Thiện Hiện! Các pháp từ duyên sanh ra chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa các pháp từ duyên sanh ra riêng có pháp giới, các pháp từ duyên sanh ra tức là pháp giới, pháp giới tức là các pháp từ duyên sanh ra.

Này Thiện Hiện! Vô minh chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa vô minh riêng có pháp giới; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa hành cho đến sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não riêng có pháp giới; vô minh tức là pháp giới, pháp giới tức là vô minh; hành cho đến sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não tức là pháp giới, pháp giới tức là hành cho đến sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Này Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa bố thí Ba-la-mật-đa riêng có pháp giới; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa riêng có pháp giới. Bố thí Ba-la-mật-đa tức là pháp giới, pháp giới tức là bố thí Ba-la-mật-đa; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa tức là pháp giới, pháp giới tức là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Bốn tịnh lự chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa bốn tịnh lự riêng có pháp giới; bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc riêng có pháp giới. Bốn tịnh lự tức là pháp giới, pháp giới tức là bốn tịnh lự; bốn vô lượng, bốn định vô sắc tức là pháp giới, pháp giới tức là bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Pages: 1 2