KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Trí Nghiêm
Giảo chính: Hòa Thượng Quảng Độ

 

HỘI THỨ NHẤT

LVIII. PHẨM CHÚC LỤY

(Giữa quyển 346 đến đầu quyển 347)

Lúc bấy giờ, trời Ðế Thích bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Con nói  như thế, khen ngợi như thế, ghi nhận như thế, vì thuận theo lời pháp, lời luật của Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đối với pháp, tùy pháp; sự ghi nhận như thế không điên đảo chăng?

Phật nói:

– Này Kiều-thi-ca! Ngươi nói như thế, khen ngợi như thế, ghi nhận như thế, là đúng theo lời pháp, lời luật của Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đối với pháp, tùy pháp, thì sự ghi nhận như thế không điên đảo.

Khi ấy, trời Ðế Thích lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thật hi hữu! Các điều mà đại đức Thiện Hiện đã nói đều nương vào không, vô tướng, vô nguyện. Các điều mà đại đức Thiện Hiện đã nói đều nương vào bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Các điều mà đại đức Thiện Hiện đã nói đều nương vào bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Các điều mà đại đức Thiện Hiện đã nói đều nương vào tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Các điều mà đại đức Thiện Hiện đã nói đều nương vào bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Các điều mà đại đức Thiện Hiện đã nói đều nương vào pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh. Các điều mà đại đức Thiện Hiện đã nói đều nương vào chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì. Các điều mà đại đức Thiện Hiện đã nói đều nương vào Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Các điều mà đại đức Thiện Hiện đã nói đều nương vào năm loại mắt, sáu phép thần thông. Các điều mà đại đức Thiện Hiện đã nói đều nương vào tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Các điều mà đại đức Thiện Hiện đã nói đều nương vào mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Các điều mà đại đức Thiện Hiện đã nói đều nương vào pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Các điều mà đại đức Thiện Hiện đã nói đều nương vào trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Các điều mà đại đức Thiện Hiện đã nói đều nương vào tất cả hạnh Đại Bồ-tát. Các điều mà đại đức Thiện Hiện đã nói đều nương vào quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Bấy giờ, Phật bảo trời Ðế Thích:

– Này Kiều-thi-ca! Cụ thọ Thiện Hiện vì an trụ pháp không, nên quán bố thí Ba-la-mật-đa còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người hành bố thí Ba-la-mật-đa; quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa! Cụ thọ Thiện Hiện vì an trụ pháp không, nên quán bốn niệm trụ còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người tu bốn niệm trụ; quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo! Cụ thọ Thiện Hiện vì an trụ pháp không, nên quán bốn tịnh lự còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người tu bốn tịnh lự; quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc! Cụ thọ Thiện Hiện vì an trụ pháp không, nên quán tám giải thoát còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người tu tám giải thoát; quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ! Cụ thọ Thiện Hiện vì an trụ pháp không, nên quán pháp không nội còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người chứng pháp không nội; quán pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người chứng pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh! Cụ thọ Thiện Hiện vì an trụ pháp không, nên quán chơn như còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người chứng chơn như; quán pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người chứng pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì! Cụ thọ Thiện Hiện vì an trụ pháp không, nên quán Thánh đế khổ còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người chứng Thánh đế khổ; quán Thánh đế tập, diệt, đạo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người chứng Thánh đế tập, diệt, đạo! Cụ thọ Thiện Hiện vì an trụ pháp không, nên quán pháp môn giải thoát không còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người tu pháp môn giải thoát không; quán pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện! Cụ thọ Thiện Hiện vì an trụ pháp không, nên quán năm loại mắt còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người tu năm loại mắt; quán sáu phép thần thông còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người tu sáu phép thần thông! Cụ thọ Thiện Hiện vì an trụ pháp không, nên quán tất cả pháp môn Đà-la-ni còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người tu tất cả pháp môn Đà-la-ni; quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa! Cụ thọ Thiện Hiện vì an trụ pháp không, nên quán mười lực Phật còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người tu mười lực Phật; quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mời tám pháp Phật bất cộng còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người tu bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng! Cụ thọ Thiện Hiện vì an trụ pháp không, nên quán pháp không quên mất còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người tu pháp không quên mất; quán tánh luôn luôn xả còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người tu tánh luôn luôn xả! Cụ thọ Thiện Hiện vì an trụ pháp không, nên quán trí nhất thiết còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người tu trí nhất thiết; quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng! Cụ thọ Thiện Hiện vì an trụ pháp không, nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người tu tất cả hạnh Đại Bồ-tát! Cụ thọ Thiện Hiện vì an trụ pháp không, nên quán quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người chứng quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật! Cụ thọ Thiện Hiện vì an trụ pháp không, nên quán chư Như Lai còn chẳng thể nắm bắt được huống là có người chuyển pháp luân! Cụ thọ Thiện Hiện vì an trụ pháp không, nên quán pháp không sanh diệt còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người chứng pháp không sanh diệt! Cụ thọ Thiện Hiện vì an trụ pháp không, nên quán ba mươi hai tướng tốt, và tám mươi vẻ đẹp còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có người có thân đầy đủ tướng tốt này. Vì sao?

Này Kiều-thi-ca! Vì cụ thọ Thiện Hiện đối với tất cả pháp, an trụ viễn ly, an trụ tịch tịnh, an trụ vô sở đắc, an trụ không, an trụ vô tướng, an trụ vô nguyện.

Này Kiều-thi-ca! Cụ thọ Thiện Hiện đối với tất cả pháp, an trụ vô lượng sự an trụ thù thắng như thế.

Này Kiều-thi-ca! Sự an trụ của Thiện Hiện so với hạnh an trụ tối thắng Bát-nhã Ba-la-mật-đa của chúng Đại Bồ-tát đã an trụ, thì không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, không bằng một phần trăm ngàn, không bằng một phần ức, không bằng một phần trăm ức, không bằng một phần ngàn ức, không bằng một phần trăm ngàn ức, không bằng một phần triệu, không bằng một phần trăm triệu, không bằng một phần ngàn triệu, không bằng một phần trăm ngàn triệu, cho đến cũng không bằng một phần tính, phần kế, phần toán, phần dụ, phần cực số. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì trừ Sự an trụ của Như Lai, sự an trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa của các chúng Đại Bồ-tát ấy, là hạnh an trụ tối thắng, so với sự an trụ của các Thanh văn, Ðộc giác v.v… thì là tối, là thắng, là trưởng, là tôn, là diệu, là vi diệu, là thượng, là Vô thượng. Vì vậy cho nên, này Kiều-thi-ca! Nếu Đại Bồ-tát muốn đứng trên tất cả hữu tình, thì nên an trụ hạnh an trụ tối thắng Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì các Đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa là hạnh an trụ tối thắng vượt qua các bậc Thanh văn, Ðộc giác v.v… chứng nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, có thể mau viên mãn tất cả Phật pháp, đoạn trừ các tập khí phiền não tương tục, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột, được gọi là Như Lai ứng Chánh Đẳng Giác, thành tựu viên mãn trí nhất thiết trí.

Bấy giờ, trong pháp hội có vô lượng, vô số trời Tam thập tam hoan hỷ nhảy nhót, đều lấy hoa thơm vi diệu cõi trời rải dâng Như Lai và chúng Bí-sô.

Khi ấy, trong chúng có sáu ngàn Bí-sô từ chỗ ngồi đứng dậy, che vai bên trái, quì gối sát đất, chắp tay hướng Phật. Do thần lực của Phật, các hoa thơm vi diệu, ngay trong tay của các vị trời, tự nhiên nở rộ. Các vị Bí-sô ấy vui mừng nhảy nhót, được điều chưa từng có. Các vị đều dùng hoa này rải cúng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác; đã rải cúng Phật rồi, đều phát lời nguyện: Chúng con dùng sức thiện căn thù thắng này, nguyện thường an trụ hạnh an trụ tối thắng Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa; Thanh văn, Ðộc giác chẳng thể an trụ, mau hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, vượt qua bậc Thanh văn và Ðộc giác.

Bấy giờ, Thế Tôn biết tâm hành thanh bạch của các Bí-sô, liền mỉm cười.

Như thường pháp của Phật khi mỉm cười, đủ loại ánh sáng màu từ trong miệng phóng ra, đó là các loại ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía v.v… chiếu khắp thế giới của Phật ở cõi Tam thiên đại thiên này, rồi trở lại vòng quanh thân Phật ba vòng, xong nhập vào trên đảnh.

Cụ thọ Khánh Hỷ liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay lễ Phật bạch:

– Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Ngài mỉm cười? Chư Phật mỉm cười chẳng phải là không duyên cớ. Cúi xin Như Lai thương xót nói cho.

Phật bảo Khánh Hỷ! Sáu ngàn Bí-sô phát nguyện thù thắng này, ở vào kiếp Tinh Dụ trong đời vị lại sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, đều cùng một hiệu là Tán Hoa Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, Minh Hành Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Ðiều Ngự Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật, Bạc-già-phạm. Đệ tử Bí-sô, cõi Phật, tuổi thọ của các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy đều như nhau, đồng thọ ngàn năm. Các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác ấy, khi vừa đản sanh, xuất gia, thành đạo, đều tùy theo nơi hiện diện, hoặc ngày, hoặc đêm, thường được rải hoa thơm vi diệu năm màu. Do nhân duyên ấy nên Ta mỉm cười.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát muốn được an trụ sự an trụ tối thắng, thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật

– Khánh Hỷ nên biết! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào đối với kinh điển Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa này thọ trì, đọc tụng, rốt ráo thông đạt, như lý tư duy, rộng vì người nói, phân biệt khai thị, khiến họ dễ hiểu, tức là thọ trì sở chứng quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào, đối với kinh điển Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa này thọ trì, đọc tụng, rốt ráo thông đạt, như lý tư duy, rộng vì người nói, phân biệt khai thị, khiến họ dễ hiểu, tức là nhiếp thọ sở chứng quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào hiện ở chỗ ta, muốn dùng các loại tràng hoa, hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan bảo cái, kỹ nhạc đèn đuốc thượng diệu, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, không hề biếng trễ, thì nên đối với kinh điển Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa thọ trì, đọc tụng, rốt ráo thông đạt, như lý tư duy, vì người rộng nói, phân biệt khai thị, khiến họ dễ hiểu, hoặc lại sao chép, dùng các báu trang nghiêm, thường dùng các loại tràng hoa, hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan bảo cái, kỹ nhạc đèn đuốc thượng diệu, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, không được biếng trễ.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, tức là cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Ta, cũng là cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác hiện tại ở mười phương thế giới, hiện đang thuyết pháp và chư Phật quá khứ, vị lai.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào nghe nói kinh điển Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thâm tâm tín thọ cung kính ưa thích, tức là tín thọ cung kính ưa thích chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.

Này Khánh Hỷ! Nếu ông mến thích Ta, chẳng bỏ Ta, thì cũng nên mến thích, chẳng nên bỏ kinh điển Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, cho đến một câu chớ để quên mất.

Này Khánh Hỷ! Ta nói nhân duyên phó chúc kinh điển Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tuy có vô lượng, nhưng nói tóm lại thì như Ta đã là Ðại sư của các ông, thì nên biết Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa cũng là Ðại sư của các ông. Các ông kính trọng Ta, cũng nên kính trọng Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Vì vậy, này Khánh Hỷ! Ta dùng vô lượng phương tiện thiện xảo, phó chúc kinh điển Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa cho ông. Ông nên thọ trì chớ để quên mất.

Này Khánh Hỷ! Ta nay đem kinh điển Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa này, ở trước vô lượng đại chúng trời, người, A-tố-lạc v.v… phó chúc cho ông.

Này Khánh Hỷ! Nay ta nói với ông: Có các tịnh tín muốn chẳng bỏ Phật, muốn chẳng bỏ Pháp, muốn chẳng bỏ Tăng, cũng muốn chẳng bỏ sở chứng quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại, thì nhất định chẳng nên bỏ kinh điển Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Khánh Hỷ! Ðây là pháp dạy bảo trao truyền cho các đệ tử của chư Phật chúng tôi. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào, đối với kinh điển Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa này, ưa thích lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy, dùng vô lượng cách vì người rộng nói, phân biệt khai thị, trình bày an lập, khiến họ dễ hiểu thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy mau chứng quả vị giác ngộ cao tột, sắp viên mãn trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao tột, sở đắc của tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đều nương vào Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như thế mà được phát sanh.

Khánh Hỷ nên biết! Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác quá khứ cũng nương vào Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như thế, mà xuất sanh quả vị giác ngộ cao tột. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vị lai cũng nương vào Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như thế mà xuất sanh quả vị giác ngộ cao tột. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác hiện tại đang thuyết pháp ở trong các thế giới khắp Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới cũng từ Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như thế mà xuất sanh quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì nên siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế là mẹ của các Đại Bồ-tát, sanh ra các Đại Bồ-tát.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát siêng học sáu phép Ba-la-mật-đa thì sẽ mau chứng đắc sở cầu là quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Khánh Hỷ! Ta đem kinh điển sáu phép Ba-la-mật-đa sâu xa này, ở trước các đại chúng phó chúc cho ông. Ông phải nghiêm chỉnh thọ trì chớ để quên mất. Vì sao? Vì kinh điển sáu phép Ba-la-mật-đa sâu xa như thế, là pháp tạng vô tận của chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, tất cả Phật Pháp từ đây xuất sanh.

Khánh Hỷ nên biết! Pháp hiện đang nói của tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác hiện tại ở trong các thế giới khắp Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới, đều được lưu xuất từ pháp tạng vô tận của sáu phép Ba-la-mật-đa này. Pháp đã từng nói của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ đều được lưu xuất từ pháp tạng vô tận của sáu phép Ba-la-mật-đa này. Pháp sẽ nói của Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác vị lai cũng đều được lưu xuất từ pháp tạng vô tận của sáu phép Ba-la-mật-đa này.

Khánh Hỷ nên biết! Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác quá khứ cũng nương vào tạng pháp vô tận sáu phép Ba-la-mật-đa này, mà tinh cần tu học, đã chứng quả vị giác ngộ cao tột. Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác vị lai cũng nương vào tạng pháp vô tận sáu phép Ba-la-mật-đa này, mà tinh cần tu học, sẽ chứng quả vị giác ngộ cao tột. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác hiện tại hiện đang thuyết pháp ở trong các thế giới khắp Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới, cũng nương vào tạng pháp vô tận sáu phép Ba-la-mật-đa này, tinh cần tu học, hiện chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Khánh Hỷ nên biết! Các chúng đệ tử của Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác quá khứ đều nương vào pháp tạng vô tận sáu phép Ba-la-mật-đa này, tinh cần tu học, đối với cảnh giới Niết-bàn tuyệt đối mầu nhiệm đã nhập Niết-bàn. Các chúng đệ tử của Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác vị lai đều nương vào tạng pháp vô tận sáu phép Ba-la-mật-đa này tinh cần tu học, đối với cảnh giới Niết-bàn tuyệt đối mầu nhiệm sẽ nhập Niết-bàn. Các chúng đệ tử của tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác hiện tại, ở trong các thế giới khắp Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới, đều nương vào tạng pháp vô tận sáu phép Ba-la-mật-đa này, tinh cần tu học, đối với cảnh giới Niết-bàn tuyệt đối mầu nhiệm đang nhập Niết-bàn.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Giả sử ông là người của Thanh văn thừa nói pháp Thanh văn, do pháp này, tất cả hữu tình ở trong thế giới Tam thiên đại thiên đều đắc quả A-la-hán, thì còn chưa vì Ta mà làm việc của đệ tử. Nếu ông có thể vì người trụ Bồ-tát thừa mà tuyên thuyết một câu pháp tương ưng Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì mới gọi là vì Ta mà làm việc của đệ tử. Đối với việc này ta rất tùy hỷ, hơn cả ông giáo hóa tất cả hữu tình trong thế giới Tam thiên đại thiên đều đắc quả A-la-hán.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Giả sử các loại hữu tình trong thế giới Tam thiên đại thiên do sức giáo hóa của người khác, đồng thời đều được thọ ký, cùng lúc chứng đắc quả A-la-hán thì sự nghiệp phước đức thù thắng do bố thí, sự nghiệp phước đức thù thắng do trì giới, sự nghiệp phước đức thù thắng do tu tập, theo ý ông thì sao? Sự nghiệp phước đức ấy nhiều chăng?

Khánh Hỷ đáp:

– Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!

Phật bảo Khánh Hỷ:

– Nếu có đệ tử Thanh văn có thể vì Đại Bồ-tát tuyên thuyết pháp tương ưng Bát-nhã Ba-la-mật-đa trải qua một ngày đêm, số phước đạt được nhiều hơn vị trước.

Khánh Hỷ nên biết! Không kể một ngày đêm, chỉ trải qua một ngày thôi, lại không kể một ngày, chỉ trải qua nửa ngày thôi, lại không kể nửa ngày, chỉ trải qua một giờ, lại không kể một giờ, chỉ trải qua khoảng bữa ăn thôi, lại không kể một bữa ăn, chỉ trải qua chốc lát thôi, lại không kể chốc lát, chỉ thoáng chốc, lại không kể thoáng chốc, chỉ trải qua khoảng nháy mắt, hơi thở, vị Thanh văn ấy có thể vì Bồ-tát tuyên thuyết pháp tương ưng Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì số công đức đạt được cũng nhiều hơn vị trước. Vì sao? Vì số phước mà vị Thanh văn này đạt được vượt qua các thiện căn của tất cả Thanh văn, Ðộc giác.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát vì người trụ Thanh văn thừa, tuyên thuyết các loại Thanh văn thừa. Giả sử các loài hữu tình ở thế giới Tam thiên đại thiên, do pháp này, tất cả đều chứng đắc quả A-la-hán, đều đầy đủ các thứ công đức thù thắng, thì theo ý ông thì sao? Đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này, đạt được phước đức nhiều chăng?

Khánh Hỷ đáp:

– Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Số phước đức mà Đại Bồ-tát ấy đạt được vô lượng, vô biên.

Phật bảo Khánh Hỷ:

– Nếu Đại Bồ-tát vì người Thanh văn thừa, hoặc người Ðộc giác thừa, hoặc người Vô thượng thừa tuyên thuyết pháp tương ưng Bát-nhã Ba-la-mật-đa trải qua một ngày đêm, thì phước đức đạt được nhiều hơn vị trước.

Khánh Hỷ nên biết! Không kể một ngày đêm, chỉ trải qua một ngày thôi, lại không kể một ngày, chỉ trải qua nửa ngày thôi, lại không kể nửa ngày, chỉ trải qua một giờ, lại không kể một giờ, chỉ trải qua khoảng bữa ăn thôi, lại không kể một bữa ăn, chỉ trải qua chốc lát thôi, lại không kể chốc lát, chỉ thoáng chốc, lại không kể thoáng chốc, chỉ trải qua khoảng nháy mắt, hơi thở thôi, Đại Bồ-tát ấy có thể vì người Tam thừa tuyên thuyết pháp tương ưng Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì phước đức đạt được nhiều hơn vị trước vô lượng, vô số. Vì sao? Vì pháp thí tương ưng Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa vượt qua pháp thí tương ưng của tất cả Thanh văn, Ðộc giác và các thiện căn của hai thừa ấy. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy tự cầu quả vị giác ngộ cao tột, cũng dùng pháp tương ưng Ðại thừa, thị hiện, dạy bảo, dẫn dắt, khuyến khích chúc mừng, giáo hóa các hữu tình làm cho đối với quả vị giác ngộ cao tột được Bất thối chuyển.

Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ-tát ấy, tự tu bố thí Ba-la-mật-đa, cũng dạy người tu bố thí Ba-la-mật-đa; tự tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng dạy người tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển, thì không có việc đó.

Đại Bồ-tát ấy, tự tu bốn niệm trụ, cũng dạy người tu bốn niệm trụ; tự tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, cũng dạy người tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, đối với quả vị giác ngộ cao tột nếu có sự thối chuyển, thì không có việc đó.

Đại Bồ-tát ấy, tự an trụ pháp không nội, cũng dạy người an trụ pháp không nội; tự an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cũng dạy người an trụ pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột, có sự thối chuyển, thì không có việc đó.

Đại Bồ-tát ấy, tự an trụ chơn như, cũng dạy người an trụ chơn như; tự an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, cũng dạy người an trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển, thì không có việc đó.

Đại Bồ-tát ấy, tự an trụ Thánh đế khổ, cũng dạy người an trụ Thánh đế khổ; tự an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng dạy người an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển, thì đó là điều không có.

Đại Bồ-tát ấy, tự tu bốn tịnh lự, cũng dạy người tu bốn tịnh lự; tự tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng dạy người tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển, thì đó là điều không có.

Đại Bồ-tát ấy, tự tu tám giải thoát, cũng dạy người tu tám giải thoát; tự tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, cũng dạy người tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển, thì đó là điều không có.

Đại Bồ-tát ấy, tự tu pháp môn giải thoát không, cũng dạy người tu pháp môn giải thoát không; tự tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, cũng dạy người tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển, thì đó là điều không có.

Đại Bồ-tát ấy, tự tu năm loại mắt, cũng dạy người tu năm loại mắt; tự tu sáu phép thần thông, cũng dạy người tu sáu phép thần thông. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển, thì đó là điều không có.

Đại Bồ-tát ấy, tự tu mười lực Phật, cũng dạy người tu mười lực Phật; tự tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, cũng dạy người tu bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển, thì đó là điều không có.

Đại Bồ-tát ấy, tự tu pháp không quên mất, cũng dạy người tu pháp không quên mất; tự tu tánh luôn luôn xả, cũng dạy người tu tánh luôn luôn xả. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển, thì đó là điều không có.

Đại Bồ-tát ấy, tự tu tất cả pháp môn Ðà-la-ni, cũng dạy người tu tất cả pháp môn Ðà-la-ni; tự tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa, cũng dạy người tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển, thì đó là điều không có.

Đại Bồ-tát ấy, tự tu trí nhất thiết, cũng dạy người tu trí nhất thiết; tự tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng dạy người tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển, thì đó là điều không có.

Đại Bồ-tát ấy, tự tu tất cả hạnh Đại Bồ-tát, cũng dạy người tu tất cả hạnh Đại Bồ-tát. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển, thì đó là điều không có.

Đại Bồ-tát ấy, tự tu quả vị giác ngộ cao tột, cũng dạy người tu quả vị giác ngộ cao tột. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển, thì đó là điều không có.

Đại Bồ-tát ấy, tự tu vô sanh pháp nhẫn, cũng dạy người tu vô sanh pháp nhẫn. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển, thì đó là điều không có.

Đại Bồ-tát ấy, tự nghiêm tịnh cõi Phật, cũng dạy người nghiêm tịnh cõi Phật; tự thành thục hữu tình, cũng dạy người thành thục hữu tình. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển, thì đó là điều không có.

Đại Bồ-tát ấy, tự học chuyển pháp luân Vô thượng, cũng dạy người học chuyển pháp luân Vô thượng. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển, thì đó là điều không có.

Đại Bồ-tát ấy, tự dùng vô lượng tướng tốt vi diệu để trang nghiêm thân, cũng dạy người dùng vô lượng tướng tốt vi diệu để trang nghiêm thân. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển, thì đó là điều không có.

Đại Bồ-tát ấy, tự quán mười hai chi duyên khởi theo chiều thuận nghịch, cũng dạy người quán mười hai chi duyên khởi theo chiều thuận nghịch. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển, thì đó là điều không có.

Đại Bồ-tát ấy, tự quán tất cả pháp không có ngã, không có hữu tình, không có dòng sanh mạng, không có khả năng sanh khởi, không có sự dưỡng dục, không có sự trưởng thành, không có chủ thể luân hồi, không có ý sanh, không có nho đồng, không có khả năng làm việc, không có khả năng thọ quả báo, không có cái biết, không có cái thấy, cũng dạy người quán tất cả pháp không có ngã cho đến không có cái thấy. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển, thì đó là điều không có.

Đại Bồ-tát ấy, tự quán tất cả pháp như huyễn hóa, như chiêm bao, như ảnh tượng, như tiếng vang, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò ảo thuật, như ảo thành, tuy giống như có nhưng không có thật tánh, cũng dạy người quán tất cả pháp như huyễn hóa cho đến như ảo thành, tuy giống như có nhưng không có thật tánh, cũng dạy người quán tất cả pháp như huyễn hóa cho đến như ảo thành, tuy giống như có nhưng không có thật tướng. Do nhân duyên ấy, thiện căn tăng trưởng, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển, thì đó là điều không có.

Bấy giờ, bốn chúng vây quanh khen ngợi Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đức Thế Tôn phó chúc cho Khánh Hỷ, khiến thọ trì rồi, lại ở trước đại chúng tất cả thiên, long, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, nhơn phi nhơn v.v… hiện sức thần thông, làm cho đại chúng đều thấy Bất Ðộng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, Thanh văn, Bồ-tát vây quanh sau trước, tuyên thuyết pháp mầu, và thấy cõi Phật ấy, các tướng trang nghiêm, hàng Thanh văn tăng đều là A-la-hán, các lậu đã hết, không còn phiền não, được chân tự tại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, cũng như điều phục ngựa dữ, rồng lớn, đã làm việc cần làm, đã xong việc phải xong, bỏ các gánh nặng, đạt được tự lợi, sạch hết hữu kết, thật biết giải thoát, đạt tâm tự tại, rốt ráo đệ nhất. Các chúng Đại Bồ-tát ấy, tất cả đều được mọi người ngưỡng vọng biết đến, đắc Đà-la-ni, và biện tài vô ngại, thành tựu vô lượng công đức thù thắng. Phật thâu thần lực, khi ấy đại chúng bỗng nhiên không còn thấy Bất Ðộng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, Thanh văn, Bồ-tát và đông đảo hội chúng cùng các tướng trang nghiêm của cõi Phật ấy. Ðức Phật Bất Ðộng, Bồ-tát, Thanh văn, cõi nước trang nghiêm, chúng hội v.v… kia đều chẳng phải đối tượng nhận thức nhãn căn của cõi này. Vì sao? Vì Phật thâu thần lực, thì đối với cảnh xa xôi ấy, không còn duyên để thấy.

Bấy giờ, Phật bảo cụ thọ Khánh Hỷ:

– Ông còn thấy Bất Ðộng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, cùng cõi nước, chúng hội chăng?

Khánh Hỷ bạch:

– Con không còn thấy, vì những cảnh ấy chẳng phải là đối tượng nhận thức của nhãn căn này.

Phật bảo Khánh Hỷ:

– Như các cảnh cõi Phật, chúng hội v.v… ấy chẳng phải là cảnh giới đối tượng nhận thức của nhãn căn ở cõi này, tất cả pháp cũng như thế, chẳng phải là cảnh đối tượng nhận thức của nhãn căn, pháp chẳng nhận thức pháp, pháp chẳng thấy pháp, pháp chẳng biết pháp.

Khánh Hỷ nên biết! Tất cả pháp không có cái nhận thức, không có cái thấy, không có cái biết, không chuyển động, không tạo tác. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có tác dụng, vì xa lìa tánh năng thủ, sở thủ; vì tất cả pháp chẳng thể nghĩ bàn, xa lìa tánh năng, sở nghĩ bàn; vì tất cả pháp như trò ảo thuật, do các duyên hòa hợp tương tợ như có; vì tất cả pháp không có ai làm, ai nhận, vọng hiện in tuồng như có, không chắc thật.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát biết như vậy, thấy như vậy, nhận thức như vậy, là hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng chấp trước các pháp tướng này.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy là học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát muốn tất cả Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì người học như thế, đối với các sự học là tối, là thắng, là trưởng, là tôn, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, lợi ích an lạc tất cả thế gian, đối với kẻ không chỗ nương nhờ, làm chỗ nương nhờ, chư Phật Thế Tôn, bằng lòng khen ngợi.

Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật, Bồ-tát an trụ trong sự học này, có khả năng dùng tay phải nắm thế giới Tam thiên đại thiên nhấc lên hoặc ném đến phương khác, hoặc đặt để ở cõi này, mà hữu tình trong ấy chẳng hay chẳng biết. Vì sao? Vì oai lực công đức khó nghĩ bàn của Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa.

Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật và chúng Đại Bồ-tát ở quá khứ, vị lai, hiện tại học Bát-nhã Ba-la-mật-đa này, đối với quá khứ, vị lai, hiện tại và pháp vô vi đều đạt được sự hiểu biết vô ngại. Vì vậy, này Khánh Hỷ! Ta nói học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa này, đối với các sự học là tối, là thắng, là trưởng, là tôn, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng.

Khánh Hỷ nên biết! các hữu tình muốn nắm bắt lượng biên tế của Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì giống như kẻ ngu si muốn nắm bắt lượng biên tế của hư không. Vì sao? Vì công đức của Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa vô lượng, vô biên.

Khánh Hỷ nên biết! Ta chẳng bao giờ nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa có số lượng, biên tế như danh, thân v.v…. Vì sao? Vì tất cả danh thân, cú thân, văn thân là pháp có số lượng, còn Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng phải là pháp có số lượng, chẳng phải các danh thân, cú thân, văn thân có khả năng lượng định Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng phải Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đối tượng lượng định của các pháp ấy.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Khánh Hỷ bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa là vô lượng?

Phật bảo Khánh Hỷ:

– Vì tánh của Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa vô tận nên nói là vô lượng; vì tánh của Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa viễn ly nên nói là vô lượng; vì tánh của Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tịch tịnh nên nói là vô lượng; vì tánh của Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như thật tế nên nói là vô lượng; vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như hư không nên nói là vô lượng.

Khánh Hỷ nên biết! Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác quá khứ đều học Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, vì các hữu tình tuyên thuyết khai thị, nhưng Bát-nhã Ba-la-mật-đa này cũng không cùng tận. Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác vị lai đều học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, mà chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, vì các hữu tình tuyên thuyết khai thị, nhưng Bát-nhã Ba-la-mật-đa này cũng không cùng tận. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện tại ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới khắp mười phương đều học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, mà chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, vì các hữu tình tuyên thuyết khai thị, nhưng Bát-nhã Ba-la-mật-đa này cũng không cùng tận. Vì sao? Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa giống như hư không, chẳng thể cùng tận. Các hữu tình muốn Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa cùng tận, tức là muốn biên tế hư không cùng tận.

Khánh Hỷ nên biết! Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, và sẽ chẳng cùng tận; tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa cũng chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, và sẽ chẳng cùng tận.

Khánh Hỷ nên biết! Vì pháp không nội chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận; vì pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận.

Khánh Hỷ nên biết! Vì chơn như chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận; vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận.

Khánh Hỷ nên biết! Vì Thánh đế khổ chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận; vì Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận.

Khánh Hỷ nên biết! Vì bốn tịnh lự chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận.

Khánh Hỷ nên biết! Vì tám giải thoát chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận.

Khánh Hỷ nên biết! Vì bốn niệm trụ chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận; vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận.

Khánh Hỷ nên biết! Vì pháp môn giải thoát không chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận.

Khánh Hỷ nên biết! Vì năm loại mắt chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận; vì sáu phép thần thông cũng chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận.

Khánh Hỷ nên biết! Vì mười lực Phật chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận.

Khánh Hỷ nên biết! Vì pháp không quên mất chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận; vì tánh luôn luôn xả cũng chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận.

Khánh Hỷ nên biết! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận.

Khánh Hỷ nên biết! Vì trí nhất thiết chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận; vì trí Ðạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận.

Khánh Hỷ nên biết! Vì tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận; quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật cũng chẳng thể cùng tận, nên đã chẳng cùng tận, hiện chẳng cùng tận, sẽ chẳng cùng tận. Vì sao? Vì các pháp này không sanh, không diệt cũng không trụ, không dị, thì tại sao có thể đặt bày ra có sự cùng tận?

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn xuất tướng lưỡi rộng dài che khắp khuôn mặt, rồi thâu tướng lưỡi lại, bảo Khánh Hỷ:

– Theo ý ông thì sao? Lời nói phát ra từ tướng lưỡi như thế có hư vọng chăng?

Khánh Hỷ bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!

Phật bảo Khánh Hỷ:

– Từ nay về sau ông nên vì bốn chúng mà rộng nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như thế, phân biệt khai thị, phân bổ sắp đặt, khiến cho dễ hiểu.

Khánh Hỷ nên biết! Trong kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như thế, rộng nói tất cả pháp phần Bồ-đề và các pháp tướng. Vì vậy, tất cả hữu tình cầu Thanh văn thừa, hữu tình cầu Ðộc giác thừa, hữu tình cầu Vô thượng thừa đều nên đối với pháp môn đã nói của Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa này, thường siêng tu học, chớ nên chán nản, buông bỏ. Nếu được như thế thì mau tự an trụ bậc sở cầu.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa là khả năng để ngộ nhập tất cả tướng, tất cả chữ, tất cả pháp môn Đà-la-ni. Các Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni này đều nên tu học. Nếu Đại Bồ-tát thọ trì pháp môn Đà-la-ni như thế, thì mau có thể chứng đắc tất cả biện tài và các sự hiểu biết thông suốt. Vì vậy, này Khánh Hỷ! Ta nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như vậy chính là tạng pháp vô tận của tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác quá khứ, vị lai, hiện tại.

Này Khánh Hỷ! Ta nay nói rõ với ông: Nếu có người đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa này thọ trì, đọc tụng, rốt ráo thông đạt, như lý tư duy, tức là thọ trì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.

Này Khánh Hỷ! Ta nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa là đôi chân kiên cố có khả năng đi đến đạo Bồ-đề, cũng là đại Đà-la-ni của tất cả Phật pháp vô thượng. Nếu các ông có khả năng thọ trì Đà-la-ni Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tức là nắm giữ tât cả Phật pháp.