Phụng Hoàng Cảnh Sách Tập
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

 

TẬP I

Câu Chuyện Buổi Chiều 

Tụi con có nghe tin Thiện Phát tịch chưa?

– Dạ, có nghe.

– Nghe hồi nào?

– Dạ, nghe hồi sáng.

– Rồi tụi con có xúc động không?

– Dạ, có.

– Xúc động nhiều không? hay nghe rồi cũng như chưa nghe? Đó là con ngựa bị đánh tới da rồi đó. Tới da mà có tỉnh hay chưa tỉnh? Tụi con nhớ chuyện bốn ngựa không? Ngựa đánh tới da mới chịu đi, như vậy cũng hơi lì! Nghe một người thân mất, mình tỉnh, nhớ, rồi ráng tu là ngựa hay, còn người thân mất chẳng nhúc nhích gì tức không hay rồi!

– Thưa, hồi hôm này chắc Thầy mất ngủ?

– Cũng hơn một tiếng sau mới ngủ được, vì tới mười giờ tối Thường Chiếu mới lên báo tin. Họ hỏi quàn quan tài ở đâu? chôn chỗ nào?… Thầy phải trả lời cho họ. Vừa là xúc động, vừa là quá giờ nên khó ngủ.

Ngày xưa Thầy dạy ở Phước Hòa – Trà Vinh thì Thiện Phát là Tăng sinh Sơ đẳng, học với quí Thầy ở đó. Cho tới khi Thầy dạy Trung đẳng ở Phật học viện Huệ Nghiêm, y cũng lên học. Lúc ra Chân Không y đến ở một thời gian nữa, nên sống gần Thầy khá lâu. Vì hiền lành quá nên nói năng không hoạt bát, không làm Phật sự nhiều, nhưng tánh tình rất tốt, vừa hiền vừa giữ qui luật nghiêm chỉnh. Vì vậy, y mất cũng đáng tiếc. Thiện Phát là học trò lâu năm đồng cỡ với Phước Hảo, Đắc Pháp. Trò đi trước Thầy. Khi thấy người ta đi Thầy cũng phải nghĩ tới mình, trò đã đi rồi, Thầy còn lại phải lo phần Thầy, đâu có chần chờ được.

***

Bây giờ Thầy có câu hỏi này, tụi con trả lời thử xem. Nếu có những thức ăn ngon mà người ta báo trước rằng, chị ăn thức đó sẽ bị bệnh vì thức ăn có chất độc, nhưng người ấy thích quá cứ ăn. Rồi tới người khác, cũng thức ăn đó, cũng được báo trước rằng nếu ăn vào sẽ bị bệnh, người đó nghe rồi không ăn. Vậy hai người này, đố tụi con ai khôn hơn ai?

– Dạ, người sau khôn hơn.

– Nếu biết ăn ngon miệng một chút mà sanh bệnh hoạn thì người tránh không ăn là khôn. Còn biết ăn rồi sẽ bệnh mà cứ cắm đầu ăn là chưa được khôn. Tụi con nhìn lại thế gian xem. Có những cái người ta bảo là khổ mà cũng cứ lủi vô. Nói gần nhất, như phái nữ theo thói thường tuổi vừa lớn thì có gia đình. Những người có đôi bạn, có con cái rồi, họ báo cho biết có gia đình khổ lắm. Nhưng người ta vẫn cứ lập gia đình, như vậy có khôn không? Lại có người nghe báo vậy nên tránh, không bị kẹt, chẳng hạn như tụi con, có khôn hơn không?

Đó là cái khôn tuy nhỏ mà cũng rất lớn, vì nhờ mình biết tránh nên không bị đùm đeo, không bận bịu con cái, tụi con muốn đi tu thì đi không có gì ràng buộc. Những người lỡ vô cuộc rồi, có con cái, thức tỉnh biết là khổ, muốn đi tu lại không được. Như vậy, biết khổ mà vẫn lao đầu vô, tới chừng khổ quá muốn tránh cũng không được.

Đó là việc làm của người không thông minh. Người sáng suốt biết đó là khổ, một phen tránh là dứt hẳn, sau này không còn kẹt trong cái khổ đó nữa. Đó là vấn đề thường. Còn việc quan trọng hơn, tụi con có biết rằng mỗi khi giận hay buồn ai thì chướng ngại cho sự tu hành không?

– Dạ, biết.

– Biết phiền não làm chướng ngại sự tu hành, nên không giận không buồn, đó là người khôn. Còn biết là chướng ngại mà cứ giận cứ buồn, như vậy là dại. Trong tụi con, dại nhiều hay khôn nhiều?

– Dạ, dại nhiều.

– Tu hành mà sao dại khờ vậy? Mình tu phải sáng suốt chứ! Biết cái nào dở và tai hại phải tránh liền, tại sao biết là hại mà vẫn ôm ấp? Người ta nói mấy cô thức tỉnh mới đi tu, có ai nói mấy cô si mê đi tu đâu? Nếu bảo đó là sức mạnh của tập nghiệp thì có đúng không? Mình đã tỉnh mới đi tu đâu thể đổ thừa như vậy. Nếu là sức mạnh của tập nghiệp thì làm sao chuyển nổi. Nếu chuyển không nổi tức là đầu hàng, rồi thua luôn sao? Cho nên tụi con phải nhớ, thấy cái dở, biết rõ ràng mà vẫn chưa chịu bỏ là điều đáng trách. Trách vì mình si mê. Nếu sáng suốt, khi biết dở không nên ôm ấp nữa. Còn ôm ấp là còn mắc kẹt, còn bị chướng ngại.

Bởi vậy, khi tu đòi hỏi tụi con phải có trí tuệ, phải sáng suốt nhận định chín chắn, biết cái nào hại phải từ bỏ, biết cái nào lợi cho sự tu hành phải cố gắng vươn lên. Như vậy tu mới tiến. Biết hại mà cứ bám vào thì tu rất chậm, rồi than tôi ở chùa mười năm, hai mươi năm tu sao không tiến. Không tiến là tại sao? Tại mình cố giữ những điều không đáng giữ.

Muốn trên đường tu được nhẹ nhàng thanh thoát, mỗi bước đi là mỗi bước tự tại, giải thoát thì những gì làm chướng ngại, nặng nề tụi con phải vứt bỏ hết. Được thế, tu ít mà kết quả nhiều. Còn nếu dung dưỡng những điều xấu dở, tuy tu hành nhọc nhằn mà kết quả chẳng bao nhiêu. Hiểu vậy rồi, tụi con phải nhớ để tu. Ví dụ như muốn xuống bờ hồ vác một khúc củi lên chùa, phải đi tay không mới vác lên được, chớ gánh theo thùng nước mà muốn vác củi lên làm sao được. Mình có nhẹ nhàng thì mai kia mới làm được việc cho đạo, còn nặng nề trì trệ quá, sẽ không làm lợi ích cho mình, cho người.

Bởi vậy tụi con nên ráng tu, lúc nào cũng phải có trí tuệ, bao nhiêu nghiệp chướng muôn đời hiện ra liền tiêu diệt hết, đừng để nó làm chủ. Nếu để nó làm chủ, rồi làm những việc sai quấy, sau sẽ hối hận khổ đau. Khổ đó do đâu mà ra? Là do thiếu trí tuệ, thiếu can đảm. Hiểu vậy, tụi con phải gan dạ và sáng suốt. Sáng suốt, gan dạ thì trên đường tu tụi con sẽ tiến.

***

Thầy mới làm một bài thơ. Thơ này không có đạo lý, tụi con nghe thử coi. Bài thơ tên Hoa Quì Dại.

Đây là hoa quì dại
Chỉ mọc ven rừng hoang
Nép mình lề đường cái
Làm giậu chống kẻ gian.
Cuối thu nụ không sái
Đua nhau trổ rực vàng
Mặc người khinh rừng dại
Cốt tô điểm non sông.
Vui mục đồng thường hái
Chồn chuột luôn náu mình
Che chở cho muôn loại.

Tụi con hiểu bài thơ này thế nào?

“Đây là hoa quì dại, chỉ mọc ven rừng hoang”. Tụi con đi ra ngoài, thấy nó mọc trong rừng, nép mình bên lề đường, đó là vị trí khiêm nhường. Rồi “làm giậu chống kẻ gian” tức là hàng rào ngăn ngừa ăn trộm. Vị trí nó đứng ven rừng hoang, bên đường cái, làm hàng rào phải không? “Cuối thu nụ không sái” nghĩa là đúng tháng 9 nó trổ hoa, thấy hoa trổ biết sắp hết mưa, là cuối mùa thu, cũng giống như hoa cúc trùng dương, mồng 9 tháng 9. Câu này nói về thời tiết.

Giờ đây có vẻ hơi người một chút “Đua nhau trổ rực vàng, mặc người khinh rừng dại”. Hoa nở rực hết một lượt, mặc người ta chê là hoa rừng, hoa dại. Đó là không màng đến lời khinh chê. “Cốt tô điểm non sông, vui mục đồng thường hái.” Nó chỉ cốt làm đẹp thêm cho non sông và chơi đùa với mấy chú mục đồng thôi. Chỉ mục đồng mới thích hoa dại, mấy người sang đâu ưa phải không?

Hai câu sau: “chồn chuột luôn náu mình”, chồn chuột ở trong đó, “che chở cho muôn loại”,không phải chỉ có chồn chuột mà thỏ, ve, kiến… chúng đều được nép mình dưới đám hoa quì dại này. Mấy đứa nghĩ sao? Hoa này ví như ai? Cho tụi con có quyền hiểu tự do.

Trong bài thơ có chia ra từng phần. Một là vị trí của hoa quì dại, nó thường ở ven rừng, bên lề đường cái, làm rào giậu. Khả năng của nó là nở hoa đúng mùa, không sai thời tiết. Chức năng của nó là tới thời thì nở, mặc người ta chê hoa rừng hoa dại, có nói gì thì hoa vẫn nở, chỉ cốt làm đẹp non sông. Nó luôn gần gũi, thân thiện với mấy chú mục đồng. Tuy là loài hoa đồng cỏ nội như vậy, mà lại có nhiều chúng sanh núp bóng phải không? Nào chồn, chuột, thỏ, kiến, dế… núp dưới bóng nó.

***

Sao, lúc này tu tiến bộ nhiều ít? Đứa nào kha khá kể việc tu hành Thầy nghe coi! Hôm rày Đạo tu có giỏi không?

– Dạ, ráng mà chưa kịp.

– Còn Tịnh Thường tu giỏi không?

– Dạ, còn dở lắm.

– Dở sao, kể Thầy nghe coi? Ngồi hai tiếng ổn chưa?

– Dạ, còn ráng, còn chịu đựng.

– Còn Hạnh Dũng tu sao? là kiện tướng chưa?

– Dạ, bệnh hoạn con bớt. Còn về tâm con vẫn bình yên, không dở không hay.

– Bây giờ, nếu so với nhau thì hiện có đứa kha khá, có đứa mới được được, có đứa ráng bò lết; nhưng so lại những năm về trước, thì tụi con tu có khá hơn không?

– Dạ, có.

– Nhiều ít?

– Dạ, nhiều.

– Trong tâm của tụi con tiến ra sao nói Thầy nghe coi?

– Dạ, hồi trước ở dưới kia, con lăng xăng lộn xộn. Còn lên đây, làm thì làm, không lo nhiều nên tâm an ổn.

– Vui nhiều hay buồn nhiều?

– Dạ, vui nhiều.

– Không có gì buồn hả?

– Dạ!

– Bây giờ, giả sử ngày mai kia Thầy con sắp tịch, nghe con tu hành rất tinh tấn, rất tốt lành, Thầy con buồn hay vui?

– Dạ, vui lắm.

– Nếu con đi về lo cho Thầy con, không trở lên đây được, Thầy con vui hay buồn?

– Dạ, buồn.

– Thấy cái nào có lợi, làm cho người lớn được vui nên ráng làm, không phải hầu hạ một bên mà người lớn vui đâu. Già thì bệnh chết, không ai tránh được điều đó. Người ta cứ nghĩ khi người thân bệnh sắp lâm chung phải có mặt mình, nhưng nếu mình có mặt mà không sáng suốt về đạo lý, không thanh tịnh trong thân tâm, dù cho Thầy hay Sư bà của tụi con nghe vậy cũng không vui. Tụi con nên biết, đền ơn Thầy Tổ không gì quí hơn là tu hành cho tiến bộ, sáng suốt, thanh tịnh. Đó mới thật là đền ơn. Còn tụi con cứ nơm nớp lo Thầy mình bệnh làm sao, Sư bà bệnh thế nào, rồi tu không được thì cả hai đều thiệt thòi, phải không? Lo mà không làm gì được thật là uổng công vô ích. Tụi con thà mất một bên, được một bên, mà bên được đó Thầy Tổ ai cũng mong đợi. Đó là quí.

Tụi con hiểu rõ việc làm của mình, biết người lớn tán thành hoan hỉ thì nên cố gắng làm cho được, đừng vì lẽ trong lòng bận rộn nghĩ tới ơn, tới nghĩa rồi tu hành không được, đó là trở ngại, làm cho người lớn buồn. Hiểu như vậy tu hành mới tiến.

***

Tu thiền có hai chặng phải vượt qua:

Một là loạn tưởng. Ngồi thiền nhớ chuyện này chuyện kia làm cho tâm mình rối bời không yên. Khi bớt loạn rồi tâm tạm yên, lại bắt đầu qua ngủ.

Giai đoạn thứ hai là ngủ. Bệnh ngủ khó trị lắm, ráng nỗ lực tối đa thì vượt qua, nếu không bệnh này kéo dài làm mất thời giờ. Tụi con khéo vượt qua hai chặng này, cho đến chừng nào tụi con “À!” một tiếng là thứ thật. Tụi con chịu “À!” không? Đố tụi con tại sao có “À”? Điều này dễ lắm nhưng nhiều khi tụi con không hiểu.

Trong nhà thiền, khi bắt đầu tu là phăng tìm cho ra cái gì mình đã quên. Biết mình có cái quí báu nhưng từ lâu bỏ quên. Chư Tổ thường nói “tức tâm tức Phật” hay Phật tánh, nhưng mình không biết ở đâu. Bất chợt lúc nào đó, tâm tụi con thanh tịnh, bừng sáng thấy được cái chân thật sẵn có của mình. Giống như người có món đồ quí, giấu kín thời gian lâu, bận chuyện này chuyện nọ rồi quên, giờ không biết ở đâu, người đó muốn nhớ lại thì phải làm sao? ngồi suy nghĩ hoài có nhớ được không?

– Dạ, không.

– Phải ngồi lặng yên, buông hết, bất thần nhớ lại, liền “À” chạy lại lấy. Vậy tiếng “À” là nhớ ra cái mình đã sẵn có. Cho nên nói “À” là tiếng ngộ. Ngộ là nhớ lại cái đã có mà quên, nên trong nhà thiền rất quí tiếng “À”. Bữa nào tụi con “À” giùm Thầy một tiếng nghen! Chớ ngồi im lìm hoài sao? Bữa nào nói: “À! tôi thấy rồi”, đó là một bước tiến trên đường tu. Mình có của quí giấu cất không biết ở đâu, lòng rối rắm buồn, chợt nhớ ra chạy lại lấy, lúc đó làm sao? Lòng vui vẻ, phấn khởi, không có gì ngăn cản được. Cái vui đó là cái vui suốt đời, vui khi mình thấy Đạo, như nụ cười hàm tiếu của đức Phật còn mãi.

Bây giờ tụi con có cố gắng vui một lát rồi cũng hết, còn cái vui kia thì muôn đời. Có nó, mình khỏi trầm luân sanh tử, còn gì quí bằng. Vàng ngọc chỉ giúp mình sống an ổn vui tươi trong mấy chục năm, còn được cái vui đó muôn đời hết sanh tử luân hồi. Bởi vậy, khi nào tụi con thấy rồi “À!” một tiếng, cười hoài, thiên hạ chửi cũng cười. Còn chưa thấy thiên hạ chửi không chịu nổi, phải không? Các con phải cố gắng tu, hết lăng xăng thì mới “À” được, chuyện ấy là lẽ thật. Sở dĩ bắt buộc tụi con ở một chỗ, bớt nói chuyện, đừng suy nghĩ việc này việc kia, đó là để lòng tụi con lắng lặng rồi thấy được cái thật nơi mình.

Thôi ráng tu, Thầy mong bữa nào tụi con “À!” một tiếng.

***

Thiện Phát là học trò của Thầy nhiều năm. Y không sắc sảo như những vị khác, rất hiền từ, hệch hạc, vui vẻ, không thắc mắc cau có với ai. Có những lúc Nhật Quang nhập thất, y làm Trụ trì Thường Chiếu một năm. Sáng vo quần, vác cuốc đi công tác, chúng theo làm thì tốt, không thì thôi, thấy như là không có uy đối với chúng.

Lúc gần tịch, Thiện Phát ở bệnh viện. Chú Thị giả thuật lại cho quí thầy nghe, ngày y sắp tịch chú bưng cơm lại mời ăn, y cười rồi ăn, làm cái gì, đưa cái gì cũng cười, không nói gì với Thị giả. Tới giờ y hấp hối, có Phật tử tới thăm cũng thấy cười như vậy. Y cười một lát rồi đi. Đem về Thường Chiếu để vào quan tài chưa khằn nắp, những người đến thăm giở ra xem, thấy y vẫn như cười. Trước lúc đưa đám mưa dầm dề, tới giờ đưa mưa tạnh. Khi hạ huyệt, có vầng mây cứ quay quay ở trên làm cho mọi người mát mẻ, ai cũng thấy. Như vậy cũng là điềm tốt. Một vị tu thiền trước khi ra đi được vui vẻ là tốt. Tụi con muốn ra đi như vậy không?

– Dạ, muốn.

Cái chết thường làm người ta lo sợ, hoảng hốt. Mình tu sao tới lúc chết vẫn cười. Bao nhiêu đó cũng vui phải không? Tâm không hoảng hốt thì không ai có thể dẫn đi bậy, nếu tâm cuồng loạn, hoảng hốt sẽ đi vào đường xấu. Vậy lúc bình thường tụi con tập tu làm sao cho tốt, đều đặn, đúng như những gì Thầy dạy thì khi nhắm mắt tụi con sẽ cười. Nếu bình thường tu không tốt, không đúng như Thầy dạy, e rằng khi nhắm mắt không được hay.

Đời tu đâu phải chỉ trong cuộc sống mấy chục năm là hết. Mấy chục năm chỉ là một chặng ngắn ngủi trên con đường dài vô tận. Mình phải lợi dụng mấy chục năm này để gây nhân tốt cho lâu dài, đó là khôn. Còn nếu trong chặng ngắn mấy chục năm này mà làm tội lỗi, gây điều hung ác thì họa lây cho mấy chục kiếp, đó là dại.

Tụi con nghĩ khi mình được tu là một phước lớn trong đời của mình, hay là vô phước?

– Dạ, đại phước!

Biết phước lớn thì đừng coi thường giờ tu hành, phải quí trọng nó, bởi vì càng tu thì càng tiến. Gần đây Thầy rất lo, thấy có nhiều vị lớn tu hành cũng đạo cao đức trọng mà trước khi ra đi lại bị hôn mê, thật tội! Cho nên Thầy nghĩ, tu làm sao đến giờ phút chót mình ra đi phải tỉnh táo, sáng suốt, vui vẻ. Đó là bằng chứng thực tế của sự tu hành. Nếu cả đời tu mà kết quả lờ mờ thật là uổng phí.

Bởi vậy, đứa nào có phước duyên được tu hành, phải ráng tận lực làm cho duyên lành đó tăng trưởng, đừng để lui sụt mất mát. Có ai bảo đảm mình sống tới sáu mươi tuổi mới chết? Bốn mươi, năm mươi tuổi hoặc ít hơn cũng có thể chết. Cái chết không cố định, sẽ đến bất cứ lúc nào. Bởi vậy, khi còn khỏe, tỉnh táo phải cố gắng tu. Mọi việc bên ngoài, tụi con khỏi bận rộn, lo lắng, chỉ còn có một việc tu. Vậy mà không lo tu, lại còn vướng mắc những chuyện thị phi nho nhỏ làm gì. Tụi con nghĩ như vậy là khôn hay dại?

– Dạ, là dại.

– Ừ, vậy là không khôn. Giờ nào tụi con cũng phải quí tiếc, đừng để trôi suông. Tụi con có hai trách nhiệm rất lớn. Trách nhiệm thứ nhất là tu sao cho tâm mình yên định, trí tuệ sáng suốt, đó là từ định rồi tới tuệ. Muốn được định tuệ thì trước phải giữ giới. Giới là những điều răn, những điều trong Thanh qui có nói. Tụi con ráng giữ những điều đó làm mực thước buổi đầu, để tâm mình yên tĩnh.

Đừng bận lòng những chuyện đâu đâu, chuyện thị phi nho nhỏ không đáng. Nó là gió thoảng qua tai rồi mất. Cái quan trọng của người tu là giải quyết vấn đề sanh tử, còn vướng mắc những chuyện tào lao là không khôn ngoan, uổng một đời tu. Đó là điều Thầy nhắc tụi con phải nhớ. Nếu tụi con giữ tâm trong sáng, lúc nào cũng sống an lành, thì khi ngồi thiền tâm sẽ được yên định. Bữa nào có huynh đệ nói móc một hai câu nghe bực bội, giờ ngồi thiền có yên không?

– Dạ, không.

– Không yên, như vậy tụi con mới thấy cái duyên để mình tiến là do tránh bớt hơn thua. Từ chỗ hơn thua phải quấy buông rồi, đường tu rất dễ. Nếu ai nặng nề câu chấp sẽ  khó tu, đó là phần giới. Khi tâm không dính, không bận ngồi lại dễ yên. Tâm yên định thì trí tuệ sáng suốt, sáng gọi là giác, đó là phần tự giác. Tụi con tự giác rồi, mai kia ra khỏi Thiền viện mới đem những điều nghe, thấy, biết đúng chân lý chỉ dạy cho Phật tử, đó là giác tha.

Vậy bổn phận của tụi con là phải ráng tu để có đủ tự giác, giác tha. Nếu không, đi tu mà không biết mình như thế nào. Chưa biết rõ mình thì dạy ai, dạy cái gì? Tụi con phải nỗ lực tu, những ngày tháng ở Thiền viện coi như tiêu cực không làm lợi cho ai, nhưng chính cơ hội này tạo duyên tốt cho tụi con tu tiến. Nếu tiến được khi ra khỏi Thiền viện tụi con mới làm lợi ích cho người. Bây giờ tụi con không tiến thì mai kia làm sao ích đời lợi đạo. Nhiều khi ra ngoài, nay tổ chức hành hương chỗ này, mai đi đám chỗ kia, rốt cuộc rồi những Phật sự đó chỉ là tướng sanh diệt tạm thời, không phải cứu kính giải thoát, mà người tu bây giờ hay mắc kẹt cái đó.

Thầy muốn tụi con phải thật sự giải thoát, rồi dạy người tiến đến chỗ giải thoát, đó là bổn phận chánh của người xuất gia.

***

Một năm tụi con được chia mấy bộ đồ?

– Dạ, không nhất định, khi nào cần thì tụi con xin.

– Ở đây, tụi con chỉ sống đúng theo Thanh qui không có gì phải lo hết. Chỉ có Quản chúng, phó Quản chúng, Thủ bổn, Tri sự phải lo sắp đặt công việc, còn tụi con khỏe quá chừng, đâu có gì để lo. Lâu lâu làm Tri khố một lần, qua Tri khố rồi thôi. Còn Tri khách chỉ lo cho khách, ngoài ra có chuyện gì tụi con đáng phải lo đâu. Như vậy, chỉ vài người đại diện lo cho tất cả được yên tu, nếu không chịu tu thì thiệt thòi, chẳng những thiệt thòi đời này mà còn nhiều đời nữa. Cơ hội này tụi con tu không được mai kia thì sao? Đời mạt pháp được môi trường tốt như vầy phải ráng tu. Thầy thấy mình nợ chúng sanh nhiều quá. Có nhiều Phật tử xa gần đến thăm, những người già, lớn tuổi có nói sau khi chết sẽ trở lại gặp Thầy để được độ tu, nên Thầy nợ hoài.

Người xưa nói thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Cảnh quan và khí hậu ở đây không ai chê. Cảnh và khí hậu là địa lợi, thiên thời là gạo cơm đủ ăn không đói. Bây giờ tụi con chỉ cần nhân hòa là đủ, nhân hòa là sống đúng lục hòa. Trong ba cái hòa này kiếm một cái cũng khó, mà ở đây có đủ cả ba. Thiền viện này Thầy làm đâu phải qui mô, mà ai đến cũng khen đẹp và chụp hình. Có mấy cuốn sách quảng cáo Trúc Lâm. Hôm Võ Văn Tường báo Giác Ngộ đến chụp ảnh Thiền đường có tụi con ngồi trong đó. Chỗ của mình ra đời muộn màng nhưng được quan tâm nhiều. Ai tới cũng hỏi từ đây về sau Thầy làm gì, Thầy nói, không làm gì hết, chỉ giảng dạy cho Tăng Ni tu có kết quả. Thầy đang trông đợi nơi tụi con.

Ở đây, không ai tặng biếu gì riêng nên khỏi mang ơn riêng, cũng không có danh lợi gì, chỉ còn chuyện tu. Vậy mà không yên ổn tu thì thôi. Bánh kẹo, vật dụng ai cho đưa Tri khố hoặc Thủ kho nên khỏi có bệnh tư hữu. Tinh thần Thiền viện khác hơn các nơi. Có những chuyện nhỏ tụi con chưa thấy hết. Giả sử, người này được thân nhân cho đồ vui vẻ đem đi cất, còn người kia không có ai cho sẽ buồn, đến khi không có xài thấy chị kia đi đâu, lén mở đơn lấy. Như vậy có đồ riêng làm cho người ta khởi tâm tham không tốt. Còn ở đây, người nào cũng có bao nhiêu đó, đâu có gì phải tham.

Giả sử được người ta tặng nhiều quá có dư, đem cho huynh đệ, rồi ân nghĩa ràng buộc. Cho rồi có ân nghĩa, thân mến, khi người ta chơi với người khác lại buồn tức, đủ thứ chuyện, sanh ra nhiều bệnh. Ở đây, không có gì dư để cho, nên không gây ơn gây nghĩa. Tụi con thấy như là việc thường. Thật ra, đó chính là việc lớn. Nhìn lại các Phật học đường, ai cũng có riêng tư nên luôn có người giàu người nghèo, quí vị lớn cũng vậy, không khỏi hai việc đó.

Bây giờ, tụi con sống với huynh đệ đúng lục hòa rồi, sau có ra làm Phật sự sống với đại chúng mới có tình. Còn ai cũng có bệnh tư hữu thì thật kỳ! Tụi con nghĩ xem, nếu ở trong chúng, người mặc đồ đẹp kẻ mặc đồ xấu thì chênh lệch nhau quá. Nếu lam lũ thà lam lũ hết cả năm mươi người. Ở đây, mấy đứa có lam lũ không?

– Dạ, không.

Thầy lo cho tụi con đầy đủ cơm no áo ấm. Thầy làm gì cũng theo kinh nghiệm. Hồi xưa, khi còn học ở Ấn Quang, đến tháng Tết nghỉ học, Thầy lên Đà Lạt chơi. Lúc ấy thầy Mãn Giác trụ trì Linh Sơn. Thầy tiếp đãi tử tế lắm, cho ngủ phòng Trụ trì, nhưng chăn nệm mỏng, khuya lạnh không thể ngủ được, lạnh từ xương sống lạnh lên, suốt đêm không chợp mắt. Giả sử không có nệm e không chịu nổi. Bây giờ, tụi con ngủ đều có chăn nệm dày. Thầy chủ trương không nuôi chúng thì thôi, nuôi phải tạo điều kiện đầy đủ, để khổ sở quá cũng khó tu.

***

Qua năm mới tụi con buông hết đừng giữ, cái gì đến với mình đều hỉ xả, đó là một năm vui; còn nếu không chịu hỉ xả, năm đó buồn hoài. Bao nhiêu đó tụi con đủ tu chưa?

Ni chúng một năm qua vui hay buồn? Vui là quyền lợi của mình, phải không? Vui thì khỏe mạnh, tu hành tinh tấn, hết khổ sầu. Đó là điều ai cũng muốn. Chỉ cần mình buông hết, những gì đến với mình đều buông xả, không quan trọng. Mai đây người này chết, người kia chết, ôm giận hờn làm gì. Xả hết thì vui tròn một năm, phải không?

Thầy chúc tụi con tròn một năm vui, không có gì buồn. Tội gì ôm ấp buồn phiền mất thời gian, bởi vì có gì đáng buồn đâu. Buồn nhất là mình tạo nghiệp ác đọa ba đường dữ. Nay bỏ hết, tinh tấn đi từ phàm lên Thánh, buồn sao được! Thật ra, chuyện tu hành đơn giản không có gì xa xôi, không có lý thuyết cao siêu. Tu vậy có thực tế không?

– Dạ, thực tế.

– Thực tế an vui mà không chịu làm, như vậy là khôn hay dại?

– Dạ, dại.

Đời người ngắn ngủi, mình phải vui và đem nguồn vui đó giáo hóa cho người hết khổ, còn buồn dàu dàu hoài làm sao dạy người ta hết khổ được. Muốn dạy người tu, mình phải vui lên, bỏ hết những phiền toái. Ngày nào cũng tu đều đều như vậy, nội tâm mình thảnh thơi nhẹ nhàng, kiểm lại mỗi ngày sẽ có tiến. Tất cả những điều hơn thua không có giá trị gì. Những thứ oan trái khổ đau không có thật mà xem nó quan trọng là khờ dại. Giả sử mai kia có ai chỉ vào mặt mình mắng chửi, chỉ cười thôi, đó là thứ thật. Còn nghe người ta nói bóng nói gió cũng giận, đó là thứ giả. Chỉ vào mặt mình mắng mà vẫn cười, ai nói gì cũng không bận tâm, tu là phải như vậy. Nhiều khi chúng ta tu trên hình thức, đi đứng trang nghiêm, ăn nói đàng hoàng, chững chạc mà động tới thì buồn phiền. Đó là giả hiệu, chưa phải thứ thật.

***

Thầy nói Thầy không đi giảng mà ngày nào cũng giảng, người này người nọ đến thăm. Biết đâu năm nay Thầy lang thang nữa, đi Hà Nội hai mươi ngày, về còn ở Thường Chiếu vài ba ngày. Có thể Thầy sẽ đi Nam Dương. Có một ông Phật tử người Trung Quốc mời Thầy dự lễ Phật Đản tại tháp Phật giáo Borobudur lớn nhất ở bên đó, vào tháng sáu. Thầy không biết nói tiếng ngoại quốc mà người ta mời Thầy nói chuyện với người ngoại quốc. Biết đâu cuối năm lại đi Úc. Giờ Thầy còn khỏe đi chỗ này chỗ kia, sau già ở một chỗ không đi đâu hết.

Bây giờ, chưa biết tụi con tu ra sao mà uy tín Thiền viện Trúc Lâm lan tràn từ thành thị đến thôn quê, người ta biết từ cái tên cho đến số người tu. Cho nên tụi con khi tu phải ráng tránh những điều sơ sót, những lỗi lầm không đáng.

Thứ nhất là không nói chuyện tào lao. Cái gì đáng nói thì nói, không đáng thì thôi. Nói tào lao nhiều khi gây sự hiểu lầm hoang mang đủ thứ. Tụi con tập cho quen, sau tự nhiên có tư cách. Mai kia đi ra, nói đây là quí cô Thiền viện Trúc Lâm, cũng xứng đáng. Còn nói chuyện bừa bãi quá sẽ thiếu cẩn thận, dè dặt. Bây giờ tụi con ở đây được huấn luyện kỹ, nghe Thầy nhắc đi nhắc lại mỗi ngày mỗi tháng, tư cách tụi con phải chững chạc hơn, nghiêm chỉnh hơn. Thân đi đứng đàng hoàng, miệng nói lời đáng nói, ý nghĩ điều hay, còn chuyện dở bỏ đi. Đó là tụi con khéo tu ba nghiệp. Nếu ba nghiệp khéo tu, tự nhiên là người mẫu mực, nội tâm cũng dễ an. Tâm mình xao xuyến, ngôn ngữ bừa bãi, dễ vấp nhiều lỗi lầm sau phải hối hận. Khi hối hận thì tâm xao động, bất an.

Điều thứ hai, sống trong huynh đệ tụi con đừng bao giờ có ác cảm, thù hiềm nhau, dù hiềm khích nho nhỏ cũng đừng có. Vì trong Lục hòa có khẩu hòa vô tránh, ý hòa đồng duyệt, nghĩa là mình phải vui. Lúc nào cũng hòa vui trong cái thanh tịnh không hơn thua, tranh cãi, chớ đừng đứa này nhìn đứa kia tị hiềm đố kỵ, dù chưa nổi bật cũng đã ngầm gây chia rẽ rồi, đó là điều không tốt. Chia rẽ thì hết hòa khí trong chúng. Biết rằng không ai giống ai một trăm phần trăm, nhưng huynh đệ ở đây đồng lý tưởng quyết tu, đó là chỗ giống nhau cao cả hơn hết. Chúng ta vì cái cao cả bỏ qua những điều xấu dở nhỏ mọn. Được vậy tụi con sống an vui, hòa nhã. Còn nghe ai đó nói một câu không vừa ý nhớ hoài, thấy mặt không muốn nhìn, ngó ngang ngó dọc thì không được.

Sống trong chúng phải yêu thương vui hòa, đừng có chiến tranh lạnh, tuy không bùng nổ mà cứ ngấm ngầm mãi cũng khó tu. Trong đây tụi con có chiến tranh lạnh không? Chỗ này là nơi mình chiến đấu với ma quân chớ không phải chiến đấu với huynh đệ. Tất cả những thứ giận, phiền, ghét nhau chính là ma quân, phải chiến thắng, đừng nuôi dưỡng nó. Nuôi dưỡng nó, chiến tranh lạnh hoài là nuôi ma quân. Ma quân thắng tức là tụi con lui sụt, thối Bồ-đề tâm. Phải làm sao ở trong chúng mấy chục người, mình vẫn có tình thương quí, tuy không ai giống ai nhưng vẫn thương, hỉ xả hết, không hờn không trách.

Tụi con nhớ, mình tu là đi sâu trong từng tâm niệm, niệm dấy lên liền bỏ. Khi mình hiềm khích ai, những niệm đó bỏ dễ hay khó? Giữ những niệm này sẽ làm trở ngại, tạo cái chướng trong sự tu. Cho nên tụi con phải khôn ngoan, mọi việc qua đều xả hết, không có gì quan trọng bằng đạt được lý tưởng tu hành của mình. Đó là điều trên hết, còn hơn thua, phải quấy, thương ghét chỉ là chuyện nhỏ nhặt tầm thường không đáng kể. Đừng vì việc nhỏ mà bỏ việc lớn. Đó là tụi con khéo tu. Nếu không, uổng công ở Thiền viện Trúc Lâm năm năm, mười năm, khi ra được người ta hoan nghênh quá chừng, lại thấy cô này liếc cô kia, cô kia háy cô nọ, làm trò cười cho thiên hạ, không phải tinh thần đạo đức.

Bởi vậy, người ta hoan nghênh chừng nào, Thầy càng sợ chừng nấy, vừa sợ vừa lo. Nếu được người ta quí trọng mà tự mãn hài lòng là không tốt. Khi họ hoan nghênh, mình phải có điều kỳ đặc hơn bình thường mới được. Kỳ đặc đó không phải bảo tụi con làm cái gì lạ, chỉ là sống hết sức đơn giản, hòa thuận, vui vẻ và buông xả hết mọi cái xấu xa.

Hôm qua, có một cô người Úc nói chuyện với Thầy, cô Từ Tĩnh thông dịch. Bà nói người Việt Nam có cái hay là hồi xưa Mỹ, Úc qua đây giết hại, bây giờ thái bình, người Việt thấy người Mỹ không thù, gặp người Úc cũng không ghét. Đó là cái rất hay. Thầy liền nói, chính là chịu ảnh hưởng Phật giáo Việt Nam. Phật giáo dạy không nên ôm ấp hận thù. Khi người ta có lỗi lầm mình rầy, mình đánh, khi người không làm lỗi nữa phải tha thứ không oán hờn. Nhờ không oán hờn nên người Việt Nam cởi mở. Dù ngày xưa ai hành hạ khổ đau mấy đi nữa, bây giờ ta cũng bỏ qua, xem như là bạn. Đó là tinh thần cao thượng của người Việt Nam do chính Phật giáo nung đúc. Phật giáo đã nung đúc người dân Việt Nam, chẳng lẽ Phật giáo không nung đúc được Tăng Ni sống cởi mở, hỉ xả với nhau sao?

Người tu phải có một thái độ bình tĩnh điềm đạm. Huynh đệ có điều gì không bằng lòng nhau cũng chỉ nói nhẹ nhàng, từ tốn, khi qua rồi buông hết. Dù cho có những điều bất bình cũng bỏ, không nên chứa chất trong lòng. Như vậy mới thấy sự cao thượng của người tu Phật, cũng là tạo cho mình cái duyên dễ tu, nếu không thì bực người này hờn người kia, chúng bốn mươi người giận hết hai mươi người, tâm làm sao yên.

Hồi nãy có mấy vị Linh mục đến thăm Thầy, có vị hỏi: “Thưa Thầy công chuyện của Thầy rất đa đoan mà tôi thấy dường như Thầy thảnh thơi không bận rộn; còn chúng tôi khi lãnh trách nhiệm, bận rộn mất ăn mất ngủ. Xin Thầy chỉ cách gì được thảnh thơi như vậy?”

Thầy nói: “Đâu có chi lạ, khi muốn làm việc gì thì trước tôi sắp đặt, sắp đặt xong rồi thực hành. Tôi không lo sợ làm cái đó thất bại hay thành công, chỉ làm hết khả năng hết bổn phận, còn được hay mất là tùy duyên. Bởi tùy duyên nên tôi không lo. Còn người khi làm muốn phải được, tính mưu này kế kia cho thành công, lỡ thất bại thì khổ sở. Tôi làm tròn bổn phận, tận lực hết khả năng, còn chuyện thành bại là tùy duyên. Đó là thứ nhất. Điều thứ hai, khi sắp đặt rồi, tới giờ ngày đó tôi làm, không phải bận bịu ôn đi nghĩ tới lăng xăng lộn xộn, nên rất khỏe. Thứ ba, chính nhờ tu thiền nên tôi phần nào làm chủ được tâm mình. Điều gì đáng lo thì lo, việc không đáng tôi bỏ. Lúc cần suy nghĩ thì nghĩ, không cần nghĩ thì thôi, thành ra thảnh thơi.”

Tu làm chủ được là khi cho phép tâm nghĩ thì nghĩ, không cho thì thôi. Ngồi chơi hẳn là ngồi chơi, không cho cái gì lộn xộn trong đầu. Vậy là tụi con thảnh thơi. Như Thầy từ thất lại đây không tính nói gì với tụi con, nhớ đâu nói đó, chỉ tùy duyên. Vậy mới khỏe, còn lo nghĩ quá đầu óc rối, đầu óc rối thì tu hành mỏi mệt.

Đừng có tâm tự mãn, phải thấy mình như người đi trên băng, dè dặt cẩn thận mới được. Tự mãn là bệnh, còn tự tin thì tốt. Tin rằng tu là sẽ tiến, quyết tâm tu Tam Bảo sẽ không bỏ mình. Đừng lấy việc học nhiều kinh luận làm tự mãn, tự mãn không tốt.

***

Khi tụi con tu, bắt ngồi thiền nhiều quá, tụi con thấy khổ nhiều ít?

– Dạ vui! Không khổ.

– Sao bắt ngồi đau chân mà không khổ? Người ta vào Thiền viện thấy quí thầy quí cô, họ có những cái nhìn khác nhau. Hồi sáng có Phật tử nói, mấy cô ở đây như ở cảnh tiên, mấy cô là tiên cô. Có người lại nói, mấy cô ở đây hoài không được đi đâu hết, như ở tù. Tụi con nghĩ lời nào có lý hơn. Tiên hợp lý hay ở tù hợp lý? Tụi con kinh nghiệm bản thân, cái nào hợp lý hơn?

– Dạ, tụi con chịu làm Phật, không chịu làm tiên.

– Tụi con không chịu làm tiên hả? Người ta hay nói cảnh đẹp là cảnh tiên. Thấy ở đây đẹp cho là cảnh tiên. Thật ra, tất cả cảnh dù đẹp mấy, mà con người cứ đấu tranh với nhau cũng không tiên chút nào. Nếu như cảnh không đẹp mà nội tâm hòa vui với nhau thì đây chính là thiên đường rồi. Vì vậy trong sự tu, cảnh chỉ trợ lực ít thôi, nội tâm mình là chủ yếu. Làm sao nội tâm tụi con lúc nào cũng an vui không buồn phiền hờn giận, không bực bội với nhau, đó là được an lạc. Nếu tụi con buồn phiền, dù ở cảnh tiên hoa nở rực rỡ nhưng cũng như lò lửa. Tu là như vậy, không phải do cảnh bên ngoài mà được an ổn vui tươi, chính do nội tâm mình nhiều hơn.

Cho nên tự tụi con phải khéo buông xả. Cái nào thuộc về phiền não thì buông để tâm mình thanh thản. Cảnh yên, tâm thanh thản, tụi con sống ở đâu cũng an lạc. Còn được ở ngoài mà không được ở trong là chưa đủ; được trong không được ngoài cũng tốt, không sao. Chớ tin cậy bên ngoài quá không tốt. Cho nên tu không phải là đi tìm cảnh thuận mới tu được. Cảnh chỉ giúp một phần, trọng tâm là phải gột sạch những gì làm chướng sự an ổn vui tươi của mình.

Không phải chỉ quí cô ở đây mà các Phật tử cũng nên tập như vậy. Khi gặp cảnh chướng buông đi đừng giận. Tôi hay hỏi mấy cô ở đây tu khó hay dễ, có nhiều người nói khó. Tôi nói ngược lại, tu dễ. Bây giờ tôi giả sử có ai nói nặng các Phật tử một câu, vừa nghe hơi khó chịu, quí vị buông cho nó nhẹ nhàng. Biết rằng lời nói qua rồi mất, có thật đâu, buồn giận làm chi. Nhớ vậy rồi cười, tu như thế là khó hay dễ? Còn người dễ nổi giận, làm người khác buồn, phải suy nghĩ đủ thứ chuyện, kéo dài bao lâu mới hết?

Cứ nhớ lời nói qua rồi mất, cười thôi, mặc ai nói gì thì nói. Đó là biết tu, để lòng mình an ổn, không gây hận thù với ai. Nếu mình chấp lời nói, hơn thua với họ, gây oan trái rồi bày mưu tính kế để trả thù trả oán, tạo một chuỗi dài mười năm hai mươi năm khó chịu với nhau. Đó mới là khó tu! Còn tu buông xả rất dễ. Buông rồi nhẹ nhàng, họ không buồn mình, mình cũng không tức họ, hai bên đều hòa vui. Đó là tu. Vậy mà nhiều người không chịu tu như vậy.

Giả sử, ở trong gia đình làm ăn có được mất, khi được mình vui, khi mất mình buồn. Khi làm ăn thất bại, ngồi gác tay lên trán rầu hoài, có trở lại thành công được không? Thua keo này bày keo khác, không thèm buồn. Vậy là yên trong lòng. Biết đâu cái này thua cái khác lại thắng, cứ vui mà sống. Cuộc đời không bao lâu, lo rầu hoài vô ích. Nghĩ vậy là biết tu, nên không bệnh không khổ. Nếu không biết tu cứ bệnh khổ hoài, tối ngày lo được lo mất, ngồi than trời trách đất, lòng không an. Biết tu rồi mọi chuyện tùy duyên, nếu có lỡ thất bại thì thôi, làm lại cái khác, chớ đừng ngồi buồn, vô ích.

Vậy, người buông đi và người ngồi buồn hoài, ai khôn hơn ai? Đừng làm người dại chi cho uổng một đời, đã buồn còn sanh bệnh hoạn khổ đau, thấy ai cũng bực. Vậy là làm khổ cho mình, cho người. Buông đi sống thanh thản làm ăn. Chết còn không buồn, được mất buồn làm chi, nhớ như vậy là tu.

Khi ngồi thiền những tâm niệm lăng xăng buông nhẹ nhàng, không còn nghĩ đến được mất hơn thua, tâm mình an thì gương mặt buồn hay vui? Tu đem lại nguồn vui chân thật, lòng mình thanh thản, tự nhiên gương mặt tươi. Lúc nào suy nghĩ chuyện được mất hơn thua thì nó rối rắm, sanh bực bội, dễ quạu dễ tức. Bởi vậy, người nào tu hay, nhìn gương mặt tươi vui, còn người nào gương mặt dàu dàu chắc tu không khá!

***

Tụi con làm đủ mọi công tác, không xao xuyến nghĩ chuyện gì khác ngoài việc làm của mình, đâu cần phải kềm giữ. Làm việc một mình tu rất dễ, khi có hai ba người lại trở nên khó. Nếu làm thinh hoài thì buồn, nên phải bày chuyện nói, bày ra rồi hứng, kéo hết chuyện này đến chuyện kia, chuyện năm trên năm dưới gì cũng lôi ra hết. Phải làm sao cả giờ làm việc đều chăn trâu kỹ, được vậy trâu mau thuần thục. Còn hay quên chăn thì trâu lâu thuần. Giờ ngồi thiền chỉ có giới hạn chừng mực, nên giờ ở ngoài tụi con phải khéo chăn. Lúc đầu chăn hơi khó, khi thuần thục sẽ dễ. Điều gì cần phải suy nghĩ để làm thì suy nghĩ, không cần thì thôi, đâu có gì bận bịu.

Tụi con nhớ, người tu nếu chưa thấy được ông chủ phải khéo vận dụng trí tuệ Bát-nhã. Khi gặp cảnh hay người làm phiền mình, cứ dùng trí tuệ Bát-nhã thấy rõ có gì đâu mà phiền! Thí dụ, có những niệm mạnh quá buông không được, nhìn lại xem đó là niệm gì. Gặp cảnh cho là quan trọng nên duyên theo, bây giờ nhớ cảnh đó không thật. Còn với người thì rõ năm uẩn đều không, có gì đâu phải bận bịu. Cảnh không thật, người cũng không thật. Cảnh và người không thật thì đâu có dính mắc mà nói buông không được.

Chỉ tại không vận dụng trí Bát-nhã, nếu vận dụng trí Bát-nhã thì không có gì khó buông. Thân mình nay mai cũng tan nát, không có gì quan trọng. Buông dễ thì tu mới mạnh, còn buông khó là tu yếu, bị giằng co lôi kéo hoài. Bởi vậy người tu ba mươi năm đầu thấy núi sông không phải là núi sông, sau mới thấy núi sông là núi sông. Còn tụi con thấy núi sông là núi sông thật hoài, có vận dụng trí Bát-nhã chưa? Hóa ra học qua rồi mất tiêu, lại sống với tâm chúng sanh. Nay biết sống với trí tuệ Bát-nhã, thấy gì cũng chỉ cười.

Hôm qua có ông nha sĩ ở Úc về thăm Thầy. Ông nói, khi coi kinh Kim Cang Bát-nhã thấy không có gì thật hết, cuộc đời này không có gì thật, kể cả ông ấy nữa. Nhìn cho thật kỹ thì thời gian cũng không thật, vì thời gian chỉ là một giả định. Trái đất quay đâu có gì thật. Tất cả không thật, tại sao mình chấp? Người ta là cư sĩ còn nói như vậy. Cho nên tụi con tu, khéo dùng trí Bát-nhã liên tục thì mọi phiền não đều rơi rớt hết.

– Thưa Sư ông, con xem trong kinh có dạy: Còn quán là còn nương theo lời Phật dạy, nên con không quán nữa. Như vậy có đúng không?

– Tụi con không nghe Sư ông nói có đầu có đuôi. Sư ông nói, nếu ai đã thấy được Ông chủ rồi thì khỏi dùng quán, nếu chưa thấy phải quán để dứt phiền não.

– Những lúc con quán thì buông vọng tưởng rất dễ, sau con coi trong kinh thấy nói như vậy nên hơi nghi ngờ.

– Tụi con không đặt đúng chỗ! Sử dụng đúng chỗ mới có hiệu nghiệm. Chừng nào thấy núi sông là núi sông mới thôi, còn nói núi sông không phải là núi sông thì còn phải tu nữa.

Người xưa gọi cửa Thiền là cửa Không – không môn. Cửa Không là Bát-nhã. Tu Thiền là tu bằng trí tuệ Bát-nhã, chớ không phải tu bằng lòng tin, nên nói là cửa Bát-nhã. Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ nói phẩm đầu là Bát-nhã, vì Ngài ngộ ở kinh Kim Cang. Từ đó mới thấy Bát-nhã rất hệ trọng. Tụi con chưa nhận được Ông chủ nên phải sử dụng Bát-nhã quán chiếu để thấy rõ cuộc đời, bản thân, không có gì phải chấp phải dính. Không chấp dính nên được tự tại. Sở dĩ bỏ khó vì nghĩ: “câu nói đó nặng lắm”, nhớ hoài. Bây giờ dùng trí Bát-nhã: “câu nói đó qua rồi mất”, tự nhiên nhẹ nhàng. Tụi con hay đánh giá nó nặng mấy ký, thành ra mang nó nặng nề. Khó là tại mình mê lầm, cố chấp, rồi bám vào những gì bên ngoài cho là thật: thân thật, giá trị mình thật, cái gì cũng thật hết, đưa tới cố chấp. Cố chấp thì đau khổ.

Nếu tụi con xóa hết mê chấp thấy không có gì quan trọng, chỉ được hòn ngọc quí là việc tối trọng yếu của đời mình. Hiểu vậy, tụi con nhàn nhã, dù không nói tiên, nhưng tự nó cũng là tiên. Nếu mê chấp thì tiên lâu lâu cũng nhớ hồng trần, mà muốn về thăm hồng trần thì phải từ giã cảnh tiên.

Ở đây, tụi con chăn trâu suốt, nhớ sử dụng kiếm Bát-nhã. Có đứa nào không có kiếm Bát-nhã không?

– Dạ, đứa nào cũng có sẵn.

– Nếu sẵn thì phải sử dụng, thường mài không để nó lụt. Bởi nó lụt nên cắt không đứt. Biết sử dụng kiếm Bát-nhã, trên đường tu sẽ không có gì trở ngại. Đứa nào kiếm Bát-nhã lụt quá phải nhớ mài, bằng không nhiều sợi dây cắt không đứt. Tu đơn giản vậy thôi, sở dĩ có rắc rối là tại người ta không chịu buông.

Đúng ba năm Thầy xả cảng cho mấy đứa, thử coi bao nhiêu người đi, bao nhiêu người đăng ký không đi.

Mai mốt có mấy Xơ đến tập tu với tụi con. Thấy họ cũng tha thiết ngồi thiền, nghe nói có một, hai người lạy Phật, đọc Bát-nhã Tâm Kinh đến bài Sám hối cũng khóc. Vậy là có chủng duyên với Phật pháp. Tụi con tụng có khóc không?

– Dạ, lần đầu tụng cũng chảy nước mắt.

– Khóc có hai trường hợp: một là nghe lời Phật Tổ dạy trúng bệnh mình nên khóc, hai là nghe rồi mình nhớ lại đã phạm lỗi nhiều quá nên khóc.

Không biết tụi con khóc thuộc về cái nào. Nếu cảm lời Phật Tổ, đó là có duyên lành, còn phạm tội lỗi nhiều quá là khóc hối hận, khi xưa mình tạo tội, nghe lại lời Phật Tổ dạy mình thấy khổ đau. Cho nên khóc không phải một chiều một mặt, tuỳ theo duyên của mỗi người khác nhau.

Giá trị ngồi thiền ở chỗ lóng lặng vọng tưởng. Hết vọng tưởng đâu phải mất mình. Tất cả những tham, sân, si bệnh hoạn đều bắt nguồn từ quên tánh giác. Dẹp hết những cái đó thì tánh giác hiện bày, lúc ấy không muốn thành Phật cũng là Phật. Nếu không hiện bày dù ham làm Phật cũng không được, vì còn mê, không giác làm sao làm Phật. Hiểu vậy, mới biết tại sao tu mình phải ngồi thiền, phải buông xả những niệm xấu. Vì đó là gốc của phiền não, hễ theo nó là quên tánh giác.

Ví dụ bữa nào tụi con đang chuẩn bị làm món bánh ngon, lúc đó tụi con lo làm bánh, có còn nhớ niệm thân bất tịnh nữa không? Hay chỉ nhớ làm bánh sao cho khéo cho ngon, quên cái tu đúng như lẽ thật. Trái lại, khi tụi con ngồi thảnh thơi một mình, tâm tư lóng lặng mới thấy được lẽ thật, nào là Thập nhị nhân duyên, Tứ đế…

Cũng vậy, người đời chạy theo dục lạc thế gian, không bao giờ biết mình có tánh giác, biết thân này không thật. Khi rủ nhau đi nhậu, tiệc tùng, thì đâu biết thân này không thật. Chỉ khi ngồi thức tỉnh mới biết. Tụi con cũng vậy, ngồi nhắc chuyện năm trên năm dưới rồi cười chơi, lúc đó còn nhớ mình không? Những cái làm xao lãng sự tu hành phải xả bớt, phải hạn chế, để tâm tư mình thanh thản nghiền ngẫm giáo lý Phật. Càng thấm sâu mới thấy siêu thoát. Còn không, tu mà giống hệt người thế gian, lo ăn, lo mặc, cười giỡn cho vui.

Phải có thời giờ ngồi trầm tĩnh. Không cần tụi con phải ngồi thiền dưới gốc cây. Ngồi đây nhìn núi non không trầm tĩnh sao, lựa là phải ngồi gốc cây? Nhiều khi tụi con có những cái cầu kỳ. Lẽ thật thì cứ sống với lẽ thật. Nếu tâm mình yên, ngồi đâu cũng an ổn tốt đẹp, không cần lựa chọn chỗ thích hợp. Tu không phải suy nghĩ theo quan niệm của người thế gian. Ví dụ, bác sĩ bảo cần ngủ tám tiếng, trong đây ngủ có năm tiếng, có phải là trái với qui định của họ không? hay là siêu thoát hơn? Nếu tụi con ngồi chơi một mình mà tâm thanh tịnh, đó là nguồn an lạc, lựa là phải nói cười mới vui. Tâm hồn an lạc thanh tịnh thì ngay đây là Cực Lạc. Chỉ có ngồi ủ rũ rầu lo mới là bệnh. Tu phải khéo, trên đường đạo phải thật sự tỉnh giác, bước đi vững vàng.

Nhiều khi Thầy ngồi ngẫm lại cuộc đời thấy tức cười. Con người chúng ta như mấy vách đất, trong là bộ xương, giống như cái sườn cây lấy dây cột lại, rồi lấy đất đạp nhuyễn tô lên, đó là da thịt. Vách tường ngoài muốn dễ coi quét vôi lên. Mình cũng như vậy. Thân này hít vào thở ra, chẳng ở không chút nào, tưởng ngồi chơi chớ thật là làm hoài, đâu có gì sung sướng. Một lát đói, một lát khát. Vậy mà cho là cuộc sống có giá trị, thấy cũng tức cười. Con người cứ quay theo cuộc sống. Thí dụ muốn ăn cho thật ngon nên phải cực, phải tốn, hôm nay vô, ngày mai ra. Còn ăn rau luộc chấm tương thì khỏe, thảnh thơi mà không chịu, vì bị lệ thuộc nơi lưỡi. Làm cả ngày cực khổ, chiều ăn một bữa ngon là hết trơn, cũng chỉ vì một chút cảm giác ngon của cái lưỡi. Nếu ăn đơn giản thì đâu phải cực khổ.

Bởi vậy, thương người không phải ta đem của ra bố thí giúp đỡ mà phải giúp họ thoát mê lầm.

Giả sử, có người hay ăn hàng, xài bậy, rượu chè, không biết tiết kiệm nên thiếu trước hụt sau, tụi con thấy thương đem lại một, hai trăm ngàn giúp, giúp được bao lâu, giúp làm sao đủ? Chỉ làm sao nói cho họ hiểu được đạo lý, tự họ hạn chế, tự sửa đổi thì mới hết khổ. Mình không cho gì, nhưng đó là kế lâu dài nhất. Chúng ta hay nghĩ, người ta khổ đem lợi giúp cho họ hết khổ, chắc gì! Chỉ có đem lời Phật dạy cho người ta hiểu thật sâu, tự họ giải lấy, tự họ chuyển hóa, đó là chân thật nhất, gọi là bố thí pháp, quan trọng hơn. Hiểu vậy mới thấy giá trị người tu.

Thầy sở dĩ có chút phước là vì Thầy hay bố thí pháp, ngày nào cũng vậy không nhiều thì ít, một ngày hai hoặc ba thời. Bởi vậy, tưởng Thầy ở không chớ đâu ở không. Câu chuyện Thầy thường kể với Phật tử là “Ông trưởng giả có bốn người vợ”. Hồi sáng có nhóm Phật tử Sài Gòn lên, yêu cầu Thầy nói chuyện. Nếu nói lý thuyết họ khó nhớ, nên Thầy dẫn câu chuyện đó kể, thấy họ cười cười, Thầy biết chuyện này họ đã nghe rồi, nhưng Thầy cứ kể. Xong, Thầy giải thích nghiệp là sao, tại sao nghiệp không mất. Giải rồi họ nói: “Con có nghe chuyện này rồi, bây giờ nghe Thầy nhắc lại rất là thấm.”

Chuyện cũ nhưng mình khéo giải thích làm người ta thấm thêm. Nhiều khi ngại, sợ người ta nghe rồi nói lại bị trùng, nhưng kể thì cứ kể, miễn khéo chút thôi. Thiếu gì chuyện Thầy kể cho tụi con nghe lặp đi lặp lại hoài, nhưng cần vẫn cứ kể.

***

Lễ Phật Đản ở Indonesia kéo dài khá lâu. Mỗi chùa làm một bữa, vì bên đó Tăng Ni ít mà Phật tử cũng không nhiều, cho nên họ dồn qua chùa này làm xong rồi qua chùa kia, luôn một tháng trời. Bởi vậy, đi dự lễ Phật Đản hoài.

Ở Indo, bắt buộc mọi người dân đều phải có đạo. Có năm tôn giáo, Hồi giáo mạnh nhất, chiếm 80% dân số, còn lại là Ấn giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành và đạo Phật. Đạo Phật chỉ có 2%. Tuy vậy họ vẫn cho Phật giáo giảng trong trường Đại học, cho giờ phát thanh trên đài. Phật giáo chia làm ba: Nam tông là đa số, Bắc tông cũng được kha khá và Mật tông. Ba phái hợp lại, lễ nào cũng có ba nhóm. Những vị Nguyên thủy tu thiền Minh Sát Tuệ, không tu thiền như mình.

Khoảng đầu tháng 9, sẽ có phái đoàn Indonesia đến thăm Trúc Lâm. Ông Silvie mời Thầy qua Indo, Thầy có đến hãng của ông. Ông Silvie qui y bên đó, ở Việt Nam có chú Phật tử làm cho ông là đệ tử của Thầy. Ông tìm hiểu về sự tu hành của quí thầy, hỏi cách tu thiền. Nghe chú đó giới thiệu đường lối tu của Thầy, ông thích rồi mời Thầy qua Indo, còn mời qua chỗ tháp Phật Borobudur ở một đảo khác. Từ đó qua tháp khoảng sáu tới bảy trăm cây số đi bằng máy bay.

– Thưa Thầy, Thầy qua đó khánh thành?

– Đâu có! Tháp đó có từ thế kỷ 16, thời gian sau núi lửa phun phủ hết, sau có người khảo cứu lại, đào lên. Bây giờ họ đang tu bổ, về phần chánh đã xong chỉ còn phần phụ. Mỗi năm đều tổ chức lễ Phật Đản tại đó.

Dự lễ Phật Đản rồi, ông Silvie đưa Thầy đi chơi đảo Bali. Đảo này là chỗ du lịch thế giới, đẹp lắm! Khách sạn tại đó thật sang. Bà chủ là Phật tử, ăn ở chẳng những bà không lấy tiền, còn cúng dường thêm nữa, thành ra lần này về đủ cất hai cái thất cho tụi con. Thầy đang tính cất hai cái thất, một cái cho Ban chức sự, một cái cho chúng thay phiên.

Lần này đi chơi thôi, không giảng gì hết, vì đâu có quen với ai. Tiếng Indo nói lanh lắm vì không có dấu. Chữ họ cũng lấy gốc chữ La tinh. Nước mình bị Pháp thuộc chưa được một trăm năm, nhưng sau đó lại bị nội chiến. Còn Indo hồi xưa bị Hà Lan cai trị ba trăm năm, Nhật cai trị ba năm. Từ năm 1945 trở về sau không còn chiến tranh nữa, nên phát đạt hơn mình. Người định cư ở đó bắt buộc phải nói tiếng Indo, dù người Hoa hay người gì cũng nói tiếng Indo, vì có trên một trăm giống dân, nếu nói loạn thì ai hiểu cho nổi. Tất cả bảng hiệu đều bằng tiếng Indo, không được viết tiếng Anh hay tiếng Hoa gì hết. Thầy không biết tiếng ngoại quốc, có khi ông Silvie đến thăm Thầy, lạy ba lạy rồi đi. Thầy không nói gì với ông, ông không nói gì với Thầy. Khi nào có mấy người thông dịch giùm mới nói chuyện được.

Bên đó có chùa người Hoa đang xây cất, mời Thầy đến dự lễ Phật Đản, sau lại mời giảng một thời. Rồi ông Silvie dẫn đi xem chùa ông cất giữa thành phố cao đến tám tầng, rộng lớn lắm, mới xây xong tầng thứ tư thờ Phật, còn bốn tầng kia chưa xong. Tượng Phật nặng mười tấn đồng, cao bảy thước, ngồi trên toà sen rộng bảy thước. Chỉ một tượng Phật số tiền tính bằng cái chùa của Thầy, còn bao nhiêu thứ nữa ông đang chuẩn bị làm. Lại có hai phòng giảng mỗi phòng chứa khoảng năm trăm người.

Trúc Lâm so với chùa người ta không thấm vào đâu, nhưng nhờ có núi và hồ, có cảnh đẹp thiên nhiên nên ai đến cũng thích. Cũng vậy, tụi con sau này được người ta mến quí không phải vì giỏi văn chương chữ nghĩa, mà vì có đạo đức. Mỗi cái đều có nét riêng của nó. Người ta học cao có bằng cử nhân, tiến sĩ hoặc làm được cái gì đó nên người đời hoan nghênh. Mình không có bằng cấp cao, cũng không làm gì nổi tiếng, nhưng nhờ có tu, có đạo đức, vậy mà bền. Phật dạy: “Chỉ có mùi hương đức hạnh là ngược gió bay đi khắp muôn phương.”

Hôm Thầy sắp về, có hai nhà báo đến phỏng vấn Thầy, một người làm việc cho tờ nguyệt san, người kia bán nguyệt san. Họ xin hỏi Thầy chừng hai ba chục câu, có câu hỏi về đời Thầy, rồi cuối cùng là: “Hiện giờ Thầy muốn cái gì?” Thầy trả lời với họ rằng:

– Hiện giờ tôi còn muốn một điều là tất cả Tăng Ni dưới sự hướng dẫn của tôi, mỗi người tu hành được trí tuệ sáng suốt, đức hạnh đầy đủ. Sau khi tôi nhắm mắt họ thay tôi duy trì Phật pháp, thắp sáng ngọn đèn Thiền tông.

Hôm sau lại có phái đoàn khác hỏi:

– Theo Thầy nghĩ, tương lai Phật giáo như thế nào?

Vì Thầy thấy người hỏi là Phật tử, nên nói:

– Phật giáo tương lai sẽ sáng sủa hơn.

Câu trả lời này có tính cách chủ quan. Giả sử có người ngoại đạo hỏi câu đó, Thầy phải nói làm sao? Khi đó Thầy sẽ trả lời như vầy:

– Tương lai Phật giáo như thế nào là tùy theo sự tu hành và học hiểu của Tăng Ni, tín đồ Phật giáo. Nếu Tăng Ni và tín đồ hiểu Phật pháp sâu, tu hành chân chánh thì Phật giáo sẽ phát triển hưng thạnh, còn nếu Tăng Ni lôi thôi không thông giáo lý, Phật tử cũng không hiểu Phật pháp, Tăng Ni và tín đồ tu hành không ra gì thì Phật pháp suy.

Thầy trả lời như vậy là nói chung, dù bên Phật giáo hay đạo nào cũng vậy. Nếu người lãnh đạo và tín đồ không hiểu đạo lý, hạnh kiểm không tốt thì đạo đó suy, phải không?

Lại có người hỏi Thầy:

– Thầy nghĩ gì về thế kỷ 21?

Thầy trả lời họ rằng:

– Nếu nói tới thế kỷ 21 thì tôi hơi lo.

Hỏi:

– Tại sao Thầy lo?

Thầy nói:

– Hiện giờ khoa học tiến quá nhanh mà đạo đức con người theo không kịp. Bước vào thế kỷ 21 như vậy là tai họa về sau. Ví như có người kém đạo đức, đầu óc bất bình thường không tự chủ mà trong tay có sẵn khí giới thì mọi người xung quanh đều phải lo.

Rồi họ hỏi tiếp:

– Bây giờ chúng ta phải làm gì?

Thầy trả lời:

– Hiện giờ chúng ta phải ý thức được điều đó, cố gắng nâng đỡ đạo đức cho tiến nhanh theo kịp, sao cho đến thế kỷ 21 đạo đức, khoa học và kỹ thuật quân bình thì đó là kế lâu dài.

(Nghe Hòa thượng kể, một cô trong chúng hỏi:)

– Thưa Thầy, những câu người ta hỏi có thâu băng cassette không?

– Người ta quay phim. Họ hỏi nhiều lắm, tới mấy chục câu. Mấy câu hỏi là lạ thì Thầy nhớ, mấy câu hỏi thông thường về giáo lý Thầy quên rồi.

Ở Indo người ta chịu hỏi Thầy hơn là nghe giảng, vì khi hỏi có thông dịch nói lại liền, lời gọn tập trung vào chỗ họ thắc mắc, không có tánh cách lý thuyết dài dòng. Còn mình giảng lý thuyết dông dài, họ phải chờ nghe dịch lại cho hết ý, bị xao lãng hết. Bởi vậy, Thầy nghĩ phải nói làm sao cho thu hút hơn, bữa chót Thầy nhắm hai điểm: một là sao cho hấp dẫn hơn, hai là quảng cáo ông Tổ mình một chút. Khi giảng Thầy nói: “Hôm nay tôi sẽ giới thiệu với quí vị một ông vua Việt Nam đi tu làm Tổ phái Thiền Trúc Lâm.” Thầy kể sự tích vua Trần Nhân Tông, tới bài kệ, Thầy cho ông thông dịch viết chữ Hán lên bảng cho mấy người biết chữ Tàu ghi. Giảng bữa đó thiên hạ có chú ý.

Cuộc đời mình đâu có ai biết trước ngày mai. Năm rồi Thầy có nói đi Hà Nội, Indo gì đâu. Chỉ lo trả hai cái nợ: một là đi Úc, như Thầy đã hứa với Phật tử; hai là chùa Phước Hậu, nhà phía tây hư chưa sửa. Thầy đi về có tiền cho họ sửa nhà tây lại. Ngang đây hết nợ ở nhà luôn.

Phật tử ở đời đa đoan công việc mà còn có được lòng tin, những người nhàn hạ thảnh thơi như tụi con lại thiếu lòng tin thì thật hổ thẹn. Đây chỉ mới nói đủ lòng tin thôi, chưa nói tới chuyện khác. Nhiều khi mình nghĩ, chỉ rảnh rang tu mới có kết quả. Thật ra, tu có kết quả quan trọng ở ý chí quyết liệt, dù trong hoàn cảnh nào cũng phải nỗ lực, trường hợp nào cũng phải cố gắng, chớ đừng đợi rảnh rang.

Sáng sáng Thầy đi một vòng thấy hai ba người làm hoa kiểng, vừa làm vừa nói chuyện, Thầy hơi tiếc thời giờ. Lẽ ra khi làm phải “tỉnh tỉnh”, dễ thấy đạo hơn. Tụi con nhớ, mình có cảnh tốt, duyên tốt rồi, phải nuôi dưỡng nó. Cảnh tốt mà không chịu nuôi dưỡng, để phí phạm thì uổng.

– Dạ, đôi khi tụi con cũng quên.

Người làm hoa kiểng quên, người chặt củi có quên không? Tụi con ráng luôn sống trong cái tỉnh đó. Mình có được thắng duyên thì phải sử dụng thắng duyên của mình mới tiến nhiều. Người ta là cư sĩ đa đoan công việc mà còn cố gắng tu và tin được điều đó, huống nữa tụi con. Nếu tụi con thấy mình còn khiếm khuyết chỗ nào phải chỉnh sửa lại.

Hôm trước Thầy dạy để tâm mình thanh tịnh, tụi con có chịu để tâm mình thanh tịnh không? Mấy đứa học có thực hành được không? hay là để tâm rong ruổi xóm làng chơi? Thầy đi nhiều nơi về, xét lại thấy rõ thời này tu là phải học. Thời đại này ai cũng có trình độ văn hóa khá. Họ hiểu đạo lý tương đối kỹ càng, mình dốt quá kẹt lắm, không giáo hóa ai được. Tụi con còn trẻ, mai kia đi ra đương đầu với thiên hạ phải có đủ hai mặt: kiến thức và đạo đức. Nếu chỉ có đạo đức thì không đủ trình độ giáo hoá; còn có kiến thức mà không đạo đức dù nói hay người ta cũng không tin. Như vậy, thiếu mặt nào cũng sẽ trở ngại cho sự truyền bá.

Hiện nay, từ thôn quê đến thành thị kiến thức được mở mang, người dân cơ bản phải có trình độ trung học. Tu sĩ là người hướng dẫn, phải có trình độ bằng hoặc trên mức đó. Hồi xưa, quí Hòa thượng mình ở vùng quê đều là vị thầy hướng dẫn cho dân, không có Hòa thượng nào dốt, phải không? Dốt sao dạy học hoặc làm thầy thuốc được. Vì vậy người ta quí người tu là ở chỗ mình có khả năng làm thầy họ cả hai mặt, còn dốt quá họ sẽ cười. Nếu người có lòng ham học đạo tới mà mình không đủ điều kiện để dạy họ thì cũng khó. Ví như người ta đến, mình bảo họ ngồi thiền đi, không cần lý giải gì hết, họ đâu có chịu. Phải có sự hiểu biết rõ ràng tại sao phải ngồi thiền, ngồi thiền như vậy có lợi ích gì cho mình, cho người, họ mới chịu thực hành.

Bữa trước có một Phật tử Indo hỏi Thầy:

– Mục đích ngồi thiền để cho tâm yên định, sáng tỏ, ngoài ra còn lợi ích gì về đạo đức nữa không?

Thầy nói rằng:

– Mình ngồi thiền tâm yên định thì dừng được các phiền não, tham sân si. Dừng được tham sân si tức tránh được tội lỗi. Đồng thời, tâm yên định thì trí sáng suốt. Từ sự sáng suốt đó thấy mọi người mê lầm nên mình thương và khởi lòng từ bi muốn giúp cho họ cũng được sáng suốt. Lòng từ phát khởi do không còn tham sân si. Từ bi này đầy đủ công đức, giới luật và trí tuệ, đem lại lợi ích lớn cho người, chớ đâu phải mình sáng suốt an lạc rồi thôi, mọi người ra sao mặc họ.

Trí tuệ và từ bi không tách rời, nếu trí tuệ mà không có từ bi là trí tuệ khô cằn, còn nếu từ bi mà không trí tuệ là từ bi si. Tại sao vậy? Bi mà si, thương người nhưng không đem lại lợi ích cho người, chỉ thêm đau khổ. Ví như có nhiều người tu, thấy ai đó mới tới chùa không người thân, cô đơn, nên thương xót an ủi, rồi thương luôn. Cái thương đó làm cho người ta kẹt dính, như vậy có trí tuệ hay không? Trong giới tu sĩ của mình có bị mắc kẹt vào cái đó không?

– Dạ, có.

Ban đầu người ta mới tới còn bỡ ngỡ, mình thương, săn sóc lo lắng, rồi họ có cảm tình với mình. Phải sáng suốt, có trí tuệ để thấy rõ phải thương thế nào là đem lại lợi ích và giải thoát cho người. Nếu tình thương đem đến sự trói buộc thì không nên. Chẳng những thế nhân mà tu sĩ cũng hay có lối thương si mê đó. Đó là từ bi mà thiếu trí tuệ. Tụi con nhớ chưa?

– Dạ, nhớ.

Có nhiều người xuất gia thấy trẻ con mồ côi tội nghiệp đem về nuôi, rồi thương như con. Như vậy là trói buộc, là từ bi si mê. Bởi vậy, tụi con nên sáng suốt, đừng bao giờ từ bi đi tới si như vậy, đó là bệnh. Bệnh đó thì hết tu, không thể nào giải thoát được. Giải thoát nghĩa đơn giản nhất của nó là sao? Là không bị trói buộc. Trói buộc là nghĩa của chữ “triền phược”. Mở hết trói buộc là giải thoát. Có đứa nào nói “tôi tu không cầu giải thoát” không?

– Dạ, không.

Ai tu cũng cầu giải thoát mà cứ trói buộc hoài giải sao nổi, dù trói nhiều hay ít cũng là trói buộc. Cho nên có niệm gì trói buộc là cắt ngay, tự mình cắt chớ không phải để người khác cắt cho mình. Người khác cắt có những cái phiền. Mình thích trói mà người ta cắt thì mình tức. Mình bị trói để người ta phải cắt, người ta cũng bực. Cả hai đều không khỏe, không vui. Vậy nên trong khi tu thấy cái gì trói buộc là cắt ngay, để cho tất cả thời giờ quí báu của mình lúc nào cũng thanh tịnh, sáng suốt. Đừng tự mình trói buộc rồi nói tu không thảnh thơi, không hết khổ.

Thầy hỏi tụi con, độ rày khoảng một hai tháng có đứa nào rơi nước mắt không?

– Dạ, có.

Rơi nước mắt vì chuyện gì? Tụi con đọc bức thơ của ngài Động Sơn gởi cho mẹ, để thấy tâm hồn của mình tuy đi tu cũng còn bị trói buộc. Đối với tụi con, người thân thiết nhất là mẹ cha, kế đó là anh chị. Bây giờ tụi con hiếu thảo đem lại lợi ích cho người thân bằng cách nào? Bằng cách nhớ thương hay là ráng tu cho tâm hồn thanh thoát, đạo lý thấu suốt để độ cha mẹ? Độ được cha mẹ mới là nguyện vọng của mình, còn ngồi nhớ thương, suy nghĩ về cha mẹ chỉ làm tâm bi lụy. Lại muốn về làm chút đỉnh gì cho cha mẹ, tưởng đó là có hiếu, nhưng hiếu thảo của người xuất gia không phải như vậy.

Có những đoạn sử nói về các vị Tăng có hiếu với mẹ cha, nhưng mỗi đoạn nói mỗi khác. Như chuyện ngài Hoàng Bá, khi đi tu Ngài nghĩ: “Cần phải dứt bỏ ân tình, quyết tâm đạt đến vô vi, mới là báo ân chân thật.” Nhiều năm Ngài không về nhà. Bà mẹ ngày đêm thương nhớ đứa con xa, khóc đến mờ đôi mắt. Bà lập một quán trà bên đường, tiếp đãi chư Tăng hành cước bốn phương, và mời chư vị về nhà, đích thân bà rửa chân, cúng dường. Vì trên chân ngài Hoàng Bá có một vết sẹo, bà muốn nhân khi rửa chân có thể tìm ra ai là người con yêu của mình. Một hôm, Ngài về thăm, cũng được bà mời đến nhà, nhưng khi rửa chân Ngài chỉ đưa bàn chân không sẹo, nên bà không phát hiện ra Ngài. Trong lúc bà làm những việc đó, Ngài kể chuyện đức Phật vượt thành xuất gia, hi vọng thân mẫu nhân đây thâm tín Tam Bảo, an tâm trong quãng đời còn lại. Ngài Hoàng Bá liên tiếp hai phen trở về nhà, thấy tình thương của mẹ quá sâu đậm nên không cho bà biết tung tích, chỉ âm thầm hướng dẫn bà tu hành, rồi tiếp tục vân du.

Lần sau cùng, Ngài vừa rời khỏi nhà thì có người hàng xóm phát hiện ra, liền báo cho bà biết đó là người con trai mà bà đang trông đợi. Nghe xong, bà tức tốc chạy theo, đến bờ sông lớn thì thuyền của Ngài vừa rời bến, bà hoảng hốt nhảy theo, chẳng may rơi xuống sông chết chìm. Ngài Hoàng Bá trông thấy tình cảnh mẹ bị hụt chân chết chìm, đau buồn quay trở lại. Đứng trước di hài của mẹ, Ngài cảm động rơi nước mắt, nói: “Một người con xuất gia ngộ đạo, cửu tộc được sanh thiên; nếu không được sanh thiên thì chư Phật nói dối.” Khi làm lễ hỏa táng mẹ, người trong làng đều thấy thân mẫu của Ngài ở trong khói bay lên hư không.

Trong kinh Phật nói, người con ngộ đạo cha mẹ được sanh thiên. Tụi con tu mà được như vậy mới là hiếu thảo. Người tu phải thấy được cái gì nên làm, cái gì không. Mình cũng tu nhưng còn yếu, nên chỉ nhìn thấy những cái gần, không thấy xa. Ngài Hoàng Bá quyết tâm tu hành, mẹ Ngài sanh một người con ngộ đạo, nên được phước sanh lên cõi trời. Nói vậy để tụi con thấy trách nhiệm của mình, ráng tu ngộ đạo để độ thân quyến. Như chuyện ngài Tông Diễn, nhờ ngộ đạo mẹ Ngài được phước sanh thiên. Bởi vậy, người xuất gia tu hành đắc đạo thì chuyện cứu độ cha mẹ được bảo đảm.

Bây giờ, giả sử như ba má tụi con sáu mươi, bảy mươi tuổi, nếu về nuôi dưỡng, an ủi được chừng năm mười năm. Còn mình tu đạt đạo rồi cứu cha mẹ, nếu sanh thiên thì mấy ngàn năm, sau đó còn tạo duyên độ nữa. Nói vậy để tụi con hiểu trách nhiệm của người tu là gì. Đừng nghĩ rằng mình lo cơm cháo cho cha mẹ là đền ơn, đền ơn đó chỉ chút xíu thôi không đáng kể. Chúng ta được đạo rồi, cha mẹ an vui sung sướng lâu dài, đó là kế lo xa. Người tu là người thấy xa.

Nói vậy cho tụi con hiểu, người nào có cha mẹ già rồi, không nuôi được đừng buồn. Trừ lúc cha mẹ không còn ai lo, mình có bổn phận phải lo. Còn có người lo rồi mình ráng tu hành, nếu có người nuôi, mình về nuôi nữa thành ra thừa. Làm không ra tiền làm sao nuôi, chỉ phụ họ cho có mặt vậy thôi, trong khi chuyện tu không tới nơi tới chốn, rốt cuộc cả hai đều thiệt thòi, mình không làm được bổn phận của mình, việc của người ta mình lại làm.

Bởi vậy, người tu phải chăm sóc cha mẹ về tinh thần; anh chị, em út ở nhà lo phần vật chất.

Mỗi người lãnh một phần, người nào lo được cho cha mẹ thì có phước. Mình gắng tu thấy đạo rồi hướng dẫn cha mẹ về mặt tinh thần. Bây giờ mình về nhà họ đẩy cho mình, không thèm biết bổn phận, họ không có phước, mình cũng tổn giảm vì không có thời giờ tu tới nơi tới chốn, hai bên đều thiệt thòi. Hiểu vậy mới có gan chịu đựng. Không hiểu vậy, tụi con cứ nghĩ người tu bất hiếu, không gần gũi chăm lo cho cha mẹ, rồi than trách buồn rầu. Sở dĩ thấy bất hiếu là vì mình không hiểu rõ, nếu mình ráng tu ngộ đạo cha mẹ được hưởng phước sanh thiên không nghi ngờ. Người xưa đã thực hiện, một là ngài Hoàng Bá, hai là ngài Tông Diễn, có bằng chứng cụ thể.

– Thưa Thầy, khi tu có niềm vui con lại nhớ thương cha mẹ cực khổ cả đời rồi cũng chẳng được gì. Đường trước mịt mờ không biết sẽ đi về đâu!

– Nếu mình tu có niềm an lạc, vừa nhớ cha mẹ thì cố gắng tu thêm, vì mình đắc đạo sẽ độ cha mẹ không nghi ngờ. Tại mình không khéo chuyển niệm, đừng ngừng ở chỗ nhớ cha mẹ, phải nghĩ đây là cơ hội để mình đền ơn cha mẹ, nên cố gắng vươn lên. Nhiều khi tụi con hiểu lầm, nghĩ mình về nuôi cha mẹ năm bảy tháng trước khi cha mẹ mất để đền ơn. Mình ráng tu mới thật là đền ơn.

Qua câu chuyện Tổ Hoàng Bá, chúng ta thấy như Ngài lơ là đối với mẹ. Nhưng nhờ Ngài tu đắc đạo nên thân mẫu được sớm về cõi trời. Đây mới là chân thật báo hiếu. Bây giờ mình không dám lơ là như vậy, nhưng cũng phải nguội lạnh một chút. Còn nồng nàn quá, ngồi đây mà nhớ má hoài thì tu không tiến được, đời tu không ra gì, không lợi ích cho cha mẹ.

Trong sử kể, có một ông thầy đi tu, đọc lâu Thầy quên tên, ở Trung Hoa. Ông tu rất tinh tấn, nhưng bà mẹ trước làm tội đọa địa ngục. Khi ông tinh tấn tu, ngục tốt nói: “Bà này có đứa con tu tinh tấn lắm, đừng nên hành phạt.” Bà mẹ đỡ khổ nên rất mừng. Thời gian sau, ông thầy bị thối tâm và phạm giới, ở dưới địa ngục, ngục tốt đánh đập bà quá chừng. Bà xin ngục tốt về nhắc con ráng tu, để bà bớt khổ. Đêm đó bà về báo mộng: “Lúc trước con tu tinh tấn, mẹ đỡ khổ ở địa ngục, bây giờ con tu bê bối, phạm giới nên họ hành hạ mẹ quá!”

Ông thầy nghe vậy giật mình hoảng hốt, từ đó về sau nỗ lực tu hành.

Bây giờ tụi con thấy ở thế gian, giả sử có người không tốt bị láng giềng coi thường, sau đó con họ lên làm Tỉnh trưởng, hàng xóm có dám khinh nữa không? –  Không. Nhưng đứa con làm Tỉnh trưởng một thời gian rồi ăn hối lộ, ở tù thì người ta lại khi dễ cha mẹ. Ở trên thế gian, con được danh dự thì mọi người quí cha mẹ, khi nó suy sụp, tất cả đều coi khinh. Dưới địa ngục cũng thế. Hiểu vậy, lúc nào tâm hồn tụi con hơi sa sút phải ráng vươn lên, ráng tu cho ngộ đạo mới có thể giúp cha mẹ được.

***

Hôm nay Thầy nói một điều rất gần. Ví dụ tụi con có chuyện gì vui, cười ào lên, có gì buồn khóc sướt mướt, đó là buông thả theo cái vui và buồn, nếu như vậy đâu có gì hay hơn người đời. Bây giờ muốn hay hơn thiên hạ thì vui cười vừa phải, cười hàm tiếu thôi; buồn cũng hạn chế, hơi buồn buồn thôi. Đừng để người ta nói Ni cô mà cũng rơi nước mắt, sau này không nhắc nhở dạy bảo ai được!

Nhờ hạn chế sau thành quen dần, còn buông thả, sau này cùng người thế tục không khác. Nhà Phật gọi là tiết chế. Người biết kềm chế thì đạo đức tăng, nếu thả lỏng sẽ thành buông lung. Có ai buông lung mà thành công không? Càng buông lung thì càng sụp đổ, tụt xuống; ai tinh tấn nỗ lực sẽ vươn lên, được thành tựu. Tu không tinh tấn thì không kết quả, ngàn năm vẫn đứng một chỗ. Người có nhiều cái dở nhờ tinh tấn gỡ lại nên cũng tạm được. Cho nên người tu phải tinh tấn. Kể cả ở thế gian, học muốn thi đậu mà lười biếng quá làm sao đậu nổi. Phải thức khuya dậy sớm học hành kỹ thi mới đậu. Đó là thi đậu để làm cô tú, cậu tú cực mười phần, bây giờ mình tu làm ông Thánh, ông Hiền phải cực một trăm. Cô tú cậu tú đâu có ai bái, tụi con tu thành Thánh Hiền, người ta lạy, nên phải vượt hơn trăm phần, mới xứng đáng.

Nói đến tu là nói điều phi thường, không phải nói cái tầm thường. Người tu nếu vẫn sống theo lối tầm thường thì không được, nên nói: “trần lao huýnh thoát sự phi thường”, nghĩa là thoát khỏi trần lao là việc chẳng phải thường. Muốn ra khỏi trần lao phải là con người gan dạ làm điều phi thường. Như ở thế gian lớn lên phải có đôi bạn, ấy là bình thường. Nay tụi con vượt qua, cũng là tỏ cái phi thường của mình.

Đi tu làm người phi thường phải ráng phi thường thật sự, vậy mới xứng với lòng tin, và sự kính cẩn của Phật tử. Nếu tu cũng bình thường như họ thì đâu có gì đáng quí kính. Ngoài đời có những người học cao tới tiến sĩ, thạc sĩ người ta đâu có lạy. Mình tu vì vượt trên cái tầm thường, họ không làm nổi, nên cảm phục kính lễ. Bởi vậy, nếu người tu không khác với thế gian sẽ làm người ta mất lòng tin cậy.

Vậy muốn cho khác tục phải làm sao? Người đời có gia đình mình không có, người ta ăn mặn mình ăn chay, người ta để tóc mình cạo tóc, đó là khác với thế gian. Mấy cô gái đang tuổi mười tám, mười chín bảo cạo đầu có dám cạo không? Vậy mà tụi con dám làm, đó là phi thường, nên người ta nể tụi con. Vậy, những cái phi thường đó tụi con khéo giữ, ở hình thức cũng như tâm hồn. Ngoài thế gian khi có những nỗi lo buồn, người ta kiếm người này người nọ chia buồn, phụ hóa giải. Mình tu rồi đâu cần ai phụ hóa giải, cái hay dở tự mình giải quyết. Không cầu ai thì đâu cần bạn bè, cứ tự giải quyết lấy, vì mình là dũng sĩ mà.

Trong bài Sám hối hồi trước có câu: “đơn đao đột nhập vô thượng giác”, phải cầm đao đi thẳng một mình, không có người thứ hai. Người nào muốn lên bờ giác phải đi một mình, đi hai ba người, người này kéo người kia, nhảy không nổi. Nhảy lên bờ giác không nổi, rớt tụt ở dưới. Bởi vậy, ai muốn lên bờ giác phải gan dạ một mình xông lên, không để người thứ hai níu kéo. Lên không nổi, thì suốt đời hành đạo mà không có kết quả.

Về hình thức, tụi con làm được mấy cái phi thường đáng khen: không có gia đình, ăn chay, cạo tóc, và mặc đồ nhuộm. Nhưng mà bốn cái này thuộc về hình thức, thấy khó mà dễ. Bây giờ thiếu gì người theo mốt này mốt kia, cạo đầu trọc. Hôm trước Thầy có thấy một cô người Mỹ cạo tóc, như vậy cạo tóc không phải phi thường rồi, người đời cũng có thể làm được. Chỉ có nội tâm mình không vướng mắc là không ai bằng, ít người làm được. Nội tâm bị vướng mắc chỉ có mình gỡ, không ai gỡ được.

Tu là phải gan dạ. Hình thức bên ngoài người đời làm cũng được, cư sĩ cũng mặc áo nhuộm, ăn chay, lại có những người ưa kiểu lạ cạo tóc như mình. Chỉ có điều hơn là mình không có gia đình. Vậy cái phi thường của người tu là ở nội tâm. Nội tâm lúc nào cũng phải sáng suốt, tỉnh táo, nếu có tâm niệm không hay phải đuổi nó đi, như vậy mới được an ổn, xuất trần. Tâm mình trong sạch không tham gian, không có niệm xấu xa… Đó là điều mà người đời làm chưa được, trên hình thức họ có thể bắt chước nhưng nội tâm siêu xuất thì họ chưa làm nổi.

Khi ngồi thiền có hai cách: một là trong tâm có niệm nào cũng buông xả hết, hai là có gì uất lòng thì quán xét: “Cái này là vô nghĩa, cuộc đời là ảo mộng, mọi cái đều trở thành không, đeo đẳng làm gì.” Như Thầy rồi sẽ chết, tụi con cũng chết, mang thân này rồi chết, không lo vượt thoát thì uổng một cuộc đời.

Tất cả tụi con ngồi thiền ngày đêm sáu tiếng đồng hồ để trị cái gì? Trị cái tâm. Giả sử đang ngồi nhớ chuyện chị em vui buồn gì đó, tuy không phải tham sân si nhưng có niệm khởi liền buông. Đó là trị cái tâm vọng, không cho làm mất thời giờ của mình. Mình làm chủ hoàn toàn, điều này thế gian không làm được. Nếu thế gian làm không được, mình làm cũng không được thì đâu có hơn ai. Cho nên tụi con phải làm được việc phi thường đó. Đi xuất gia là khó, mà làm được việc xuất trần càng khó hơn nên người ta quí, quí ở đạo đức chớ không phải hình thức.

Bởi vậy tâm mình cần phải trong sáng, những vọng niệm vừa dấy khởi phải bỏ liền, đó là tu. Ngồi thiền mà cứ nhớ chuyện này chuyện kia, những chuyện không đâu là thất bại, bị vọng tưởng lôi. Không làm chủ được thân tâm thì làm chủ cái gì? Không làm chủ được thì không thật có mình. Đó là vấn đề lâu nay nhiều người không biết, cứ ngỡ rằng theo đuổi dục lạc thế gian cho thỏa mãn là hơn hết, ai không thụ hưởng là thiệt thòi. Nhưng thật ra người hưởng dục lạc thế gian nhiều chừng nào, bệnh hoạn, chết sớm chừng nấy. Như vậy là chạy theo cái chết, ý muốn được sống dai lại đi tìm cái chết, những người này tự mâu thuẫn. Mâu thuẫn đó do si mê mà ra.

Nên người tu không phải hành xác vô ích, mà là tập khắc phục. Thí dụ ai cũng thích ăn ngon, nhưng bây giờ tạm ăn chay lạt, đơn sơ cũng sống có chết chóc gì đâu. Nếu ăn như vậy mà chết thì không nên, nhưng hiện nay người ta lại tán thán ăn chay sống dai. Ở miền rừng núi có nhiều ông bà già ăn uống rất đạm bạc mà sống tới trăm tuổi hoặc hơn. Còn ở thành thị nhất là mấy ông hưởng thụ quá, không bệnh này cũng tật kia, lại càng chết sớm, không thể nào thọ. Như vậy để thấy rằng tất cả những thứ hưởng thụ chỉ làm tiêu hoại thân này sớm thôi, không đem lại cái gì siêu thoát. Người đời mê muội chạy theo, không làm chủ được thân. Thân đòi cái gì liền thỏa mãn cái đó, rồi chuốc lấy tai họa.

Người tu khi định làm cái gì phải thực hiện cho được, dầu cơ thể này có phản đối, mình vẫn thắng nó, làm chủ nó. Bằng chứng cụ thể là việc ngồi thiền, không ai bỗng dưng ngồi được hai ba tiếng đồng hồ, nhưng mình tập mãi rồi ngồi được. Tập được hai tiếng, khi hứng có thể ngồi đến ba bốn tiếng đồng hồ không trở ngại. Vượt qua những cái khó là một điều rất cần thiết. Dần dần làm chủ được thân này rồi, trong tâm những cái tạp nhạp cũng dễ bỏ được.

Khi làm chủ được thân tâm mới biết rõ mình. Hiện giờ nói mình mà không thật biết là cái gì. Nếu mình là thân này thì thời gian sau nó bại hoại; nếu là tâm, một lát giận một lát thương, buồn, ghét, không biết cái gì là mình. Thành ra, nói mình mà không biết thật là cái gì. Chẳng lẽ giận là mình, hay thương, buồn là mình? Mình đâu phải mấy chục thứ như vậy. Lại những thứ đó chợt có chợt không, nếu mình là nó thì mình cũng khi có khi không.

Bởi vậy, tu Phật là phải chinh phục, khắc chế nội tâm, bản thân, mới thật làm chủ, mới có thể ra đi tự tại. Khi còn sống mình cũng được tự tại, cái gì muốn thì làm không thì thôi. Thí dụ có người chọc giận, mình không giận thì thôi, khác với thế gian, chỉ cần nghe vài tiếng trái tai là có thể giận, vì chưa làm chủ được mình. Như vậy ngồi thiền đau chân khổ sở có ý nghĩa tự khắc phục mình. Nếu khắc phục được sớm thì mình là kẻ chiến thắng sớm. Khắc phục được là chiến thắng, ngược lại là chiến bại.

Mấy vị mới về đây lúc đầu ngồi hai giờ không nổi, nhưng cố gắng ngồi rồi cũng quen, qua được hai giờ ngồi tự tại hơn, ngồi hoài không tê chỉ hơi nóng thôi. Lúc đầu ngồi cay đắng lắm, từ một giờ đồng hồ đến hai giờ là khó. Con người ta đau khổ nhất là lúc gần chết, khi sắp lâm chung mọi bộ phận trong cơ thể từ từ tan rã, làm cho người ta đau đớn vô kể. Nếu mình làm chủ không được, rên rỉ, nhào lộn, khổ sở vô cùng. Bây giờ mình ngồi thiền, tập chịu đựng những đau đớn, chừng đó mình mới làm chủ được. Nên các vị Thiền sư gần chết cười thôi, không có gì quan trọng, còn người thế gian thấy khổ đau dồn dập.

Tụi con hiểu những điều nho nhỏ này, trong khi tu không ngán, không thắc mắc sao mình ngồi nhiều khổ quá, ở nơi khác chỉ ngồi mười lăm phút rồi đi kinh hành, đi rồi ngồi nữa rất khỏe, còn mình ngồi một hơi dài quá. Nên phải hiểu ý nghĩa ngồi thiền mà ở đây cố gắng thực hiện.

Về chuyện ngồi thiền bản thân Thầy kinh nghiệm qua, nếu mình ngồi mười lăm hoặc ba mươi phút xả đi kinh hành, tuy rằng đi trong chánh niệm, nhưng khi đi công phu nhẹ hơn lúc ngồi chăn kỹ. Nếu mình ngồi được một hai tiếng hết đau chân rồi, lúc đó mới thấy yên lặng thâm sâu, còn mới ngồi một chút liền đi e khó đạt cứu kính. Muốn thấy tột cứu kính, nhận cái chân thật chính mình phải có thời giờ ngồi lâu và lắng lặng được tâm niệm, chừng đó biết rất sâu. Biết được cái đó rồi thấy đời rất vui, không có gì làm phiền hà mình hết, sống tự tại giữa cõi trần. Nói qua như vậy, tụi con hiểu được ý nghĩa, ngồi thiền sẽ mạnh mẽ hơn.

***

Hôm nay Thầy hỏi tụi con hai câu:

Câu 1: Trong khi ngồi thiền tụi con dụng tâm thế nào?

– Dạ, ngồi thiền khi nào có vọng tưởng con liền biết có vọng, khi nào bị hôn trầm con ráng chấn chỉnh.

– Tại sao khi có vọng tưởng con buông, không theo nó?

– Dạ, vọng tưởng là cái không thật, do tưởng mà ra.

– Đó là đề tài Thầy sẽ nói chuyện bữa nay.

Nói đến ngồi thiền, ai cũng thắc mắc ngồi làm gì mà im lìm như vậy? trong khi ngồi sẽ làm gì ở nội tâm? Đây, Thầy nói rõ ràng cho tất cả nghe để biết cách dụng công. Lâu nay mình buông thả sáu căn: mắt, tai… chạy theo sáu trần: sắc, thanh… Bởi vì lo chạy ra, nên cái gì ở bên ngoài thì biết, còn bản thân mình lại không biết. Trái lại, người tu đạo, quay ngược trở vào để tìm biết mình.

Hiện tại khoa học tìm kiếm những thứ bên ngoài, bay lên các ngôi sao ở tít mù để biết trên đó có gì… Nhưng đặt câu hỏi lại: “mình là gì”, không ai trả lời được. Như vậy, chỉ biết bên ngoài không biết mình. Ngược lại đạo Phật chủ yếu là biết mình. Muốn biết mình phải quay lại. Thầy thường ví dụ như cây đèn pha, sáng ở phía trước thì bản thân mình không sáng, nếu rọi ngược lại tức không sáng phía trước. Ngồi thiền là một phương tiện để thu nhiếp sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý soi lại bên trong. Tuy nói rằng bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi đều tu được, nhưng khi đi đứng ít nhiều cũng phóng ra theo chỗ thấy nghe, còn khi ngồi thiền thân yên định, không bị thấy nghe chi phối, dùng hết tâm lực phản quan lại. Muốn phản quan, ban đầu tạm dùng hơi thở, hít vô thở ra rõ biết, đó là một phương tiện bắt mình xoay trở lại, lâu lâu thấy niệm khởi liền buông. Như vậy là mình soi lại nội tâm, không phóng ra ngoài.

Khi mình phản quan lại, thấy có hai vấn đề then chốt:

Vấn đề thứ nhất, khi soi lại mình sẽ thấy rằng mạng sống nương nơi hơi thở, thở ra không hít vào là chết, mà hơi thở là vô thường, không bền chắc nên sự sống của mình cũng rất mong manh. Thân này do đất, nước, gió, lửa hợp thành. Gió là cái thường trực giữ cho mạng sống còn, nếu thở ra không hít vào thì tắt thở chết. Như vậy mạng sống thật là ngắn ngủi, như sợi chỉ mành.

Vấn đề thứ hai, mình nghĩ điều lành hoặc điều dữ đều là tâm mình. Khi nghĩ điều lành cho đó là tâm mình, vậy khi nghĩ điều dữ là tâm ai? Nghĩ lành dữ, tốt xấu, phải quấy… trăm thứ, chẳng lẽ trăm thứ nghĩ đều là tâm mình? Lâu nay cứ chấp chặt cái suy nghĩ là mình, nhưng bây giờ mới thấy cái suy nghĩ thật là tạp nhạp. Lấy cái tạp nhạp làm mình, chịu không? Lại nữa cả trăm thứ tạp nhạp dấy lên, vừa nhìn lại liền mất, như bóng hiện ra, phản quan soi xét lại không có gì thật. Nó không thật mà lâu nay mình chấp là tâm mình, rồi hơn thua phải quấy, cống cao ngã mạn, đó là gốc phiền não.

Như vậy, một là chấp thân, giờ soi lại thấy thân tạm bợ thoạt còn thoạt mất; hai là chấp tâm, phản quan liền thấy tâm niệm chợt có chợt không. Cả hai đều không thật, thân không thật, tâm không thật. Vậy có gì thật không? Đó là một vấn đề rất to lớn mà thế nhân ít ai nghĩ đến.

Con người cứ bám vào thân này cho là thật nên tìm mọi thứ thỏa mãn cái thân này. Hoặc có người khá hơn, bám vào tâm, rồi cái gì mình nghĩ cũng cho là chân lý, ai nghĩ khác cho là sai. Đó là những điều cố chấp gây đau khổ cho nhau mãi mãi. Hai chấp này đều vô lý, thân tâm là giả mà mình lại cố chấp. Thí dụ như ra chợ người ta bán một rổ rau ngon, mình lại mua. Người ta nói ba ngàn, mình trả giá hai ngàn, họ chưa chịu bán, có ai lại mua ba ngàn, giận không? tại sao giận? Vì nghĩ rau ngon mình mua về ăn bổ dưỡng mà người đó giật cái ngon của mình. Chấp thân này thật nên thấy món ăn bổ dưỡng cũng thật, rồi giận hờn nhau. Đó là chấp về thân.

Nay nói chấp về tâm, chúng ta nghĩ chuyện gì đều cho là phải, ai nghĩ khác đi gọi là sai, nhưng người nghĩ khác kia cũng lại cho họ là đúng, hai cái đúng đối chọi nhau. Vậy nên ở gia đình sanh cãi lộn, ra ngoài xã hội thì tranh hơn tranh thua, vì ai cũng đúng hết. Bây giờ biết cái suy nghĩ là vọng tưởng không thật, không thật nói đúng sai làm gì! Nên Thầy thấm nhất câu trong kinh Phật dạy: Người biết tôn trọng chân lý khi nghĩ điều gì chỉ tuyên bố rằng “đây là suy nghĩ của tôi”, đừng nói “suy nghĩ của tôi là đúng”. Nếu nói tôi nghĩ đúng là không biết tôn trọng chân lý. Ở thế gian này, nếu ai cũng quan niệm: “đây là cái nghĩ của tôi, người khác có cái nghĩ của họ”, thì không có gì để đấu tranh. Trái lại nếu mình nói “suy nghĩ của tôi là đúng”, người kia cũng nói “suy nghĩ của tôi là đúng”, hai cái đúng sẽ chọi nhau.

Như vậy, tôn trọng chân lý là khi mình nghĩ, biết đó là cái nghĩ của mình, người khác nghĩ đó là cái nghĩ của họ, chớ không nói ai đúng ai sai. Thông thường ai cũng cho mình là đúng, không ai chịu mình sai. Có khi nào cãi lộn nói “tôi sai tôi cãi với chị” đâu! Hai cái đúng đụng nhau rồi cãi lộn. Vậy mới thấy, do chấp thân, chấp tâm mà thế gian đau khổ. Nếu người ta biết rõ thân này là duyên hợp hư dối, tâm là những niệm giả dối không thật, rõ hai cái đó nên không cố chấp, thì còn khổ đau không?

– Dạ, không còn khổ.

Hiểu vậy tức là mình tự giác ngộ. Lâu nay chỉ chạy ra ngoài, biết ở ngoài không biết ở trong, tưởng thân thật, tâm thật, si mê giành giật, hơn thua, chống đối. Biết phản quan, thấy thân tâm không thật là điều chủ yếu của người tu thiền. Thức tỉnh mới rõ thân tâm mình. Nhưng thấy rõ như vậy chưa phải là cứu kính, còn phải biết chinh phục nữa. Bởi vì tâm niệm tuy không thật nhưng là chủ tạo nghiệp, thân mình làm lành làm dữ cũng do ý nghĩ mà ra, miệng nói lành nói dữ cũng do ý nghĩ mà ra. Ý nghĩ tuy không hình tướng mà lại chỉ huy cả thân và miệng, tạo nghiệp lành dữ, làm nhân dẫn đi sanh tử triền miên.

Bây giờ muốn dứt sanh tử luân hồi phải làm sao? Không chạy theo nó, phải cho nó lặng đi, nên vừa dấy niệm liền buông, đến chừng không còn một niệm nào thì tự tại thảnh thơi. Khi không còn niệm thì thấy trời mây, cây cối, nghe mọi âm thanh, ngửi tất cả mùi hương, nếm tất cả vị mà không có niệm hơn thua, ngon dở, tốt xấu… Đó là lúc mình an ổn, hết tạo nghiệp, đến khi nhắm mắt được tự do, tự tại.

Trọng tâm tu chỉ đơn giản như vậy. Khi ngồi thiền vọng tưởng tốt hay xấu đều buông bỏ. Vì khởi niệm tốt, làm việc lành, được sanh cõi lành, nhưng cũng còn sanh; khởi tâm xấu, làm việc dữ, sanh vào cõi khổ cũng là sanh. Hai niệm này dừng thì cái chân thật hiện tiền, đó mới là cái bất sanh bất diệt, giải thoát sanh tử. Đây là chủ yếu của việc ngồi thiền.

– Thưa Thầy, mấy đứa con tu giống như leo núi.

– Ờ phải rồi! Núi này cao cả ngàn mét, không phải thấp. Bởi vậy chuẩn bị đôi chân cho vững, phải ném hết những thứ dính mắc cho nhẹ. Chân mạnh nhưng cũng phải buông hết, tay không leo mới nổi, còn nhiều dụng cụ tạp nhạp quá đi không nổi, leo một chút đổ mồ hôi ngồi quị xuống. Thầy thường nói, tu thật đơn giản vô cùng, tu là buông xả. Người ta cứ nghĩ tu là thêm này kia, nhưng ngược lại, tu Phật là buông bỏ.

Thầy thí dụ: Có người ăn trộm, cờ bạc, uống rượu, á phiện, đủ thứ xấu, bây giờ người xấu ác đó muốn trở thành lương thiện thì sao? Chịu khó bỏ rượu chè, cờ bạc, ăn trộm, bỏ hết những cái đó, gọi là người tốt. Bỏ hết chớ đâu có thêm gì. Không thêm gì mà trở thành người tốt. Cũng vậy, cái xấu căn bản nơi con người là tham, sân, si, thêm chi tiết nữa là mạn, nghi, ác kiến, hờn giận đủ thứ. Mình mang đầy, bây giờ chịu khó bỏ bớt. Tham, sân, si bỏ hết thì thành Thánh ngay. Lâu nay muốn làm Thánh lại không chịu bỏ phàm, đó là điều hết sức lầm lẫn. Hiểu rồi tu Phật rất dễ, chỉ là bỏ hết.

Thí dụ có người muốn leo lên ngọn núi cao, lấy cái giỏ to, bỏ đá sỏi nặng trĩu xách theo, một lát nặng quá leo không nổi. Người khác thấy vậy khuyên cái gì không cần bỏ bớt. Người này leo được một đoạn ngồi thở dốc, người kia bảo bỏ bớt nữa, chừng nào bỏ hết rồi đi mới tới nơi. Như vậy, chỉ cần bỏ thôi! Tụi con xét kỹ mới thấy mình thật là ngu si, muốn làm Thánh mà không chịu bỏ cái phàm. Phàm hết liền là Thánh đâu cần thêm gì. Nên Thầy nói tu Phật hết sức dễ, chỉ có một chữ bỏ. Giả sử trong túi mình đầy những thứ tạp nhạp, thấy thứ gì không cần thì quăng bỏ, dễ ợt! Nhưng không hiểu tại sao cứ tiếc bỏ không đành. Nếu khi leo núi mệt, có người đưa mình một giỏ nặng nhờ xách phụ, mình từ chối là phải. Còn việc buông bỏ đâu có gì trở ngại, mà vẫn không chịu buông.

Phật nói si mê là chỗ đó, cứ khư khư giữ cái làm khổ mình, vô lý không? Bây giờ hỏi tất cả tụi con, nóng giận làm khổ mình, vậy mà bảo bỏ có chịu không? Hay nói “tánh tôi nóng lắm” để tìm cách bào chữa. Thật là si mê! Tu Phật rất đơn giản không có gì huyền bí lạ lùng, đó là lẽ thật, nhưng ít ai thấy. Tất cả đã hiểu được chuyện ngồi thiền, hiểu tu Phật, Thầy không cần giảng nhiều.

***

Người ta thường nói thế gian trước vui sau khổ, người tu trước khổ sau vui. Thầy không đồng ý. Tại sao? Người tu trước khổ sau vui chỉ đúng một phần. Nếu khi tu đem hết nghị lực, nhẫn nại cố gắng tu để tiến lên, lúc đó khổ, khi tiến lên được rồi là vui, đó là hợp lý. Nhưng còn có những người tu, vô chùa ăn chay, thức khuya dậy sớm thấy khổ, nhưng họ tu lơ lơ là là thì sau có vui không?

– Dạ, không.

– Vậy đâu hẳn ai tu cũng trước khổ sau vui. Nếu tu lơ là, trước khổ sau cũng khổ. Người thế gian trước vui sau khổ, cái đó hẳn đúng chưa? Cũng chưa hẳn. Có những người sống theo dục lạc thế gian, lúc còn thanh niên trẻ trung chạy đuổi theo dục lạc, đó là vui, khi lớn lên nghèo đói, bệnh tật liên miên, chừng đó khổ. Đó là trước vui sau khổ. Nếu người thế gian lúc đầu biết sống nề nếp, đàng hoàng, rồi cũng có tâm hạn chế, trong cuộc sống không bị dục lạc lôi kéo, học hành thành tài rồi cuộc sống giàu sang vui sướng, vậy đâu có khổ. Nên nói một chiều là không được.

Bây giờ trở lại vấn đề người tu trước khổ sau vui. Đúng với ý nghĩa tu tinh tấn, luôn luôn quyết chí, nhiệt tình thì trước khổ sau vui là hợp lý. Nói người thế gian trước vui sau khổ, người tu trước khổ sau vui, hai cái vui này có đồng nghĩa nhau không?

– Dạ, không.

– Vui thế gian là vui tạm bợ, được đó rồi mất, cười đó rồi khóc, không có cái vui toàn vẹn. Còn người tu lúc chịu khổ cực cần mẫn tu hành, nhọc nhằn gọi là trước khổ. Từ cần mẫn quyết tâm đó lần lần vươn lên, qua khỏi khó khăn, tâm nhẹ nhàng thanh thoát nghe vui lâng lâng trong lòng, vui đó có khổ bên cạnh không?

– Dạ, không.

– Nếu được vui đó là vui hoài, vui thanh thoát, nhẹ nhàng, chẳng những trong thời gian mình tu tập, mà khi tiến lên đạt đến Niết-bàn, cái vui đó vô cùng vô tận. Thế gian được cái vui nằm trong giới hạn, làm được quan chức hoặc giàu sang chỉ vui trong một thời gian rồi cũng bại hoại, còn người tu là tìm cái vui vĩnh cửu. Muốn được cái vui này đâu phải dễ dàng. Thế gian tìm vui bằng công danh lợi lộc còn phải trầy da tróc vẩy, mình tìm cái vui muôn đời, nhẹ nhàng thảnh thơi mà cứ mãi đùa chơi đâu có thể được.

Bởi vậy, muốn tìm cái vui vĩnh cửu tụi con phải gan dạ, chấp nhận mọi khó khăn, vượt qua hết rồi, sau được vui thường hằng. Như vậy cái giá phải trả cho niềm vui này là phải trải qua nhiều năm tháng chua cay mới được, không phải là thường. Ở thế gian muốn được cái gì lớn cũng phải trăm cay ngàn đắng, được rồi còn sợ mất. Tụi con được niềm vui này rồi không sợ mất, không ai cướp được, không ai dùng quyền thế mà lấy được, vui đó mới thật là vui. Nếu mình tìm vui để rồi mất hoặc để người khác cướp được, cái vui đó không bảo đảm. Còn niềm vui muôn đời không ai động phạm tới, mình trọn quyền hưởng, cái vui đó mới xứng đáng, vui kia không thể sánh bằng. Như vậy, tụi con thấy tương lai của người tu là đen tối hay sáng rỡ?

– Dạ, sáng rỡ.

Tương lai sáng rỡ, vậy hãy cười đi! Hiện tại mình hơi nhọc nhưng tương lai đẹp sáng. Vậy phải nỗ lực và vui từ bây giờ, đâu đợi tới đó mới vui. Ví dụ, có người bảo tụi con đi tới địa điểm đó sẽ tặng cho hòn ngọc quí, khi lên xe hoặc trên đường đi có vui không?

– Dạ, vui.

– Đâu phải đợi đến lúc nắm hòn ngọc trên tay mới vui. Khi mình khởi sự đi, biết tới đó sẽ được hòn ngọc quí, là đã vui trong lòng rồi. Bởi vậy Thầy nói, người nào tu mà quyết tìm cho được cái đẹp đẽ cao quí thì kết quả đang sẵn chờ người đó. Mình đang đi tới chỗ tốt đẹp an ổn có gì buồn, chỉ những người không biết hướng đến điều đó mới buồn. Con đường tụi con đi là con đường thênh thang cao đẹp, vậy mà có những người đang đi trên đường đó lại khóc, lạ lùng thật! Đã chọn hướng đi quí đẹp, tại sao đi trên đó lại khóc?

Vậy nên tụi con phải luôn thanh thoát vui tươi, dầu gặp chông gai hoặc vấp té, mình cũng đứng dậy cười, đâu có gì phải thối chí. Ngày mai kia sẽ đẹp đẽ. Chỉ có ai không rõ tương lai của mình mới buồn bực, chán nản, khóc lóc. Bởi vậy tụi con thấy ai bệnh hoạn hay gặp việc bất như ý ngồi khóc, tụi con nói: “Sao khờ dại vậy, con đường sáng rỡ của mình không lo đi, buồn khóc mất thời giờ, uổng quá! thật là khờ dại!” Nhắc cho tụi con thấy con đường mình chọn rất tươi đẹp, vui vẻ mà đi, lúc nào gương mặt cũng phải hân hoan, cười hàm tiếu hoài, không được ủ rũ.

***

Có gia đình nọ gặp hoàn cảnh khổ, khổ quá sức tưởng tượng của họ, họ đến kể Thầy nghe. Thời tọa thiền khuya, còn mười lăm phút nữa xả, Thầy chợt nhớ lại vấn đề đó, phát ra mấy câu. Thầy đặt là Bài học của cuộc đời.

– Ngày nay bạn thương mến tôi. Vâng, tôi cám ơn bạn. Song ngày mai kia tôi không dám nghĩ đến.

– Thế gian dành cho chúng ta khá nhiều điều bất như ý. Chúng ta phải khéo tu để vượt qua những bất hạnh này.

 – Những thay đổi đau lòng luôn đến với ta. Khi chúng đến, ta nên cười chẳng nên khóc. Vì đó là qui luật của thế gian.

(Thiền viện Thường Chiếu 18.8 Bính Tý –  30.9.1996)

Bây giờ Thầy giải thích cho tụi con nghe.

“Ngày nay bạn thương mến tôi. Vâng, tôi cám ơn bạn”. Bấy nhiêu đó để thấy tình đời. Ngày nay là người thân, quí mến mình nhưng đừng nghĩ mai kia họ vẫn còn thương yêu, quí mến. Nếu mình nghĩ như vậy mai kia họ thay đổi, mình đau lòng chịu không nổi đòi tự tử. Cho nên phải biết: “Song ngày mai kia tôi không dám nghĩ đến.” Điều đó để dành, ngày mai sẽ trả lời. Bởi vậy, đừng bao giờ nghĩ mai kia sẽ như thế này, thế nọ, hoặc nghĩ cuộc sống rất an ổn.

Qua kinh nghiệm bản thân Thầy, hồi xưa, lúc Đ.H ở trên núi học kinh Viên Giác, nó khóc, nói: “Con chưa bao giờ được học hiểu như vầy, con mừng quá! Đời con đã mãn nguyện.” Sau này xuống Thường Chiếu, Đ.H xách gói theo thầy khác, còn muốn rủ N.Q và nhiều người đi nữa. Như vậy thì sao? Ngày trước Đ.H quí Thầy, nhưng ngày nay đã đổi thay, ai lường trước được. Kế đó đến N.T, N.T hồi trước Thầy dạy đâu làm đó, ai cũng thấy nó vâng lời và trung thành, nhưng rồi đến một ngày nó nói ngược lại Thầy. Nếu mình quan niệm sống trước sau như một thì sẽ đau lòng trước sự đổi thay. Riêng Thầy cười thôi.

Như vậy, tụi con thấy đây là bài học chua cay, nhưng bài học này ai cũng phải học thuộc lòng. Đó là ý nghĩa thứ nhất. Gần đây, nhiều người bị chua cay còn hơn Thầy nữa. Như có người trước là cột trụ của gia đình, bất thần gặp đối tượng dễ thương liền thay đổi hết, cả nhà chới với. Như vậy, làm sao tin được ngày nay thương mến mình rồi mai kia cũng vẫn thương mình. Cho nên phải dè dặt, sống trong đời đừng lầm lẫn mà đau khổ. Nếu mình không tin tuyệt đối vào người nào thì có gì đau khổ đâu. Thầy biết vậy, nên ai đối xử tốt, xấu đều cười. Đó là một bài học, giúp cho mình bớt khổ.

Câu thứ 2: “Thế gian dành cho chúng ta quá nhiều điều bất như ý”. Ở thế gian này đâu phải mọi việc đều như ý chúng ta. Cái này bất mãn, cái kia không bằng lòng. Như vậy mình phải làm sao? “Chúng ta phải khéo tu để vượt qua những bất hạnh này”. Nghĩa là chúng ta tu để chuẩn bị lúc gặp những điều trái ngang, gian khó đến, mình qua một cách dễ dàng, không nhọc nhằn khổ sở, đó là khéo tu.

Người tu là người hiểu sâu cuộc đời, nên khi gặp việc bất như ý mình sẵn sàng chấp nhận, vui vẻ chịu đựng không than trời trách đất, rên rỉ tại sao bất hạnh cứ đến với mình. Đừng cần suy nghĩ tính toán gì thêm, chỉ nhờ tu mà vượt qua mọi chướng nạn. Như vậy, khi gặp điều bất hạnh, không phải cầu xin để được qua khỏi, mà phải gan dạ, hiểu thấu đáo đạo lý để tự vượt qua. Lâu nay Thầy thấy có nhiều người gặp cảnh khốn khổ, ngày đêm cầu Phật, van xin. Phật làm sao giúp được điều này, phải không? Mình phải can đảm, biết rõ những cảnh nghịch sẽ thường đến với mình. Nó đến mình cười thôi.

Câu chót: “Những thay đổi đau lòng luôn đến với chúng ta”. Tụi con thấy những thay đổi đau lòng luôn đến với tụi con không? Bản thân mình, những người thân thiết, luôn luôn thay đổi. Nói gần nhất là sự thay đổi bản thân, mới hồi nào trẻ bây giờ sắp già rồi, lại hay đau yếu, những thay đổi mình không muốn luôn luôn tới. Mình đâu muốn người thân chết nhưng rồi họ cũng bệnh, chết. Mà đâu phải chỉ một người, cha mẹ, anh em, Thầy Tổ, ai rồi cũng phải tới chỗ đó.

Khi nó tới mình phải sao? “Khi chúng đến, ta nên cười, chẳng nên khóc”. Tại sao không khóc? “Vì đó là qui luật của thế gian”. Nó vô thường như vậy, khóc làm gì. Hiểu vậy, mai kia tụi con mới bớt khổ. Nếu không nghĩ vậy thì khổ về Thầy Tổ, cha mẹ, anh em hoài. Chuyện đó có ai tránh khỏi không? Không tránh khỏi, khi gặp mình cười thôi.

Cuộc đời là như vậy. Người học đạo biết rõ thế gian như thế, nên hoàn cảnh trái nghịch nào đến cũng có đủ khả năng chịu đựng. Người sống tưởng tượng cuộc đời này tươi đẹp, vui sướng, tới lúc va chạm thực tế chới với, đau khổ. Nên người tu phải sáng suốt, thấy tường tận cuộc đời, mình sẽ vui trong cuộc sống. Người thân quay lưng đi hết, còn một mình ta cô đơn thầm lặng cũng tốt, mình sẵn sàng chấp nhận mà. Nếu thấy người này người kia đi, mình ở lại, buồn khổ muốn chết theo, đâu ích lợi gì!

Cuộc đời với bao bất hạnh đang chực sẵn ở phía trước, nhìn kỹ tụi con sẽ thấy nhan nhản trước mắt, nhiều chớ không phải ít. Mình không muốn bệnh mà cứ bệnh, nếu bệnh không nguy hiểm còn đỡ, bệnh nguy hiểm liền lo sợ hoảng hốt. Làm sao khi bệnh tụi con vẫn thản nhiên, đó là tụi con tu thành công. Còn bệnh khóc sướt mướt là tu chưa có kết quả. Tụi con được như vậy sẽ có một cuộc sống rất tự tại.

Chúng ta nên biết rõ cuộc đời, đừng tưởng tượng mai kia hạnh phúc, mốt nọ sung sướng. Đến khi gặp điều bất hạnh, chừng đó mới vỡ lẽ ra rồi thối chí nản lòng. Khi tu không nên đòi mọi việc đều như ý, nghĩ rằng mình tu muốn gì được nấy, đó là tu tham chớ không phải tu thật. Muốn gì cũng được toại nguyện thì lấy gì mà tu?

Thầy ngẫm lại thấy đức Phật thật quá hay. Phật có đủ thần thông biến hóa mà nhiều khi Ngài mang bát đi bộ bao nhiêu cây số, không thèm vận dụng thần thông. Ngài có thể nhập định mọi bệnh đều tan, mà rồi cũng đau lưng bảo ngài A-nan đấm lưng giùm, khi gần tịch lại bị kiết lỵ.

Thành ra, Phật hiện thân như tất cả chúng ta. Ngài cũng chấp nhận sanh, già, bệnh, chết, nhưng có cái khác là Phật giác còn mình mê. Mình gần chết rất đau khổ, còn Phật sắp tắt thở nếu có người hỏi pháp Ngài cũng nói, độ sanh đến hơi thở cuối cùng. Chúng ta cứ lo lắng sợ chết hoài, quên cả đạo lý, đó là cái dở.

***

Thầy đâu có cấm tụi con cười, nhưng cười hàm tiếu thôi, đừng cười ha hả mất tư cách. Có người nói chuyện tếu làm cho người ta cười, nhưng nhiều khi chính họ cũng khổ nhờ mình cứu. Bởi vậy cười vừa chừng thôi, điều hòa cuộc sống, không quá vui hay quá buồn. Tụi con không phải là những người làm hề cho thiên hạ, mà là người chỉ dẫn đạo lý. Một lời, một câu nói của mình giá trị thua kém Phật chừng năm mươi phần trăm thôi. Nếu mình nói cười không có chừng mực, người ta sẽ mất tín tâm. Thầy muốn tụi con mai kia xuất thế ai cũng làm được việc đạo, Thầy không muốn tụi con sau này chỉ làm hề cho thiên hạ. Vui cười có khi cũng lại khóc, còn thấy được chân lý mới là cứu kính.

Phật không dạy mình cười nhiều. Phật dạy, giờ rảnh vào trong rừng ngồi thiền, nếu hội họp thì bàn đạo lý chớ không nói tào lao. Phải chi Phật dạy tụi con vui cười mà Thầy ngăn lại là trái với Phật. Ham vui chỉ mất thời giờ, còn làm cho tâm loạn. Khi nào tụi con vui cười nhiều, vô ngồi thiền tâm khó sáng suốt tỉnh táo. Vậy nên phải khéo sống trong đạo lý, gặp cảnh thuận nghịch gì mình vẫn là mình. Đừng gặp cảnh thuận liền mừng, vui theo điều thuận, khi nghịch tới khổ đau theo cái nghịch. Trước cảnh nào cũng bình thản, cười nhẹ nhàng, cười mỉm chi là tốt.

***

Trong quyển Bước Đầu Học Phật, tụi con đọc thấy Thầy có nêu ra những vấn đề đi cúng, nhưng chưa đề cập đến Nhị thời khóa tụng. Vấn đề này Thầy đã viết đăng trong tập Kỷ yếu năm 1986. Bây giờ đến lúc phải nói rõ. Bởi vì, mình không biết thì thôi, ai sao mình vậy, mình biết rồi, thấy cái đó sai mà không nói là có tội. Cho nên Thầy phải nói, thiên hạ có phản đối mình cũng cười thôi. Đây là lẽ thật, không trái đạo lý đâu mà sợ. Thầy nói vì muốn tăng giá trị Tăng Ni, đúng ý nghĩa của người xuất gia. Thầy không muốn Tăng Ni bị coi như đang làm một cái nghề không tốt, mượn cửa Phật để sanh nhai.

Tại sao Thầy lấy đời Trần làm tiêu chuẩn? Thật ra trong nước mình không có ông vua nào đi tu, chỉ có vua Trần Nhân Tông là gan dạ dám bỏ ngai vàng đi tu. Ông vua mà đi tu, tức nhiên sự tu là cao siêu vượt thoát chớ không phải việc tầm thường dưới đất, phải không? Nếu ở dưới đất thì những danh dự thế gian Ngài có hết rồi. Điều đó càng nâng giá trị của người tu lên. Đi tu không phải là đi tìm kế sanh nhai, chính vì sự giải thoát cao siêu. Như vậy là Thầy nâng giá trị của Tăng Ni, đâu có làm tổn thương ai. Thầy không hề chỉ trích cá nhân, chỉ nói chung chung.

Nhị thời khóa tụng bắt nguồn từ nhà Thanh bên Tàu. Ngày xưa ở Trung Hoa, nhà Thanh cai trị, Quốc sư Ngọc Lâm vâng mệnh Vua soạn ra hai thời khóa này và bắt Tăng Ni tụng. Vì thời quân chủ chuyên chế lệnh nhà vua ra không ai dám cãi, còn ở Việt Nam mình đâu bị ai bắt buộc mà cũng làm theo, thật là dở. Như vậy để thấy rằng, việc làm chúng ta sai lầm qua một thời gian quá dài nay sửa lại. Cái sửa này người ta nói mới nhưng thật ra rất cũ. Sửa lại theo khuôn mẫu Phật có cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm, còn cái kia mới có khoảng trăm năm. Như vậy cái kia là mới, còn chỗ Thầy muốn sửa lại chính là trở về cội gốc.

Tụi con nên tập có cái nhìn thấu đáo. Làm gì phải biết việc làm của mình phát nguồn từ đâu, nắm vững rồi phăng tìm manh mối rõ ràng. Đừng nhắm mắt làm theo, phải tìm cho tận nguồn gốc những gì đức Phật đã từng chỉ dạy, biết rõ việc Ngài đã làm. Mình tu Phật, phải hướng theo điều Phật làm, Phật dạy, chớ hướng theo cái khác.

Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ 3 đã có chùa, có Tăng, có kinh sách, cho tới thế kỷ 19 có ai tu theo hai thời khóa tụng đâu. Như vậy mà chư Tổ ngộ đạo rất nhiều. Từ cuối thế kỷ 19 tới bây giờ tu hai thời khóa tụng, thật khó kiếm một người ngộ đạo. Ngày xưa mới xuất gia, Thầy cũng phải theo luật đó, vô chùa trước phải học thuộc hai thời khóa tụng. Tối tụng Tịnh độ, khuya Lăng Nghiêm. Khi học xong, Thầy đi dạy ở chùa Phước Hòa, Trà Vinh, nghiên cứu kỹ mới thấy tu như vậy không phải. Thấy vậy mà không biết tu đường nào, không có ai chỉ cho mình một lối đi.

Lúc đó Thầy có làm bài thơ “Kẻ Mù”, giờ Thầy quên mất lời chỉ nhớ ý. Thầy diễn tả mình như một kẻ mù bị nhốt trong bốn vách tường bít kín, không biết đi đâu, lẩn quẩn trong đó ra không được, rất là đau khổ. Mình thấy đó là sai nhưng làm sao sửa? bây giờ hỏi ai? Các vị Tôn túc của mình dạy đâu có gì khác hơn. Bởi vậy Thầy rất buồn. Đến khi ở Phương Bối Am dưỡng bệnh, có thời gian rảnh rỗi nghiên cứu thiền, Thầy ứng dụng tu, thấy có đường lối rõ ràng, nhìn lại Phật không xấu hổ, vì mình làm đúng như Phật dạy. Lâu nay Phật dạy một đường mình làm một ngả.

Bây giờ tụi con đi đám có chư Tăng Ni tụng vang rân, người ta thấy là lễ lớn. Phật nói tiếng động là mũi nhọn, khi ngồi thiền có một tiếng động mạnh tụi con nghe nhói liền. Tiếng động trở ngại cho tâm yên tĩnh, khi tới mấy chỗ ồn ào đó làm sao tâm mình an định được. Tâm không an định làm sao tiến tu? Không lẽ chỉ lo tập cho giọng tốt, tiếng hay để hấp dẫn Phật tử. Vậy thì cuộc đời tu ra cái gì?

Nếu ngay lúc này Thầy biết mà không nói, mai kia làm sao? Sau này chắc không ai để ý và nghiên cứu hai thời khóa tụng phát xuất từ đâu, cứ vô chùa là tụng và cúng, thầy làm sao trò làm vậy. Thầy nghĩ rằng thời gian không lâu nữa Thầy đi, bây giờ còn sống Thầy nói rõ cho mọi người biết. Thiên hạ có rầy thì rầy Thầy, đến thời tụi con mọi người sẽ thông cảm hơn. Bây giờ nếu Thầy không nói, sau tụi con nói, thiên hạ rầy, tụi con đâu dám mở miệng. Vậy nên Thầy phải nói trước cho mọi người nghe quen, sau tụi con phụ họa theo không sợ. Đó là lý do Thầy phải nói rõ.

***

Người ta không chịu ngộ chớ không phải không thể ngộ. Phật dạy: “Mạng sống trong hơi thở.” Tụi con luôn nhớ “mạng sống trong hơi thở”, ai khen cũng mặc, ai chê chẳng màng, thời giờ đâu mà cãi lẫy. Thấy như vậy là giác. Khi tụi con hằng nhớ, biết mạng sống trong hơi thở, đó là cái thấy đúng lẽ thật. Thấy đúng lẽ thật là trí tuệ, trí tuệ phá ngu si. Thấy mạng sống mỏng manh trong hơi thở nên không tham, đó là phá được tham. Sống trong hơi thở, thiên hạ chửi mình chỉ cười không bực bội, đó là phá được sân. Chỉ cần thấy như vậy, tụi con phá được cái gốc tam độc, thật là đơn giản.

Hít vô thở ra thấy được như vậy là tụi con đã giác, còn gì nữa mà không chịu ngộ. Luôn luôn nhớ, thấy như vậy thì còn gì nữa để tìm! Biết cái chết chực một bên, thở ra không hít vô là mạng chung, có còn phiền não ngu si nữa không? Trí tuệ phá si mê, phá tham, sân. Tụi con nhớ như vậy là phiền não tan hoang, đó là tu giải thoát.

***

Tụi con ngồi đây thấy hoa đẹp, đó là hoa cột con mắt, hay con mắt trói hoa? Thấy hoa đẹp đi không được là bị cột, phải tìm cho ra manh mối cái gì cột mình.

Hoa là hoa, không cột ai. Mắt thấy là thấy, cũng không trói hoa. Cột là tại thích cái đẹp. Cũng như chỗ người ta đang xào nấu, mùi thức ăn có cột vào mũi mình không? Hai cái đâu có cột với nhau, tại mình thích ăn ngon, mình ưa muốn nên bị cột, đi không đành. Như vậy sự trói buộc đó không phải do ngoại cảnh hay các căn, chỉ tại tham, sân, si. Giả sử, khi người ta nói nặng, nghe qua mình đâu có cột. Cột là do phân biệt “nói như vậy là nặng”, rồi nổi sân lên chửi lại, rốt cuộc thân tâm đều bị cột. Tụi con hết tham, sân, si thì không bị cột, nếu còn sẽ bị trói buộc hoài. Cho nên tu phải dẹp tham, sân, si mới giải thoát được.

Trong ba món tham sân si, sân là cái dễ dẹp nhất, tụi con dẹp được chưa? Sanh lên cõi trời là hết sân vì không có gì trái ý. Sân dễ trị nhất, vậy mà tu bao nhiêu năm nay vẫn chưa hết sân, buồn không? Người ta làm trái ý, kêu tên mình chửi, mình vẫn cười thản nhiên. Cười mỉm chi đừng cười gằn, cười gằn là cười quạu. Nếu họ chửi thêm cũng cười. Không phải mình chọc tức người ta, tại mình thấy nó không quan trọng, không dính gì với mình.

Có hai trường hợp: Một là mình có lỗi nên người ta phiền, nếu mình biết rõ mà vẫn thản nhiên thì không bao giờ sửa lỗi được. Hai là mình có lỗi nhưng không biết, họ có phiền đành chịu. Nếu người kia buồn mà dám nói cho mình hay thì phải sửa, còn biết làm như vậy người ta buồn phiền mà vẫn thản nhiên là không tốt.

Phiền não nhiều khi làm mình thay hình đổi dạng, khi vui khi buồn. Chừng nào còn tham sân si là còn đổi mặt đổi mày, hết mấy chú đó mới khỏe. Thường nhớ lại, biết nó không tốt liền dừng, chỉ tại không nhớ thôi. Khi nổi sân ít nhớ lắm. Lỡ nổi sân la rồi biết mình có lỗi liền hối cải; còn tìm lý lẽ để che hoặc bào chữa, sợ mất mặt là chưa được. Gặp người nhỏ chưa biết tu có lỗi thì mình dạy nó, nếu mình la tức là mình sân, mắc phải lỗi người tu mà còn sân. Giả sử như mấy cô, mấy thầy ở đây làm lỗi, Thầy biết, kêu lại rầy, đó là vì sống không đúng với tinh thần đạo lý nên rầy. Còn nếu quát la giữa mọi người là Thầy có lỗi, tu mà còn nóng quá.

***

Có Phật tử tới hỏi Thầy:

– Thưa Thầy, Thầy nói tu là chuyển nghiệp, có thật chuyển được không?

Thầy trả lời:

– Tu nhất định là chuyển được nghiệp. Lâu nay mình lầm lẫn cho rằng chuyển nghiệp nghĩa là mình làm tội ác, rồi sau đó tu, tội sẽ hết. Ngày xưa mình đánh chửi người ta, bây giờ mình tu không cho người ta đánh chửi mình, như vậy có công bằng không? có đúng nhân quả không? Nếu chuyển như vậy thì thật là sai.

Bây giờ chuyển như thế nào? Ví dụ hồi xưa mình ở địa vị cao có quyền thế, hiếp đáp những người thấp hơn, hoặc có khi nói nặng, mắng chửi nên họ căm hờn. Thời gian sau mình hết quyền thế, còn người mà mình khinh bỉ hiếp đáp lại có quyền cao hơn, có cơ hội họ trả thù. Nhưng do lúc đó mình hiểu đạo, thức tỉnh tu hành, biết tất cả ngôn ngữ hành động đều hư dối không thật, không có gì quan trọng. Ngày xưa mình mắng chửi, nhục mạ người ta đau khổ, căm hờn bao nhiêu năm, bây giờ họ trả lại y như vậy, có khi hơn nữa, nhưng mình biết là giả dối không thật nên chỉ cười.

Nợ trước là phải trả, nhưng hồi mình gây tạo làm họ khổ trăm phần, bây giờ trả lại, nhờ biết tu mình khổ có một phần. Như vậy là chuyển mà vẫn trả. Nếu mình không trả thì không có nhân quả, trái với giáo lý nhà Phật. Còn nếu mình trả y nguyên thì tu làm chi! Hồi xưa mình làm người ta khổ, bây giờ mình cũng khổ y như vậy thì tu có ích gì. Trước mình làm việc ác đó, mình và họ đều mê, cho nên họ khổ bao nhiêu mình thích thú bấy nhiêu. Bây giờ họ trả lại mình, họ cũng thích thú nhưng mình không khổ vì họ. Đó là tu chuyển nghiệp ngay trong hiện đời.

Lại có một người khách khác tới chùa, ông thầy Tri khách tiếp chuyện. Họ khen Thiền viện Trúc Lâm đẹp, ông Tri khách liền nói:

– Quí vị thấy chùa Trúc Lâm đẹp, đó là cái xác của Trúc Lâm, chưa phải hồn của Trúc Lâm.

Ông Tri khách nói như vậy mà không giải thích, thành ra ông khách ôm lòng thắc mắc, chưa biết cái gì là hồn của Trúc Lâm. Bất thần ông hỏi một thầy khác:

– Thưa thầy, cái gì là hồn của Trúc Lâm?

Ông thầy kia đáp thật thà:

– Thầy Viện trưởng là hồn Trúc Lâm.

Ông khách không bằng lòng, tìm đến Thầy hỏi. Tụi con thấy khó cho Thầy chưa? Nếu Thầy nói người trả lời sai, tức phủ nhận người gần Thầy chưa thấu đáo. Nếu nói trúng thì chưa hài lòng Thầy. Nên Thầy trả lời:

– Thầy đó nói rất hợp lý, bởi người thế gian thường quan niệm chủ nhà là linh hồn tạo nên sự nghiệp. Thầy đó tưởng Phật tử là người mới đến với đạo, hiểu theo nghĩa thông thường, nên mới chỉ thầy Viện trưởng là linh hồn Trúc Lâm. Đúng ra, phương pháp tu là linh hồn.

Ông khách nói:

– Thưa thầy, nói như vậy con cũng chưa bằng lòng, vì linh hồn là cái không có tướng, không sanh diệt, nếu hồn Trúc lâm là tướng sanh diệt, con không thể chấp nhận.

Thầy trả lời tiếp:

– Đó cũng là nói theo lẽ thường. Thầy sẽ nói hồn Trúc Lâm phát xuất từ đức Phật Thích-ca. Đức Phật xuất gia và tìm ra chân lý, Ngài giác ngộ và đi truyền bá, đó là cái hồn. Không phải chỉ nơi đức Phật, mà chư Tổ cho đến Tổ Trúc Lâm Yên Tử, bây giờ tới Thầy cũng đem hồn đó truyền cho mọi người. Cái đó không phải chỉ có nơi con người, mà bàng bạc khắp cả muôn loài, mọi nơi. Nghe gió thổi thông reo cũng là hồn Trúc Lâm, thấy mây bay cũng là hồn Trúc Lâm, tất cả đều là hồn Trúc Lâm.

Thầy nói vậy ông khách mới chịu. Vậy tụi con biết hồn Trúc Lâm chưa? Để mai kia người ta hỏi trả lời cho đúng, bằng không gặp người hiểu đạo chút chút, họ bẻ lại. Bởi vậy, tụi con tu có tư cách một tu sĩ thanh tịnh, tu hành nghiêm mật đàng hoàng, đó là phương pháp tu Trúc Lâm chớ không phải hồn Trúc Lâm. Mai kia tụi con nhận ra nơi mình có cái bất sanh bất diệt, chẳng những riêng mình mà tất cả đều có, đó là tụi con biết được hồn Trúc Lâm. Hồn Trúc Lâm vĩnh viễn không bị vô thường chi phối.

Phật pháp không khó hành. Sở dĩ thấy khó vì tất cả chúng sanh chạy theo hình thức thế gian quen rồi, bây giờ nói điều cao siêu vượt ngoài thế tình thì hơi hoảng. Thí dụ Thầy nói nhà kiểu này kiểu kia có hình ảnh dễ thấy, còn nói hồn Trúc Lâm không biết lấy đâu mà dò tìm. Khó ở chỗ không có hình thức, ngôn từ để bám víu, nhưng tu rồi sẽ thấy dễ. Đây chính là mục tiêu đời tu.

***

Chúng sanh mê lầm, khi nghe thì biết, qua rồi lại quên nên phải nhắc hoài. Các vị Thiền sư nói đi nói lại đâu có nhiều, đúng như câu của ngài Lâm Tế: “Phật pháp Hoàng Bá không nhiều.” Không nhiều mà học hoài chẳng hết.

Tụi con nghĩ mình có phước hay là vô phước?

– Dạ, đại phước.

– Đại phước cũng là đại bị rầy phải không? Tu không bị rầy thì không tiến. Phải luôn được rầy, được nhắc mới tiến. Tụi con thường nghĩ mình hay, đâu ngờ cũng có nhiều cái dở, lâu lâu hé mòi dở bị khẻ, khẻ cho cái dở mòn đi. Thật ra, tu không có người nhắc nhở lâu tiến lắm.

Hôm trước Thầy nghe kể, M.C ở V.C ra ngoài núi nhập thất rồi sau lên ở trên chú T.L, lâu ngày nhớ V.C đi về thăm. Mấy cô thương, kẻ cho này người cho kia xách đem về. Trước kia M.C có nguyện tu hạnh nhẫn nhục, nguyện vậy nhưng không ai đụng chạm gì hết. Kỳ này nó đem một mớ đồ đạc lỉnh kỉnh về, kể cho mấy vị ở trên đó nghe, em T.L mắng cho một hơi, nói chỉ có bao nhiêu đó mà kể lể này kia. Mắng một hồi M.C nổi sân lên. Như vậy có nhẫn nhục không?

Nếu người ta thử mà cho mình biết, chắc không nổi sân đâu, vì không biết nên nổi sân. Bởi vậy, khi người ta thử mình, mình biết thì tu không hay, người ta thử mình không biết mà qua được mới hay, mới là thứ thật. Lâu lâu có những trường hợp bất trắc một chút, hoặc có những sự thể không bình thường, mình vẫn bình an tự tại, đó là thứ thật. Nếu gặp sự thể bất thường rồi mình bất bình thường luôn, tức không phải thứ thật. Tụi con thì sao? Nếu họ bất bình một, mình sẽ bất bình hai để trả lại cho xứng, phải vậy không? Như vậy cả hai bên đều bất bình thường cả. Nên tu rất dễ cũng rất khó. Nhưng thật tình không có gì khó. Nếu bây giờ người ta khen tụi con đẹp, tụi con thấy đó là thây thúi thì lời khen đâu có giá trị gì. Nếu người ta chê thây thúi, cũng đâu có giá trị gì. Tại sao nghe người ta chê mình giận?

Bao nhiêu người thế gian cứ lo ăn lo mặc, đáo để cũng chỉ là một thây thúi mà thôi. Đó là cái mê chấp muôn đời của con người, có thân rồi cứ lo gìn giữ. Khi ngồi lại, thấy rõ từng lóng xương, gân cốt, vậy mà cho là quí. Tại sao quí? Tại vì mê. Người nào càng quí thân mình, người đó mê càng nặng, từ quí thân sanh ra bao nhiêu thứ chấp trước. Nếu mình thấy thân mình không ra gì thì đâu có tham trước. Đó là tu.

Người ta nói tu phải vận dụng công phu nhiều. Theo quan niệm Thầy không phải vậy. Phải nhìn cho thấu đáo, thấy lẽ thật, tu ít mà đạt kết quả nhiều; còn vận dụng công phu nhiều mà không thấy lẽ thật cũng không có ích, tu nhiều càng chấp thêm. Ví dụ người ta ngồi thiền hai giờ, mình ngồi bốn giờ, có ai chọc liền nói: “Tôi tu hơn mà còn khi dễ hả?” Vì nghĩ mình hơn mà bị khi dễ nên nổi tức. Nếu mình có trí thì ai nói hay nói dở gì cũng là trò huyễn hóa thôi, không nghĩa lý gì.

Thầy đi nhiều nơi rồi thấy tức cười, có nơi đối với mình rất tốt, đi có lọng che thật long trọng, mấy lúc đó Thầy mắc cỡ chỉ nhìn xuống. Còn đi không có lọng mình thong dong nhìn trời nhìn mây. Thành ra, người ta càng quí chừng nào mình càng xấu hổ chừng ấy. Vậy chớ cũng có nhiều người hãnh diện lắm, được người ta công kênh, quí trọng tưởng như hay. Nên tụi con nhớ, trên đường tu không phải được người ta khen là mình đã hay thật đâu. Hay dở chỉ mình biết, nên có ai khen không vui, chê không buồn. Nếu không biết sẽ bị lệ thuộc điều khen chê của thiên hạ, buồn vui hoài. Người này vừa ý thì khen, ngươi kia không thích lại chê.

Bởi vậy, trong cuộc sống đâu phải lúc nào mọi chuyện cũng như ý. Như ở đây năm mươi người, có được bao nhiêu người thật tình mến mình? Nói thật tình mến chớ không phải xã giao, chừng bao nhiêu người? Năm mươi người kiếm chừng mười người không ra. Vì không mến thật tình nên cái gì mình làm không vừa ý họ dễ bực, dễ chê. Cũng vậy, sống chung năm mươi người, tụi con thật tình mến được chừng bao nhiêu người? được một hai người không? Bởi vậy con người không thật tâm thương mến nhau, chẳng qua là gượng thôi, gượng mà thương, gượng mà hòa. Có khi muốn cho ai đó vui, nói ngọt ngào một chút cho được lòng người ta.

Tốt nhất là xử sự bình đẳng, vì ở đây ai cũng cùng một lý tưởng, cùng một ý chí. Tìm một người giống mình hoàn toàn để thương e không có. Thương như vậy thì lựa chọn quá, mà lựa chọn nhiều sẽ có thương nhiều, ghét nhiều. Nên làm sao sống quân bình, không thương nhiều, không ghét nhiều, tự tại, hòa vui. Huynh nào cũng là người tốt, nhưng còn đang tu tập nên có nhiều tập khí, thành ra có những lúc dở. Chính mình đôi khi tốt, có khi cũng dở, không ai tránh khỏi những điều sai lầm. Biết vậy ta sẽ thông cảm, thương yêu hòa thuận nhau, cùng lo tu tập.

Thật ra, tụi con chỉ lo chuyện tu, còn việc phải quấy… bên ngoài nên gác ngoài tai. Thấy như là ích kỷ mà có ích kỷ không? Mình lo việc mình cho xong, chừng đó muốn nghe thì nghe, như Bồ-tát Quán Thế Âm, nghe người ta than khổ Ngài đến cứu. Còn bây giờ, tu chưa ra gì, nghe than cũng không cứu được, chỉ tăng thêm phiền não. Mặc ai làm gì làm, mình ráng lo tròn bổn phận, coi như mình tiêu cực, nhưng đó là cái khéo của người tu. Lúc mình chưa có khả năng cứu được ai, nghe nhiều sanh bực bội, không lợi người lại trở ngại cho mình. Thầy cho tụi con nghe khi nào tụi con cứu được người. Tất cả chúng sanh khổ, tụi con nghe tới cứu độ họ. Còn bây giờ chưa đủ khả năng, coi như điếc là tốt.

Như vậy, cùng một việc mà chặng này phải, chặng khác không phải. Các vị Bồ-tát nếu không nghe tiếng than khổ của chúng sanh, làm sao khởi tâm từ cứu độ, cho nên phải nghe. Tụi con thấy Thầy hiện nay nên nghe hay không nên nghe?

– Dạ, nên nghe.

– Nghe để rầy phải không? Nghe để rầy chớ chưa phải cứu độ. Biết đâu rầy là cứu độ!

***

Tụi con ở đây, y báo này là của những ai đang có mặt. Tất cả chúng sanh cộng nghiệp nên có mặt trong cõi Ta-bà này. Có nhiều chuyện tụi con chưa bằng lòng nhưng thật ra cái nào cũng hay. Nếu tụi con biết tu, mọi cách xử sự xung quanh mình, bị rầy nhắc, bị chê rất tốt giúp cho mình nhớ để tu, như vậy cái gì cũng tốt. Còn không hiểu đạo, ai nhắc nhở, chê bai liền buồn, buồn rồi tức trong bụng, ngay đó bị trở ngại rồi. Nên nói, mình được rầy, được chê, được trách, chớ không phải là bị. Chỉ ai ngăn trở sự tu hành của mình mới buồn, còn ai khuyến khích mình tu phải mang ơn. Ví như mình bỏ tụng kinh, bị rầy, là tốt hay xấu?

– Dạ, tốt.

– Vậy thì đừng nên buồn. Nếu thả cho tụi con tự do thì trong người hơi nhọc nhọc một chút liền bỏ ngồi thiền, bỏ tụng kinh, nên phải rầy, nghe như là khó, thật ra đó là duyên tốt để tụi con tiến. Nếu ai nuôi tụi con, thả cho làm gì thì làm là tốt hay xấu? Bởi vậy chỗ này nghiêm nhặt, vì Thầy muốn tụi con không mất thời giờ trong lúc tuổi còn trẻ. Vì còn trẻ đủ ý chí, sức khoẻ, nghị lực, phải cố gắng tu, tới chừng già khọm có muốn làm cũng không được, uổng cuộc đời!

Thời gian này tụi con đủ khả năng để vươn lên, nên Thầy phải khó, phải kềm chế cho tụi con yên ổn tiến tu. Có khi nào mình tụng kinh ngồi thiền đều đặn nghiêm chỉnh mà bị rầy đâu. Giờ người ta ngồi thiền mình không ngồi, bị rầy là phải. Hiểu vậy trên đường tu không bị phiền não. Đừng nên nói: “Ở dưới kia tôi ngồi thiền cũng được, không ngồi thiền cũng không ai rầy, ở đây bị rầy hoài.” Lên đây, bỏ ngồi thiền bị rầy là cơ hội tốt để mình tiến, phải mang ơn. Rầy nhiều giúp mình tốt nhiều. Tụi con lâu lâu kiểm lại thấy mình còn một hai tật, phải không?

– Dạ, phải.

– Có những tật hơi nhẹ, có những tật nặng. Nhẹ thì rầy sơ sơ, nặng rầy mạnh một chút, nhờ vậy tật xấu lần lần giảm. Nếu để thong thả tự do quá sẽ buông lung. Chừng nào “thõng tay vào chợ” chừng đó cho tự do, chưa tới đó chưa được tự do. Hiểu như vậy, tụi con ráng tu. Thôi Thầy đi về.