KINH ĐẠI BỬU TÍCH
Hán dịch: Nhà Đường, Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Thích Trí Tịnh

 

Phần II
 
PHÁP HỘI VÔ BIÊN TRANG NGHIÊM THỨ HAI

(Hán bộ từ quyển thứ tư đến quyển thứ bảy)

PHẨM XUẤT LY ĐÀ LA NI THỨ HAI

(Hán bộ từ đầu quyển thứ sáu đến giữa quyển thứ sáu)

Lúc bấy giờ, Vô Biên Trang Nghiêm bạch rằng : ‘‘Thếù Tôn ! Thế nào gọi là pháp môn xuất ly đà la ni ?’’.

Phật nói : ‘‘ Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là pháp ấn xuất ly tất cả văn tự. Tất cả pháp đều nhiếp vào trong đây.

Thế nào gọi là nhiếp vào ?

Vì là bình đẳng. Tất cả đều vào nơi bình đẳng, cũng chẳng thấy pháp nào vào nơi bình đẳng, chẳng thể rõ biết, vì là bất khả đắc.

Nơi tự tánh như thật của tất cả pháp, lúc chẳng phân biệt, thời tất cả pháp đều nhiếâp vào trong đó, vì rời hữu tác và vô tác.

Do các văn tự và ngữ nghiệp nên diễn thuyết các pháp. Hai thứ trên đây vì chẳng như thật, vì tánh bình đẳêng nên tất cả văn tự và ngữ nghiệp thảy đều bình đẳng.

Ở trong các pháp, bao nhiêu ngôn thuyết đều chẳng phải như thật. Đây là cú nghĩa như thật của các pháp : bao nhiêu văn từ và ngữ nghiệp đều là không có. Vì không có, nên không có chơn thật khai thị diễn thuyết.

Văn tự và ngữ nghiệp không chơn thật đã nói đó, chính là câu vô sai biệt của các pháp, câu vô tăng thắng, câu vô kiến lập của các pháp.

Nơi pháp thậm thâm này, không thể tuyên thuyết. Tất cả pháp đều chẳng phải chơn thật, chẳng phải không chơn thật. Vì bổn tánh của tất cả pháp, chẳng phải dùng văn tự ngữ nghiệp tuyên thuyết mà có thể thấy, có thể được.

Tất cả pháp đều không bổn tánh. Các pháp như vậy, chẳng phải tạo tác, chẳng phải không tạo tác, chẳng phải đồng, chẳng phải không đồng, chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải không tịch tịnh. Dầu vậy, nhưng các pháp cũng trụ nơi tịch tịnh và không tịch tịnh. Trong đây nói là trụ, cũng vẫn không chỗ trụ, cũng chẳng biến dị. Lại cũng chẳng trụ nơi pháp chẳng biến dị.

Vì sao vậy ? Vì pháp vốn vô trụ chẳng vào nơi toán số. Chẳng phải do toán số kiến lập ngôn giáo mà có thể làm cho các pháp vào nơi toán số.

Tất cả văn tự ngữ nghiệp diễn thuyết đều bất khả đắc, chẳng trụ nơi chỗ nào và tất cả chỗ nào. Văn tự và ngữ nghiệp như vậy, không từ đâu lại, đi không chỗ đến, chẳng trụ ở giữa, chẳng trụ một bên. Vì tất cả văn tự và ngữ nghiệp là nghiệp mà chẳng phải nghiệp, vì chẳng phải công dụng. Vì nơi tất cả văn tự ngữ nghiệp, tự tánh là không, nên văn tự ngữ nghiệp cũng đều là không. Tự tánh đã không, nên tha tánh cùng tự tha tánh cũng đều không. Vì tự tha không nên nó tịch tịnh. Vì tịch tịnh nên nó tịch diệt. Nếu là tịch diệt, thời tất cả pháp chính là môn tịch diệt. Do đây nên được nói danh từ các pháp, hoặc nói văn tự, hoặc nói ngữ nghiệp. Tất cả môn đó cũng bất khả đắc, vì môn thanh tịnh, vì vô sở hữu.

Do các môn đó mà diễn thuyết các pháp, mà trong môn nầy rốt ráo thanh tịnh, có thể bình đẳng vào tất cả pháp. Đây là yểm ly.

Thế nào là yểm ly ? Chính là tham bổn tánh. Tham bổn tánh thì là thanh tịnh. Đã thanh tịnh thời là cứu cánh. Đã cứu cánh thời đâu được có tham, đâu được có ngôn thuyết !

Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Trên đây là lược nói môn thanh tịnh đà la ni, là pháp môn vô phân biệt, không hí luận.

Vào môn nầy rồi, có thể phá chướng nặng vô minh hắc ám, có thể tùy thuận giác minh. Nơi tất cả pháp, được vào môn quang minh thanh tịnh pháp nhãn đà la ni. Và có thể chứng được pháp môn văn tự sai biệt diễn thuyết. Do môn nầy bèn được vào nhứt thiết chủng trí và được gần chư Phật. Ở trong các pháp, là bực dũng kiện có thể phá dẹp ngoại đạo, hàng phục quân ma, có thể làm cho chúng sanh thêm lớn căn lành vào nơi pháp tạng bí mật của Như Lai, liền được các pháp môn, đà la ni môn. Do pháp môn nầy, ở trong mười trí lực, được pháp quang lớn, mau thành tựu trí lực của Như Lai.

Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Chư Phật dùng mười trí lực làm sức mạnh, làm sức vô thượng siêu quá tất cả sức thế gian, có thể làm sư tử rống giữa đại chúng.

Những gì gọi là mười trí lực ?

Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Như Lai dùng trí vô thượng nhứt thiết chủng nơi thị xứ phi xứ, rõ biết như thật thị xứ phi xứ . Đây là trí lực thứ nhứt của Như Lai.

Do trí vô thượng nầy, Như Lai ở bực đại tiên vì chúng sanh diễn thuyết chánh pháp, và vì họ chuyển pháp luân vô thượng. Như Lai lại dùng trí vô phân biẹât rõ biết như thật các nghiệp và thủ nhơn của các nghiệp quá khứ, hiện tại, vị lai, là thiện, bất thiện, vô lượng hành tướng, không trụ trước, không chướng ngại. Đây là trí lực thứ hai của Như Lai.

Đức Như Lai dùng trí vô phân biẹât nhứt thiết chủng vô trước vô ngại, có thể khéo rõ biết vô lượng hành nghiệp của các loài hữu tình. Đây là trí lực thứ ba của Như Lai.

Đức Như Lai dùng trí vô thượng nhứt thiết chủng biết rõ như thật tất cả vô lượng thắng giải phân biẹât và vọng phân biẹât. Đây là trí lực thứ tư của Như Lai.

Đức Như Lai rõ biết như thật tất cả vô lượng nhơn, tất cả vô lượng duyên chỗ y trụ của thế gian. Đây là trí lực thứ năm của Như Lai.

Đức Như Lai rõ biết như thật, hoặc nhơn, hoặc duyên, tri kiến thẳng đến đạo. Đây là trí lực thứ sáu của Như Lai.

Đức Như Lai dùng thiên nhãn vô ngại rõ biết như thật sự sanh tử của hữu tình . Đây là trí lực thứ bảy của Như Lai.

Đức Như Lai rõ biết như thật tất cả tịnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, ly nhiễm thanh tịnh, hoặc xuất hoặc nhập. Đây là trí lực thứ tám của Như Lai.

Đức Như Lai rõ biết như thật tất cả đời trước. Đây là trí lực thứ chín của Như Lai.

Đức Như Lai rõ biết như thật lậu tận. Đây là trí lực thứ mười của Như Lai.

Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Trí lực nhứt thiết chủng vô lượng vô thượng như vậy, Như Lai đều thành tựu. Vì muốn cho chư Bồ Tát và tất cả chúng sanh được nhiếp thọ nơi Phật trí và chứng pháp trí thanh tịnh, nên Như Lai tuyên thị vô biên pháp tạng.

Nầy thiện nam tử ! Nay ông nên quan sát Như Lai nói trí lực thậm thâm thanh tịnh khó hiểu như vậy. Tất cả các pháp gọi là Như Lai và trí lực của Như Lai. Nhưng nơi các pháp đó cũng là bất khả kiến và bất khả thuyết.

Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Trí lực đã nói trên đây là pháp môn vô thượng cứu cánh kiên cố của Như Lai. An trụ nơi đó mà Như Lai tuyên thị lý thú của pháp nầy. Do lý thú đây mà kiến lập trí lực, có thể diễn thuyết tánh không kiến lập của tất cả pháp đây, dùng đó làm trí lực.

Những trí lực như vậy không tánh sanh khởi, không tự tánh, lìa tự tánh. Mười trí lực của Như Lai viên mãn như vâïy, có thể khai thị vô lượng vô biên nghĩa lý rất sâu.

Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là pháp môn vô thượng của chư Phật. Trụ pháp môn nầy thì có thể diễn thuyết mười trí lực của Như Lai, va øcó thể diễn thuyết môn thanh tịnh, môn khắp thanh tịnh của trí lực nầy.

Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Nay Phật lại vì chư Bồ Tát nói đà la ni, cho họ được thanh tịnh nơi pháp môn nầy. Ông nên lắng nghe và lãnh thọ”.

Đức Phật liền nói đà la ni rằng:

‘‘Đát điệt tha bát ra mâu chiết ninh – nễ mâu chiết ninh – mâu chiết ninh – tùy bát ra muộn chiết nễ – a chiết lê – a tỳ gia trạch nễ – bát ra bà nộ yết đế – đế thệ – ma ha đế thệ – a bát ra để gia – mạt ra ni – a na mạt ra ni – a mạt ra noa tỳ thú đạt nễ – nễ đà na bát ra phệ thiết nễ – đột ra a nễ khất túng bát nễ – mạt ngu – mạt ngu tát phược lê – tát phược ra vĩ thú đàn nễ – mẫu đạt ra – mẫu đạt ra vĩ thú đàn nễ – tát bát rị phược lê – tam mạn đa bát lê phược lê – a yết ra nỗ ma để – yết tha ta đàn nễ – tăng yết ra ni ma chế đàn nễ – thú lê – thú ra mị rị duệ – a cát ra ni – ô ba na mạt để – nễ na lê thiết nễ – tam mạn đa ba lê phổ lý dã yết đế – đà la nỗ yết đế – a nễ mê thiết nễ – a tán nễ mê thiết nễ – đà la ni yết đế – nễ đà na bát rị thú đàn nễ – a nỗ đạt ra tỳ bà tỉ nễ – bạt trí lệ – bạt đạt ra phiệt đế – mạc di – mạc xí phiệt để – san đà ra ni – ô phiệt đà rị ni – a nan đa bát ra bá phệ – bát ra bộ da bát rị phược lê – thiết nễ – bát rị ta thiết nễ – ma ha phược ca thế – a ca xả ta mâu tát ra ni – nhĩ để di ra ca ra ni – tát bà nhã bát thả tỳ thâu đạt nễ – niết bàn na bát thả san na rị thiết nễ – ta bà ha.

Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là pháp ấn đà la ni, tất cả pháp đều vào trong đó. Chư Bồ Tát tu hành đúng theo đây thì được trí huệ biện tài vô ngại, có thể khéo biết rõ câu xuất ly đà la ni tối thắng.

Thế nào gọi là câu xuất ly đà la ni tối thắng ?”

Đức Phật liền nói đà la ni rằng:

“Tá yết ra á bát diễn đa – tô mế rô ra đát na ta yết ra san nễ chiết gia – a tỳ đát nễ – a tam tỳ đát nễ – a tỳ mạt lê – bạt chiết ra san nễ – niết bệ thiết nễ – a khất sô tỳ nễ – a tăng khất sô tỳ nễ – a khất sa gia – a tị dạ dĩ – khất sa gia a bát diễn đế – a khất sử na khất sa diễn đa tát điệt lý thế – a bát rị khất sa duệ – a tỳ khất sớ tị nễ – a tỳ yết lê – a tỳ yết la nhã na yết ra ni – ta bà ha.

Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là câu xuất ly đà la ni tối thắng. Chư Bồ Tát tinh tấn tu tập pháp nầy, thì có thể thêm lớn trí huệ như biển, có thể dùng tâm đại từ an ủi chúng sanh rằng : Ta truyền thọ pháp được rộng lớn cho các người, phá trừ vô minh hắc ám của các người, dứt trừ phiền não sanh tử vô thỉ vô chung của các người, cũng làm cho các người thoát khỏi tham ái, qua khỏi tất cả dòng sanh tử. Bồ Tát làm pháp quang rộng lớn, làm cho căn lành của chúng sanh được sanh trưởng có thể rốt ráo giải thoát. Bồ Tát nầy làm bực đạo thủ lành có thể vào nơi nhứt thiết chủng trí, cũng chẳng để có một chúng sanh nào thối thất nơi trí vô thượng nầy.

Bồ Tát đây có thể dùng tâm đại từ làm cho tất cả chúng sanh được tương ưng với pháp nghĩa mà từ trước chưa từng nghe và lãnh thọ, làm cho họ được trí vô sanh tịch diệt, được biện tài vô ngại.

Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Nếu chư Bồ Tát lúc muốn thuyết pháp, thì nên nhiếp niệm nơi câu đà la ni nầy làm cho pháp nghĩa chẳng gián đoạn. Nghĩa là chư Bồ Tát ngồi tòa sư tử, dùng biện tài vô ngại suy gẫm vô lượng công đức của Như Lai, do đây trí huệ được rộng lớn thanh tịnh.

Lúc chúng sanh vân tập đến pháp hội để nghe pháp, Bồ Tát đối với họ nên có lòng đại bi, dùng trí huệ rộng lớn khai thị nghĩa lý quyết định đúng như thật chẳng thêm chẳng bớt. Bồ Tát biết rõ căn tánh của thính giả, dùng ngữ nghiệp rõ ràng quyết định lành tốt và câu văn từ ngữ vì họ mà diễn thuyết rộng rãi. Do sự diễn thuyết nầy có thể làm cho thiện căn của Bồ Tát được tăng trưởng.

Như Lai có thể dùng vô lượng thí dụ tuyên thị môn đà la ni như vậy. Các ông nếu có thể tuyên thuyết chánh pháp vô thượng như vậy, thì là an trụ nơi việc làm của Phật, các ông sẽ mau viên mãn bốn pháp vô úy.

Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Chư Bồ Tát nầy dùng trí huệ phương tiện thanh tịnh rộng lớn có thể khéo tu tập những công hạnh phát khởi thần thông, có thể nhiếp thọ trí huệ rộng lớn.

Những gì là công hạnh phát khởi thần thông ?

Chư Bồ Tát an trụ trong thần thông không có tưởng niệm nương gá dường như hư không, khéo phân tích các đại chủng, biết rõ đức Như Lai thành tựu trí huệ vô ngại vô biên. Do sức trí huệ nầy, nơi tất cả pháp, đức Như Lai quyết định biết rõ không có chút pháp nào là có thể rõ biết, trụ nơi vô sở đắc, trụ nơi vô đẳng đẳng, cũng chẳng thấy có vô sở đắc vô đẳng đẳng, trụ a lan nhã, trụ không chấp trước, trụ trí huệ thanh tịnh, không có chút pháp nào mà chẳng biết rõ chẳng thấy rõ, xa lìa vô minh hắc ám, không bị chướng ngại, khéo an trụ nơi trí huệ vô lượng vô biên. Do đây đức Như Lai bình đẳng thấy biết tất cả pháp như huyễn, như mộng, và có thể khai thị pháp tưởng quán vô minh ? Vì thế nên Bồ Tát chúng ta cần phải theo học trí huệ vô ngại của Như Lai. Trí tuệ nầy có thể khéo rõ biết căn tánh thượng trung hạ của tất cả chúng sanh, làm cho chư Bồ Tát an trụ công hạnh bình đẳng phát khởi thần thông. Do đây được thành tựu thần thông. Do sức thần thông nầy gia trì nên khéo an trụ được nơi giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến cùng sáu môn ba la mật. Do được chơn thật gia trì nhiếp thọ nên có thể được vô lượng thần biến sai khác, được tự tại nơi thế gian, ngồi tòa sư tử đánh trống pháp lớn, làm cho đại chúng trong các pháp hội thảy đều hoan hỷ, và làm lợi ích lớn cho tất cả chúng sanh.

Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Ví như vòng núi Đại Thiết Vi do nghiệp lực tăng thượng của chúng sanh, nên bao quanh thế giới nầy. Nhờ vòng núi nầy che, nên chúng sanh không ngửi mùi địa ngục, không nghe tiếng địa ngục, không thấy địa ngục.

Cũng vậy, chư Bồ Tát khéo tu tập nơi pháp nầy rồi, vì chúng sanh mà trừ diệt tất cả pháp chướng ngại, trao cho tất cả pháp vô ngại. Chư Bồ Tát đây dùng trí kim cương khéo nhiếp thọ, ngộ nhập rất sâu nơi pháp nầy, trụ nơi vô sở đắc được cam lồ rưới nhuần.

Thế nào gọi là cam lồ rưới nhuần ?

Chư Bồ Tát nầy không bị ma phiền não, ma ngũ uẩn và Thiên ma làm tổn hại. Dầu lúc chết có tử ma, nhưng cũng được tự tại chẳng có quan niệm là chết? Do Bồ Tát nầy an trụ nơi không, vô tướng, vô nguyện, vô phân biệt, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng đến chẳng đi, chẳng trụ chẳng khởi, chẳng nhiễm chẳng tịnh, cũng chẳng khiếp nhược, vô ngại vô đắc, bỏ kiêu mạn, tâm thường khiêm hạ, trong lìa mê lầm, ngoài khéo rõ biết, không nhiếp thuộc nơi kiến văn giác tri, biết rõ các pháp đều bình đẳng, chứng nhập như thật trong pháp của Như Lai, an trụ nơi chơn như chẳng hư vọng không biến dị. Chính đây gọi là chư Bồ Tát chứng nhập Bát nhã ba la mật. Bồ Tát an trụ nơi đây thì thành tựu được vô biên trí huệ. Do sức trí huệ nầy có thể chứng nhập trí bất tư nghì và ngôn thuyết bí mật của Như Lai. Do đây có thể khéo rõ biết tất cả pháp, chỗ thấy biết chẳng thể nghĩ bàn, không phân biệt, không sở đắc, đồng như Bồ đề chẳng thể nghĩ bàn vô phân biệt vô sở đắc. Bồ Tát nầy cũng chẳng phân biệt, chẳng tưởng niệm đồng với Bồ đề. Trong nghĩa Bồ đề thường trụ, chẳng thành chẳng hoại, chẳng nhóm chẳng tan, mà có thể làm ra tất cả Phật sự. Nơi pháp môn tịch tịnh đã nói đây, Bồ Tát chẳng chấp trước, cũng chẳng phân biệt những nghiệp quả báo, khéo rõ biết được nghiệp quả bình đẳng, vì bình đẳng nên chẳng thấy nghiệp quả, cũng chẳng phân biệt chấp trước. Vì chư Bồ Tát nầy đã được nhẹ nhàng nơi phiền não và nghiệp chướng, đã xa lìa kiết sử, đã rõ thấu các pháp môn và thấy biết đà la ni nầy. Vì đã an trụ pháp môn thanh tịnh, nên chư Bồ Tát nầy có thể đi giáo hóa mười phương thế giới, đủ hạnh thanh tịnh không trụ trước, chẳng bị thế pháp làm nhiễm ô, đáng là phước điền cho trời, người, các thế gian gần gũi cúng dường.

Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Như Lai nói cúng dường bực Bát địa Bồ Tát được vô lượng công đức, huống là Bồ Tát tu hành chứng nhập nơi pháp nầy.

Nếu chư Bồ Tát đối với Bồ đề, với chúng sanh, với pháp chúng sanh, với pháp thế gian mà không chỗ được, không phân biệt, không hí luận, thì có thể rõ biết pháp nầy và tu hành đúng thật, có thể tiêu được sự cúng dường rộng lớn của thế gian. Tất cả chúng sanh nên đem sự cúng dường Phật mà cúng dường chư Bồ Tát nầy.

Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Nếu chư Bồ Tát tu học pháp nầy thì được đầy đủ tất cả sự cúng dường, lìa khỏi những sự bố úy nhẫn đến có thể rời bỏ tất cả thân mạng. Chư Bồ Tát nầy nơi các pháp không chỗ nhiếp thọ mà có thể nhiếp thọ pháp rộng lớn, ngồi tòa vô úy, như sư tử rống, hàng phục ngoại đạo và pháp của ngoại đạo, trừ dẹp ma vương Ba tuần và đoàn quân ma, có thể diệt trừ tất cả sự che ngăn cho chúng sanh, sẽ dùng pháp thuyền độ chúng sanh, sẽ chỉ bày con đường nhứt thiết chủng trí cho chúng sanh, sẽ có thể đặt tất cả chúng sanh trên con đường tùy thuận thánh đế, sẽ khai thị tất cả pháp Bồ đề phần cho chúng sanh, sẽ dùng pháp thí dạy bảo chúng sanh, sẽ làm cho chúng sanh được pháp hỷ.

Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Nếu chư Bồ Tát có thể tín thọ môn đà la ni nầy, thì không khác gì những bực đã được thọ ký Vô thượng Bồ đề. Chư Bồ Tát sẽ tự thọ ký cho mình :

“Như Lai là đấng Pháp Vương khai thị pháp tạng nầy, có thể an lành ấn đà la ni nầy, có thể kiến lập những pháp môn nầy. Đức Như Lai nhiếp thọ chúng tôi, là cha của chúng tôi, là người thương xót chúng tôi”.

Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Nếu chư Bồ Tát có thể ở nơi Như Lai có tâm quyết định tưởng là cha lành, thì sẽ được vào số chư Phật, như Phật không khác.

Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Trong pháp phẩm đà la ni môn, đây là môn xuất ly đà la ni thứ hai, diễn thuyết pháp tạng của Như Lai”.