Kinh Đại Phật đỉnh Thủ Lăng Nghiêm
Như Lai mật hành nhân tu chứng rõ nghĩa và Bồ Tát vạn hành

(Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
Hán dịch: Đường Thiên Trúc Sa Môn Bát Lạt Mật Đế
Việt dịch: Phật Tử Bùi Đức Huề dịch năm 2010-2013

 

QUYỂN THỨ BẢY

A Nan ! Ngài hỏi hút lấy tâm. Ta nay trước tiên nói vào Tam Muội, tu học môn vi diệu cầu Đạo Bồ Tát. Cốt yếu trước tiên cần nhớ bốn luật nghi thức này trong sạch như đống băng, tự nó không thể sinh ra tất cả cành lá. Tâm ba Miệng bốn, sinh nhất định không có nguyên nhân.

A Nan ! Bốn việc như thế nếu không biến mất, tâm còn không theo Sắc Thanh Hương Vị Xúc. Tất cả việc Ma phát sinh ra sao, nếu có tập luyện Kiếp trước không thể bỏ mất. Ngài dạy người đó. Nhất tâm đọc Thần chú Bình Đẳng Phật Đỉnh Quang Minh Bồ Tát lớn Đát Đa Bát Đát La của Ta. Đây là tâm Không có hình không thấy tướng đỉnh của Như Lai. Tâm Chú được Phật nói từ đỉnh đầu phát ra quang sáng ngồi trên tòa Sen báu. Ngài Kiếp trước cùng Ma Đăng Già, nhiều Kiếp nhân duyên ân ái tập khí, không phải một lần sinh đó cùng với một Kiếp. Ta một lần tuyên bố, vĩnh thoát tâm yêu thành A La Hán, dâm nữ còn không dè chừng tu hành nó, Thần lực của bóng tối nhanh được Vô học. Vì sao các Ngài trong hội Thanh Văn cầu Pháp Bậc Phật, quyết định thành Phật, ví như vung bụi thuận theo chiều gió. Có gian nan nguy hiểm gì ? Nếu đời vận hết muốn ngồi Đạo tràng, trước tiên cần giữ Giới cấm Thanh tịnh của Tì Kheo. Chủ yếu cần lựa chọn người Giới hạnh Thanh tịnh, Sa Môn bậc nhất lấy làm Thầy của họ. Nếu họ không gặp được Tăng thực sự Thanh tịnh. Giới luật nghi thức của Ngài nhất định không thành công. Sau khi đã thành Giới hạnh, mặc áo mới sạch. Đốt hương nơi yên tĩnh đọc Thần chú tâm này được Phật nói. Một trăm linh tám lượt, đương nhiên sau đó kết giới hạn lập thành Đạo tràng, cầu với hiện ra ở Đất nước mười phương. Bình Đẳng Như Lai phóng quang Đại Bi chiếu tới đỉnh đầu họ.

A Nan ! Tì Kheo Thanh tịnh đời vận hết như thế. Nếu nữ Tì Kheo, người đời, Phật Tử. Tâm mất tham dâm, giữ Giới sạch của Phật, ở trong Đạo tràng phát nguyện Bồ Đề. Tắm rửa ra vào, sáu thời khắc thực hành Đạo, như thế không ngủ qua hai mươi mốt ngày. Ta tự hiện thân tới trước người đó. Xoa đầu an ủi giúp họ mở hiểu.

A Nan báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Con được lời dạy Bình Đẳng Đại Bi của Như Lai. Tâm đã mở hiểu, tự biết tu chứng thành Đạo A La Hán. Thời Pháp hết tu hành kiến thiết Đạo tràng. Kết giới thế nào hợp với quy tắc Thanh tịnh của Phật Thế Tôn.

Phật bảo A Nan ! Nếu người đời vận hết nguyện lập Đạo tràng. Trước tiên cần tìm trâu trắng khoẻ mạnh của núi Tuyết, ăn cỏ thơm béo ngậy của núi đó. Trâu đó duy chỉ uống nước sạch của núi Tuyết này, có thể lấy phân nhỏ mịn của nó, phân đó trộn với Chiên đàn thành hồ. Đất này nếu không phải là núi Tuyết. Trâu đó hôi bẩn không thể sử dụng quét đất. Đặc biệt ở nơi đồng bằng, đào sâu xuống so với mặt đất khoảng một mét tám, lấy đất màu vàng trộn lẫn với nhựa Trầm, Chiên đàn. Bơ trộn với Huân lục, Uất kim, Keo trắng, Thanh mộc, Linh lục, Cam tùng và Kê thiệt hương, dùng mười loại này nghiền nhỏ thành bột. Nhào với đất thành bùn, để quét lên đất của Đạo tràng. Chu vi khoảng năm mét tư, làm Đàn hình tám cạnh, tâm đàn dựng đài hoa Sen bằng vàng bạc đồng gỗ. Trong hoa đặt một chiếc bát, trong bát chứa đầy nước sương đêm, trong bát nước tùy theo mà thả cánh hoa. Lấy tám cái gương tròn đính vào tám phương. Ngoài hoa, bát, kính ra còn làm mười sáu bông Sen, mười sáu lư hương, giữa mỗi bông hoa đặt một lư hương trang nghiêm, chỉ đốt toàn bằng nhựa Trầm, không để cho nhìn thấy lửa. Lấy sữa trâu trắng đổ vào mười sáu bình đựng sữa, đun nóng nước từ giếng tròn và đường kính. Dầu, nước giếng, sữa, cháo, bơ trộn với mật gừng, chỉ có dầu mật. Phía ngoài mười sáu hoa Sen, từng hoa có các hoa khác bao quanh vòng ngoài, dùng để dâng lên các Phật và các Bồ Tát lớn nhất. Mỗi lần khi sử dụng, nếu trong đêm lấy nửa lít mật, chia làm ba lần. Trước đàn đặc biệt đặt một lò đốt nhỏ. Dùng hương Đâu Lâu Bà đốt, lấy nước hương thơm cọ sạch than bụi, đốt cho cháy to. Bỏ bơ mật đó vào trong lò đốt cháy cho hết khói. Tế lễ Phật Bồ Tát, bốn phía bên ngoài treo cờ phướn hoa. Bốn tường trên đàn đặt hình tượng Như Lai mười phương và hình tượng các Bồ Tát, nên đặt hình tượng Lô Xá Na Phật ở phía nam. Thích Ca, Di Lặc, A Xúc Tì, A Di Đà Phật và hình tượng biến hóa lớn của Quan Thế Âm, cùng với Kim Cương Tạng yên ở hai bên phải trái. Ngọc Hoàng Đế Thích, Phạm vương, Ô Sô Sắt Ma và Lam Địa Ca, các Quân Trà Lợi với Tì Câu Tri, cùng các bốn Vua Trời, Tần Na Dạ Ca treo ở cạnh cửa, đặt ở hai bên trái phải.

Lại lấy tám cái gương treo lên khoảng không và ở giữa Đàn tràng đặt một gương, phương đối diện nhau, khiến cho các hình tượng đó trùng trùng cùng liên quan. Trong bảy ngày đầu, chí thành đỉnh lễ Như Lai mười phương, các Bồ Tát và A La Hán lớn nhất, thường xuyên sáu thời khắc tụng Chú, chí tâm đi xung quanh Đàn. Một thời khắc thường thực hành đọc Chú một trăm linh tám lượt. Bảy ngày kế tiếp chỉ hướng về chuyên tâm phát nguyện Bồ Tát, tâm không được gián đoạn. Tì Nại Da của Ta trước có dạy phát nguyện. Trong bảy ngày sau trong thời khắc thứ mười hai, một hướng về giữ Thần chú Bát Đát La Phật, tới ngày thứ bảy Như Lai mười phương đồng thời xuất hiện. Kính giao thoa ánh quang Phật ngồi trên xoa đầu, liền ở Đạo tràng tu Tam Muội. Như thế hay giúp thân tâm sáng sạch tu học đời vận hết, giống như lưu ly.

A Nan ! Nếu Tì Kheo này nhận Giới làm Thầy và cùng trong hội có mười Tì Kheo, trong số người đó có một người không Thanh tịnh. Như thế Đạo tràng đa phần không thành công. Từ sau hai mươi mốt ngày ngồi đoan nghiêm yên ổn tại nơi ở, qua một trăm ngày người có Căn sắc xảo. Không rời chỗ ngồi thành Tu Đà Hoàn. Thân tâm họ buông tha, tuy Thánh quả chưa thành, tự biết quyết định thành Phật không sai. Ngài hỏi kiến thiết Đạo tràng như thế.

A Nan đỉnh lễ chân Phật, báo cáo Phật nói rằng : Từ khi Con Xuất gia trợ giúp Phật, do yêu thích muốn nghe nhiều, chưa chứng được Pháp Không có làm, bị thuật sai Trời Phạm trói buộc. Tâm tuy hiểu rõ lực không tự do. Nhờ gặp Văn Thù giúp Con Giải thóat. Tuy được Thần chú Phật đỉnh của Như Lai, ngu muội có được lực đó, nhưng chưa được tự thân nghe. Chỉ nguyện Như Lai đọc nói lại, thương cứu chúng sinh trong hội này, các người tu hành cuối đời, cùng với người sắp tới ở trong vòng luân hồi. Dựa vào lời bí mật của Như Lai Giải thoát tâm ý. Lúc đó tất cả Đại Chúng trong hội đều đỉnh lễ Phật, đứng chờ nghe câu đoạn bí mật của Như Lai.

Khi đó Thế Tôn, từ trong búi tóc, phóng trăm quang báu, trong quang xuất hiện, hoa Sen nghìn cánh, có hóa Như Lai, ngồi trong hoa báu. Đỉnh phóng mười Đạo, trăm Quang sáng báu, mỗi một Quang sáng, đều tỏ ra khắp, mười Hằng hà sa, Kim Cương Mật Tích, vác núi giữ chày, khắp Cõi khoảng không. Đại Chúng ngước xem, đầy đủ yêu kính, cầu Phật che chở, nhất tâm nghe Phật, tướng đỉnh không thấy, Như Lai phóng quang, đọc nói Thần chú.

Nam mô Tát đát tha, tô già đa da, a la ha đế, tam miểu tam Bồ đà tả. Tát đát tha Phật đà câu chi sắt ni sam. Nam mô Tát bà bột đà bột địa tát đa tì tệ. Nam mô Tát đa nam tam miểu tam Bồ đà câu tri nam. Sa xả la bà ca Tăng già nam. Nam mô Lô kê A La Hán đa nam. Nam mô Tô lô đa ba na nam. Nam mô Sa yết lị đà già di nam. Nam mô Lô kê tam miểu già đa nam. Tam miểu già ba la để ba đa na nam. Nam mô Đề bà ly sắt nan. Nam mô Tất đà da tì địa da đà la ly sắt nan. Xả ba nô yết la ha sa ha sa la ma tha nam. Nam mô Bạt la ha ma nê. Nam mô Nhân đà la da. Nam mô Bà già bà đế. Lỗ đà la da. Ô ma bát đế. Sa ê dạ da. Nam mô Bà già bà đế. Na la dã noa da. Bàn già ma ha tam mộ đà la. Nam mô Tất yết lị đa da. Nam mô Bà già bà đế. Ma ha ca la da. Địa lị bát lạt na già la. Tì đà la ba noa ca la da. A địa mục đế. Thi ma xả na nê bà tất nê. Ma đát lị già noa. Nam mô Tất yết lị đa da. Nam mô Bà già bà đế. Đa tha già đa câu la da. Nam mô Bát đầu ma câu la da. Nam mô Bạt xà la câu la da. Nam mô Ma ni câu la da. Nam mô Già xà câu la da. Nam mô Bà già bà đế. Đế lị trà du la tây na. Ba la ha la noa la xà da. Đa tha già đa da. Nam mô Bà già bà đế. Nam mô A di đa bà da. Đa tha già đa da. A la ha đế. Tam miểu tam Bồ đà da. Nam mô Bà già bà đế. A sô tì da. Đa tha già đa da. A la ha đế. Tam miểu tam Bồ đà da. Nam mô Bà già bà đế. Tì sa xà da câu lỗ phệ trụ lị da. Bát la bà la xà da. Đa tha già đa da. Nam mô Bà già bà đế. Tam bổ sư bí đa. Tát lân nại la lạt xà da. Đa tha già đa da. A la ha đế. Tam miểu tam Bồ đà da. Nam mô Bà già bà đế. Xả kê dã mẫu na duệ. Đa tha già đa da. A la ha đế. Tam miểu tam Bồ đà da. Nam mô Bà già bà đế. Lạt đát na kê đô la xà da. Đa tha già đa da. A la ha đế. Tam miểu tam Bồ đà da. Đế biều. Nam mô Tát yết lị đa. Ế đàm bà già bà đa. Tát đát tha già đô sắt ni sam. Tát đát đa bát đát lam. Nam mô A bà la thị đam. Bát la đế dương kỳ la. Tát la bà bộ đa yết la ha. Ni yết la ha yết ca la ha ni. Bạt la sắt địa da sất đà nễ. A ca la mật lị trụ. Bát lị đát la da ninh yết lị. Tát la bà bàn đà na mục xoa ni. Tát la bà đột sắt tra. Đột tất phạp bát na nễ phạt la ni. Giả đô la thất đế nam. Yết la ha sa ha tát la nhược xà. Tì đa băng tát na yết lị. A sắt tra băng xả đế nam. Na xoa sát đát la nhược xà. Ba la tát đà na yết lị. A sắt tra nam. Ma ha yết la ha nhược xà. Tì đa băng tát na yết lị. Tát bà xả đô lô nễ bà la nhược xà. Hô lam đột tất phạp nan già na xả ni. Bí sa xả tất đát la. A cát ni ô đà ca la nhược xà. A bát la thị đa cụ la. Ma ha bát la chiến trì. Ma ha điệp đa. Ma ha đế xà. Ma ha thuế đa xà bà la. Ma ha bạt la bàn đà la bà tất nễ. A lị da đa la. Tì lị câu tri. Thệ bà tì xà da. Bạt xà la ma lễ để. Tì xả lô đa. Bột đằng võng ca. Bạt xà la chế hát na a già. Ma la chế bà bát la chất đa. Bạt xà la thiện trì. Tì xả la gìa. Phiến đa xả tì đề bà bổ thị đa. Tô ma lô ba. Ma ha thuế đa. A lị da đa la. Ma ha bà la a bát la. Bạt xà la thương yết la chế bà. Bạt xà la câu ma lị. Câu lam đà lị. Bạt xà la hát tát đa già. Tì địa da kiền già na ma lị ca. Quật tô mẫu bà yết la đa na. Tì lô già na câu lị da. Dạ la thố sắt ni sam. Tì chiết lam bà ma ni già. Bạt xà la ca na ca ba la bà. Lô xà na bạt xà la đốn trĩ già. Thuế đa già ca ma la. Sát xa thi ba la bà. Ế đế di đế. Mẫu đà la yết noa. Sa tì la sám. Quật phạm đô. Ấn thố na ma ma tả.

Ô hông. Lị sắt yết noa. Bát lạt xả tất đa. Tát đát tha già đô sắt ni sam. Hổ hông. Đô lô ung. Chiêm bà na. Hổ hông. Đô lô ung. Tất đam bà na. Hổ hông. Đô lô ung. Ba la sắt địa da tam bát xoa noa yết la. Hổ hông. Đô lô ung. Tát bà dược xoa hát la sát sa. Yết la ha nhược xà. Tì đằng băng tát na yết la. Hổ hông. Đô lô ung. Giả đô la thi để nam. Yết la ha sa ha tát la nam. Tì đằng băng tát na la. Hổ hông. Đô lô ung. La xoa. Bà già phạm. Tát đát tha già đô sắt ni sam. Ba la điểm xà cát lị. Ma ha sa ha tát la. Bột thụ sa ha tát la thất lị sa. Câu tri sa ha tát nê đế lệ. A tệ đề thị bà lị đa. Tra tra anh ca. Ma ha bạt xà lô đà la. Đế lị bồ bà na. Mạn trà la. Ô hông. Sa tất đế bạc bà đô. Ma ma. Ấn thố na ma ma tả.

La xà bà dạ. Chủ la bạt dạ. A kỳ ni bà dạ. Ô đà gia bà dạ. Tì sa bà dạ. Xả tát đa la bà dạ. Bà la chước yết la bà dạ. Đột sắt xoa bà dạ. A xả nễ bà dạ. A ca la mật lị trụ bà dạ. Đà la ni bộ di kiếm ba già ba đà bà dạ. Ô la ca bà đa bà dạ. Lạt xà đàn trà bà dạ. Na già bà dạ. Tì điều đát bà dạ. Tô ba la noa bà dạ. Dược xoa yết la ha. La xoa tư yết la ha. Tất lị đa yết la ha. Tì xả già yết la ha. Bộ đa yết la ha. Cưu bàn trà yết la ha. Bổ đan na yết la ha. Ca tra bổ đan na yết la ha. Tất kiền độ yết la ha. A bá tất ma la yết la ha. Ô đàn ma đà yết la ha. Xa dạ yết la ha. Ê lị bà đế yết la ha. Xã đa ha lị nam. Yết bà ha lị nam. Lô địa la ha lị nam. Mang sa ha lị nam. Mê đà ha lị nam. Ma xà ha lị nam. Xà đà ha lị nữ. Thị tỉ đa ha lị nam. Tì đa ha lị nam. Bà đa ha lị nam. A du già ha lị nữ. Chất đa ha lị nữ. Đế sam tát tì sam. Tát bà yết la ha nam. Tì đà da xà, sân đà dạ di. Kê la dạ di. Ba lị bạt la giả ca ngật lị đảm. Tì đà dạ xà sân đà dạ di. Kê la dạ di. Trà diễn ni ngật lị đảm. Tì đà dạ xà sân đà dạ di. Kê la dạ di. Ma ha bát du bát đát dạ. Lô đà la ngật lị đảm. Tì đà dạ xà sân đà dạ di. Kê la dạ di. Na la dạ noa ngật lị đảm. Tì đà dạ xà sân đà dạ di. Kê la dạ di. Đát đỏa già lô trà tây ngật lị đảm. Tì đà dạ xà sân đà dạ di. Kê la dạ di. Ma ha ca la ma đát lị già noa ngật lị đảm. Tì đà dạ xà sân đà dạ di. Kê la dạ di. Ca bà lị ca ngật lị đảm. Tì đà dạ xà sân đà dạ di. Kê la dạ di. Xà da yết la ma độ yết la. Tát bà la tha sa đạt na ngật lị đảm. Tì đà dạ xà sân đà dạ di. Kê la dạ di. Giả đốt la bà kỳ nễ ngật lị đảm. Tì đà dạ xà sân đà dạ di. Kê la dạ di. Tì lị dương ngật lị tri. Nan đà kê sa la già noa bát đế. Sách ê dạ ngật lị đảm. Tì đà dạ xà sân đà dạ di. Kê la dạ di. Na yết na xả la bà noa ngật lị đảm. Tì đà dạ xà sân đà dạ di. Kê la dạ di. A La Hán ngật lị đảm. Tì đà dạ xà sân đà dạ di. Kê la dạ di. Tì đa la già ngật lị đảm. Tì đà dạ xà sân đà dạ di. Kê la dạ di bạt xà la ba nễ. Cụ ê dạ cụ ê dạ. Ca địa bát đế ngật lị đảm. Tì đà dạ xà sân đà dạ di. Kê la dạ di. La xoa võng. Bà già phạm. Ấn thố na ma ma tả.

Bà già phạm. Tát đát đa bát đát la. Nam mô Túy đô đế. A tất đa na la lạt ca. Ba la bà tất phổ tra. Tì ca tát đát đa bát đế lị. Thập Phật la thập Phật la. Đà la đà la. Tần đà la tần đà la sân đà sân đà. Hổ hông. Hổ hông. Phán tra phán tra phán tra phán tra phán tra. Sa ha. Ê ê phán. A mâu ca da phán. A ba la đề ha đa phán. Bà la ba la đà phán. A tố la tì đà la ba ca phán. Tát bà đề tì tệ phán. Tát bà na già tệ phán. Tát bà dược xoa tệ phán. Tát bà kiền thát bà tệ phán. Tát bà bổ đan na tệ phán. Ca tra bổ đan na tệ phán. Tát bà đột lang chỉ đế tệ phán. Tát bà đột sáp tỉ lê ngật sắt đế tệ phán. Tát bà thập bà lị tệ phán. Tát bà a bá tất ma lê tệ phán. Tát bà xả la bà noa tệ phán. Tát bà địa đế kê tệ phán. Tát bà đát ma đà kế tệ phán. Tát bà tì đà da la thệ già lê tệ phán. Xà dạ yết la ma độ yết la. Tát bà la tha sa đà kê tệ phán. Tì địa dạ già lê tệ phán. Giả đô la phược kỳ nễ tệ phán. Bạt xà la câu ma lị. Tì đà dạ la thệ tệ phán. Ma ha ba la đinh dương xoa kỳ lị tệ phán. Bạt xà la thương yết la dạ. Ba la trượng kỳ la xà da phán. Ma ha ca la dạ. Ma ha mạt đát lị ca noa. Nam mô Sa yết lị đa dạ phán. Bí sắt noa tì duệ phán. Bột la ha mâu ni duệ phán. A kỳ ni duệ phán. Ma ha yết lị duệ phán. Yết la đàn trì duệ phán. Miệt đát lị duệ phán. Lao đát lị duệ phán. Già văn trà duệ phán. Yết la la đát lị duệ phán. Ca bát lị duệ phán. A địa mục chất đa ca thi ma xả na. Bà tư nễ duệ phán. Diễn cát chất. Tát đỏa bà tả. Ma ma ấn thố na ma ma tả.

Đột sắt tra chất đa. A mạt đát lị chất đa. Ô xà ha la. Già bà ha la. Lô địa la ha la. Bà sa ha la. Ma xà ha la. Xà đa ha la. Thị bí đa ha la. Bạt lược dạ ha la. Kiền đà ha la. Bố sử ba ha la. Phả la ha la. Bà tả ha la. Bát ba chất đa. Đột sắt tra chất đa. Lao đà la chất đa. Dược xoa yết la ha. La sát sa yết la ha. Bế lệ đa yết la ha. Tì xả già yết la ha. Bộ đa yết la ha. Cưu bàn trà yết la ha. Tất kiền đà yết la ha. Ô đát ma đà yết la ha. Xa dạ yết la ha. A bá tát ma la yết la ha. Trạch khư cách trà kỳ ni yết la ha. Lị Phật đế yết la ha. Xà di ca yết la ha. Xả câu ni yết la ha. Mẫu đà la nan địa ca yết la ha. A lam bà yết la ha. Kiền độ ba ni yết la ha. Thập phạt la yên ca ê ca. Trụy đế dược ca. Đát lệ đế dược ca. Giả đột thác ca. Nặc đề thập phạt la bí sam ma thập phạt la. Bạc để ca. Tị để ca. Thất lệ sắt mật ca. Sa nễ bát đế ca. Tát bà thập phạt la. Thất lô cát đế. Mạt đà tì đạt lô chế kiếm. A kỳ lô kiềm. Mục khư lô kiềm. Yết lị đột lô kiềm. Yết la ha yết lam. Yết noa du lam. Đạn đa du lam. Ngật lị dạ du lam. Mạt ma du lam. Bạt lị thất bà du lam. Bí lật sắt tra du lam. Ô đà la du nam. Yết tri du lam. Bạt tất đế du lam. Ổ lô du lam. Thường già du lam. Hát tất đa du lam. Bạt đà du lam. Sa phòng áng già bát la trượng già du lam. Bộ đa bí đa trà. Trà kỳ ni thập bà la. Đà đột lô ca kiến đốt lô cát tri bà lộ đa tì. Tát bát lô ha lăng già. Du sa đát la sa la yết la. Tì sa dụ ca. A kỳ ni ô đà ca. Mạt la tì la kiến đa la. A ca la mật lị đốt đát liễm bộ ca. Địa lật lạt tra. Bí lị sắt chất ca. Tát bà na câu la. Tứ dẫn già tệ yết la lị dược xoa đát la sô. Mạt la thị phệ đế sam sa tì sam. Tất đát đa bát đát la. Ma ha bạt xà lô sắt ni sam. Ma ha bát lại trượng kỳ lam. Dạ ba đột đà xả dụ xà na. Biện đát lệ noa. Tì đà da bàn đàm ca lô di. Đế thù bàn đàm ca lô di. Bát la tì đà bàn đàm ca lô di. Đa điệt tha. Yểm. A na lệ. Tì xả đề. Tì la bạt xà la đà lị. Bàn đà bàn đà nễ. Bạt xà la báng ni phán. Hổ hông đô lô ung phán. Sa bà ha.

A Nan ! Vi diệu câu đoạn Tất Đát Đa Bát Đát La bí mật Già Đà tụ quang Phật đỉnh đó, sinh ra tất cả các Phật mười phương. Như Lai mười phương nhân do tâm Chú này, được thành Bình Đẳng Chính Biến Tri Giác. Như Lai mười phương giữ tâm Chú này, hàng phục các Ma chế ngự các ngoài Đạo. Như Lai mười phương nhờ tâm Chú này, ngồi trên Sen báu ứng hiện Đất nước như số bụi trần. Như Lai mười phương giữ toàn bộ tâm Chú này, ở Đất nước như số bụi trần chuyển vầng Pháp lớn. Như Lai mười phương giữ tâm Chú này, hay ở mười phương xoa đầu nhớ truyền Bậc, tự quả chưa thành cũng ở mười phương được Phật nhớ truyền Bậc. Như Lai mười phương dựa vào tâm Chú này, hay ở mười phương cứu rút bỏ các khổ. Gọi là Địa ngục, Quỷ đói, Súc sinh, mù câm điếc ngọng. Khổ do oán ghét, khổ vì yêu ly biệt, khổ do cầu không toại nguyện, năm Uẩn bốc mạnh, các tai ương bất ngờ lớn nhỏ, cùng lúc được Giải thoát. Nạn trộm cướp đao binh, nạn Pháp luật tù ngục, nạn đói chiến tranh dịch bệnh, bần cùng đói khát tiêu tan theo nghĩ nhớ. Như Lai mười phương theo tâm Chú này, hay với Tri thức thiện làm việc mười phương, trong bốn Uy nghi cúng dưỡng như ý. Trong Hằng sa hội của Như Lai tiến cử là Con của Vua Pháp lớn. Như Lai mười phương thực hành tâm Chú này, hay ở mười phương hút Nhận nguyên nhân của thân thuộc. Giúp các Bậc nhỏ nghe tạng bí mật, không sinh hoảng sợ. Như Lai mười phương đọc tâm Chú này, thành Bình Đẳng Giác ngồi dưới cây Bồ Đề, vào Niết Bàn Phật. Như Lai mười phương truyền thụ tâm Chú này, sau khi tạ thế phó thác việc Phật Pháp, cuối cùng dừng giữ Giới luật nghiêm sạch, đều được Thanh tịnh. Nếu Ta nói Chú Tụ quang Phật đỉnh Bát Đát La này, từ sáng đến tối âm thanh liên tiếp, trong các câu chữ cũng không có trùng lắp. Qua Hằng sa Kiếp cuối cùng không thể hết, cũng nói đỉnh Như Lai tên Chú này. Các Ngài là Thanh Văn chưa hết luân hồi. Phát tâm chí thành cầm lấy A La Hán, không giữ Chú này mà ngồi ở Đạo tràng, giúp thân tâm rời xa việc Ma, không có nơi đó.

A Nan ! Nếu các Thế giới tùy theo Đất nước, toàn bộ chúng sinh tùy theo Đất nước, sinh ra vỏ cây bu lô lá bối giấy trắng, ghi chép Chú này. Cất giữ trong túi hương, tâm người đó còn mê muội chưa thể nhớ đọc, hoặc mang theo trên người, hoặc viết để trong nhà. Nên biết người đó đến hết cuộc đời này, tất cả các loại độc không thể làm hại.

A Nan ! Ta nay vì Ngài nói thêm Chú này cứu giúp Thế gian, được không sợ lớn thành công Trí ra ngoài Thế gian của chúng sinh. Nếu sau khi Ta tạ thế đời vận hết, chúng sinh có thể tự đọc, hoặc dạy người đọc. Nên biết chúng sinh giữ đọc như thế, lửa không thể thiêu, nước không thể nhấn chìm. Độc lớn độc nhỏ không thể làm hại, như thế thậm chí toàn bộ Chú ác của Rồng Trời, Quỷ Thần Yêu tinh, Thần đất Quỷ núi, đều không thể nương nhờ. Tâm được nhận đúng, tất cả bùa Chú mộng mị bóng đè, đầu độc thuốc độc, độc của vàng bạc, độc khí của vạn vật cây cỏ côn trùng rắn độc, đưa vào trong miệng đều biến thành vị Cam Lộ. Tất cả Tinh tú và các Quỷ Thần ác, người tâm độc ác, với người như thế không thể phát ra ác. Tần Na Dạ Ca, các Vua Quỷ ác và các quyến thuộc của họ, đều lĩnh ân huệ sâu, thường gắng sức giúp bảo vệ.

A Nan ! Nên biết Chú đó, thường có tám vạn bốn nghìn triệu Hằng hà sa Câu chi họ tộc Kim Cương Tạng Vương Bồ Tát. Từng người đều có các chúng Kim Cương dùng làm quyến thuộc, ngày đêm đi theo trợ giúp. Nếu có chúng sinh tâm bị tán loạn, chưa phải là tâm Tam Muội. Ôn nhớ lại trong tâm, các Kim Cương Vương đó thường đi theo người đó.

Các Ngài nam thiện ! Huống chi người quyết định phát tâm Bồ Đề. Các Kim Cương Bồ Tát Tạng Vương này tâm tinh tiến, nhanh ngầm phát ra Thần thức của họ. Người đó hợp thời tâm hay ghi nhớ tám vạn bốn nghìn Hằng hà sa Kiếp. Hiểu rõ luân chuyển không có nghi hoặc, từ Kiếp đầu tiên cho đến Kiếp sau, luôn sinh không sinh. Dược Xoa La Sát và Phú Đan Na. Ca Tra Phú Đan Na, Cưu Bàn Trà, Tì Xá Già và các Quỷ đói có hình, không hình, có tưởng nhớ, không có tưởng nhớ, nơi ác như thế. Người nam thiện đó nếu đọc khen viết chép, mang theo người cất giữ, các loại cúng dưỡng. Đời đời không sinh bần cùng hèn kém, nơi không thể vui thích. Các chúng sinh này tự thân họ tự do không làm Nghiệp Phúc. Toàn bộ công Đức của Như Lai mười phương đều cho người này. Do là được với Hằng hà sa A tăng kì không thể nói không thể nói Kiếp, thường cùng với các Phật cùng sinh một nơi. Vô lượng công Đức như quả Ác Xoa hun đúc cùng tụ lại một nơi, vĩnh không phân tán. Vì thế hay giúp người phá Giới, Căn Giới Thanh tịnh. Chưa được Giới, giúp được Giới. Chưa được Tinh tiến, giúp được Tinh tiến. Không có Trí tuệ, giúp được Trí tuệ. Không Thanh tịnh, nhanh được Thanh tịnh. Không giữ trai Giới, tự thành trai Giới.

A Nan ! Người nam thiện đó lúc giữ Chú này. Giả sử phạm Giới cấm lúc chưa nhận Giới, sau khi giữ Chú các tội phá Giới, không hỏi nặng nhẹ cùng lúc tiêu diệt. Mặc dù qua việc uống rượu, ăn thịt, tỏi, hành, hành tây, kiệu, hẹ rất nhiều thứ không sạch. Tất cả các Phật Bồ Tát, Kim Cương Thiên Tiên, Quỷ Thần đều bỏ qua. Giả sử mặc quần áo rách không sạch, khi đi khi đứng tất cả cùng Thanh tịnh, tự do không làm Đàn tế, không vào Đạo tràng, cũng không thực hành Đạo. Đọc giữ Chú này hoàn toàn giống như công Đức của người vào Đàn tế, thực hành Đạo không khác. Nếu tạo tội nặng năm nghịch Đạo, Vô gian cùng với các nam Tì Kheo nữ Tì Kheo bỏ bốn uy nghi, tám Trai giới. Đã đọc Chú này Nghiệp nặng như thế, giống như gió lớn thổi bay ụ cát, tất cả đều mất, một chút xíu không còn.

A Nan ! Nếu có chúng sinh từ vô lượng vô số Kiếp tới nay, tạo ra toàn bộ tội chướng nặng nhẹ. Từ Kiếp trước đến nay chưa kịp sám hối. Nếu hay đọc khen biên chép Chú này, giữ đeo trên thân, hoặc để yên ở nơi ở, trang trại nhà ở vườn quán. Nghiệp tích chứa như thế, giống như nước đồng nóng tan chảy tuyết. Không lâu đều được biết Nhẫn Không sinh.

Lại nữa A Nan ! Nếu có phụ nữ chưa sinh Con trai muốn mang thai. Nếu hay chí tâm ghi nhớ Chú này, hoặc hay đeo trên thân Chú Tất Đát Đa Bát Đát La này, liền sinh nam nữ Phúc Đức Trí tuệ. Cầu trường thọ mệnh liền được trường thọ mệnh. Người muốn cầu quả báo nhanh đầy đủ, nhanh được đầy đủ. Thân mệnh Sắc lực cũng lại như thế. Sau khi chết tùy theo nguyện được tới sinh Đất nước mười phương. Nhất định không sinh nơi xa xôi hẻo lánh bần cùng hạ tiện, huống chi những cảnh tạp nham.

A Nan ! Nếu các Đất nước châu huyện làng xóm, mất mùa đói khát dịch bệnh ôn dịch, hoặc lại có nạn đao binh trộm cướp đấu tranh, lại thêm nơi có tất cả nạn ách khác. Viết Thần chú này dán bốn cổng thành tất cả giá đỡ hoặc trên xà ngang, giúp chúng sinh của Đất nước đó kính xem Chú này. Lễ bái cung kính nhất tâm cúng dưỡng, giúp nhân dân nơi đó từng người được đeo Chú này, hoặc từng người để yên Chú trong nhà nơi đất ở, tất cả tai ác đều cùng tiêu diệt.

A Nan ! Chúng sinh ở khắp mọi nơi trong Đất nước tùy theo có Chú này, Trời Rồng vui mừng, mưa hòa gió thuận, mùa màng bội thu, điều độ yên vui. Cũng lại hay trấn áp tất cả các Sao dữ, tùy nơi tác quái tai chướng không phát ra. Người không chết yểu, gông cùm xiềng xích không buộc thân họ. Ngày đêm ngủ ngon, thường không có ác mộng.

A Nan ! Sa Bà thế giới này có tám vạn bốn nghìn tai biến, hai mươi tám Sao ác lớn của Sao ác mà là đứng đầu. Lại có tám Sao ác lớn làm chúa của nó, hóa hiện thành đủ các hình tượng ở Thế gian, hay sinh ra đủ loại tai ách dị tật của chúng sinh. Nơi có Thần chú này, đều cùng tiêu diệt. Thành nơi kết giới hai trăm bốn mươi cây số, các ác tai ương vĩnh không thể vào được. Vì thế Như Lai nói đọc Thần chú này. Ở đời Tương lai bảo vệ người học Bậc nhỏ, người tu hành vào Yên nhớ Pháp đúng, thân tâm thỏa mãn được yên ổn lớn. Càng không có các Ma Quỷ Thần cùng với Nghiệp tội tai ương đời trước, oan gia ngang trái từ xưa tới nay, trái chủ cũ tới sắp sửa não hại.

Ngài cùng với người Có học trong chúng và các người tu hành đời Tương lai, dựa theo Đàn tràng của Ta như Pháp giữ Giới hạnh. Nhận được Giới hạnh chủ yếu gặp Tăng Thanh tịnh, giữ tâm Chú này không sinh nghi hối hận. Người nam thiện đó với thân do được cha mẹ sinh, không được tâm thông suốt Như Lai mười phương, liền làm nói càn dỡ.

Nói xong lời đó trong hội có vô lượng trăm nghìn Kim Cương, đồng thời ở trước Phật chắp tay đỉnh lễ và báo cáo Phật nói rằng : Như được Phật nói, chúng Con đang thành tâm giúp bảo vệ người tu Bồ Đề như thế. Khi đó Vua Phạm và Ngọc Hoàng Đế Thích, bốn Vua Trời. Cũng ở trước Phật đồng thời đỉnh lễ và báo cáo Phật nói rằng : Xét kĩ có người hay tu học như thế, Con đang tận tâm chí thành giúp bảo vệ. Giúp họ một lần sinh hoàn thành nguyện trước kia.

Lại có vô lượng Đại tướng Dược Xoa các Vua La Sát, Vua Phú Đan Na, Vua Cưu Bàn Trà, Vua Tì Xá Già, Vua Tần Na Dạ Ca, các Vua Quỷ lớn. Cùng với các tướng soái Quỷ cũng ở trước Phật chắp tay đỉnh lễ. Con cũng thệ nguyện giúp giữ người đó, giúp tâm Bồ Đề của họ nhanh được đầy đủ.

Lại có vô lượng Nhật Nguyệt Thiên Tử, Thầy gió Thầy mưa Thầy mây Thầy sấm sét, Tuần quan các năm, quyến thuộc của các Tinh tú cũng ở trong hội đỉnh lễ chân Phật mà báo cáo Phật nói rằng : Con cũng giúp bảo vệ người tu hành đó, yên thiết lập Đạo tràng được không đâu sợ.

Lại có vô lượng Thần núi Thần biển, tất cả Thổ địa đi trong nước trên bộ trên không. Thần đất yêu Tinh vạn vật và Vua Thần gió, Trời Cõi không có Sắc thân ở trước Như Lai, đồng thời phục lễ mà báo cáo Phật nói rằng : Con cũng giúp bảo vệ người tu hành đó, được thành Bồ Đề vĩnh không có việc Ma.

Lúc đó tám vạn bốn nghìn triệu Hằng hà sa Câu tri Kim Cương Tạng Vương Bồ Tát ở trong hội lớn, liền từ chỗ ngồi đứng lên đỉnh lễ chân Phật mà báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Như Con cùng với các bậc trên tu được Nghiệp công Đức từ lâu, thành Bồ Đề không giữ Niết Bàn, thường thuận theo Chú này cứu giúp đời vận hết, tu hành Yên nhớ Pháp đúng, tu hành ngay thẳng. Thế Tôn ! Tu tâm như thế cầu người Định đúng, nếu ở Đạo tràng và đi lại khác, thậm chí tâm phân tán, đi tới làng xóm. Con và chúng tín đồ thường cần đi theo trợ giúp bảo vệ người đó, Vua Quỷ Trời Đại Tự Tại thỏa mãn tìm Phương tiện của họ, cuối cùng không thể được. Các Quỷ Thần nhỏ đến nơi người thiện này, ở xa ngoài hai trăm cây số, trừ khi nó phát tâm muốn tu Thiền.

Thế Tôn ! Quỷ ác như thế và quyến thuộc của Ma, muốn tới xâm hại quấy nhiễu người thiện đó. Con dùng Chày báu đập nát đầu nó giống như bụi trần, thường giúp người đó làm được như nguyện.

A Nan liền từ chỗ ngồi đứng lên đỉnh lễ chân Phật, mà báo cáo Phật nói rằng : Con các bậc trên ngu độn thích nghe nhiều, còn nhiều Phiền não, tâm chưa cầu rời bỏ, được Phật Từ Bi dạy bảo, được thân tâm huân tu ngay thẳng, nhanh được ích lợi lớn.

Thế Tôn ! Tu chứng Yên nhớ Pháp đúng của Phật như thế, chưa tới Niết Bàn, vì sao tên là Sơ địa Bồ Tát ? Bốn mươi tư tâm tới ra sao, thứ tự được tu hành tới thiết yếu. Bằng cách nào được tên vào trong Bậc ? Vì sao tên là Chính Đẳng Chính Giác Bồ Tát ? Làm lời nói đó xong phục đất đỉnh lễ Đại Chúng, nhất tâm nhận âm Từ Bi của Phật, giương đôi mắt buồn chiêm ngưỡng Thế Tôn.

Khi đó Thế Tôn khen A Nan nói rằng : Thiện thay, thiện thay ! Các Ngài cũng hay rộng vì Đại Chúng và tất cả chúng sinh đời vận hết, tu Yên nhớ Pháp đúng cầu Pháp Bậc Phật. Từ người Phàm trần cuối cùng tới Niết Bàn Phật, tỏ ra rõ con đường tu hành đúng Đạo Bình Đẳng. Ngài nay nghe Tuệ nay đang vì Ngài nói.

A Nan, Đại Chúng chắp tay, tâm như được tháo gỡ mặc nhiên nhận lời dạy.

Phật nói rằng : A Nan ! Nên biết Tính vi diệu sáng đầy đủ, rời các tên hiệu hình tướng. Vốn dĩ không có Chúng sinh Thế gian, nhân do ảo vọng sinh Có, nhân do sinh mất có, mất sinh mất danh vọng. Chân thực tên ảo là nói Như Lai Bình Đẳng Bồ Đề cùng với Niết Bàn Phật, hai chuyển đổi dựa vào tên hiệu.

A Nan ! Ngài nay muốn tu Tam Muội chân thực. Thẳng tới được Niết Bàn Phật Như Lai. Trước tiên cần biết hai đảo lộn Thế gian, Chúng sinh này. Nhân do đảo lộn không sinh, thời chắc là Tam Muội chân thực của Như Lai.

A Nan ! Vì sao tên là đảo lộn chúng sinh ?

A Nan ! Do Tính tâm sáng, cho nên Tính sáng đầy đủ, nhân do sáng phát ra Tính, Tính ảo vọng thấy sinh, theo đó cuối cùng không thành, cuối cùng có điều này. Có toàn bộ sai, nhân do nơi nhân do ở, cùng biết nơi ở, vốn dĩ không có gốc rễ, vốn không có ở này, thiết lập Thế gian và các Chúng sinh, mê sáng đầy đủ trước kia. Sinh ra ảo vọng, Tính ảo không có hình thể, dựa vào Có sai. Muốn trở lại chân thực, muốn chân thực đã chân thực sai. Tính Chân Như chân thực sai, cầu mong lại chuyển thành hình tướng sai, sinh sai, ở sai. Tâm sai Pháp sai phát sinh tiến chuyển, sức sống phát sáng hun đúc thành Nghiệp, cùng Nghiệp cùng cảm xúc, nhân do có Nghiệp cảm xúc, cùng sinh cùng mất. Do vì như thế có đảo lộn chúng sinh.

A Nan ! Vì sao tên là đảo lộn Thế gian ? Có toàn bộ đó, sinh ảo vọng gián đoạn. Nhân do thiết lập Cõi giới này, nhân do được nhân sai, không ở nơi ở. Di chuyển không dừng. Nhân do đời này thành Ba Đời, bốn phương hòa hợp, cùng lội qua biến hóa, chúng sinh thành mười hai loại.

Do vì Thế giới nhân do Động có Tiếng, nhân do tiếng có Sắc, nhân do Sắc có Hương, nhân do Hương có Chạm biết, nhân do Chạm biết có mùi vị, nhân do Mùi vị biết Pháp. Do sáu ảo tưởng tạp loạn thành Tính Nghiệp. Mười hai bộ phận do luân chuyển này, vì thế Thanh Hương Vị Xúc của Thế gian cùng tận, mười hai biến hóa làm một vòng tròn, lại dựa vào luân chuyển này cho nên cùng đảo lộn. Có Thế giới sinh từ trứng, sinh từ bào thai, sinh do ẩm thấp, sinh do biến hóa, có Sắc thân, không có Sắc thân, có tưởng nhớ, không có tưởng nhớ, hoặc có Sắc thân sai, hoặc không có Sắc thân sai, hoặc có tưởng nhớ sai, hoặc không có tưởng nhớ sai.

A Nan ! Nhân do Thế giới ảo vọng, cho nên đảo lộn động luân hồi, hòa hợp với không khí thành tám vạn bốn nghìn tưởng loạn bay bổng trầm luân. Vì thế có sinh từ trứng, Yết La Lam lưu chuyển Đất nước, cá chim rùa rắn, loại này đầy khắp.

Do vì Thế gian nhiễm hỗn tạp, cho nên đảo lộn tham muốn luân hồi, hòa hợp lớn thêm thành tám vạn bốn nghìn tưởng loạn ngược xuôi ngang dọc. Vì thế cho nên có sinh từ bào thai, xứ Át Bồ Đàm lưu chuyển Đất nước, Người Súc vật Rồng Tiên, loại này đầy khắp.

Do vì Thế giới nương nhờ cho nên đảo lộn hướng về Luân hồi, hòa hợp nóng ấm thành tám vạn bốn nghìn tưởng loạn lật lọng tráo trở. Như thế cho nên có ẩm thấp, Tương Tế Thi lưu chuyển Đất nước, gồm sâu bọ giẫy giụa, loại này đầy khắp.

Do vì Thế giới biến khác cho nên đảo lộn giả Luân hồi, hòa hợp với Chạm biết thành tám vạn bốn nghìn mới. Do tưởng loạn như thế cho nên có hóa sinh, Tương Yết Nam lưu chuyển Đất nước, chuyển thành loài thoát xác, đi bằng cách bay bổng, loại này đầy khắp.

Do vì Thế giới lưu trở ngại, cho nên đảo lộn chướng ngại Luân hồi, hòa hợp với nương nhờ thành tám vạn bốn nghìn tưởng loạn sáng tinh. Như thế cho nên có Sắc, Tương Yết Nam lưu chuyển Đất nước, giữ lại sáng tinh tội lỗi, loại này đầy khắp.

Do vì Thế giới tan rời, cho nên đảo lộn nghi hoặc Luân hồi, hòa hợp với tối thành tám vạn bốn nghìn tưởng loạn âm u ẩn nấp. Như thế cho nên có Không có Sắc, Yết Nam lưu chuyển Đất nước, Rỗng tan rời chìm, loại này đầy khắp.

Do vì Thế giới hình tượng không thực, cho nên đảo lộn hình ảnh Luân hồi, hòa hợp với tưởng nhớ thành tám vạn bốn nghìn tưởng loạn ẩn nấp cố kết. Như thế cho nên có Có tưởng nhớ, Tương Yết Nam lưu chuyển Đất nước, Thần Quỷ Tinh Tú Linh Thần, loại này đầy khắp.

Do vì Thế giới ngu tối, cho nên đảo lộn ngu mê Luân hồi, hòa hợp với ngoan cố gàn dở, thành tám vạn bốn nghìn tưởng loạn khô úa gầy mòn. Như thế cho nên có Không có tưởng nhớ, Yết Nam lưu chuyển Đất nước, Tinh thần hóa làm thành đất, cây cỏ, kim loại đá, loại này đầy khắp.

Do vì Thế giới đối đãi lẫn nhau, cho nên đảo lộn lừa đảo Luân hồi, hòa hợp bẩn uế thành tám vạn bốn nghìn do dựa vào tưởng loạn. Như thế cho nên có Có Sắc sai cùng thành Sắc, Yết Nam lưu chuyển Đất nước, các mẹ của nước cùng với dùng làm danh mục tôm tép, loại này đầy khắp.

Do vì Thế giới dẫn hướng lẫn nhau, cho nên đảo lộn Tính Luân hồi, hòa hợp với Chú nguyện, thành tám vạn bốn nghìn tưởng loạn kêu gọi chiêu cảm. Do thế cho nên có Không có Sắc sai, cùng với Không có Sắc, Yết Nam lưu chuyển Đất nước, Chú nguyện chán sinh, loại này đầy khắp.

Do vì Thế giới hòa hợp ảo, cho nên đảo lộn lừa dối Luân hồi, hòa hợp với khác lạ thành tám vạn bốn nghìn tưởng loạn hướng về hỗ trợ. Như thế cho nên có Có tưởng nhớ sai, cùng thành tưởng nhớ, Yết Nam lưu chuyển Đất nước, đen tối bạc bẽo đó cùng với chất khác cùng thành, loại này đầy khắp.

Do vì Thế giới oán kết tàn hại, cho nên đảo lộn sát hại Luân hồi, hòa hợp quái lạ thành tám vạn bốn nghìn tưởng nhớ ăn cha mẹ. Như thế cho nên có Không có tưởng nhớ sai, cùng với Không có tưởng nhớ, Yết Nam lưu chuyển Đất nước. Như các chim cú đất yêu quý viên đất nhỏ làm con, cùng với chim Phá Kính dùng quả cây có độc ôm ấp làm con nó, con thành cha mẹ, đều gặp thức ăn này, loại này đầy khắp.

Tên đó là mười hai chủng loại chúng sinh.

Kinh Đại Phật đỉnh vạn hành Thủ Lăng Nghiêm quyển thứ bảy

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10