Kinh Đại Phật đỉnh Thủ Lăng Nghiêm
Như Lai mật hành nhân tu chứng rõ nghĩa và Bồ Tát vạn hành

(Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
Hán dịch: Đường Thiên Trúc Sa Môn Bát Lạt Mật Đế
Việt dịch: Phật Tử Bùi Đức Huề dịch năm 2010-2013

 

QUYỂN THỨ TƯ

Khi đó Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử ở trong Đại Chúng tức thời từ chỗ ngồi đứng lên. Vai phải áo lệch đầu gối phải chạm đất, chắp tay cung kính và báo cáo Phật nói rằng : Uy Đức Thế Tôn lớn hay vì Chúng sinh, nói Chân lý nghĩa Tướng chân thực của Như Lai. Thế Tôn thường khen trong số người nói Pháp, Con là bậc nhất. Ngày nay nghe tiếng Pháp vi diệu của Như Lai. Giống như người tai điếc đi bộ ra bên ngoài lắng nghe tiếng kêu của muỗi của dế. Vốn dĩ do không thấy huống chi được nghe. Phật tuy nói rõ ràng, giúp Con bỏ nghi hoặc. Ngày nay do chưa tinh tường nghĩa này, thành quả Bậc không nghi hoặc.

Thế Tôn ! Như bậc trên của A Nan. Tuy liền mở hiểu, Phiền não tập luyện chưa bỏ. Chúng Con trong hội được bỏ Phiền não. Tuy hết các Phiền não, nay được nghe Như Lai nói tiếng Pháp, vẫn còn nghi ngờ hối tiếc.

Thế Tôn ! Nếu lại tất cả loại Cõi giới nơi Uẩn Căn Trần của Thế gian. Đều cùng tạng Như Lai vốn dĩ Thanh tịnh như thế. Vì sao bỗng nhiên sinh sông núi Đất lớn. Các hình tướng Có làm lần lượt thuyên chuyển, cuối cùng mà trở lại ban đầu. Mới lại Như Lai nói về Nước đất lửa gió, Tính vốn dĩ đầy đủ dung hòa. Tràn khắp Cõi Pháp trong suốt thường ở như thế.

Thế Tôn ! Nếu Tính của đất tràn khắp, nước dung hòa ra sao ? Tính của nước tràn khắp, lửa liền không sinh, sáng lại ra sao ? Hai Tính của nước lửa đều tràn khắp khoảng Không, không cùng lấn át nhau mất.

Thế Tôn ! Tính đất trở ngại, Tính Rỗng thông suốt ảo. Vì sao cả hai cùng tràn khắp Cõi Pháp, mà Con không biết nghĩa đó đi tới. Chỉ nguyện Như Lai nói lưu chuyển Đại Từ, vén mở mây mù mê muội của Con và các Đại Chúng. Nói xong lời này phục đất đỉnh lễ, khâm phục kính khát lời dạy Từ Bi Bình Đẳng của Như Lai.

Khi đó Thế Tôn bảo Phú Lâu Na cùng với trong các hội. Các A La Hán Không học hết Phiền não. Như Lai ngày nay rộng vì hội này. Tuyên bố Tính nghĩa tốt chân thực trong nghĩa tốt, giúp quyết định Tính Thanh Văn trong hội của Ngài. Cùng với tất cả chưa được hai Rỗng, các A La Hán hồi hướng Bậc Phật, đều được Pháp Bậc Phật, nơi Đạo tràng Rỗng lặng. Rừng núi vắng chân thực, nơi tu hành đúng. Nay Ngài nghe Tuệ đang vì Ngài nói. Phú Lâu Na đều khâm phục tiếng Pháp Phật, im lặng lắng nghe.

Phật nói rằng : Phú Lâu Na ! Như được Ngài nói Thanh tịnh vốn dĩ như thế. Vì sao bỗng nhiên sinh sông núi Đất lớn ? Ngài thường không nghe Như Lai nói giảng, hiểu Tính sáng vi diệu, hiểu vốn dĩ sáng vi diệu.

Phú Lâu Na nói rằng : Đúng thế ! Thế Tôn ! Con thường nghe Phật nói giảng nghĩa này.

Phật nói rằng : Ngài gọi là hiểu sáng, vì lại Tính sáng, gọi tên là hiểu. Vì hiểu không sáng gọi tên là hiểu sáng.

Phú Lâu Na nói rằng : Nếu không sáng này tên là hiểu, liền không có Ngu tối.

Phật nói rằng : Nếu không đâu sáng, liền hiểu Ngu tối. Có do hiểu sai, không đâu sáng sai. Ngu tối lại sai, hiểu trong suốt Tính sáng. Tính hiểu nhất định sáng, nhầm là hiểu sáng. Hiểu được sáng sai, nhân do sáng lập thành nơi ở. Do đã lập thành ảo vọng, sinh ảo vọng của Ngài, có thể ở trong không cùng nhau khác nhau, cháy mạnh thành khác nhau. Khác nhau do khác nhau đó, nhân do khác nhau đứng cùng nhau, cùng nhau khác nhau phát sáng, nhân do lập thành trở lại này, không cùng nhau không khác nhau. Nhiễu loạn như thế cùng chờ sinh mệt mỏi, mệt mỏi lâu phát ra Trần, tự chuyển thành bẩn đục. Do là phát ra dẫn hướng, Trần mệt mỏi Phiền não, phát ra được Thế giới, yên tĩnh thành khoảng Không. Khoảng Không là như nhau, Thế giới là khác nhau, Pháp Có làm đó thực không giống nhau khác nhau. Sáng hiểu tối Rỗng, cùng đợi thành dao động, cho nên có vầng gió giữ Thế giới. Nhân do Rỗng sinh dao động, sáng bền vững lập thành trở ngại, ấn báu vàng hiểu sáng đó lập thành kiên cố. Cho nên có vầng vàng bảo hộ Đất nước, hiểu bền vững quý được sáng dao động hiện ra gió. Gió vàng cùng cọ sát. Cho nên có ánh lửa làm Tính biến hóa. Sáng quý sinh thấm nhuận, ánh lửa bốc lên hơi nóng. Cho nên có vầng nước bao cả Thế giới mười phương, lửa bay lên nước giáng xuống, gặp nhau phát ra lập thành bền vững. Ẩm thấp là biển lớn, khô hanh nơi đảo xa, do vì nghĩa đó trong biển lớn đó, ánh lửa thường phát ra. Trong đảo xa đó sông suối thường đầy nước, nước khắc chế được lửa kết thành núi cao. Vì thế núi đá va chạm liền thành núi lửa, dung hòa liền thành nước. Đất khắc chế được nước sinh cây cỏ, vì thế cây rừng gặp lửa cháy biến thành đất, nhân do vắt kiệt đất thành nước. Ảo vọng giao kết phát sinh chủng loại thay đổi lẫn nhau, vì Nhân duyên đó Thế giới liên tục.

Lại nữa Phú Lâu Na ! Ảo vọng sáng nó sai, hiểu sáng là lỗi. Ảo vọng đã lập thành, lý sáng không vượt qua, dùng Nhân duyên đó, nghe không hiện ra âm thanh, thấy không vượt qua Sắc. Sáu ảo vọng Sắc Hương Vị Chạm biết thành công, do mở ra phần đó, hiểu biết nghe thấy. Cùng Nghiệp ràng buộc lấy nhau, hòa hợp rời được hóa ra, thấy Sắc sáng phát sáng, được thấy tưởng nhớ. Thấy khác nhau thành ghét, cùng tưởng nhớ thành yêu quý, lưu chuyển yêu thành giòng giống, thu nạp tưởng nhớ là thai. Giao cấu phát sinh hấp dẫn cùng Nghiệp, cho nên có Nhân duyên sinh các Yết La Lam Át Bồ Đàm. Bào thai, Trứng, Ẩm thấp, Biến hóa tùy theo được ưng thuận này. Sinh trứng chỉ do tưởng nhớ, thai có nhân do tình. Ẩm thấp do cảm xúc hòa hợp, biến hóa do muốn rời. Tình tưởng nhớ hòa hợp rời, càng thêm cùng biến khác. Toàn bộ nhận Nghiệp cùng theo bay chìm này. Vì Nhân duyên đó chúng sinh liên tục.

Phú Lâu Na ! Yêu thích tưởng nhớ cùng kết buộc yêu thích không thể rời. Thời các Thế gian, cha mẹ Con cháu cùng sinh không đứt. Loại đó liền do tham muốn là gốc. Yêu thích tham cùng phát triển, tham không thể dừng lại. Liền là Trứng, Biến hóa, Ẩm thấp bào Thai của các Thế gian. Tùy theo lực mạnh yếu, thay đổi cùng thôn tính nhau. Loại đó liền do tham muốn sát hại là gốc. Với người ăn thịt dê, dê chết làm người, người chết làm dê. Như thế thậm chí mười loại sinh. Chết chết sinh sinh, giúp nhau tới cùng ăn thịt. Nghiệp ác cùng sinh tận cùng thời Tương lai. Loại đó liền do tham muốn trộm cướp là gốc. Ông lấy mệnh tôi, tôi hoàn trả cho ông. Do Nhân duyên đó kinh qua trăm nghìn Kiếp, thường ở sinh chết. Ông yêu thích tâm tôi, Tôi tiếc Sắc thân của ông. Do Nhân duyên đó qua trăm nghìn Kiếp, thường ở ràng buộc. Chỉ do sát sinh, trộm cướp, tham dâm, ba loại làm gốc, do Nhân duyên đó Nghiệp quả liên tục.

Phú Lâu Na ! Ba loại đảo lộn liên tục như thế, đều là hiểu sáng, sáng rõ biết Tính. Nhân do biết rõ phát ra hình tướng, sinh từ thấy ảo vọng. Núi sông Đất lớn các hình tướng Có làm, lần lượt di chuyển. Nhân do ảo vọng này, cuối cùng mà trở lại ban đầu. Phú Lâu Na nói rằng : Nếu hiểu vi diệu này, vốn dĩ hiểu sáng vi diệu. Với tâm Như Lai không tăng không giảm. Không có trạng thái bỗng nhiên sinh sông núi Đất lớn, các hình tướng Có làm. Như Lai nay được hiểu sáng Rỗng vi diệu. Sông núi Đất lớn Có làm, tập luyện Phiền não cần trở lại sinh sao ?

Phật bảo Phú Lâu Na ! Ví như người mê muội, ở trong một làng hoặc Nam hay Bắc. Mê muội này lại vì nhân do mê mà Có, được sinh nhân do biết.

Phú Lâu Na nói rằng : Người mê muội như thế cũng không nhân do mê muội, lại không nhân do biết. Cớ là sao ? Mê muội vốn dĩ không có gốc, nhân do mê muội cái gì ? Biết sinh mê muội sai, nhân do biết cái gì ?

Phật nói rằng : Người mê muội đó chính trong lúc mê muội, nhanh có người biết, chỉ tỏ ra giúp biết. Phú Lâu Na ! Ý là thế nào ? Người này tuy mê muội, ở trong làng này càng sinh thêm mê muội phải không ? Không đâu ! Thế Tôn ! Phú Lâu Na ! Như Lai mười phương cũng lại như thế. Mê muội này không có gốc, Tính cuối cùng Rỗng. Trước đây vốn dĩ không mê muội, giống như có hiểu mê muội. Hiểu mê muội mất mê muội, hiểu mê muội không sinh, cũng như người hoa mắt thấy hoa ở không trung. Bệnh hoa mắt nếu bỏ, hoa mất ở Rỗng. Bỗng nhiên có người ngu mê. Với hoa ảo đó do nơi Rỗng mất, đợi hoa sinh lại. Ngài xem người đó là Ngu si hay là Trí tuệ.

Phú Lâu Na nói rằng : Rỗng vốn không có hoa, ảo vọng thấy sinh mất, thấy hoa mất trong Rỗng, đã là đảo lộn. Muốn giúp lại hiện ra, cuồng si thực này vì sao liền có tên, người cuồng như thế, là Ngu si hay Trí tuệ.

Phật nói rằng : Như được Ngài giảng giải, vì sao hỏi rằng : Hiểu vi diệu của các Phật Như Lai sáng Rỗng. Sao cần thêm sinh sông núi Đất lớn, lại như quặng vàng hỗn tạp với vàng tinh khiết. Vàng này thuần nhất không thành hỗn tạp, như gỗ thành than không trở lại thành gỗ. Các Phật Như Lai Bồ Đề Niết Bàn cũng lại như thế.

Phú Lâu Na ! Lại nữa Ngài hỏi nói rằng : Tính vốn có của Nước đất gió lửa đầy đủ dung hòa tràn khắp Cõi Pháp. Tính nước lửa nghi kị không cùng lấn mất. Mới lại khoảng Không mời gọi cùng với Đất lớn, đều tràn khắp Cõi Pháp, không hòa hợp cùng dung hòa.

Phú Lâu Na ! Ví như khoảng Không, hình thể không phải tướng bầy đàn, mà không tóm bắt được nó, các hình tướng phát ra vẫy gọi. Sở dĩ thế nào ?

Phú Lâu Na ! Khoảng Không rộng lớn, mặt Trời chiếu sáng liền sáng, mây tụ tập liền tối, gió thổi liền động. Tạnh mưa liền sạch mát, khí ngưng tụ liền hôi bẩn, đất tích thành bụi mù, nước trong sạch thành soi bóng. Ý là thế nào ? Các hình tướng Có làm của phương khác như thế. Là nhân do sinh đó, hay lại Có Rỗng, nếu do sinh đó.

Phú Lâu Na ! Lúc mặt Trời chiếu đã là ban ngày. Thế giới mười phương cùng là Sắc mặt Trời. Vì sao không trung lại thấy mặt Trời tròn. Nếu rỗng sáng Rỗng đó, Rỗng cần tự chiếu sáng. Vì sao nửa đêm lúc mây mù không sinh ánh sáng rực rỡ. Nên biết sáng đó mặt Trời sai, Rỗng sai, mặt Trời Rỗng không khác. Xem cũng vốn là ảo vọng, không có thể chỉ bảo bày đặt, do ngăn chặn hoa ảo, kết buộc thành quả Rỗng. Vì sao hỏi kỹ điều này, nghĩa mất cùng lấn át nhau mất. Xem Tính vốn chân thực, chỉ có hiểu sáng vi diệu. Tâm sáng hiểu vi diệu trước tiên nước lửa sai. Vì sao lại hỏi không cùng dung hòa ? Hiểu sáng chân thực vi diệu cũng lại như thế. Ngài dùng sáng Rỗng, liền có hiện ra Rỗng. Nước đất lửa gió từng loại phát sáng, liền từng loại hiện ra. Nếu đều phát sáng, liền Có đều hiện ra. Cái gì cùng hiện ra ?

Phú Lâu Na ! Như trong một loại nước hiện ảnh mặt Trời. Hai người cùng xem mặt Trời trong nước. Đông Tây các phương liền đều có mặt Trời. Tùy theo hai người một người tới Đông một tới Tây, trước tiên không có chuẩn mực, không thuận khó nói rằng : Mặt Trời này là một sao lại đi khắp nơi ? Đều ban ngày đã hai, sao hiện ra một, ảo vọng luân chuyển không thể bằng cứ.

Phú Lâu Na ! Ngài dùng Sắc Rỗng, cùng đảo lộn cùng đoạt lấy với tạng Như Lai. Mà tạng Như Lai tùy theo vì Sắc Rỗng tràn khắp Cõi Pháp. Vì thế ở giữa gió động thanh lọc Rỗng, mặt Trời sáng mây tối. Chúng sinh mê muội, hiểu ngược lại Trần hòa hợp. Cho nên phát ra Phiền não, có hình tướng Thế gian. Ta dùng sáng vi diệu không sinh không mất, tạng Như Lai hòa hợp. Mà tạng Như Lai chỉ hiểu sáng vi diệu, đầy đủ chiếu sáng Cõi Pháp. Vì thế ở giữa một là vô lượng, vô lượng là một, trong nhỏ hiện thành lớn, trong lớn hiện thành nhỏ. Đạo tràng không động tràn khắp Thế giới mười phương. Thân bao hàm mười phương khoảng Không vô tận. Với một đầu sợi lông hiện ra Nước quý nhất. Ngồi trong bụi Trần chuyển vầng Pháp lớn. Trần mất hiểu hòa hợp cho nên phát ra Chân Như Tính sáng hiểu vi diệu. Mà tạng Như Lai tâm vốn dĩ vi diệu đầy đủ. Tâm sai, Rỗng sai, đất sai, nước sai, gió sai, lửa sai. Mắt sai, Tai sai, Mũi sai, Lưỡi sai, Thân sai, Ý sai, Sắc sai, Âm thanh sai, Hương sai, Mùi vị sai, Chạm biết sai, Pháp sai. Cảnh biết của Mắt sai, như thế thậm chí cảnh biết của Ý sai. Ngu tối sáng sai, hết Ngu tối sáng. Như thế thậm chí Già sai, Chết sai, hết Già Chết sai. Khổ sai, Tập hợp khổ sai, mất khổ sai, Đạo mất khổ sai. Trí tuệ sai, Được sai, Bố thí sai, Giữ Giới sai. Nhẫn nhịn sai, Tinh tiến sai, Thiền định sai, Trí tuệ sai, Nhiều Pháp tới Niết Bàn sai. Như thế thậm chí Đát thát A kiệt sai. Chính Đẳng Chính Giác sai. Niết Bàn lớn sai, Bình thường sai, vui sai, bản thân sai, sạch sai. Như thế đều do Thế gian, ra ngoài Thế gian sai. Tức thời tạng Như Lai vốn tâm sáng vi diệu. Tức là tâm, tức là Rỗng, tức là đất, tức là nước, tức là gió, tức là lửa. Tức là Mắt tức là Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý. Tức là Sắc, tức là Âm thanh, Hương, Mùi vị, Chạm biết, Pháp. Tức là cảnh biết của Mắt như thế thậm chí cảnh biết của Ý. Tức là Ngu tối sáng, hết Ngu tối sáng. Như thế thậm chí tức là Già, tức là Chết, tức là hết Già chết. Tức là Khổ, tức là Tập hợp khổ, tức là mất khổ, tức là Đạo mất khổ. Tức là Trí tuệ, tức là Được, tức là Bố thí, tức là Giữ Giới. Tức là Nhẫn nhịn, tức là Tinh tiến, tức là Thiền định. Tức là Trí tuệ, tức là Nhiều Pháp tới Niết Bàn. Như thế thậm chí tức là Đát thát A kiệt. Tức là Chính Đẳng Giác. Tức là Niết Bàn lớn, tức là Bình thường, tức là Vui, tức là bản thân, tức là Thanh tịnh. Vì thế liền cùng vì Thế gian ra ngoài Thế gian. Tức là tạng Như Lai, vốn tâm sáng vi diệu. Rời tức là lỗi rời, là tức thời, tức thời sai. Chúng sinh ba Có của Thế gian như thế. Cùng với Thanh Văn Duyên Giác ra ngoài Thế gian. Dùng tâm biết đo lường Như Lai Bình Đẳng Bồ Đề. Sử dụng ngôn ngữ Thế gian vào Thấy biết của Phật. Ví như đàn cầm sáo trúc đàn tì bà, tuy có âm thanh vi diệu. Nếu không có ngón tay vi diệu cuối cùng không thể phát ra. Ngài và chúng sinh cũng lại như thế. Hiểu quý tâm chân thực, từng loại đầy đủ. Như Ta ấn ngón tay quang phát ra dấu ấn biển. Ngài tạm cử động tâm, trước tiên phát ra Phiền não. Do không siêng cầu Đạo Bình Đẳng Giác, yêu nhớ Bậc Pháp nhỏ, được ít là đủ.

Phú Lâu Na nói rằng : Hiểu quý của Con và Như Lai sáng đầy đủ. Tâm Thanh tịnh vi diệu chân thực, đầy đủ không có hai, mà Con trước đây bị ảo tưởng Có từ xưa, lâu dài ở trong Luân hồi. Nay được Đạo Thánh do còn chưa thành quả.

Thế Tôn ! Mất hết tất cả các ảo vọng, bình thường chân thực đơn lẻ vi diệu. Dám hỏi Như Lai ! Tất cả chúng sinh có ảo vọng nhân do cái gì ? Tự che phủ sáng vi diệu, nhận chìm nổi này.

Phật bảo Phú Lâu Na ! Ngài tuy bỏ hoài nghi, hoặc loạn khác chưa hết. Ta vì Thế gian hiện ra các việc. Nay lại hỏi Ngài, Ngài không nghe sao. Trong thành Thất La có Diễn Nhược Đạt Đa, bỗng nhiên buổi sáng dùng gương soi mặt. Yêu thích được thấy đầu mi mắt trong gương. Trợn mắt trách móc đầu của mình mắt không thấy khuôn mặt. Cho là Quỷ từ gỗ đá hóa ra, điên cuồng bỏ chạy. Ý là thế nào ? Người này nhân do cái gì, vô cớ điên cuồng bỏ chạy ?

Phú Lâu Na nói rằng : Do người đó tâm cuồng càng không có khác.

Phật nói rằng : Hiểu sáng vi diệu đầy đủ, vốn dĩ sáng vi diệu đầy đủ. Đã gọi là ảo vọng, há sao có nguyên nhân ? Nếu có nguyên nhân vì sao tên là ảo vọng ? Các ảo tưởng tự phát triển, chuyển theo cùng nguyên nhân. Mê muội tích chứa từ mê muội, trải qua Trần Kiếp. Tuy Phật phát sáng, do còn chưa thể trở lại. Như thế nguyên nhân của mê muội tự có, nhân do mê muội. Biết mê muội không có nguyên nhân, ảo vọng không đâu dựa vào. Còn không có sinh, muốn mất cái gì ? Người được Bồ Đề như người lúc ngủ. Nói việc trong mộng, tâm Vội trong sáng. Muốn Nhân duyên ra sao, giữ vật trong mộng ? Huống chi lại không có nguyên nhân, vốn dĩ toàn bộ không có. Như Diễn Nhược Đạt Đa ở trong thành đó. Sao có Nhân duyên, đầu tự hoảng sợ bỏ chạy. Bỗng nhiên dừng cuồng loạn, đầu được bên ngoài sai. Vội chưa hết cuồng loạn, cũng rơi mất cái gì ?

Phú Lâu Na ! Tính ảo vọng như thế, nhân do cái gì được ở. Ngài chỉ không thuận theo phân biệt Thế gian. Chúng sinh Nghiệp quả ba loại liên tục. Do đứt ba Duyên, ba nguyên nhân không sinh. Liền trong tâm Ngài Diễn Nhược Đạt Đa, Tính cuồng loạn tự hết, hết tức là Bồ Đề. Được tâm sáng sạch vốn dĩ đầy khắp Cõi Pháp. Được không từ người, cần lao dựa vào cái gì, tu chứng điều cốt yếu. Ví như có người ở trong áo của mình, giấu châu Như ý không tự hiểu biết. Phương khác lộ ra cùng cực, chạy ngược xuôi xin ăn. Tuy thực sự bần cùng, châu chưa từng mất. Bỗng nhiên có người Trí tuệ chỉ tỏ ra châu đó. Nguyện được từ tâm mang tới giàu có lớn. Biết rõ châu Thần, được từ bên ngoài sai.

Tức thời A Nan ở trong Đại Chúng kính lễ chân Phật, đứng lên báo cáo Phật. Thế Tôn hiện nay nói Nghiệp giết hại trộm cướp tham dâm, do đứt ba quả, ba nguyên nhân không sinh. Trong tâm nhiều thông suốt, Tính cuồng tự hết, hết tức là Bồ Đề, được không từ người. Đây liền là Nhân duyên, nhanh được sáng rõ. Vì sao Như Lai nhanh bỏ Nhân duyên ? Con từ Nhân duyên tâm được mở hiểu. Thế Tôn ! Nghĩa này sao chỉ duy nhất mình Con, thời niên thiếu Có học Thanh Văn. Ngày nay trong hội này Đại Mục Kiền Liên. Cùng với Xá Lợi Phất Tu Bồ Đề. Từ ông Phạm chí nghe Nhân duyên Phật. Phát tâm mở hiểu được A La Hán. Nay nói Bồ Đề không từ Nhân duyên. Thời các ngoài Đạo của thành Vương Xá. Nói tự nhiên được Nghĩa tướng chân thực. Mong muốn Đại Bi mở phát ra mê muội.

Phật bảo A Nan ! Tức thời như trong thành Diễn Nhược Đạt Đa. Nhân duyên Tính cuồng nếu được diệt trừ. Liền Tính không cuồng tự nhiên mà xuất hiện. Nhân duyên Tự nhiên, lý cuối cùng ở đó.

A Nan ! Đầu của Diễn Nhược Đạt Đa vốn dĩ tự nhiên, vốn dĩ từ thế này, không có như thế, tự sai. Do Nhân duyên gì đầu hoảng sợ điên cuồng bỏ chạy ? Nếu Nhân duyên của đầu tự nhiên cho nên cuồng dại. Sao Nhân duyên của không tự nhiên cho nên mất. Đầu vốn dĩ không mất, xuất hiện cuồng vọng hoảng sợ. Từng không có biến đổi, Nhân duyên dựa vào cái gì. Cuồng dại vốn dĩ tự nhiên, vốn dĩ có cuồng dại hoảng sợ. Chưa tới biên giới của cuồng dại, cuồng dại ẩn chứa ở nơi nào ? Tự nhiên không cuồng dại, đầu vốn dĩ không ảo vọng, cái gì làm cho cuồng dại bỏ chạy. Nếu đầu vốn dĩ biết, nhớ biết cuồng dại bỏ chạy. Nhân duyên tự nhiên đều là nói đùa. Vì thế Ta nói : Do đứt ba Duyên, tức là tâm Bồ Đề. Sinh tâm Bồ Đề, mất tâm mất sinh. Chỉ sinh mất này, sinh mất cùng hết, Đạo không có công dụng. Nếu có tự nhiên, như thế liền sáng, sinh tâm tự nhiên. Mất tâm mất sinh, đây cũng mất sinh. Không có sinh mất, tên là tự nhiên. Giống như các hình tướng của Thế gian hòa hợp hỗn tạp. Thành một hình thể tên là Tính hòa hợp. Hòa hợp sai gọi là Tính vốn dĩ như thế. Vốn dĩ như thế như thế sai, hòa hợp hòa hợp sai. Hòa hợp như thế cùng rời, rời hòa hợp đều sai. Câu này tên là không nói đùa Pháp. Bồ Đề Niết Bàn còn ở rất xa. Nhiều Kiếp của Ngài siêng khổ tu chứng sai. Tuy lại nhớ giữ Như Lai mười phương. Lý vi diệu Thanh tịnh của mười hai bộ Kinh, như số cát sông Hằng, nó giúp ích cho nói đùa. Ngài tuy đàm luận nói tự nhiên Nhân duyên quyết định sáng rõ. Người đời gọi Ngài nghe nhiều bậc nhất. Vì tích chứa Kiếp này Nghe nhiều tập luyện hun đúc, không thể miễn rời nạn Ma Đăng Già. Nguyên nhân thế nào đợi Thần chú Phật đỉnh của Ta ? Lửa tham dâm của tâm Ma Đăng Già dừng lại, được A Na Hàm. Ở trong Pháp của Ta được rừng Tinh tiến. Sông yêu khô kiệt giúp Ngài Giải thoát.

Vì thế A Nan ! Ngài tuy nhiều Kiếp nhớ giữ bí mật trang nghiêm vi diệu của Như Lai. Không bằng một ngày tu Nghiệp hết Phiền não. Rời xa hai khổ yêu ghét của Thế gian. Như Ma Đăng Già trước đây là nữ dâm, do lực của Thần chú khóa tham yêu này. Trong Pháp nay tên là nữ Tì Kheo Tính. Với mẹ của La Hầu La Da Du Đà La cùng biết nhân của Kiếp trước. Biết nhân của đời trải qua tham yêu bị khổ. Do dễ một nghĩ nhớ hun tu hết Phiền não, nếu được ra ngoài ràng buộc, hoặc được nhớ truyền bậc. Vì sao tự lừa dối còn lưu lại nghe xem.

A Nan cùng với các Đại Chúng nghe lời dạy của Phật. Tan bỏ nghi hoặc tâm biết hình tướng chân thực. Thân ý nhẹ yên được chưa từng có. Lại bi thương rơi lệ đỉnh lễ chân Phật, quỳ lâu chắp tay mà báo cáo Phật nói rằng : Bình Đẳng Đại Bi Thanh tịnh quý nhất thiện mở tâm Con. Hay dùng đủ loại Phương tiện Nhân duyên kể ra khích lệ như thế. Dẫn hướng các trầm luân u tối ra ngoài biển khổ.

Thế Tôn ! Con nay tuy dựa vào tiếng Pháp như thế, biết tạng Như Lai. Tâm sáng hiểu vi diệu tràn khắp Thế giới mười phương. Muốn dạy Đất nước mười phương của Như Lai, Cõi nước hiểu bậc nhất vi diệu trang nghiêm quý Thanh tịnh. Như Lai lại trách Nghe nhiều không có công Đức, không bằng tu luyện. Con nay giống như người khách trôi dạt. Bỗng nhiên được Vua Trời ban cho nhà đẹp, tuy được nhà lớn muốn bước vào nhân do cửa. Chỉ nguyện Như Lai không bỏ Đại Bi, tỏ rõ cho Con, các người mê muội trong hội. Rời bỏ Bậc Pháp nhỏ, nhất định được Bậc Như Lai. Niết Bàn Không thừa vốn dĩ phát tâm lớn. Giúp Thanh Văn từ cái gì hút lấy hàng phục Duyên lôi kéo trước kia. Được Đà La Ni vào Thấy biết của Phật. Nói xong lời đó phục đất đỉnh lễ, ở hội một lòng ghi nhận chỉ dạy Từ Bi của Phật.

Khi đó Thế Tôn thương xót Duyên Giác Thanh Văn trong hội. Với tâm Bồ Đề chưa Tự do, cùng với thời Sắp tới sau khi Phật Tạ thế. Chúng sinh thời Pháp mất phát tâm Bồ Tát. Mở ra Pháp Bậc Bình Đẳng lộ trình tu hành vi diệu. Nói tỏ rõ cho A Nan cùng các Đại Chúng. Các Ngài quyết định phát tâm Bồ Đề. Với Yên nhớ Pháp đúng vi diệu của Phật Như Lai, không sinh lười nhác. Trước tiên cần sáng rõ phát ra hiểu hai nghĩa quyết định của tâm ban đầu. Thế nào là quyết định hai nghĩa của tâm ban đầu ?

A Nan ! Nghĩa thứ nhất là : Các Ngài nếu muốn rời bỏ Thanh Văn, tu Bậc Bồ Tát vào Thấy biết của Phật. Cần nên xem tỉ mỉ tâm phát ra Trí tuệ. Với Bậc quả hiểu là giống nhau, hay là khác nhau.

A Nan ! Nếu với Trí tuệ dùng tâm sinh mất làm gốc, tu sửa Nguyên nhân, mà cầu Bậc Phật không sinh không mất. Không có nơi này. Do nghĩa đó cho nên Ngài cần chiếu sáng các Pháp Thế gian. Pháp có thể làm, đều theo biến đổi mất.

A Nan ! Ngài xem Thế gian. Pháp có thể làm, cái nào không hủy hoại. Đương nhiên cuối cùng không nghe, tan nát hủy hoại trong khoảng Không. Cớ là sao ? Rỗng có thể làm sai. Do vậy trước sau không hỏng mất. Liền trong thân Ngài hình tướng kiên cố là đất, thấm đẫm là nước, chạm biết nóng là lửa, dao động là gió. Do bốn ràng buộc này phận Ngài tròn vẹn trong sạch, tâm sáng hiểu vi diệu. Là nhìn hay là nghe, là hiểu hay là xét kĩ. Từ đầu vào cuối cùng, năm lớp bẩn đục. Thế nào là đục ?

A Nan ! Ví như nước trong sạch, sáng sạch vốn dĩ như thế, tức thời đất bụi đó cùng loại như tro cát. Bản chất để lại trở ngại, Tính hai thể Pháp đó không cùng tuần hoàn. Có người Thế gian giữ bụi đất đó bỏ vào trong nước sạch. Mất đất để lại trở ngại, nước mất sáng sạch. Dung mạo chìm nổi như thế, sáng đó thành đục. Năm lớp đục của Ngài cũng lại như thế.

A Nan ! Ngài thấy khoảng Không đầy khắp mười phương Thế giới, Rỗng thấy không phân chia. Có Rỗng không có hình thể, có thấy không hiểu, cùng dệt thành ảo vọng. Lớp thứ nhất này tên là Kiếp đục. Thân Ngài hiện nay đủ bốn Lớn được hình thể. Thấy nghe hiểu biết vun đắp giúp để lại trở ngại. Nước đất lửa gió biết quay vòng, giúp hiểu biết, cùng dệt thành ảo vọng. Lớp thứ hai đó tên là Thấy đục. Mới lại trong tâm Ngài nhớ biết đọc tu luyện. Tính phát ra Thấy biết dung nạp hiện ra sáu Trần. Rời không hình tướng của Trần, rời hiểu không Tính, cùng nhau dệt thành ảo vọng. Lớp thứ ba đó tên là Phiền não đục. Mới lại Ngài sớm tối sinh mất không dừng lại, Thấy biết thường muốn lưu lại ở Thế gian. Nghiệp chuyển vận thường nghiêng về Đất nước, cùng nhau dệt thành ảo vọng. Lớp thứ bốn đó tên là Chúng sinh đục. Các Ngài thấy nghe vốn Tính không khác, các Trần vượt qua ngăn cách không có trạng thái sinh khác. Trong Tính cùng biết, trong sử dụng cùng quay lưng lại. Cùng nhau khác nhau mất chuẩn mực, cùng dệt thành ảo vọng. Lớp thứ năm đó tên là mệnh đục.

A Nan ! Ngài nay muốn giúp thấy nghe hiểu biết. Xa cách thường vui vẻ, bản thân Thanh tịnh của Như Lai. Trước tiên cần phải nhổ bỏ gốc sinh chết. Dựa vào không sinh mất, Tính trong suốt đầy đủ được thành, do trở lại thanh lọc ảo vọng sinh mất này. Hiểu vốn khôi phục lại, được hiểu sáng thứ nhất, Tính không sinh mất, được tâm Trí tuệ. Sau đó tu chứng đầy đủ được bậc quả. Như nước đục lắng cặn chứa trong bình lọc. Tĩnh lặng sâu không động, cát đất tự lắng xuống, nước sạch hiện ra. Tên là ban đầu hàng phục khách Trần Phiền não. Bỏ đi bùn đất chỉ toàn là nước, tên là vĩnh đứt gốc Ngu tối. Sáng cùng với tinh khiết thuần nhất, tất cả biến hiện không bị Phiền não. Đều Đức vi diệu Thanh tịnh Niết Bàn hòa hợp. Nghĩa thứ hai là : Các Ngài nhất định muốn phát tâm Bồ Đề. Với Bậc Bồ Tát sinh dũng mãnh lớn, quyết định bỏ các hình tướng Có làm. Cần phải thẩm xét rõ ràng gốc của Phiền não. Từ xưa tới nay phát sinh thấm Nghiệp này, ai làm ai nhận.

A Nan ! Ngài tu Bồ Đề, nếu không xem tỉ mỉ gốc của Phiền não. Liền không thể biết Căn Trần ảo vọng, đảo lộn nơi nào, nơi còn không biết. Làm sao hàng phục giữ vị trí Như Lai.

A Nan ! Ngài xem người gỡ nút buộc của Thế gian. Không thấy nút buộc làm sao biết tháo bỏ. Không biết khoảng Không tách nứt rơi phủ lên Ngài. Cớ là sao ? Do Rỗng không có so sánh, không có gỡ nút buộc. Liền mắt tai mũi lưỡi cùng với thân tâm hiện ở trước Ngài. Sáu Căn dắt mối cho cướp tự cướp gia tài. Do vì Thế giới chúng sinh xa xưa này sinh ràng buộc. Với khí cụ Thế gian không thể vượt qua.

A Nan ! Thế nào tên là Thế giới chúng sinh ? Đời là giòng chảy, Cõi giới là phương hướng vị trí. Ngài nay cần biết Đông Tây Nam Bắc. Đông Nam Tây Nam Đông Bắc Tây Bắc trên dưới là Cõi giới. Quá khứ Tương lai Hiện tại là Đời. Phương vị có mười, số giòng chảy có ba. Tất cả chúng sinh cùng dệt thành hình ảo vọng. Trao đổi di chuyển trong thân, Thế giới cùng lặn lội. Mà Tính Cõi giới này tuy tạo thành mười phương, định vị có thể sáng. Bộ phận lớn của Thế gian Đông Tây Nam Bắc. Trên Dưới không có vị trí, giữa không định phương hướng. Bốn số nhất định sáng với đời cùng lặn lội. Ba bốn bốn ba uyển chuyển thành mười hai. Chảy khắp ba lớp một mười trăm nghìn. Tổng quát đầu cuối trong sáu Căn. Từng loại công Đức có một nghìn hai trăm.

A Nan ! Ngài lại ở giữa hay quyết định hơn kém. Như mắt xem thấy trước sáng sau tối. Phía trước hoàn toàn sáng phía sau hoàn toàn tối. Bên phải trái xem hai phần ba. Tổng luận công Đức làm được không toàn vẹn. Công nói ba phần có một phần không có Đức. Nên biết mắt chỉ có tám trăm công Đức. Như tai nghe tràn khắp mười phương không để lại. Động nếu gần xa tranh cãi không có biên giới. Nên biết Căn tai đầy đủ một nghìn hai trăm công Đức. Như mũi ngửi nghe, hơi thở ra vào thông suốt. Có ra có vào mà giao nhau trong khoảng trống khuyết. Chứng nghiệm với Căn tai ba phần thiếu một. Nên biết mũi chỉ có tám trăm công Đức. Như Lưỡi tuyên bố hết Trí Thế gian Trí ra ngoài Thế gian. Nói có phân thành phương hướng, Lý không có tận cùng. Nên biết Căn lưỡi đầy đủ một nghìn hai trăm công Đức. Như thân hiểu chạm biết, biết với thuận nghịch. Khi hòa hợp có thể hiểu, rời giữa không biết. Rời một hòa hợp thành đôi. Chứng nghiệm ở Căn lưỡi ba phần thiếu mất một. Nên biết Thân chỉ có tám trăm Công Đức. Như Ý im lặng hòa vào Ba đời mười phương. Tất cả Pháp Thế gian, ra ngoài Thế gian. Chỉ có Thánh và người Phàm đều bao bọc nhận hết bến bờ này. Nên biết Căn ý đầy đủ một nghìn hai trăm công Đức.

A Nan ! Ngài nay muốn lội ngược giòng chảy ham muốn sinh chết. Trở về tận cùng gốc giòng chảy tới không sinh mất. Cần chứng nghiệm điều này cùng với sáu Căn nhận dùng. Cái gì hòa hợp cái gì rời, cái nào sâu cái nào cạn. Cái nào đầy đủ thông suốt, cái gì không đầy đủ. Nếu có thể ở đây hiểu Căn đầy đủ thông suốt, ngược lại từ xưa đó dệt thành giòng lưu chuyển Nghiệp ảo vọng. Được thông suốt đầy đủ tuần hoàn cùng với Căn không đầy đủ, Kiếp ngày trước cùng gấp bội.

Ta nay chuẩn bị hiện ra sáu sáng đầy đủ trong suốt. Vốn dĩ được công Đức số lượng như thế. Tùy Ngài lựa chọn rõ ràng, nó có thể vào. Ta đang phát sáng giúp Ngài tăng tiến. Như Lai mười phương với mười tám Cõi giới. Tu hành từng loại đều được đầy đủ Bình Đẳng Bồ Đề. Với trung gian này cũng không có hơn kém. Nhưng Ngài hèn yếu, chưa có thể ở đó, đầy đủ Trí tuệ Tự do. Cho nên Ta nói khen. Giúp Ngài chỉ vào sâu với một môn, vào một không ảo vọng. Sáu Căn biết đó cùng lúc Thanh tịnh.

A Nan báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Làm thế nào lội ngược giòng sâu vào một môn ? Có thể giúp sáu Căn cùng lúc Thanh tịnh.

Phật bảo A Nan ! Ngài nay đã được quả Tu Đà Hoàn. Đã mất Ba Cõi, đứt nghi hoặc thấy Thế gian chúng sinh. Đương nhiên do chưa biết tích chứa trong Căn, sinh tập luyện ảo vọng từ xưa. Tập luyện đó chủ yếu nhân do tu được đứt được. Huống gì ở trong này phân số bằng nhau, sinh dừng ở mất khác nhau. Nay Ngài tạm xem sáu Căn hiện ra là một hay là sáu.

A Nan ! Nếu nói một, tai không thấy ra sao, mắt không nghe ra sao. Đầu sao không bước đi, chân sao không nói. Nếu sáu Căn này quyết định thành sáu. Như hội nay của Ta cùng Ngài nói khen môn Pháp vi diệu. Sáu Căn của Ngài cái gì tới lĩnh nhận.

A Nan nói rằng : Con dùng tai nghe. Phật nói rằng : Tai Ngài tự nghe thân miệng liên quan tới cái gì. Miệng tới hỏi nghĩa, thân phát ra cung kính thừa hành. Vì thế nên biết không phải một cuối cùng là sáu, sáu sai cuối cùng là một. Cuối cùng không phải Căn của Ngài, vốn là một vốn là sáu.

A Nan ! Nên biết Căn đó một sai sáu sai. Do từ xưa tới nay đảo lộn thay nhau luân chuyển. Cho nên với trong suốt đầy đủ, sinh một và sáu nghĩa. Ngài là Tu Đà Hoàn tuy được sáu tiêu tan, do còn chưa mất một. Như khoảng Không bao la tham gia hòa hợp các khí cụ. Do hình tướng các khí cụ khác nhau, tên là Rỗng khác nhau. Loại trừ khí cụ xem Rỗng, nói Rỗng là nhất. Khoảng Không bao la đó, cái nào là Ngài, được cùng nhau không cùng nhau. Huống chi thêm tên là một một sai. Thời Ngài biết rõ sáu Căn nhận sử dụng, cũng lại như thế. Do các sáng tối hai loại so sánh. Ở trong đầy đủ vi diệu thấy phát ra trong suốt kết dính. Thấy Sắc tỏa tinh khiết kết Sắc thành Căn. Căn vốn là tinh thần cốt yếu, được bốn Lớn Thanh tịnh. Nhân do tên, hình thể mắt như hoa bồ đào. Căn trôi nổi Sắc chạy theo lưu chuyển bốn Trần. Do các động tĩnh hai loại cùng chạm biết. Ở trong đầy đủ vi diệu nghe phát ra trong suốt kết dính. Nghe âm thanh tỏa tinh khiết, cuốn lấy âm thanh thành Căn. Căn vốn là tinh thần cốt yếu, được bốn lớn Thanh tịnh. Nhân do tên, hình thể của tai như lá mới cuộn lại. Căn trôi nổi âm thanh chạy theo lưu chuyển bốn Trần. Do các thông suốt đầy kín hai loại cùng phát ra. Ở trong đầy đủ vi diệu ngửi phát ra trong suốt kết dính. Ngửi hương tỏa sáng tinh khiết, thu nạp hương thành Căn. Căn vốn là tinh thần cốt yếu, được bốn Lớn Thanh tịnh. Nhân do tên, hình thể của mũi như hai móng tay rủ xuống. Căn trôi nổi hương chạy theo bốn Trần lưu chuyển. Do các im lặng biến đổi hai loại cùng tham dự. Ở trong đầy đủ vi diệu thưởng thức, phát ra trong suốt kết dính. Thưởng thức mùi vị tỏa sáng tinh khiết, thắt chặt mùi vị thành Căn. Căn vốn là tinh thần cốt yếu, được bốn lớn Thanh tịnh. Nhân do tên, hình thể của Lưỡi như vầng trăng non nằm ngửa. Căn trôi nổi mùi vị chạy theo lưu chuyển bốn Trần. Do các rời hòa hợp, hai loại cùng cọ sát. Ở trong đầy đủ vi diệu hiểu phát ra trong suốt kết dính. Hiểu chạm biết tỏa sáng tinh khiết, bắt lấy chạm biết thành Căn. Căn vốn là tinh thần cốt yếu, được bốn Lớn Thanh tịnh. Nhân do tên, Thân thể như tấm chăn, hình giống cái trống Con đeo ở thắt lưng. Căn trôi nổi chạm biết chạy theo lưu chuyển bốn Trần. Do sinh mất cùng với hai loại liên tục. Ở trong đầy đủ vi diệu biết phát ra trong suốt kết dính. Biết Pháp tỏa sáng biết tinh khiết, ôm lấy Pháp thành Căn. Căn vốn là tinh thần cốt yếu, được bốn Lớn Thanh tịnh. Nhân do tên, ý nghĩ như thấy phòng tối. Căn trôi nổi Pháp chạy theo lưu chuyển bốn Trần.

A Nan ! Sáu Căn như thế. Do hiểu sáng đó có sáng hiểu sáng, mất biết rõ tinh khiết đó, quang phát ra kết dính. Vì thế nay Ngài rời sáng, rời tối không có thấy hình thể. Rời động rời tĩnh, chất nghe vốn không có. Không thông suốt không đầy kín, Tính ngửi không sinh. Biến đổi sai, yên tĩnh sai, thưởng thức không đâu hiện ra. Không rời không hòa hợp, chạm biết hiểu vốn dĩ không có. Không mất không sinh biết rõ nhờ yên ổn. Ngài chỉ không tuân theo động tĩnh, hòa hợp rời, yên tĩnh biến hóa, thông suốt đầy kín, sinh mất tối sáng. Như thế mười hai hình tướng Có làm, tùy theo cắt nhổ đi một Căn, thoát khỏi kết dính phục sẵn ở bên trong. Chân thực quay lại đầu tiên, phát ra sáng tỏ vốn có. Tính cháy sáng phát sáng, năm kết dính khác cần rút bỏ Giải thoát đầy đủ. Không do Trần trước phát ra Thấy biết. Sáng không tuân theo Căn, phát ra nhờ Căn sáng. Do sáu Căn đó hỗ trợ nhau thành tác dụng.

A Nan ! Ngài há không biết sao ? Nay trong hội này A Na Luật Đà không có mắt mà thấy. Bạt Nan Đà Long không có tai mà nghe. Mũi nữ Thần Hằng Già sai ngửi hương. Lưỡi Kiêu Phạm Bát Đề khác lạ biết mùi vị. Thần Thuấn Nhã Đa không có thân có chạm biết. Trong hào quang của Như Lai ánh tỏa giúp tạm hiện ra. Đã là vật chất của gió, hình thể này vốn không có. Các Định mất hết, được Thanh Văn im lặng. Như trong hội này Ma Ha Ca Diệp. Từ lâu mất Căn Ý, biết đầy đủ sáng tỏ, nghĩ nhớ không nhân do tâm.

A Nan ! Nay các Căn của Ngài nếu đã rút bỏ hoàn toàn, quang phát ra óng ánh bên trong. Như thế Trần trôi nổi cùng với khí cụ Thế gian. Các hình tướng biến hóa như đun chảy băng đá. Theo nghĩ nhớ hóa thành, hiểu biết Bình Đẳng.

A Nan ! Như người đời đó thấy tụ hợp với mắt. Nếu nhanh nhắm mắt lại, bóng tối hiện ra. Sáu Căn đương nhiên tối sầm, đầu chân cùng loại. Người đó dùng tay ràng buộc bên ngoài thân thể, nó tuy không thấy. Đầu chân một phân biệt, hiểu biết là cùng nhau. Thấy Duyên nhân do sáng, tối thành không thấy, tự phát ra không sáng. Liền các cảnh tướng tối vĩnh không thể tối. Căn Trần đã tiêu tan, vì sao biết sáng vi diệu đầy đủ không thành ?

A Nan báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Như Phật nói rằng : Tâm hiểu nhân do Trí tuệ, muốn cầu thường ở. Chủ yếu với quả chức vị tên gọi tương ứng.

Thế Tôn ! Trong quả chức vị như Bồ Đề, Niết Bàn, Chân Như, Phật, Tính, Thức thứ tám Rỗng, Trí tuệ tạng Như Lai tấm gương lớn đầy đủ. Bảy loại tên đó, nói gọi tuy có phân biệt, Thể Tính Thanh tịnh đầy đủ ngưng đọng kiên cố. Như Kim Cương quý nhất thường ở không hỏng. Nếu nghe thấy này rời với sáng tối. Động tĩnh thông suốt đầy kín, cuối cùng không có hình thể. Giống như tâm nghĩ nhớ rời với Trần trước vốn dĩ không đâu có. Nó sẽ ra sao cuối cùng cắt mất do vì sửa nguyên nhân. Muốn được bảy quả Thường ở của Như Lai.

Thế Tôn ! Nếu rời sáng tối cuối cùng thấy Rỗng. Như không có Trần trước, nghĩ nhớ mất tự Tính, tiến thoái tuần hoàn suy xét tỉ mỉ. Vốn dĩ không có tâm bản thân và được tâm bản thân. Cái gì sẽ tạo lập Nhân duyên cầu Bình Đẳng Giác. Như Lai trước đây nói, bình thường đầy đủ trong suốt tinh khiết. Ngược lại nói rằng cuối cùng thành đùa cợt tranh luận. Lời nói chân thực của Như Lai ra sao. Chỉ muốn Đại Từ mở ra tâm bủn xỉn mông muội của Con.

Phật bảo A Nan ! Ngài học Nghe nhiều chưa hết Phiền não. Trong tâm không biết nguyên nhân của đảo lộn. Đảo lộn chân thực hiện ra, chưa thể biết thực. Khủng bố tâm chân thành của Ngài, do chưa tin phục. Ta nay sẽ so sánh các việc Trần tục, đang bỏ hoài nghi của Ngài. Tức thời Như Lai bảo La Hầu La đánh một tiếng chuông. Hỏi A Nan nói rằng : Ngài nay nghe phải không ?

A Nan Đại Chúng cùng nói rằng : Con nghe chuông nghỉ không có âm thanh.

Phật lại hỏi nói rằng : Ngài nay nghe phải không ?

A Nan Đại Chúng cùng nói không nghe. Thời La Hầu La lại gõ một tiếng.

Phật lại hỏi nói rằng : Ngài nay nghe phải không ?

A Nan Đại Chúng lại nói rằng : Cùng nghe.

Phật hỏi A Nan. Ngài nghe ra sao, không nghe ra sao.

A Nan Đại Chúng cùng báo cáo Phật nói rằng : Tiếng chuông nếu được gõ thời Con được nghe. Gõ âm thanh lâu tiêu tan âm hưởng cùng mất, chắc tên là không nghe.

Như Lai lại bảo La Hầu La gõ chuông. Hỏi A Nan nói rằng : Nay âm thanh như thế phải không ?

A Nan nói rằng : Âm thanh. Giây phút âm thanh tan mất.

Phật lại hỏi nói rằng : Nay âm thanh như thế phải không ?

A Nan Đại Chúng trả lời nói rằng : Không có âm thanh. Khoảnh khắc La Hầu La lại khua chuông. Phật lại hỏi nói rằng : Nay âm thanh như thế phải không ?

A Nan Đại Chúng cùng nói rằng : Có âm thanh.

Phật hỏi A Nan. Ngài ! Âm thanh ra sao, không có âm thanh ra sao.

A Nan Đại Chúng cùng báo cáo Phật nói rằng : Tiếng chuông nếu gõ, chắc tên là có âm thanh. Gõ lâu âm thanh tiêu tan, âm hưởng cùng mất, chắc tên là không có âm thanh.

Phật bảo A Nan cùng với các Đại Chúng. Ngài nay tự nói uốn nắn loạn này ra sao.

Đại Chúng A Nan cùng lúc hỏi Phật. Con nay vì sao tên là uốn nắn loạn.

Phật nói rằng : Ta hỏi Ngài nghe, Ngài liền nói nghe. Mới lại hỏi Ngài âm thanh, Ngài liền nói âm thanh. Chỉ có nghe và âm thanh trả lời không nhất định. Như thế sao không có tên uốn nắn loạn.

A Nan ! Âm thanh tiêu tan không vang xa, Ngài nói không nghe được. Nếu thực không nghe, Tính nghe đã mất, cùng như cây khô. Gõ thêm tiếng chuông Ngài biết cái gì ? Biết có biết không, tự là Trần âm thanh. Hoặc có hoặc không, Tính nghe đó ra sao được có không của Ngài. Nghe thực không có, ai biết không có.

Vì thế A Nan ! Âm thanh ở trong nghe tự có sinh mất. Không phải là Ngài nghe, sinh âm thanh mất âm thanh. Giúp Tính nghe của Ngài là có hay là không. Ngài còn đảo lộn mê hoặc vì nghe âm thanh. Nghi hoặc mê muội, do thường bị đứt. Cuối cùng không nên nói rời các động tĩnh. Bế tắc khai thông, nghe nói không có Tính. Như người ngủ lại mê mệt trong gối đệm, gia đình này có người đảo luyện giã gạo trong lúc người đó ngủ. Người đó trong khi ngủ nghe được tiếng đảo giã gạo. Phân biệt các vật dùng để làm các việc khác nhau, hoặc là gõ trống, hoặc lại rung chuông. Tức thời với giấc mộng tự nghi hoặc chuông đó là âm hưởng của gỗ, đá. Khi đó bỗng nhiên tỉnh dậy biết ngay là âm của chày. Tự bảo người nhà lúc tôi đang ngủ nghi ngờ âm giã gạo này, sẽ là âm hưởng của tiếng trống.

A Nan ! Người đó trong mộng, há sao nhớ tĩnh lặng lay động mở đóng thông tắc. Hình trạng của họ tuy nằm ngủ nghe, Tính không mê muội. Dù cho hình thể của Ngài tiêu tan, hào quang của mệnh dời đi. Tính này vì sao bị Ngài tiêu diệt. Do các chúng sinh từ xưa tới nay. Các Thanh Sắc đuổi theo nghĩ nhớ tuần hoàn lưu chuyển. Từng chưa mở hiểu Tính thường Thanh tịnh vi diệu. Không theo bình thường, đuổi theo sinh mất. Do thế sinh sinh nhiễm hỗn tạp lưu chuyển. Nếu bỏ sinh mất, giữ bình thường chân thực, quang bình thường hiện ra. Tâm thức Căn Trần theo thời tan mất. Tưởng nhớ cùng là Trần, biết tình đều uế bẩn, hai cùng rời xa. Liền mắt Pháp của Ngài theo thời sáng Thanh tịnh. Sao không được hiểu biết Bình Đẳng.

Kinh Đại Phật đỉnh vạn hành Thủ Lăng Nghiêm quyển thứ tư.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10