Kinh Đại Phật đỉnh Thủ Lăng Nghiêm
Như Lai mật hành nhân tu chứng rõ nghĩa và Bồ Tát vạn hành

(Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
Hán dịch: Đường Thiên Trúc Sa Môn Bát Lạt Mật Đế
Việt dịch: Phật Tử Bùi Đức Huề dịch năm 2010-2013

 

QUYỂN THỨ BA

Lại nữa A Nan ! Tính Chân Như vi diệu tạng Như Lai trước kia với sáu Nhập ra sao ? A Nan tức thời mắt trong sáng ngơ ngác phát ra mệt mỏi, cả mắt và mệt mỏi cùng là Bồ Đề. Ngơ ngác phát ra mệt mỏi, nhân do ở đó sáng tối, hai loại Trần ảo vọng phát ra thấy ở trong đó. Hít vào hình tượng của Trần này, tên là thấy Tính. Thấy này rời hai Trần sáng tối đó, cuối cùng không có hình thể. Như thế A Nan ! Nên biết thấy đó, tới sáng tối sai. Hiện ra với Căn sai, sinh với Rỗng sai. Cớ là sao ? Nếu tới từ sáng. Tối tức thời mất theo, nên thấy tối sai. Nếu tới từ tối, sáng tức thời mất theo, nên không thấy sáng. Nếu sinh từ Căn, nhất định không có sáng tối. Như thế thấy trong sáng, vốn dĩ không có tự Tính. Nếu hiện ra với Rỗng, trước thấy kĩ hình tượng Trần, trở về đang thấy Căn. Lại tự xem Rỗng, cái gì liên quan tới vào của Ngài ? Vì thế nên biết mắt vào ảo vọng. Vốn dĩ Nhân duyên sai, Tính tự nhiên sai.

A Nan ! Nếu như có người, dùng hai ngón tay cấp tốc nút kín tai họ. Do tai họ mệt mỏi trong đầu phát ra âm thanh, cả tai và mệt mỏi cùng là Bồ Đề. Trừng mắt phát ra mệt mỏi nhân do ở đó động tĩnh, hai loại Trần ảo vọng phát ra nghe ở giữa. Hít lấy hình tượng của Trần này, tên là nghe ngửi Tính. Nghe này rời hai Trần động tĩnh đó, cuối cùng không có hình thể. Như thế A Nan ! Nên biết nghe đó tới động tĩnh sai, hiện ra với Căn sai, sinh không với Rỗng. Cớ là sao ? Nếu tới từ tĩnh, động tức thời mất theo, nên nghe động sai. Nếu tới từ động, tĩnh tức thời mất theo, nên không hiểu tĩnh. Nếu sinh từ Căn, nhất định không động tĩnh. Như thế thể loại nghe, vốn dĩ không có tự Tính. Nếu hiện ra với Rỗng, có nghe được Tính, tức thời khoảng Không sai. Lại tự nghe Rỗng, cái gì liên quan vào của Ngài ? Vì thế nên biết tai vào ảo vọng. Vốn dĩ Nhân duyên sai Tính tự nhiên sai.

A Nan ! Ví như có người, vội day vào mũi họ, day lâu thành mệt mỏi. Chắc là ở trong mũi nghe có Chạm biết lạnh. Nhân do Chạm biết phân biệt thông suốt đầy kín ảo thực. Như thế thậm chí các mùi thơm hôi, cả mũi và mệt mỏi cùng là Bồ Đề. Ngơ ngác phát ra mệt mỏi, nhân do ở đó thông suốt đầy kín, hai loại Trần ảo vọng phát ra, nghe thấy ở trong đó. Hít lấy hình tượng Trần này, tên là ngửi nghe Tính. Nghe này rời hai Trần thông suốt đầy kín đó, cuối cùng không có hình thể. Nên biết nghe đó tới thông suốt đầy kín sai, hiện ra với Căn sai, sinh không với Rỗng. Cớ là sao ? Nếu tới từ thông suốt, đầy kín tự mất theo, biết đầy kín ra sao ? Như có nhân do đầy kín, thông suốt chắc là không nghe. Thơm hôi và Chạm biết phát sáng ra sao ? Nếu sinh từ Căn nhất định không thông suốt đầy kín. Như thế thể loại nghe vốn dĩ không có tự Tính. Nếu hiện ra từ Rỗng. Nghe đó tự đang hướng về ngửi mũi Ngài, Rỗng tự có nghe, cái gì liên quan vào của Ngài ? Vì thế nên biết mũi vào ảo vọng, vốn dĩ Nhân duyên sai Tính tự nhiên sai.

A Nan ! Ví như có người dùng lưỡi liếm mép, liếm lâu làm cho mệt mỏi. Người này nếu bị bệnh chắc là có vị đắng, người không có bệnh Chạm biết có chút xíu ngọt. Do ngọt và đắng hiện rõ Căn lưỡi này, lúc không động Tính nhạt thường tồn tại. Cả lưỡi và mệt mỏi cùng là Bồ Đề, ngơ ngác phát ra mệt mỏi nhân do ngọt đắng nhạt. Hai loại Trần ảo vọng phát ra biết ở bên trong. Hít lấy hình tượng Trần này, tên là biết Tính của vị. Biết Tính của vị này, rời ngọt đắng đó, cùng với hai Trần của nhạt, cuối cùng không có hình thể. Như thế A Nan ! Nên biết như thế, biết nếm đắng nhạt. Tới đắng ngọt sai, Có nhân do nhạt sai. Lại hiện ra Căn sai, sinh không với Rỗng. Cớ là sao ? Nếu đắng ngọt tới. Nhạt tức thời biết mất, biết nhạt ra sao. Nếu hiện ra từ nhạt, ngọt tức thời biết mất. Lại biết được hai tướng ngọt đắng ra sao ? Nếu sinh từ lưỡi, nhất định không có ngọt nhạt cùng với Trần đắng. Biết Căn vị này vốn dĩ không có tự Tính. Nếu hiện ra với Rỗng, tự mùi vị trống rỗng, biết miệng của Ngài sai. Lại tự biết Rỗng, cái gì liên quan vào của Ngài. Vì thế nên biết lưỡi vào ảo vọng. Vốn dĩ Nhân duyên sai, Tính tự nhiên sai.

A Nan ! Ví như có người, dùng một tay lạnh tiếp Chạm biết với tay nóng. Nếu lạnh áp đảo nóng theo lạnh. Nếu nóng thắng thế lạnh thành nóng. Như thế dùng cái này hòa hợp với chạm biết, hiện rõ với rời biết. Từng tình thế nếu thành, nhân do Chạm biết mệt mỏi. Cả thân và mệt mỏi cùng là Bồ Đề. Ngơ ngác phát ra tướng mệt mỏi, nhân do hòa hợp rời. Hai loại Trần ảo vọng phát ra hiểu ở bên trong. Hít lấy hình tượng Trần này, tên là Tính hiểu biết. Hình thể hiểu biết nay, rời hòa hợp rời đó, hai Trần thuận nghịch, cuối cùng không có hình thể. Như thế A Nan ! Nên biết hiểu đó, tới hòa hợp rời sai, có thuận nghịch sai. Hiện ra không với Căn, lại sinh Rỗng sai. Cớ là sao ? Nếu tới lúc hòa hợp. Rời nên đã mất, hiểu rời ra sao ? Hai tướng thuận nghịch cũng lại như thế. Nếu hiện ra từ Căn. Nhất định không có hòa hợp rời, bốn hình tướng thuận nghịch. Chắc là thân Ngài biết vốn không có tự Tính. Nhất định hiện ra với Rỗng, tự hiểu biết Rỗng, cái gì liên quan vào của Ngài ? Vì thế nên biết thân vào ảo vọng. Vốn dĩ Nhân duyên sai, Tính tự nhiên sai.

A Nan ! Ví như có người mệt mỏi chắc là ngủ nhiều liền thức dậy. Xem xét nhớ này của Trần, nhớ mất là ảo vọng, đó là đảo lộn này sinh ở mất khác. Hít lấy trở về trong tập luyện, không cùng vượt qua, gọi là ý biết Căn. Cả ý và mệt mỏi cùng là Bồ Đề. Ngơ ngác phát ra hình tướng mệt mỏi, nhân do với sinh mất. Hai loại Trần ảo vọng tập hợp biết ở bên trong. Hít lấy tóm gọn ở trong Trần, nghe thấy giòng chảy ngược, giòng chảy không cùng với đất, tên là Tính hiểu biết. Tính hiểu biết này, rời thức ngủ đó, hai Trần sinh mất, cuối cùng không có hình thể. Như thế A Nan ! Nên biết Căn hiểu biết như thế, tới thức ngủ sai, Có sinh mất sai. Hiện ra không với Căn cũng sinh Rỗng sai. Cớ là sao ? Nếu tới từ thức. Ngủ tức thời mất theo, ngủ sẽ ra sao, nhất định Có khi sinh. Mất tức thời cùng không có, giúp cho nhận mất cái gì. Nếu Có từ mất, sinh tức thời mất không có, biết rõ sinh đó. Nếu hiện ra từ Căn. Hai tướng thức ngủ theo thân mở ra khép lại, rời hai hình thể này hiểu biết này. Cùng với hoa ảo, cuối cùng không có Tính. Nếu sinh từ Rỗng. Tự biết Rỗng đó, cái gì liên quan vào của Ngài. Vì thế nên biết ý vào ảo vọng. Vốn dĩ Nhân duyên sai, Tính tự nhiên sai.

Lại nữa A Nan ! Tính Chân Như vi diệu tạng Như Lai trước kia với mười hai nơi ra sao ? A Nan ! Ngài hãy xem rừng cây Kì Đà này cùng với các đầm giếng. Ý là sao ? Các loại này là thế, Sắc sinh mắt thấy, mắt sinh tướng Sắc. A Nan ! Nếu lại Căn mắt sinh tướng Sắc, thấy Rỗng Sắc sai, Tính Sắc nên tiêu tan. Tiêu tan chắc là phát ra rõ, tất cả đều không có. Tướng Sắc đã không có, chất Rỗng cái gì sáng, Rỗng cũng như thế. Nếu lại Trần Sắc sinh mắt thấy, xem Rỗng Sắc sai, thấy tức thời tan mất.

Mất chắc đều không có, Sắc Rỗng sáng cái gì. Vì thế nên biết thấy và Sắc Rỗng, đều không có nơi ở. Tức thời Sắc và thấy hai nơi ảo vọng. Vốn dĩ Nhân duyên sai, Tính tự nhiên sai.

A Nan ! Ngài lại nghe trong vườn Kì Đà này. Ăn cơm đánh trống, tập hợp Chúng gõ chuông, âm thanh của chuông trống trước sau liên tục. Ý là thế nào ? Những thứ này là thế, tiếng tới bên tai, tai đi tới nơi âm thanh. A Nan ! Nếu lại tiếng này tới ở bên cạnh tai. Như Ta xin cơm tới thành Thất La Phiệt. Ở rừng Kì Đà chắc là không có Ta. Tiếng này nhất định tới nơi tai của A Nan. Mục Liên Ca Diệp cần không cùng nghe. Huống chi một nghìn hai trăm năm mươi Sa Môn ở trong này. Nghe một tiếng chuông cùng tới nơi ăn. Nếu lại tai của Ngài đi tới bên cạnh âm thanh đó. Như Ta trở về ở trong rừng Kì Đà, ở thành Thất La chắc là không có Ta. Ngài nghe tiếng trống. Tai này đã đi tới nơi đánh trống, tiếng chuông cùng lúc kêu, cần không cùng nghe. Huống chi trong này đủ loại tiếng vang của voi ngựa trâu dê. Nếu không đi tới cũng lại không nghe. Vì thế nên biết nghe và âm thanh đều không có nơi ở. Tức thời nghe và âm thanh hai nơi ảo vọng. Vốn dĩ Nhân duyên sai, Tính tự nhiên sai.

A Nan ! Ngài lại ngửi hương Chiên đàn ở trong lư này. Hương này nếu lại đốt với một thù. Trong vòng hai mươi cây số của thành Thất La Phiệt, thời cùng ngửi khí hương. Ý là thế nào ? Hương này lại là cây Chiên đàn sinh. Sinh nơi mũi Ngài, hay là sinh với Rỗng. A Nan ! Nếu lại hương này sinh nơi mũi Ngài, nói sinh nơi mũi, nên hiện ra từ mũi. Mũi không phải Chiên đàn. Sao có mùi hương Chiên đàn ở trong mũi ? Nói Ngài ngửi hương, đang vào nơi mũi. Nói trong mũi hiện ra hương, nói nghe nghĩa sai. Nếu sinh với Rỗng. Tính Rỗng thường lâu bền, hương cần thường ở. Gỗ khô này đốt cháy củi gì trong lò ? Nếu sinh với gỗ, chắc chất hương này thành khói nhân do đốt. Nếu mũi được ngửi, hòa hợp được khí khói, khói này bay trong Rỗng, chưa kịp bay xa. Làm sao ngửi thấy trong vòng hai mươi cây số ? Vì thế nên biết thơm hôi và ngửi, đều không có nơi ở. Tức thời ngửi và hương hai nơi ảo vọng. Vốn dĩ Nhân duyên sai, Tính tự nhiên sai.

A Nan ! Ngài thường cầm bát trong Chúng hai lần. Thời gian này nếu gặp bơ sữa đặc, sữa tươi tên là vị tốt nhất. Ý là thế nào ? Vị này nếu lại sinh ở trong Rỗng. Sinh ở trong lưỡi hay là sinh trong thức ăn. A Nan ! Nếu lại vị này sinh nơi lưỡi Ngài, ở trong miệng Ngài yên có một lưỡi. Khi đó lưỡi này đã thành vị bơ. Gặp mật đường đen cần không đổi rời đi. Nếu không biến đổi rời, không tên là biết mùi vị. Nếu biến đổi rời, nhiều hình thể lưỡi sai. Làm sao một lưỡi biết nhiều mùi vị ? Nếu sinh ở thức ăn, thức ăn biết có sai, làm sao tự biết ? Mới lại thức ăn tự biết, tức thời cùng với thức ăn khác. Cái gì can dự tới Ngài tên là biết mùi vị. Nếu sinh với Rỗng, Ngài ăn khoảng Không, đang làm ra vị gì. Nhất định khoảng Không này nếu làm ra vị mặn. Lưỡi Ngài đã mặn mặt Ngài cũng mặn, chắc là người của Thế giới này cùng như với cá biển. Thường đã ăn mặn, biết không biết nhạt, nếu không biết nhạt, cũng không hiểu mặn. Nhất định không đâu biết, tên vị ra sao. Vì thế nên biết lưỡi mùi vị và nếm, đều không có nơi ở. Tức thời nếm và mùi vị, hai đều ảo vọng. Vốn dĩ Nhân duyên sai, Tính tự nhiên sai.

A Nan ! Sáng sớm Ngài thường dùng tay xoa đầu. Ý này thế nào ? Biết được cọ sát này chỉ do có thể chạm biết, có thể là ở tay hay là lại ở đầu. Nếu ở trên tay, đầu chắc không biết, vì sao được chạm biết. Nếu ở trên đầu. Tay chắc không có tác dụng, vì sao tên là chạm biết. Nếu từng loại có, chắc là Ngài A Nan cần có hai thân. Nếu đầu và tay một Chạm biết được sinh, chắc tay và đầu cần là một hình thể. Nếu một hình thể Chạm biết chắc không được. Nếu hai hình thể, Chạm biết cái gì ở đâu. Ở có thể nơi sai, ở nơi có thể sai. Không cần khoảng Không với Ngài được chạm biết. Vì thế nên biết, hiểu Chạm biết và thân, đều không có nơi ở. Tức thời thân và chạm biết, hai đều ảo vọng. Vốn dĩ Nhân duyên sai, Tính tự nhiên sai.

A Nan ! Ngài thường trong ý nghĩ có quả thiện ác, không nhớ ba Tính sinh thành Pháp. Chắc là Pháp này vì trở lại, tức thời sinh nơi tâm. Nếu đang rời tâm, phân biệt có nơi ở. A Nan ! Nếu tức thời là tâm, Pháp chắc là Trần sai, tâm duyên sai, làm sao được nơi ? Nếu rời với tâm, phân biệt có nơi ở, chắc là tự Tính của Pháp, là biết biết sai. Biết chắc tên là tâm, Ngài khác Trần sai. Cùng khác tâm so lường, tức là Ngài tức là tâm. Tâm Ngài vì sao thêm hai với Ngài ? Nếu biết sai, Trần này đã sai, Sắc Thanh Hương Vị rời hòa hợp nóng lạnh, cùng với hình tướng trống rỗng, cần ở nơi nào ? Nay với Sắc Rỗng, đều không tỏ ra, nhân gian không cần thêm có bên ngoài Rỗng. Tâm được duyên sai, ở từ cái gì lập thành. Vì thế nên biết, Pháp chắc là với tâm, đều không có nơi ở. Chắc là ý và Pháp hai đều ảo vọng. Vốn dĩ Nhân duyên sai, Tính tự nhiên sai.

Lại nữa A Nan ! Tính Chân Như vi diệu tạng Như Lai trước kia của mười tám Pháp giới thế nào ? A Nan ! Như Ngài sáng rõ, Sắc mắt là quả sinh với Biết của mắt. Biết này vì lại được sinh nhân do mắt, dùng làm Cõi giới. Được sinh nhân do Sắc, dùng Sắc làm Cõi giới. A Nan ! Nếu sinh nhân do mắt, đã không có Sắc Rỗng, không thể phân biệt. Nếu có Biết của Ngài, muốn cùng sử dụng ra sao. Ngài lại thấy xanh vàng đỏ trắng sai. Không đâu tỏ ra, lập Cõi giới từ cái gì. Nếu sinh nhân do Sắc, thời Rỗng không có Sắc, Biết của Ngài nên mất. Làm sao nhớ Biết Tính khoảng Không đó ? Nếu lúc Sắc biến đổi, Ngài cũng Biết được nó, tướng Sắc biến rời. Biết của Ngài không rời, Cõi giới lập thành từ cái gì ? Theo biến đổi chắc là biến đổi, tướng Cõi giới tự không có, không biến đổi chắc lâu bền, đã sinh từ Sắc, nên không hiểu biết, nơi ở khoảng Không. Nếu cả hai loại Sắc mắt cùng sinh, hòa hợp chắc là rời giữa, rời chắc là hai hòa hợp. Tính hình thể tạp loạn, vì sao được Cõi giới ? Vì thế nên biết Sắc mắt là quả sinh Cõi giới Biết của mắt. Ba nơi đều không có, chắc là mắt và Sắc cùng với Cõi Sắc ba loại. Vốn dĩ Nhân duyên sai, Tính tự nhiên sai.

A Nan ! Mới lại Ngài sáng rõ, âm thanh nơi tai là quả sinh với Biết của tai. Biết này vì lại được sinh nhân do tai, dùng tai làm Cõi giới. Được sinh nhân do âm thanh, dùng âm thanh làm Cõi giới. A Nan ! Nếu sinh nhân do tai, hai tướng động tĩnh đã không hiện ra. Biết Căn không được, nhất định không đâu biết. Biết còn không được, Biết hình mạo ra sao ? Nếu tai nghe giữ, do không động tĩnh, nghe không đâu được. Vì sao nghe được Chạm biết Trần nhiều Sắc hình, tên là Cõi giới Biết. Chắc Cõi giới Biết của tai lại từ cái gì thành lập. Nếu sinh với âm thanh, Biết có nhân do âm thanh, chắc là không có quan hệ với nghe. Không nghe chắc âm thanh biến mất cùng với nơi ở. Biết sinh từ âm thanh, nhân do nghe nhận được âm thanh mà có hình tướng của âm thanh. Nghe cần Biết nghe, không nghe Cõi giới sai. Nghe chắc là cùng âm thanh, Biết đã chịu nghe, nhớ nghe Biết cái gì. Nếu không biết cuối cùng như là gỗ cỏ, không nên nghe tiếng tạp loạn được Cõi giới giữa. Cõi giới không có vị trí giữa, chắc là tướng bên trong ngoài lại được từ cái gì ? Vì thế nên biết âm thanh nơi tai là quả sinh Cõi giới Biết của tai, ba nơi đều không có. Chắc là tai và âm thanh cùng với Cõi giới âm thanh ba loại. Vốn dĩ Nhân duyên sai, Tính tự nhiên sai.

A Nan ! Mới lại Ngài sáng rõ, Hương của mũi là duyên sinh nơi Biết của mũi. Biết này vì lại được sinh nhân do mũi, dùng mũi làm Cõi giới, được sinh nhân do Hương, dùng hương làm Cõi giới. A Nan ! Nếu sinh nhân do mũi, chắc là trong tâm Ngài, dùng cái gì làm mũi ? Là giữ tướng hai móng tay mập mạp, hay là giữ Tính dao động của ngửi. Nếu lấy thân hình mập, vật chất là thân, thân biết tức thời chạm biết. Tên là mũi sai của thân, tên là Chạm biết tức là Trần. Mũi còn không có tên, lập Cõi giới ra sao ? Nếu giữ biết của ngửi. Mới lại trong tâm Ngài dùng cái gì để biết, dùng thân thể để biết. Chắc là biết Chạm biết ban đầu của xác thịt không phải mũi. Dùng Rỗng để biết, Rỗng chắc tự biết xác thịt nên hiểu sai. Như thế chắc thuận theo khoảng Không hay Ngài. Thân Ngài biết sai. Hiện nay A Nan cần không ở đây. Dùng hương để biết. Tự biết loại hương, cái gì tham dự với Ngài ? Nếu mùi thơm hôi nhất định sinh ở mũi Ngài. Chắc là thơm hôi đó hai loại luồng khí, không sinh Lan này và gỗ Chiên đàn. Hai vật không tới, Ngài tự mũi ngửi, là thơm hay là hôi. Hôi chắc là thơm sai, thơm nên hôi sai. Nếu thơm hôi hai đều có thể ngửi. Chắc là một người Ngài cần có hai mũi. Ngược lại Ta hỏi, đường có hai A Nan, ai là hình thể của Ngài. Nếu mũi là một, thơm hôi không có hai, hôi đã là thơm, thơm lại thành hôi. Hai Tính không có, Cõi giới lập từ cái gì. Nếu sinh nhân do Hương, Biết có nhân do Hương. Như mắt thấy có, mắt không thể xem. Có nhân do Hương cho nên cần không biết Hương. Biết chắc là sinh sai, không biết Biết sai. Hương có biết sai, Cõi giới Hương không thành. Biết không biết hương. Nhân do Cõi giới chắc là thiết lập từ Hương sai. Đã không có trung gian, không được bên trong ngoài. Các Tính ngửi đó cuối cùng ảo vọng. Vì thế nên biết Hương của mũi là quả sinh Cõi giới Biết mũi, ba nơi đều không có. Chắc là mũi và Hương cùng với Cõi giới Hương ba loại. Vốn dĩ Nhân duyên sai, Tính tự nhiên sai.

A Nan ! Lại nữa Ngài sáng rõ. Mùi vị của lưỡi là quả sinh với Biết của lưỡi. Biết này vì lại được sinh nhân do lưỡi, dùng lưỡi làm Cõi giới, được sinh nhân do mùi vị, dùng mùi vị làm Cõi giới. A Nan ! Nếu sinh nhân do lưỡi. Chắc là mía ngọt ô mai, hoàng liên muối mỏ, Tế tân gừng quế của các Thế gian, đều không có mùi vị. Ngài tự dùng lưỡi nếm là ngọt hay là đắng. Nếu Tính lưỡi đắng lưỡi nếm cái gì tới, lưỡi không tự nếm, thuần thục là hiểu biết. Tính lưỡi không phải đắng, mùi vị tự không sinh, lập Cõi giới ra sao ? Nếu sinh nhân do mùi vị, Biết tự là mùi vị, cùng với Căn lưỡi cần không tự nếm. Nhớ Biết cái gì ? Là mùi vị mùi vị sai, mới lại tất cả mùi vị, sinh một vật sai, vị đã sinh nhiều, Biết cần nhiều hình thể. Hình thể của Biết nếu một, thể loại nhất định sinh mùi vị, mặn nhạt ngọt cay hòa hợp cùng sinh. Các biến dạng cùng nhau được một vị, nên không phân biệt. Phân biệt đã không có, chắc là không Biết tên. Vì sao lại tên là Cõi giới Biết Vị của lưỡi ? Không cần sinh khoảng Không sinh Tâm thức của Ngài. Vị lưỡi hòa hợp tức thời ở giữa đó. Vốn không có tự Tính, sinh Cõi giới ra sao. Vì thế nên biết vị của lưỡi là quả sinh Cõi giới Biết lưỡi, ba nơi đều không có. Chắc là lưỡi và mùi vị cùng với Cõi giới lưỡi ba loại. Vốn dĩ Nhân duyên sai, Tính tự nhiên sai.

A Nan ! Mới lại Ngài sáng rõ, Chạm biết của thân là quả sinh nơi Biết của thân. Biết này vì lại được sinh nhân do thân, dùng thân làm Cõi giới. Được sinh nhân do chạm biết, lấy Chạm biết làm Cõi giới. A Nan ! Nếu sinh nhân do thân, nhất định không hòa hợp rời. Hai hiểu xem duyên, thân Biết ra sao. Nếu sinh nhân do chạm biết, nhất định không có thân Ngài. Ai có thân sai, biết hòa hợp rời. A Nan ! Vật không chạm biết, thân biết nhớ có chạm biết. Biết thân tức thời chạm biết, biết Chạm biết tức là thân. Tức thời Chạm biết thân sai, tức thời thân Chạm biết sai. Hai tướng Chạm biết của thân, vốn không có nơi ở. Hòa hợp tức thời là tự Tính hình thể của thân. Rời tức thời là khoảng Không và hình tướng. Bên trong ngoài không thành, giữa thành lập ra sao, giữa không trở lại lập thành, Tính bên trong ngoài Rỗng. Tức thời sinh Biết của Ngài, từ cái gì lập thành Cõi giới. Vì thế nên biết, Chạm biết của thân là quả sinh Cõi giới Biết của thân, ba nơi đều không có. Chắc là thân và Chạm biết cùng với Cõi giới thân ba loại. Vốn dĩ Nhân duyên sai, Tính tự nhiên sai.

A Nan ! Mới lại Ngài sáng rõ, ý Pháp là quả sinh với ý thức. Biết này vì lại được sinh nhân do ý, dùng ý làm Cõi giới. Được sinh nhân do Pháp, dùng Pháp làm Cõi giới. A Nan ! Nếu sinh nhân do ý ở trong ý của Ngài, nhất định có được nghĩ phát sáng ý Ngài. Nếu Pháp không có trước, ý không đâu sinh, rời quả không có hình ảnh, Biết sẽ dùng cái gì. Mới lại tâm Biết của Ngài và các nghĩ đo lường, cả hai rõ ràng Tính phân biệt là như nhau hay là khác nhau. Cùng ý tức thời ý được sinh sao, ý khác không cùng nhau, cần không đâu Biết. Nếu không đâu Biết, ý sinh thế nào, nếu có được Biết, ý Biết ra sao ? Chỉ cùng nhau và khác nhau, hai Tính không thành, lập Cõi giới ra sao. Nếu sinh nhân do Pháp. Các Pháp của Thế gian không rời năm Trần. Ngài xem Sắc Pháp cùng các Pháp âm thanh, Pháp hương, Pháp mùi vị. Cùng với Pháp Chạm biết cùng trạng thái rõ ràng. Do năm Căn ngược lại, hút lấy được ý sai. Biết của Ngài quyết định dựa vào sinh Pháp. Ngài nay xem kĩ Pháp, Pháp trạng thái ra sao ? Nếu rời Sắc Rỗng, động tĩnh thông suốt đầy kín hòa hợp rời sinh mất. Vượt qua các hình tướng này, cuối cùng không đâu được. Sinh chắc Sắc Rỗng, các Pháp cùng sinh mất, chắc là Sắc Rỗng, các Pháp cùng mất. Bởi nhân đã không có, Biết có nhân do sinh, làm hình tướng ra sao. Cùng trạng thái không có, Cõi giới sinh thế nào ? Vì thế nên biết ý Pháp là quả sinh Cõi giới ý thức, ba nơi đều không có. Chắc là ý và Pháp cùng với Cõi giới ý ba loại. Vốn dĩ Nhân duyên sai, Tính tự nhiên sai.

A Nan báo cáo Phật nói rằng: Thế Tôn ! Như Lai thường nói Nhân duyên hòa hợp. Đủ loại biến hóa của tất cả Thế gian, đều nhân do bốn Lớn hòa hợp phát sáng. Vì sao Nhân duyên tự nhiên, cả hai Như Lai đều bài trừ. Con nay không biết đầy đủ nghĩa này. Rủ lòng thương xót mở tỏ rõ cho chúng sinh. Giữa Đạo rõ nghĩa không nói đùa Pháp.

Khi đó Thế Tôn bảo A Nan nói rằng : Ngài trước đây chán rời các Pháp Bậc nhỏ của Thanh Văn Duyên Giác. Phát tâm siêng cầu Đạo Bình Đẳng Bồ Đề. Cho nên Ta nay thời vì Ngài mở tỏ ra Nghĩa tướng chân thực (không có tướng). Như thế lại cùng luận bàn Thế gian. Ảo tưởng Nhân duyên và nhiễu loạn tự ràng buộc. Ngài tuy Nghe nhiều, như nói người uống thuốc. Thuốc tốt hiện ra không thể phân biệt. Như Lai nói là chân thực có thể thương xót. Ngài nay nghe Tuệ ! Ta đang vì Ngài phân biệt mở tỏ rõ. Cũng giúp người tu Pháp Bậc Phật trong đời Sắp tới thông suốt Tướng chân thực. A Nan im lặng nhận Thánh chỉ của Phật.

A Nan ! Như Ngài nói bốn Lớn hòa hợp. Phát sáng đủ loại biến hóa của Thế gian. A Nan ! Nếu Thể Tính của Lớn đó hòa hợp sai. Chắc không thể hòa hợp tạp nham với các Lớn, giống như khoảng Không, không hòa hợp các Sắc. Nếu hòa hợp cùng với biến hóa, cùng thành đầu thành đuôi, sinh mất liên tục. Sinh chết chết sinh, sinh sinh chết chết, như bánh xe lửa xoay tròn chưa có ngừng nghỉ. A Nan ! Như nước thành băng đá, băng đá tan lại thành nước. Ngài xem Tính đất, thô là Đất lớn, nhỏ là bụi Trần. Tới gần kề bụi Rỗng tách nó ra thành cực nhỏ. Biên giới của Sắc cùng thành bảy phần. Càng tách ra gần Rỗng tức thời Tính Rỗng chân thực. A Nan ! Nếu gần kề Rỗng này, tách ra thành khoảng Không. Nên biết khoảng Không hiện ra tướng Sắc. Ngài nay hỏi nói rằng do vì hòa hợp. Sinh các hình tướng biến hóa của Thế gian. Ngài hãy xem một hạt bụi gần kề Rỗng này. Dùng bao nhiêu khoảng Không hòa hợp mà có, không cần gần kề Rỗng hòa hợp thành gần Rỗng. Mới lại bụi gần kề Rỗng tách ra vào Rỗng, dùng bao nhiêu tướng Sắc hòa hợp thành khoảng Không. Nếu lúc Sắc hòa hợp, Sắc hòa hợp Rỗng sai. Nếu lúc Rỗng hòa hợp, Rỗng hòa hợp Sắc sai, Sắc do có thể tách ra, Rỗng hòa hợp thế nào ? Ngài vốn không biết trong tạng Như Lai. Sắc Tính Rỗng chân thực, Rỗng Tính Sắc chân thực. Như thế vốn Thanh tịnh đầy khắp Cõi Pháp. Tùy tâm chúng sinh cần biết tiên lượng. Phát hiện thứ tự Nghiệp, Thế gian không biết. Hoặc là Nhân duyên cùng với Tính tự nhiên. Đều là tâm thức phân biệt, tính kế vượt qua, chỉ có nói rằng đều không có nghĩa thực.

A Nan ! Tính lửa không có bản thân, gửi nhờ theo các duyên. Ngài xem trong thành, gia đình chưa nấu ăn, lúc muốn nấu cơm. Tay cầm dụng cụ lấy lửa giương ra trước mặt Trời tìm kiếm lửa. A Nan ! Tên là hòa hợp. Như Ta và Ngài một nghìn hai trăm năm mươi Tì Kheo nay là một nhóm. Nhóm tuy có một, hỏi gốc rễ của họ, từng người có thân. Đều có được sinh. Họ tộc tên chữ, như Xá Lợi Phất giống Bà La Môn. Ưu Lô Tần Loa Ca Diệp giống Ba, thậm chí A Nan họ giống Cồ Đàm.

A Nan ! Nếu Tính lửa này nhân do hòa hợp mà có. Tay họ cầm kính với mặt Trời tìm lửa. Lửa này là từ trong kính mà hiện ra, hay là từ lá ngải hiện ra, hay là tới với mặt Trời. A Nan ! Nếu mặt Trời tới, tự có thể thiêu cháy lá ngải ở trên tay Ngài, tới nơi rừng cây đều cần nhận đốt. Nếu hiện ra trong kính, tự có thể với kính, hiện ra đốt cháy lá ngải, kính sao không nung đỏ. Tay Ngài giữ còn chưa thấy nóng sao lại phân tán ? Nếu sinh với lá ngải, sao lại dựa vào kính và mặt Trời, Quang sáng sau khi thiêu đốt liên tiếp sinh lửa. Ngài lại xem kĩ kính nhân do tay giữ, mặt Trời từ trên Trời tới, cây ngải vốn dĩ sinh trên đất, lửa từ phương nào đi tới ở đây. Mặt Trời kính cùng rời bỏ, hòa sai hợp sai. Không cần ánh lửa không tới tự có. Do Ngài không biết trong tạng Như Lai. Tính lửa Rỗng chân thực, Rỗng Tính lửa chân thực. Thanh tịnh vốn như thế đầy khắp Cõi Pháp. Tùy tâm chúng sinh cần biết tiên lượng. A Nan ! Nên biết người đời giữ kính một nơi lửa sinh một nơi. Phát ra khắp Cõi Pháp tràn đầy Thế gian, phát ra khắp Thế gian chắc có nơi ở. Phát hiện thứ tự Nghiệp, Thế gian không biết, hoặc là Nhân duyên cùng Tính tự nhiên. Đều là tâm thức phân biệt, tính kế vượt qua, chỉ có nói rằng nghĩa đều không thực.

A Nan ! Tính nước không cố định chảy dừng không lâu dài. Như thành Thất La Tiên Ca Tì La, Tiên Chước Ca La, cùng với Bát Đầu Ma Ha Tát Đa là các Thầy ảo thuật lớn. Cầu sao Thái Âm dùng để hòa thuốc ảo, các thầy này với mặt Trăng giữa ban ngày. Tay cầm phương tiện hứng nhận mặt Trăng trong nước, nước này vì lại hiện ra từ châu ngọc. Trong Rỗng tự có, hay tới từ mặt Trăng. A Nan ! Nếu tới từ mặt Trăng. Nơi xa còn có thể giúp cho châu hiện ra nước. Qua các rừng cây đều cần nhả ra dòng chảy. Nước chảy ra chắc được châu hiện ra theo cách nào, nước rõ ràng không chảy ra, không phải từ mặt Trăng giáng xuống. Nếu hiện ra từ châu chắc là trong châu này thường cần dòng nước chảy. Trong đêm xử trí ra sao, hứng nhận mặt Trăng giữa ban ngày. Nếu sinh từ Rỗng, Tính Rỗng không có biên giới, nước đang không có giới hạn. Từ người đến Trời đều cùng giam hãm nổi chìm. Sao lại có đi bộ, đi trong nước, đi trong không trung. Ngài cần xem đúng mặt Trăng từ trên Trời cao, châu nhân do tay giữ, bát hứng nhận nước từ châu, vốn dĩ do người bày đặt ra. Nước từ nơi nào chảy ra chỗ này, mặt Trăng châu cùng ở xa không hòa không hợp, không cần nước tinh khiết, không từ đâu tự có. Ngài còn chưa biết trong tạng Như Lai, nước Tính Rỗng chân thực, Rỗng Tính nước chân thực. Thanh tịnh vốn như thế đầy khắp Cõi Pháp, tùy tâm chúng sinh cần biết tiên lượng. Cầm châu một nơi nước chảy ra một nơi, giữ khắp Cõi Pháp, sinh đầy khắp Cõi Pháp. Sinh đầy khắp Thế gian, chắc có nơi ở. Phát hiện thứ tự Nghiệp, Thế gian không biết. Hoặc là Nhân duyên cùng với Tính tự nhiên, Đều là tâm thức phân biệt, tính kế vượt qua. Chỉ có nói rằng nghĩa đều không thực.

A Nan ! Tính của gió không có hình thể, động tĩnh thay đổi. Ngài thường chỉnh trang quần áo vào trong Đại Chúng. Mảnh áo Già Sa động và người bên cạnh, chắc là có gió nhẹ, phảng phất vào mặt người đó. Gió này nếu lại hiện ra vạt áo Già Sa, bay ra khoảng Không, sinh trước mặt người đó. A Nan ! Gió này nếu lại hiện ra vạt áo Già Sa. Ngài lại lướt gió. Áo này bay đi, rời thân thể của Ngài. Ta nay trong hội nói Pháp áo rủ xuống. Ngài thấy áo của Ta gió ở nơi nào, không muốn trong áo có nơi chứa gió. Nếu sinh trong khoảng Không. Áo Ngài không động nhân do cái gì mà không phảng phất. Tính Rỗng thường ở, gió cần thường sinh. Nếu lúc không có gió, đang mất trong khoảng Không, có thể thấy gió tắt mất, Rỗng mất trạng thái ra sao ? Nếu có sinh mất, không tên là khoảng Không, tên là khoảng Không, gió xuất hiện ra sao ? Nếu gió tự sinh, phảng phất trước mặt người đó, sinh từ mặt của họ, cần phảng phất trước Ngài. Ngài tự chỉnh quần áo, phảng phất đảo lộn ra sao. Ngài xem thực kĩ, chỉnh quần áo tại chỗ Ngài, người đó phụ thuộc bên cạnh. Khoảng Không tĩnh lặng không xen vào chuyển động, gió từ phương nào rung động tới nơi này. Tính Rỗng của gió ngăn cách, hòa sai hợp sai. Tính của gió không thuận, tự có không tới. Ngài quanh co không biết trong tạng Như Lai. Gió Tính Rỗng chân thực, Rỗng Tính gió chân thực. Thanh tịnh vốn dĩ như thế đầy khắp Cõi Pháp. Tùy tâm chúng sinh cần biết tiên lượng. A Nan ! Như Ngài một người, quần áo chuyển động nhẹ có xuất hiện gió nhẹ, phảng phất tràn khắp Cõi Pháp, sinh đầy tràn Đất nước. Đầy khắp Thế gian chắc có nơi ở, Phát hiện thứ tự Nghiệp, Thế gian không biết. Hoặc là Nhân duyên cùng với Tính tự nhiên, đều là tâm thức phân biệt, tính kế vượt qua. Chỉ có nói rằng nghĩa đều không thực.

A Nan ! Tính Rỗng không có hình thể, phát hiện ra nhân do Sắc. Như thành Thất La Rỗng đi tới nơi sông xa. Các giống Sát Lợi và Bà La Môn. Tì Xá Thủ Đà kể cả Pha La Đọa Chiên Đà La. Thành lập nơi ở mới, đào giếng tìm nước. Đào xúc ra một thước đất, ở trong chắc có một thước khoảng Không. Như thế thậm chí đào xúc ra mười thước. Ở giữa trở lại có được mười thước khoảng Không, khoảng Không nông sâu tùy theo đào xúc nhiều ít. Rỗng này vì đang được hiện ra nhân do đất, toàn bộ nhân do đào giếng, không có nhân do tự sinh. A Nan ! Nếu lại Rỗng này không có nhân do tự sinh. Trước khi chưa đào giếng, sao đều trở ngại. Chỉ thấy Đất lớn nơi xa vắng không thông suốt. Nếu hiện ra nhân do đất, chắc là lúc đào xúc đất đổ ra, cần thấy Rỗng vào. Nếu đất xúc ra ban đầu vào nơi đầy kín, khoảng Không ra sao nhân do đất mà hiện ra ? Nếu không ra vào, chắc là cần đất Rỗng, vốn không khác nhân do không khác, chắc là cùng nhau. Chắc là lúc đất xúc ra, Rỗng sao không hiện ra. Nếu hiện ra nhân do đào. Chắc là đào xúc hiện ra Rỗng, cần hiện ra đất sai, hiện ra không nhân do đào xúc, đào xúc tự hiện ra đất, thấy Rỗng ra sao ? Ngài càng thêm xem thẩm tra kĩ lưỡng. Đào xúc từ tay người theo phương vận chuyển, đất nhân do di chuyển vị trí. Như thế khoảng Không được xuất hiện nhân do cái gì ? Thực đào khoảng Không, không cùng tác dụng, hòa sai hợp sai, không cần khoảng Không, tự hiện ra không tới. Nếu tính khoảng Không này đầy đủ tràn khắp, vốn dĩ không dao động. Nên biết đất, nước, lửa, gió hiện ra. Cùng có tên là Tính năm Lớn chân thực đầy đủ dung hòa. Đều tạng Như Lai vốn dĩ không sinh mất. A Nan ! Tâm Ngài mê muội, không hiểu bốn Lớn vốn là tạng Như Lai. Cần xem khoảng Không, là ra hay là vao, là ra vào sai. Ngài hoàn toàn không biết trong tạng Như Lai. Hiểu Tính Rỗng chân thực, Rỗng Tính hiểu chân thực. Thanh tịnh như thế đầy khắp Cõi Pháp. Tùy tâm chúng sinh cần biết tiên lượng. A Nan ! Như một giếng Rỗng, Rỗng sinh một giếng. Mười phương khoảng Không cũng lại như thế. Mười phương đầy đủ chắc có nơi ở. Phát hiện thứ tự Nghiệp, Thế gian không biết. Hoặc là Nhân duyên cùng với Tính tự nhiên, đều là tâm thức phân biệt, tính kế vượt qua. Chỉ có nói rằng nghĩa đều không thực.

A Nan ! Thấy hiểu không biết, có Rỗng nhân do Sắc. Như nay Ngài ở trong rừng Kì Đà từ sáng đến tối. Giả sử trong nhà ở Trăng sáng giữa ban ngày, chắc là ban đêm liền tối. Chắc là sáng tối cùng với phân tích nhân do thấy. Thấy này vì lại với cảnh sáng tối hoàn toàn là khoảng Không bao la. Là cùng một hình thể, hay là một hình thể sai. Hoặc cùng nhau cùng nhau sai, hoặc là khác khác sai. A Nan ! Thấy này nếu lại với sáng và tối. Cùng với khoảng Không, vốn là một hình thể. Chắc là sáng và tối hai hình thể cùng mất. Khi tối không có sáng, khi sáng không phải tối. Nếu với một tối, sáng chắc là thấy mất. Nhất định một với sáng, tối thời đang mất. Mất chắc là thấy sáng thấy tối ra sao ? Nếu sáng tối dứt hết, thấy không có sinh mất, mỗi loại hình thành ra sao ? Nếu thấy này với tối, với sáng, một hình thể sai. Ngài rời sáng tối cùng với khoảng Không, phân tích thấy vốn làm hình tướng ra sao ? Rời sáng rời tối cùng với rời khoảng Không. Thấy đó vốn cùng như lông rùa sừng thỏ. Sáng tối khoảng Không ba việc cùng khác nhau, thấy lập ra từ cái gì ? Sáng tối cùng bậc, hoặc cùng nhau ra sao ? Rời ba vốn không có, hoặc khác nhau ra sao ? Phần Rỗng phần thấy, vốn dĩ không có bờ bến, sao không cùng nhau ? Thấy sáng thấy tối, Tính thay đổi sai, vì sao khác nhau sai ? Ngài càng xem thẩm tra kĩ thẩm tra tỉ mỉ thẩm tra tường tận thẩm tra chính xác. Sáng từ mặt Trời, tối tùy theo mặt Trăng tối. Thông suốt thuộc khoảng Không, ôm ấp trở về Đất lớn. Thấy trong sáng như thế, được hiện ra nhân do cái gì ? Thấy hiểu Rỗng ngang ngạnh, hòa sai hợp sai. Không cần thấy trong sáng, tự hiện ra không tới. Nếu biết nghe thấy, Tính đầy đủ tràn khắp. Vốn dĩ không dao động, nên biết không có biên giới. Khoảng Không không động, đều dao động này. Đất, nước, lửa, gió, đều tên là sáu Lớn. Tính chân thực đầy đủ dung hòa, đều là tạng Như Lai, vốn dĩ không sinh mất.

A Nan ! Tính của Ngài chìm nổi. Không hiểu thấy nghe hiểu biết của Ngài vốn là tạng Như Lai. Ngài cần xem nghe thấy hiểu biết này. Là sinh hay là mất, là cùng nhau hay là khác nhau. Là sinh mất sai, hay là giống nhau khác nhau sai. Ngài từng không biết trong tạng Như Lai, tính thấy hiểu sáng, hiểu thấy sáng tinh khiết. Thanh tịnh vốn như thế tràn khắp Cõi Pháp, tùy theo tâm chúng sinh cần biết tiên lượng. Như một thấy Căn, thấy khắp Cõi Pháp. Nghe ngửi thưởng thức chạm biết, hiểu Chạm biết hiểu biết. Đức vi diệu trong suốt như thế, tràn khắp Cõi Pháp, đầy đủ mười ảo, chắc có nơi ở. Phát hiện thứ tự Nghiệp, Thế gian không biết. Hoặc là Nhân duyên cùng với Tính tự nhiên. Đều là tâm thức phân biệt, tính kế vượt qua, chỉ có nói rằng nghĩa đều không thực.

A Nan ! Tính Biết không nguồn ngốc, nhân do với sáu loại hiện ra Căn Trần ảo vọng. Ngài nay xem khắp chúng Thánh hội này. Dùng mắt lần lượt xem khắp mắt này. Chỉ như trong gương không phân biệt phân tích. Biết của Ngài ở giữa lần lượt chỉ ra. Đây là Văn Thù, đây là Phú Lâu Na, đây là Mục Kiền Liên, đây là Tu Bồ Đề, đây là Xá Lợi Phất. Biết này biết rõ, là sinh với thấy, hay là sinh với hình tướng, hay là sinh khoảng Không. Vì không do nguyên nhân, bỗng nhiên mà hiện ra. A Nan ! Nếu Tính Biết của Ngài sinh ở trong thấy. Như Ngu mê, tối cùng với Sắc, Rỗng. Bốn loại nhất định không có, vốn không có thấy của Ngài. Tính thấy còn không có, Biết phát ra từ cái gì ? Nếu Tính Biết của Ngài sinh ở trong hình tướng, sinh không từ thấy. Đã không thấy sáng cũng không thấy tối. Sáng tối không lệ thuộc, tức thời không có Rỗng Sắc. Hình tướng đó còn không có, Biết phát ra từ cái gì ? Nếu sinh với Rỗng, hình tướng sai, thấy sai. Thấy sai, không biện bạch, tự không thể biết sáng tối Sắc Rỗng, hình tướng sai mất duyên. Thấy nghe hiểu biết, không có nơi đứng yên, nơi hai sai này. Rỗng đều cùng sai không có, có đều cùng vật sai. Biết của Ngài dễ phát ra, muốn phân biệt cái gì ? Nếu không do nguyên nhân, bỗng nhiên mà hiện ra. Sao không ở giữa trưa phân biệt biết Trăng sáng ? Ngài càng kể tỉ mỉ thẩm tra kể tỉ mỉ. Thấy nhờ con ngươi của mắt Ngài, cùng với cảnh giới trước mắt. Tình trạng có thể thành có, không cùng thành không có. Duyên Biết như thế, hiện ra nhân do cái gì ? Biết động thấy trong thanh, hòa sai hợp sai. Nghe ngửi hiểu biết cũng lại như thế. Không theo duyên Biết, tự hiện ra không tới. Nếu tâm Thức này, vốn dĩ không đâu tới. Nên phân biệt biết rõ, nghe thấy hiểu biết. Đầy đủ sáng tỏ, Tính từ đâu sai. Kể cả khoảng Không nước đất lửa gió. Đều cùng tên là bảy Tính lớn chân thực đầy đủ dung hòa, đều là tạng Như Lai vốn dĩ không sinh mất.

A Nan ! Tâm Ngài thô trôi nổi, không hiểu nghe thấy, phát hiện biết rõ gốc tạng Như Lai. Ngài nên xem tâm thức của sáu nơi này, là cùng nhau hay là khác nhau, là Rỗng hay là có. Là cùng nhau khác nhau sai, hay là Rỗng Có sai. Ngài vốn không biết trong tạng Như Lai. Biết Tính sáng, hiểu biết sáng Biết chân thực. Hiểu vi diệu sáng tỏ tràn khắp Cõi Pháp, nhả ra tất cả mười ảo, chắc có nơi ở. Phát hiện thứ tự Nghiệp, Thế gian không biết. Hoặc là Nhân duyên cùng với Tính tự nhiên. Đều là tâm thức phân biệt, tính kế vượt qua. Chỉ có nói rằng nghĩa đều không thực.

Khi đó A Nan cùng các Đại Chúng, được Phật Như Lai mở tỏ vi diệu. Thân tâm thỏa mãn được không lười nhác. Các Đại Chúng đó. Từng người tự biết, tâm tràn khắp mười phương, thấy Rỗng mười phương. Như xem giữ lá cây đồ vật trong lòng bàn tay. Toàn bộ các vật của tất cả Thế gian, đều tức thời là Bồ Đề, Tâm vốn dĩ Thanh tịnh vi diệu. Tâm trong sạch đầy đủ bao hàm mười phương, ngược lại xem thân sinh của cha mẹ. Giống như trong khoảng Không mười phương đó, thổi bay một bụi Trần hoặc còn hay mất. Như giòng chảy của biển lớn trong suốt một bọt nước nổi. Sinh mất không tới, tự biết rõ như thế, được tâm vốn dĩ vi diệu, thường ở không mất. Chắp tay lễ Phật được chưa từng có, ở trước Như Lai đọc kệ ca ngợi Phật.

Thế Tôn không động giữ nhớ Pháp hay sâu. Thủ Lăng Nghiêm quý nhất, hiếm có ở đời. Tiêu trăm triệu Kiếp nhớ đảo lộn của Con. Chưa hết bậc Thanh Văn bắt được thân Pháp. Nguyện nay được quả, thành quý báu nhất. Trở lại độ thoát Hằng sa Chúng như thế. Tâm thâm sâu này, sẽ phụng sự Nước cũ. Đó chắc là được tên, vì báo ân Phật. Phủ phục lễ mời Thế Tôn làm minh chứng. Đời năm đục ác thệ nguyện vào trước tiên. Nếu như một chúng sinh chưa được thành Phật. Rốt không giữ Thanh tịnh Niết Bàn này. Từ lớn, Bi lớn, Lực lớn, Hùng mạnh lớn. Nguyện xét trừ bỏ hết nghi hoặc nhỏ nhất. Giúp cho Con sớm được thành Bình Đẳng Giác. Ngồi ở nơi Đạo tràng Cõi giới mười phương. Chớp mắt có thể tiêu tan, quên nhiều tính. Tâm sáng đẹp lung linh, không có chuyển động.

Kinh Đại Phật đỉnh vạn hành Thủ Lăng Nghiêm quyển thứ ba.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10