Kinh Đại Phật đỉnh Thủ Lăng Nghiêm
Như Lai mật hành nhân tu chứng rõ nghĩa và Bồ Tát vạn hành

(Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
Hán dịch: Đường Thiên Trúc Sa Môn Bát Lạt Mật Đế
Việt dịch: Phật Tử Bùi Đức Huề dịch năm 2010-2013

 

QUYỂN THỨ HAI

Khi đó A Nan và các Đại Chúng, nghe tỏ rõ dạy bảo của Phật, thân tâm thỏa mãn. Nhớ lại tâm trước kia từ xưa bị mất, ảo vọng nhận phân biệt việc ảnh của Duyên Trần. Ngày nay mở hiểu, như trẻ thơ đói sữa tự nhiên gặp mẹ. Chắp tay lễ Phật. Nguyện nghe Như Lai hiện ra rõ thân tâm, chứng thực ảo vọng chân thực, hiện ra sinh mất và không sinh mất, phát ra hai tính sáng.

Vua Ba Tư Nặc đứng lên báo cáo Phật. Con trước chưa theo chỉ dạy của Phật. Thấy Ca Chiên Diên Tì La Chi Tử. Đều nói rằng : Thân này chết sau cắt mất, tên là Niết Bàn. Con nay tuy gặp ngay Phật do còn nghi ngờ. Làm sao phát hiện, biết được bậc không sinh mất của tâm này ? Giúp Đại Chúng đây và các Thanh Văn tất cả đều muốn nghe.

Phật bảo Vua lớn ! Thân Ngài hiện nay còn, nay lại hỏi Ngài. Thân bằng xương thịt của Ngài là ngang bằng với Kim Cương thường ở không mục nát, hay lại bị biến đổi huỷ hoại. Thế Tôn ! Nay thân này của Con cuối cùng theo biến đổi mất.

Phật nói rằng : Vua lớn ! Ngài chưa từng mất, làm sao biết mất. Thế Tôn ! Thân biến hỏng Biến đổi này của Con. Tuy chưa từng mất, Con xem hiện ra. Mỗi nghĩ nhớ chuyển thành từ bỏ, mới liên tục không ở. Như lửa thành tro than, dần dần tiêu tan. Chết mất không ngừng nghỉ, quyết biết thân này đang theo mất hết.

Phật nói rằng : Đúng như thế Vua lớn ! Ngài nay tuổi cao theo sự già yếu. Dung mạo nhan sắc làm sao như thời niên thiếu. Thế Tôn ! Con trước khi còn nhỏ da dẻ mát mẻ. Tới lúc trưởng thành khí huyết đầy đủ, mà nay tuổi cao suy đồi vội, tới tuổi tám mươi suy yếu. Hình sắc khô gầy tiều tụy tinh thần mê muội, tóc trắng mặt nhăn không còn được bao lâu. Làm sao thấy thời hưng thịnh đó.

Phật nói rằng : Vua lớn ! Hình dung tướng mạo của Ngài dần tới mục nát. Vua nói rằng : Thế Tôn ! Di chuyển bí mật biến hóa, Con thành ra không có biết, nóng lạnh di chuyển dần tới đây. Cớ là sao ? Con năm hai mươi tuổi tuy gọi là thanh niên, nhan sắc dung mạo đã già hơn lúc mười tuổi. Năm ba mươi tuổi lại suy yếu hơn hai mươi, nay sáu mươi tuổi lại vượt qua cả hai. Xem lúc năm mươi tuổi hoàn toàn cường tráng. Thế Tôn ! Con thấy bí mật di chuyển, tuy chết hồn siêu phách lạc này. Thời gian nay dễ lưu chuyển trong hạn mười năm. Nếu lại để Con suy nghĩ tỉ mỉ. Sự thay đổi này chỉ ở mười hai năm đầu và mười hai năm thứ hai, thực là biến đổi từng năm. Duy chỉ thay đổi theo năm cũng thêm biến hóa từng tháng. Lại trực tiếp thay đổi theo tháng, lại thêm di chuyển theo ngày. Suy nghĩ xem xét kĩ đúng sâu theo từng khoảnh khắc. Mỗi một nghĩ nhớ không được ngừng ở. Cho nên biết thân Con cuối cùng mất theo biến đổi.

Phật nói rằng : Vua lớn ! Ngài thấy biến hóa thay đổi không ngừng. Hiểu biết mất của Ngài cũng như với thời gian mất, biết trong thân Ngài có không mất chứ ? Vua Ba Tư Nặc chắp tay báo cáo Phật nói rằng : Con thực không biết. Phật nói rằng : Ta nay tỏ ra Tính không sinh mất của Ngài. Vua lớn ! Ngài thấy nước sông Hằng lúc bao nhiêu tuổi. Vua nói rằng : Con lúc ba tuổi mẹ dắt Con đi gặp Kỳ Bà Thiên đã qua giòng sông này. Khi đó tức thời biết nước sông Hằng. Phật nói rằng : Vua lớn ! Như Ngài nói, lúc hai mươi tuổi suy yếu hơn lúc mười tuổi. Thậm chí sáu mươi tuổi ngày tháng năm, thời thay đổi theo từng nghĩ nhớ. Chắc là Ngài ba tuổi khi thấy sông này, tới năm mười ba nước sông đó ra sao ? Vua nói rằng : Như lúc ba tuổi hoàn toàn không khác. Thậm chí tới năm sáu mươi tuổi cũng không có khác. Phật nói rằng : Ngài nay tự cảm thương tóc bạc mặt nhăn, mặt đó nhất định nhăn nheo hơn lúc thiếu niên. Chắc là ngày nay Ngài xem sông Hằng này. Và trước đây lúc là thiếu niên xem sông, thấy có sự già trẻ không ? Vua nói rằng : Không thấy ! Thế Tôn !

Phật nói rằng : Vua lớn ! Mặt Ngài tuy có nhăn và thấy tinh khiết này, Tính chưa từng nhăn. Nhăn là biến đổi, không nhăn là không biến đổi. Biến đổi nhận mất, không biến đổi đó, vốn không sinh mất. Vì sao ở bên trong nhận sinh chết của Ngài, mà do các loại ngoài Đạo Mạt Già Lê đó dẫn dụ. Đều nói rằng : Thân này sau khi chết hoàn toàn mất. Vua nghe tin lời nói đó, hiểu thân sau cùng bỏ, sinh theo hướng sinh. Cùng với các Đại Chúng vui mừng phấn chấn, được chưa từng có.

A Nan tức thời từ chỗ ngồi đứng lên lễ Phật. Chắp tay quỳ lâu báo cáo Phật. Thế Tôn ! Nếu nghe thấy này, nhất định không sinh không mất. Vì sao Thế Tôn ? Tên Con và các bậc trên là mất Tính chân thực làm việc đảo lộn. Mong Phật rộng lòng Từ Bi tẩy rửa Phiền não của Con. Tức thời Như Lai buông cánh tay sắc vàng, tay chuyển hạ xuống bảo A Nan nói rằng : Ngài nay thấy tay Mẫu Đà La của Ta là thẳng hay nghiêng. A Nan nói rằng : Chúng sinh Thế gian lấy đây là đảo lộn, mà Con không biết cái gì thẳng cái gì đảo lộn. Phật bảo A Nan ! Nếu người Thế gian lấy đây là đảo lộn, tức thời người Thế gian sẽ lấy cái gì là đúng. A Nan nói rằng : Cánh tay thẳng đứng của Như Lai cầm cành Dương liễu. Chỉ lên Rỗng chắc tên là đúng. Phật tức thời duỗi thẳng xuôi cánh tay xuống bảo A Nan nói rằng : Nếu đảo lộn đầu đuôi sẽ thay nhau. Các người Thế gian một lần trông thấy, chắc là biết thân Ngài và các Như Lai. Thân Pháp Thanh tịnh phát sáng loại so sánh. Thân của Như Lai tên là Chính Biến Tri : Biết Biến đổi đúng. Thân của các Ngài tên là Tính đảo lộn. Tùy theo Ngài xem kĩ thân Ngài, thân Phật. Nói tên đảo lộn, tên chữ nơi nào, tên là đảo lộn. Khi đó A Nan và các Đại Chúng, thẫn thờ xem Phật mắt mở không chớp. Không biết thân tâm đảo lộn ở nơi nào.

Phật nổi Từ Bi thương xót A Nan và các Đại Chúng, phát ra âm rộng lớn bảo các hội chúng khắp nơi. Các người nam thiện ! Ta thường nói rằng : Tâm Sắc thân và duyên cùng với tâm sai khiến và Pháp duyên, chỉ do tâm hiện ra. Thân Ngài, tâm Ngài đều là tâm vi diệu tinh khiết chân thực sáng vi diệu đó, vật được hiện ra ở trong tâm. Vì sao các Ngài đánh mất tâm sáng vi diệu đầy đủ vốn dĩ vi diệu, Tính vi diệu sáng quý báu ? Mê muội trong nhận biết, u ám là Rỗng, Rỗng trong u ám, kết buộc với tối là Sắc. Tưởng nhớ ảo Sắc thân hỗn tạp, tưởng nhớ hình tướng là thân, dao động bên trong duyên tụ, tự do chạy hướng ra bên ngoài. Hình tướng hôn mê nhiễu loạn, dùng làm Tính tâm. Một mê muội là tâm, nghi hoặc quyết định làm bên trong của thân sắc. Không biết núi sông khoảng không Đất lớn bên ngoài Sắc thân. Đều là vật trong tâm chân thực sáng vi diệu. Ví như thanh lọc sạch trăm nghìn biển lớn. Bỏ hay chỉ nhận một hình thể chìm nổi, mắt là toàn bộ thủy triều vút lên, từ tận cùng của biển lớn. Các Ngài tức thời là người tăng gấp bội trong mê muội. Như Ta hạ tay xuống cùng không có khác biệt. Như Lai nói là có thể xót thương.

A Nan nhận lời Từ Bi cứu giúp sâu của Phật, rơi lệ bắt chéo ngón hai bàn tay và báo cáo Phật nói rằng : Con tuy nhận âm vi diệu như thế của Phật. Hiểu tâm sáng vi diệu, Trí của tâm vốn đầy đủ thường ở, mà Con hiểu hiện nay Phật nói âm Pháp. Hiện nay dùng tâm duyên thành thực chiêm ngưỡng. Đệ tử được tâm này chưa dám cảm nhận, là Trí của tâm vốn có. Mong Phật xót thương nói tỏ ra đầy đủ âm, rút bỏ Căn nghi của Con trở lại Đạo Bình Đẳng.

Phật bảo A Nan. Các Ngài hãy còn dùng tâm duyên nghe Pháp. Pháp này cũng kết thành duyên, được Tính Pháp sai. Như người dùng tay chỉ mặt Trăng cho người xem. Người đó nhân do chỉ tay nên cần nhìn Trăng. Nếu lại xem ngón tay dùng làm hình thể của Trăng. Người này không chỉ bỏ mất Trăng tròn cũng mất luôn ngón tay đó. Cớ là sao ? Dùng ngón tay làm mục tiêu do vì ánh sáng của Trăng. Tức thời dùng hình thể của ngón tay là Tính sáng của Trăng, sáng tối hai Tính do không rõ ràng. Ngài cũng như thế, nếu dùng phân biệt Ta nói âm Pháp, là tâm giả của Ngài. Tâm này tự nên rời phân biệt âm thanh, có Tính phân biệt. Ví như có khách đã ngủ trong nhà nghỉ. Tạm nghỉ lại và ra đi cuối cùng không ở đó. Mà người chủ quán đều không ra đi tên là chủ dừng lại. Đây cũng như thế, nếu là chân thực tâm Ngài chắc là không đâu đi. Sao rời âm thanh Tính không phân biệt ? Duy chỉ với điểm này, tâm phân biệt âm thanh. Phân biệt dung mạo bản thân, rời các tướng sắc, Tính không có phân biệt. Như thế thậm chí phân biệt đều không có, Sắc sai Rỗng sai. Rời thật xa mê muội do chân lý ngu tối, rời các duyên Pháp, Tính phân biệt không có. Chắc là Tính tâm Ngài, đều có được trở lại, chủ là cái gì ? A Nan nói rằng : Nếu Tính tâm Con đều có được trở lại. Chắc là Như Lai nói : Tâm vốn trước kia sáng vi diệu, sao không trở lại ? Xin rủ lòng thương vì Con nói rõ.

Phật bảo A Nan. Tạm thời Ngài thấy Ta thấy vốn sáng tinh khiết. Thấy này tuy tâm sáng tinh khiết vi diệu sai. Như mặt Trăng thứ hai, ảnh của mặt Trăng đó sai. Ngài cần nghe Tuệ ! Nay cần tỏ ra cho Ngài Trí tuệ không đâu trở lại. A Nan ! Giảng đường lớn này cửa mở rộng ra hướng Đông. Mặt Trời mọc lên chắc là có ánh sáng chói lọi. Giữa đêm tối Trời, mây mù che phủ chắc là tối. Cửa sổ hé mở chắc là lại thấy thông suốt. Giữa bốn bức tường chắc là lại thấy bao vây. Phân biệt nơi ở chắc là lại thấy duyên. Tính Rỗng đó tràn khắp trong khoảng không ngang ngạnh. Tình trạng ứ đọng chắc là Trần mê muội. Mưa tạnh thanh lọc bớt khí dữ lại thấy trong lành. A Nan ! Ngài đều nhìn rõ các hình tướng biến hóa này. Ta nay đều trở lại trước kia được do nơi nào. Nhân trước kia là gì ? A Nan ! Luân chuyển của mặt Trời trở lại chiếu sáng các biến hóa này. Cớ là sao ? Không có mặt Trời không sáng, sáng do bởi mặt Trời. Vì thế mặt Trời lặn, Trăng không sáng, bóng tối trở lại, nhìn qua cửa sổ như nhìn bốn bức tường. Phân biệt Duyên trở lại, Rỗng trở lại khoảng không ngu tối. Bụi trở lại ứ đọng thành bột đất, tạnh mưa trở lại trong sáng. Chắc là toàn bộ tất cả của các Thế gian không ra ngoài loại này. Ngài thấy tám loại thấy Tính sáng tinh khiết, đang muốn trở lại cái gì ? Cớ là sao ? Nếu trở lại với sáng, chắc là lúc không sáng, lại thấy tối không có. Tuy sáng tối có rất nhiều khác biệt, thấy không khác biệt. Các loại có thể trở lại, tự nhiên không phải Ngài. Người trở lại không phải Ngài, Ngài sai mà là cái gì. Chắc tâm Ngài biết, vốn dĩ sạch sáng vi diệu. Ngài tự mê muội mất nhận luân chuyển trước kia. Ở trong sinh chết thường bị chìm nổi trôi dạt. Vì thế tên Như Lai là có thể thương xót.

A Nan nói rằng : Con tuy biết đây, thấy Tính không trở lại. Làm sao được biết là Tính chân thực của Con ?

Phật bảo A Nan ! Ta nay hỏi Ngài, nay Ngài chưa được Thanh tịnh hết Phiền não. Dựa vào Lực Thần của Phật thấy ở Thiền bậc một, được không có chướng ngại. Mà A Na Luật thấy Diêm Phù Đề, như xem quả Soài trong lòng bàn tay. Các bậc Bồ Tát thấy trăm nghìn Thế giới, tận cùng Đất nước Thanh tịnh như số bụi trần của Như Lai mười phương, không đâu không nhìn kĩ. Chúng sinh nhìn rõ không quá một phần tấc. A Nan ! Ta và Ngài hãy xem cung điện nơi ở của bốn Vua Trời, trong khoảng giữa thấy khắp đi trên nước trên bộ trên không. Tuy có sáng tối đủ các loại hình tượng. Chẳng qua là Trần trước đây, phân biệt để lại chướng ngại. Ngài cần với từ khác phân biệt này. Nay Ta cùng Ngài lựa chọn ở trong thấy. Hình thể của bản thân là gì, hình tượng vật là gì. A Nan ! Cực cho Ngài thấy ngọn nguồn, từ cung điện mặt Trăng mặt Trời vật này không phải là Ngài. Tới bảy núi vàng xem hết xung quanh. Tuy có nhiều loại quang cũng là vật không phải Ngài. Dần dần xem thêm chim bay trên mây, gió động bụi phát ra cây cỏ núi đồng. Rau cỏ người súc vật tất cả các vật đều không phải là Ngài. A Nan ! Các Tính có vật các nơi gần xa. Tuy lại cũng có sai khác với thấy của Ngài, được nhìn kĩ tinh khiết Thanh tịnh. Chắc là các loài vật tự có sai khác, thấy Tính không khác. Sáng vi diệu tinh khiết này giúp Ngài thấy Tính. Nếu thấy vật này, chắc là Ngài cũng có thể thấy, cái Ta thấy. Nếu cùng thấy như thế, tên là thấy Ta. Thời Ta không thấy, Ta không thấy gì, không thấy nơi ở. Nếu thấy không thấy tự nhiên, tướng không thấy đó sai. Nếu không thấy Ta, không thấy đất. Tự nhiên không phải vật, sao không phải Ngài, lại chắc là Ngài nay thời thấy vật. Ngài đã thấy vật, vật cũng thấy Ngài. Tính hình thể lộn xộn chắc là Ngài và Ta. Tất cả các Thế gian không được đứng yên. A Nan ! Nếu Ngài thấy thời là Ngài không phải là Ta. Thấy Tính tràn khắp, không phải Ngài mà là ai. Vì sao tự nghi ngờ Tính chân thực của Ngài ? Tính không chân thực của Ngài, giữ lấy Ta cầu chân thực.

A Nan báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Nếu Tính thấy này nhất định là Con không phải khác. Con và Như Lai xem bốn Vua Trời được cung điện tạng báu Thắng Tạng, ở cung điện mặt Trăng mặt Trời. Thấy này đầy đủ đầy khắp Nước Sa Bà. Lui trở về Tịnh Xá chỉ thấy Già Lam. Tâm Thanh tịnh, cửa, giảng đường, chỉ nhìn kĩ hai dãy mái nhà. Thế Tôn ! Thấy này như thế. Hình thể này trước nay đầy khắp một Thế giới. Nay ở trong phòng chỉ đầy khắp một phòng. Nếu lại thấy này rút lớn làm nhỏ. Đang ở trong bốn bức tường gấp rút giúp được đoạn tuyệt. Con nay không biết nghĩa này ở đâu. Xin rủ lòng Từ Bi rộng lớn vì Con nói rõ tất cả.

Phật bảo A Nan. Tất cả Thế gian trong ngoài lớn nhỏ. Có các Sự Nghiệp đều thuộc các Trần trước đây. Không cần nói rằng : Thấy có nhanh gấp, thư thả. Ví như trên la bàn tìm phương hướng, thấy phương hướng Rỗng. Ta lại hỏi Ngài : Trên la bàn tìm phương hướng này, thấy phương hướng Rỗng. Nếu lại định vị phương hướng, nếu không định vị phương hướng. Nếu định vị phương hướng cần đặt yên vòng tròn đặc biệt, không cần không đặt yên. Nếu không định phương hướng, ở nơi trên la bàn cần Rỗng, không có phương hướng Rỗng. Ngài nói rằng : Không biết nghĩa này ở đâu, nghĩa Tính như thế, thế nào là còn ? A Nan ! Nếu lại muốn vào trong vòng tròn không phương hướng. Chỉ cần bỏ la bàn, hình thể Rỗng, không có phương hướng. Không nên nói rằng : Bỏ khoảng không, phương hướng cùng nơi đó. Nếu như Ngài hỏi lúc vào trong phòng. Coi thường vội nhìn, lúc ngước lên xem mặt Trời. Ngài sao hãm lại cùng lúc thấy bề mặt của mặt Trời. Nếu bốn bức tường có thể thu hẹp cắt đứt thấy. Xuyên một lỗ thủng nhỏ chắc là không để lại vết tích. Nghĩa này không hợp lẽ. Tất cả chúng sinh từ xưa tới nay mê muội bản thân là vật. Mất với tâm trước kia, được chuyển thành vật. Vì thế ở trong đó xem lớn, xem nhỏ. Nếu có thể chuyển thành vật chắc là với Như Lai, tâm thân sáng đầy đủ, Đạo tràng không động. Với đầu một sợi lông đầy khắp, có thể nhận Đất nước mười phương. A Nan báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Nếu thấy này tinh khiết, nhất định là Tính vi diệu của Con. Giúp Tính vi diệu này hiện ra ở trước Con, chắc thấy chân thực của Con. Con nay thân tâm lại là vật gì, mà nay thân tâm phân biệt có thực. Thấy đó không khác, phân biệt thân Con. Nếu tâm Con chân thực, giúp Con nay thấy, thấy Tính, Con thực mà thân không phải Con. Khác ra sao, trước đây Như Lai khó nói. Vật có thể thấy Con. Xin rủ lòng Từ Bi mở phát ra chưa hiểu.

Phật bảo A Nan ! Ngài nay nói rằng : Thấy ở trước Ngài nghĩa đó không phải thực. Nếu thực ở trước Ngài, Ngài thực thấy. Chắc là thấy này tinh khiết, đã có nơi ở, không chỉ bảo tỏ rõ sai. Tạm thời nay lại cùng Ngài ngồi ở rừng Kỳ Đà. Xem khắp rừng suối cùng với cung điện giảng đường, lên tới mặt Trăng mặt Trời, đối diện trước sông Hằng. Nay Ngài ngồi trước tòa Pháp của Ta. Giơ tay chỉ bảo bày đặt, đủ các loại hình tướng đó, tối là rừng sáng là mặt Trời. Trở ngại là sườn núi, thông suốt là Rỗng. Như thế thậm chí cỏ cây sợi tơ sợi lông lớn nhỏ tuy khác nhau. Chỉ có thể có hình, đều chỉ bảo nương nhờ. Nếu nhất định thấy Có hiện ở trước Ngài. Ngài nên dùng tay xác thực chỉ bảo bày đặt, thấy nó là cái gì ? A Nan cần biết ! Nếu thấy nó Rỗng, thấy đã thành công, vì sao là Rỗng ? Nếu thấy được vật, đã thấy đã được nó, vật là cái gì ? Ngài có thể tỉ mỉ bóc tách ra vạn hình tượng. Tách sinh sáng tinh khiết, thấy vốn vi diệu Thanh tịnh, chỉ bảo bày đặt, tỏ rõ bản thân. Cùng các vật đó rõ ràng không nghi hoặc. A Nan nói rằng : Con nay ở trong giảng đường Trùng Các này. Từ xa kịp tới sông Hằng ngước lên xem mặt Trăng mặt Trời. Giơ cánh tay chỉ bảo, mắt tự do xem. Chỉ bảo đều là vật, thấy không như thế. Thế Tôn ! Như Phật nói, Con mới học Thanh Văn chưa hết Phiền não. Thậm chí Bồ Tát cũng không thể ở trước hình tượng vạn vật tách bóc lộ ra thấy tinh khiết. Rời tất cả vật, phân biệt có tự Tính. Phật nói rằng : Như thế, đúng như thế !

Phật lại bảo A Nan ! Như được Ngài nói : Thấy không có tinh khiết. Rời tất cả vật, phân biệt có tự Tính. Chắc là Ngài chỉ bảo trong số vật đó, thấy không như thế. Nay lại bảo Ngài. Ngài cùng Như Lai ngồi ở rừng Kỳ Đà, lại thêm xem vườn cây. Thậm chí mặt Trăng mặt Trời các loại hình tượng khác. Nhất định không thấy tinh khiết, nhận chỉ bảo của Ngài. Ngài lại phát sáng ở trong các vật này, vì sao thấy sai ? A Nan nói rằng : Con thực thấy khắp rừng Kỳ Đà này. Không biết trong đó thấy sai cái gì, cớ là sao ? Nếu thấy sai cây, thấy cây ra sao. Nếu là cây tức thời thấy, cây lại là cây gì ? Như thế thậm chí nếu thấy sai Rỗng. Sao lại là Rỗng ? Nếu tức thời thấy Rỗng, lại Rỗng ra sao ? Con lại suy nghĩ ở trong vạn hình tượng này, tỉ mỉ phát sáng không có thấy sai. Phật nói rằng : Như thế, đúng như thế. Với các Đại Chúng đó, người Thanh Văn sai. Nghe Phật nói lời này, mù mờ cuối cùng không biết nghĩa đó. Nhất thời hoảng sợ mất coi giữ này. Như Lai biết hồn họ lo nghĩ, biến thành tâm hoảng sợ, liền sinh thương cảm. An ủi A Nan và các Đại Chúng. Các người nam thiện ! Vua Pháp Bình Đẳng nói chân thực như thế, như được nói như thế, không dối trá không hão huyền. Không phải bốn loại không chết của các thầy ngoài Đạo bàn luận, nắn chỉnh loạn xạ không yên. Ngài suy nghĩ đúng không nhục không thương không ngưỡng mộ.

Khi đó Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử thương xót bốn Chúng. Ở trong Đại Chúng tức thời từ chỗ ngồi đứng lên, đỉnh lễ chân Phật chắp tay cung kính. Mà báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Các Đại Chúng này. Không hiểu hai loại tinh khiết phát sáng của Như Lai, thấy Sắc thân Rỗng, nghĩa đó sai trái. Thế Tôn ! Nếu Sắc thân Rỗng Duyên trước đây cùng với hình tượng. Nếu thấy như thế, cần có được chỉ bảo. Nếu thấy sai, cần không đâu nhìn kĩ. Mà nay không biết nghĩa đó được trở về, cho nên có hoảng sợ. Không phải là ngày trước tích Căn thiện ít. Chỉ nguyện Như Lai Đại Từ Bi phát sáng các hình tượng vật này. Cùng thấy tinh khiết này, vốn là vật gì, ở trong giữa này, không có đúng sai.

Phật bảo Văn Thù cùng với các Đại Chúng ! Như Lai mười phương cùng với các Bồ Tát lớn nhất. Tự ở trong Trí tuệ Tam muội này, thấy và thấy duyên, đều do tướng tưởng nhớ. Như hoa ở khoảng không, vốn dĩ toàn bộ không có. Thấy này cùng với duyên, vốn là hình thể sáng sạch vi diệu của Bồ Đề đó. Sao ở trong đó có đúng sai. Văn Thù ! Ta nay hỏi Ngài. Như Ngài Văn Thù có thêm Văn Thù. Là Văn Thù giả hay là không có Văn Thù. Như thế ! Thế Tôn ! Con là Văn Thù chân thực, không có Văn Thù đó. Cớ là sao ? Nếu có người đó, chắc là hai Văn Thù. Đương nhiên Con ngày nay là Văn Thù, ở trong đó thực không có, hai tướng sai.

Phật nói rằng : Thấy này sáng vi diệu cùng với các Trần Rỗng. Cũng lại như thế vốn dĩ là sáng vi diệu. Tâm Bình Đẳng Bồ Đề chân thực đầy đủ Thanh tịnh. Ảo vọng làm Sắc thân Rỗng cùng với nghe thấy. Như mặt trăng thứ hai, cái nào là mặt Trăng, lại cái nào là mặt Trăng sai. Văn Thù ! Chỉ có một mặt Trăng thực, ở giữa tự không có, mặt Trăng đúng mặt Trăng sai. Vì thế Ngài nay xem thấy cùng với Trần, đủ loại phát sáng tên là tưởng nhớ ảo. Không thể ở trong sinh đúng sai. Do là Tính sáng hiểu vi diệu chân thực tinh khiết. Cho nên có thể giúp Ngài sinh chỉ bảo, chỉ bảo sai. A Nan báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Tin như được Vua Pháp nói, hiểu duyên đầy khắp Thế giới mười phương, Tính thông suốt thường ở sinh mất sai. Với Sa Tì Ca La Phạm Chí lời đàm tiếu ngu tối trước đây, cùng hợp với bụi bẩn và các loại ngoài Đạo. Nói có bản thân chân thực tràn khắp mười phương, có gì sai khác ? Thế Tôn cũng từng ở núi Lăng Già, vì các Trí tuệ lớn diễn thuyết nghĩa này. Những người ngoài Đạo đó thường nói tự nhiên. Ta nói Nhân duyên, cảnh giới đó sai. Ta nay xem Tính hiểu này, tự nhiên sinh sai mất sai, rời xa tất cả đảo lộn ảo vọng. Giống như Nhân duyên sai và tự nhiên đó. Mở tỏ ra sao không vào các sai. Được tâm chân thực, Tính sáng hiểu vi diệu.

Phật bảo A Nan ! Ta nay mở tỏ ra Phương tiện đó như thế, chân thực bảo Ngài. Ngài do chưa hiểu, nghi hoặc là tự nhiên. A Nan ! Nếu nhất định tự nhiên, tự cần sáng tỏ, có hình thể tự nhiên. Ngài hãy xem trong thấy sáng vi diệu này, dùng cái gì là tự nhiên. Thấy này là lại lấy sáng là tự nhiên, lấy tối là tự nhiên. Lấy Rỗng là tự nhiên, lấy đầy kín là tự nhiên. A Nan ! Nếu sáng là tự nhiên, cần không thấy tối. Nếu lại lấy Rỗng là hình thể tự nhiên, cần không thấy đầy kín. Như thế thậm chí các loại tối cùng tương ứng dùng làm tự nhiên. Chắc là khi sáng thấy Tính cắt mất, vì sao thấy sáng ? A Nan nói rằng : Nhất định Tính thấy vi diệu này tự nhiên sai. Con nay phát sáng Tính Nhân duyên đó, tâm do còn chưa sáng, xin hỏi Như Lai. Nghĩa đó ra sao, Tính Nhân duyên hòa hợp. Phật nói rằng : Ngài nói Nhân duyên. Ta lại hỏi Ngài. Ngài nay cùng thấy, Tính thấy hiện ra. Thấy này là lại nhân do sáng thấy Có, nhân do tối thấy Có. Nhân do Rỗng thấy Có, nhân do đầy kín thấy Có. A Nan ! Nếu Có nhân do sáng nên không thấy tối. Như nhân do tối có, nên không thấy sáng. Như thế thậm chí nhân do Rỗng, nhân do đầy kín, cùng với sáng tối. Lại nữa A Nan ! Thấy này mới lại duyên sáng thấy Có, duyên tối thấy Có. Duyên Rỗng thấy Có, duyên đầy kín thấy Có. A Nan ! Nếu duyên Rỗng có cần không thấy đầy kín, nếu duyên đầy kín nên không thấy Rỗng. Như thế thậm chí duyên sáng duyên tối cùng với đầy kín Rỗng, như thế nên biết, sáng vi diệu hiểu tinh khiết như thế, Nhân sai Duyên sai. Cũng tự nhiên sai không tự nhiên sai, không có sai không sai, không có đúng không đúng. Rời tất cả hình tướng tức là tất cả Pháp. Ngài nay vì sao tâm sai lầm ở bên trong. Dùng các loại đàm luận bỡn cợt của Thế gian, tên là hình tướng và được phân biệt. Như dùng bàn tay tóm xoa khoảng không. Chỉ lợi tự mệt mỏi, khoảng không làm sao Ngài chạy theo bắt giữ lấy. A Nan báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Nhất định Tính hiểu vi diệu, Nhân sai Duyên sai.

Thế Tôn ! Vì sao thường với Tì Kheo, đọc nói thấy Tính đủ bốn loại duyên. Gọi là nhân do Rỗng, nhân do sáng, nhân do tâm, nhân do mắt, nghĩa đó là sao ? Phật nói rằng : A Nan ! Ta nói các tướng Nhân duyên của Thế gian, Nghĩa tướng chân thực sai. A Nan ! Ta lại hỏi Ngài. Các người Thế gian nói Ta có thể thấy. Thế nào tên là thấy, thế nào tên là không thấy ? A Nan nói rằng : Người đời nhân do ánh mặt Trời ánh Trăng ánh đèn, thấy đủ loại hình tướng, tên là thấy. Nếu lại không có ba loại Quang sáng này, chắc là không thể thấy. A Nan ! Nếu Ngu tối thời tên là không thấy, nên không thấy tối. Nếu nhất định thấy tối, đây chỉ là Ngu tối, vì sao không thấy. A Nan ! Nếu ở lúc tối cho nên không thấy sáng, tên là không thấy. Nay ở nơi lúc sáng không thấy tướng tối, trở lại tên là không thấy. Hai tướng như thế đều tên là không thấy. Nếu lại có hai tướng tự cùng nhau đoạt bỏ. Ngài thấy Tính sai mà bên trong tạm thời không có. Như thế chắc là biết hai đều tên là thấy. Vì sao không thấy ? Vì thế A Nan ! Ngài nay cần biết ! Thấy lúc sáng, thấy sáng đó sai. Thấy lúc tối, thấy tối đó sai. Thấy lúc Rỗng thấy Rỗng đó sai. Thấy lúc đầy kín, thấy đầy kín đó sai. Bốn nghĩa thành công. Ngài lại cần biết. Thấy lúc thấy, nhìn thấy đó sai. Thấy do thấy rời, thấy không thể theo kịp. Vì sao lại nói Nhân duyên tự nhiên và hình tướng hòa hợp ? Các Ngài là Thanh Văn, hẹp hòi hèn kém không hiểu biết. Không thể thông suốt Tướng chân thực Thanh tịnh. Ta nay dạy Ngài cần suy nghĩ Trí tuệ. Không được lười nhác Con đường Bồ Đề vi diệu. A Nan báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Như Phật Thế Tôn vì Con cùng với bậc trên. Nói đọc Nhân duyên cùng với tự nhiên. Các tướng hòa hợp và không hòa hợp. Tâm do còn chưa mở ra mà nay lại thêm nghe thấy, nhìn thấy sai, tăng nặng mê muội. Phục lễ nguyện cầu Từ lớn ban cho mắt Trí tuệ lớn. Mở tỏ ra tâm hiểu của chúng Con sáng sạch. Nói xong lời này rơi lệ đỉnh lễ nhận lời Phật dạy.

Khi đó Thế Tôn thương xót A Nan và các Đại Chúng. Đang muốn biểu diễn Đà La Ni lớn và Con đường tu hành vi diệu của Pháp Yên nhớ Pháp đúng. Bảo A Nan nói rằng : Ngài tuy kiên cường ghi nhớ, chỉ giúp ích cho Nghe nhiều. Với Pháp Tĩnh lặng lớn kín vi diệu xem chiếu sáng, tâm do còn chưa biết rõ. Ngài nay nghe Tuệ ! Ta nay vì Ngài phân biệt mở tỏ rõ, cũng giúp các Thanh Văn đời Tương lai được quả Bồ Đề. A Nan ! Thế gian luân hồi của tất cả chúng sinh. Do hai đảo lộn phân biệt thấy ảo vọng. Đang ở phát sinh đang luân chuyển Nghiệp. Thế nào là hai thấy ? Một là chúng sinh phân biệt thấy Nghiệp ảo vọng. Hai là chúng sinh cùng phận thấy ảo vọng. Thế nào tên là phân biệt thấy Nghiệp ảo vọng ? A Nan ! Như mắt của người Thế gian có màng đau đỏ, trong đêm tối thấy ánh đèn. Phân biệt có ảnh vầng quang năm sắc trùng điệp. Ý này là sao ? Ánh đèn trong đêm này hiện ra vầng quang. Là sắc đèn đó hay là đang thấy sắc. A Nan ! Đây nếu là sắc đèn, chắc là người không bị đau mắt, sao không cùng thấy ? Và ảnh vầng quang này duy chỉ người màng mắt đau đỏ xem. Nếu có thấy sắc, nhìn đã thành sắc. Chắc là người màng mắt đau đó, thấy ảnh vầng quang, tên là cái gì ? Lại nữa A Nan ! Nếu ảnh vầng quang này rời đèn phân biệt Có, chắc là nhắm mắt dựa vào xem bình phong chiếu trúc, có phát ra ảnh vầng quang. Rời thấy phân biệt Có, nên mắt nhìn kĩ sai. Vì sao người màng mắt đau, mắt thấy ảnh vầng quang ? Vì thế nên biết sắc thực ở nơi đèn, người bệnh thấy là ảnh. Thấy ảnh đều là màng mắt đau, thấy màng mắt bệnh sai. Cuối cùng không thể nói rằng : Là đèn hay là thấy. Có ở trong đó đèn sai thấy sai. Như mặt Trăng thứ hai, hình thể sai hình ảnh sai. Cớ là sao ? Xem thứ hai do bóp nặn thành. Những người có Trí không nên nói rằng : Bóp nặn căn nguyên này. Là hình hình sai, rời nhìn thấy sai. Đây cũng như thế, màng mắt đau thành. Nay muốn tên là gì, là đèn hay là thấy. Huống chi phân biệt đèn sai thấy sai. Vì sao tên là cùng phận thấy ảo vọng. A Nan ! Diêm Phù Đề này ngoài nước biển lớn. Ở giữa bình nguyên lục địa có ba nghìn châu. Châu lớn ở chính giữa bao quát số lượng từ Đông sang Tây. Đất nước lớn gồm có hai nghìn ba trăm. Châu nhỏ khác này ở trong các biển. Giữa này hoặc có ba hai trăm Đất nước, hoặc một hoặc hai tới ba mươi, bốn mươi, năm mươi. A Nan ! Nếu lại ở trong đây có một châu nhỏ chỉ có hai Đất nước. Chỉ người của một Nước cùng nghi hoặc duyên ác, chắc là châu nhỏ đó đang không hợp với chúng sinh. Thấy tất cả cảnh giới không lành. Hoặc thấy hai mặt Trời hoặc thấy hai mặt Trăng. Trong này thậm chí Nhật thực nửa phần, bỗng nhiên sao chổi bay qua. Tai ách cầu vồng các loại tướng ác. Chỉ chúng sinh của Nước đó thấy Nước này. Trước kia do không thấy cũng lại không nghe.

A Nan ! Ta nay vì Ngài dùng hai việc này sáng rõ tiến lùi hòa hợp. A Nan ! Như chúng sinh đó phân biệt thấy ảo vọng Nghiệp. Trong ánh đèn nến hiện ra ảnh vầng quang, tuy hiện ra cảnh tương tự. Cuối cùng thấy đó, màng mắt đau được thành. Màng mắt đau tức thời thấy mệt mỏi, tạo ra được sắc sai. Đương nhiên thấy màng mắt đau, cuối cùng không thấy lỗi cũ. Ví như Ngài ngày nay dùng mắt xem thấy Đất nước sông núi cùng với các chúng sinh. Đều là từ xưa tới nay thấy bệnh được thành. Thấy và duyên thấy giống như hiện ra cảnh trước kia. Vốn Ta hiểu sáng, thấy được duyên màng mắt. Hiểu biết tức thời màng mắt đau, tâm sáng hiểu trước kia. Hiểu Duyên màng mắt sai, hiểu được hiểu màng mắt. Hiểu trong màng mắt sai, nhìn thấy chân thực này. Vì sao lại tên là nghe thấy biết ? Vì thế Ngài nay thấy Ta và Ngài, tất cả các Thế gian. Mười loại chúng sinh đều tức thời thấy màng mắt. Thấy màng mắt sai, thấy đó tinh khiết chân thực. Tính màng mắt sai, cho nên không tên là thấy. A Nan ! Như chúng sinh đó cùng phận thấy ảo vọng. Ví như thấy ảo vọng đó, một người phân biệt Nghiệp. Một người mắc bệnh mắt, một Nước cùng bệnh đó. Thấy ảnh vầng quang đó, ảo vọng màng mắt được sinh. Chúng sinh này cùng phận được hiện ra điềm xấu. Trong Nghiệp cùng thấy, chướng ngại ác được phát ra. Đều là từ xưa tới nay thấy ảo vọng được sinh. Ví như trong ba nghìn châu của Diêm Phù Đề. Kiêm cả bốn biển lớn Sa Bà Thế giới. Tất cả theo kịp mười phương và có Nước rớt lại cùng với các chúng sinh. Cùng là tâm vi diệu hết Phiền não hiểu sáng. Nghe thấy hiểu biết duyên bệnh ảo vọng. Hòa hợp ảo vọng sinh, hòa hợp ảo vọng chết. Nếu hay rời xa các duyên hòa hợp và không hòa hợp. Chắc là lại diệt trừ các nguyên nhân sinh chết. Tính Bồ Đề đầy đủ không sinh mất. Tâm vốn dĩ Thanh tịnh, hiểu trước kia thường ở.

A Nan ! Ngài tuy trước đây hiểu sáng vi diệu hiểu trước kia. Tính Nhân duyên sai, Tính tự nhiên sai. Mà do chưa sáng hiểu vốn như thế. Hòa hợp sai sinh cùng với không hòa hợp. A Nan ! Ta nay lại dùng Trần trước đây hỏi Ngài. Ngài nay giống như cùng với tất cả Thế gian, ảo tưởng hòa hợp các Tính Nhân duyên, mà tự nghi hoặc. Chứng tâm Bồ Đề phát khởi hòa hợp. Chắc là Ngài nay thấy tinh khiết Thanh tịnh vi diệu. Là với hòa hợp sáng, hay là với hòa hợp tối. Là với hòa hợp thông suốt, hay là với hòa hợp đầy kín. Nếu hòa hợp sáng Ngài dễ xem sáng, đang sáng hiện ra, thấy nơi nào hỗn tạp ? Thấy hình tướng có thể phân biệt, hình tượng nào hỗn tạp ? Nếu thấy sai, thấy sáng ra sao ? Nếu tức thời thấy, thấy hiện ra cái gì ? Nhất định thấy đầy đủ, sáng hòa hợp ở đâu ? Nếu sáng đầy đủ, không hòa hợp thấy hòa hợp. Nhất định thấy sáng khác, hỗn tạp chắc là mất Tính đó, sáng tên là chữ. Hỗn tạp mất Tính sáng, sáng hòa hợp nghĩa sai. Tối và thông suốt đó cùng với các loại đầy kín, cũng lại như thế. Lại nữa A Nan ! Mới lại Ngài hôm nay thấy tinh khiết Thanh tịnh vi diệu. Là với hòa hợp sáng, hay là với hòa hợp tối. Là với hòa hợp thông suốt, hay là với hòa hợp đầy kín. Nếu hòa hợp sáng tới với khi tối, tướng sáng đã mất. Thấy này tức thời không cùng với hòa hợp các tối, vì sao thấy tối ? Nếu thấy khi tối, không cùng với hòa hợp tối. Với hòa hợp với sáng cần thấy sáng sai. Đã không thấy sáng, hòa hợp sáng thế nào ? Biết rõ sáng tối sai, tối đó cùng với thông suốt. Cùng với các loại đầy kín cũng lại như thế.

A Nan báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Như Con suy nghĩ vốn là hiểu vi diệu này. Và các Duyên Trần cùng với tâm lo nghĩ nhớ, hòa hợp sai chăng ?

Phật nói rằng : Ngài nay lại nói rằng : Hiểu hòa hợp sai. Ta lại hỏi Ngài, thấy tinh khiết vi diệu này hòa hợp sai. Là hòa hợp sáng sai, hay là hòa hợp tối sai, là hòa hợp thông suốt sai, hay là hòa hợp đầy kín sai. Nếu hòa hợp sáng sai, chắc là thấy với sáng, nhất định có ở đường biên. Ngài dễ xem chính xác, nơi nào là sáng, nơi nào là thấy, ở nơi sáng nơi thấy, đường biên là tự ra sao ? A Nan ! Nếu trong giới hạn sáng nhất định không thấy, chắc là không cùng bắt kịp. Tự không biết sáng cùng ở đâu. Đường biên thành ra sao ? Tối cùng với thông suốt đó và các loại đầy kín cũng lại như thế. Lại thấy tinh khiết vi diệu, hòa hợp sai. Là hòa hợp sáng sai hay là hòa hợp tối sai. Là hòa hợp thông suốt sai, hay là hòa hợp đầy kín sai. Nếu hòa hợp sáng sai chắc là thấy và Tính sáng gai góc trái ngược. Như tai và sáng rõ thấy không cùng chạm biết. Tạm thời không biết tướng sáng ở đâu, hòa hợp sáng chân thực ra sao, lý hòa hợp sai. Tối và thông suốt đó cùng với các loại đầy kín cũng lại như thế. A Nan ! Ngài do còn chưa sáng rõ các tướng ảo hóa của tất cả Trần trôi nổi. Đang ở nơi sinh ra theo ở nơi mất hết, ảo vọng nói tên hình tướng. Hình thể sáng hiểu vi diệu chân thực của Tính này, như thế thậm chí năm Uẩn sáu Nhập. Từ mười hai nơi tới mười tám cõi giới. Nhân duyên hòa hợp ảo vọng sinh có. Rời Nhân duyên ảo vọng, tên là mất. Dứt hết không thể biết sinh mất tới lui. Tạng Như Lai trước kia thường ở sáng vi diệu. Tính Chân Như vi diệu đầy đủ tràn khắp không động. Tính trong bình thường chân thực cầu với lui tới. Hiểu sai sinh chết, biết rõ không đâu được.

A Nan ! Tính Chân Như vi diệu tạng Như Lai trước kia với năm Uẩn ra sao ? A Nan ! Ví như có người, dùng mắt Thanh tịnh xem khoảng không khi Trời trong sáng tạnh nắng. Chỉ có một tinh khiết trống Rỗng, xa xôi toàn bộ không có, người này vô cớ Con ngươi không động. Trừng mắt nên phát ra mệt mỏi, chắc là với khoảng không phân biệt thấy hoa cuồng. Lại có tất cả cuồng loạn hình tướng sai. Nên biết Uẩn Sắc cũng lại như thế. A Nan ! Các hoa cuồng đó. Không phải từ Rỗng tới, không phải từ mắt sinh. Như thế A Nan ! Nếu Rỗng tới, đã Rỗng tới, trở lại vào theo Rỗng. Nếu có ra vào tức thời khoảng không sai. Rỗng nếu Rỗng sai, tự không dung hòa, hoa này cùng sinh mất. Như thân thể A Nan không dung hòa A Nan. Nếu mắt sinh, đã từ mắt sinh, trở lại vào theo mắt. Tức thời Tính của hoa này, do từ mắt sinh đang hòa hợp thấy có. Nếu thấy có, ra đi đã là hoa Rỗng, trở lại hòa hợp mắt thấy. Nếu không thấy, đã sinh hoa ảo, trở lại đang mắt đau. Mới lại khi thấy hoa, mắt cần không có màng đau. Vì sao khoảng không tạnh nắng tên là mắt sáng Thanh tịnh. Vì thế nên biết Uẩn Sắc ảo vọng. Vốn dĩ Nhân duyên sai, Tính tự nhiên sai. A Nan ! Ví như có người. Tay chân yên ổn xương cốt điều thuận, bỗng nhiên sinh hay quên, Tính thuận không nghịch. Người này vô cớ dùng hai bàn tay cọ sát nhau trong Rỗng. Ở trong hai tay sinh các kiểu nóng lạnh khô ráp không thực. Nên biết Uẩn Thụ cũng lại như thế. A Nan ! Các chạm biết ảo đó không tới từ Rỗng, sinh không từ bàn tay. Như thế A Nan ! Nếu tới từ Rỗng bàn tay có thể chạm biết, sao thân không chạm biết, khoảng không không cần, chạm biết tới lựa chọn. Nếu từ bàn tay sinh, nên hòa hợp đợi sai. Mới lại do tay sinh, hòa hợp chắc là tay biết, rời tức thời chạm biết vào. Co chân lại cốt tủy chuyển theo cũng hiểu biết tung tích lúc vào. Nhất định tâm hiểu có, biết xuất ra biết vào, tự có một vật qua lại trong thân. Đợi cái gì biết hòa hợp, chủ yếu tên là chạm biết. Vì thế nên biết Uẩn Thụ ảo vọng. Vốn dĩ Nhân duyên sai, Tính tự nhiên sai. A Nan ! Ví như có người, nói về quả mơ chua, trong miệng tiết ra nước bọt. Suy nghĩ chân đạp lên vách núi cheo leo, tâm chua chát, đang biết Uẩn Tưởng cũng lại như thế. A Nan ! Nói chua như thế, sinh không từ quả mơ, vào theo miệng sai. Như thế A Nan ! Nếu quả mơ sinh, quả mơ hòa hợp tự đàm luận, người nói đợi cái gì ? Nếu vào không theo miệng, miệng nghe tự hòa hợp, tai cần đợi cái gì ? Nếu chỉ có tai nghe, nước bọt này sao không trong tai mà xuất ra. Tưởng nhớ đạp lên vách đá cheo leo và nói cùng loại. Vì thế nên biết Uẩn Tưởng ảo vọng. Vốn dĩ Nhân duyên sai, Tính tự nhiên sai. A Nan ! Ví như tiếng nổ tạo thành sóng. Sóng nước phía trước phía sau liên tục, không cùng dẫm đạp nhau. Nên biết Uẩn Hành cũng lại như thế. A Nan ! Tính lưu chuyển như thế, sinh không do Rỗng, có không do nước, cùng Tính nước sai, nước rời Rỗng sai. Như thế A Nan ! Nếu sinh nhân do Rỗng, chắc là tất cả mười phương không hết, khoảng không được giòng chảy không hết. Thế giới tự nhiên đều nhận chìm nổi. Nếu có nhân do nước, chắc là tiếng nổ này lưu chuyển, Tính cần nước sai. Có được có hình tướng nay cần hiện tại. Nếu tức thời Tính nước, chắc là lúc thanh lọc sạch, cần hình thể nước sai. Nếu nước rời nước Rỗng, Rỗng có bên ngoài sai, bên ngoài nước không lưu chuyển. Vì thế nên biết Uẩn Hành ảo vọng. Vốn dĩ Nhân duyên sai, Tính tự nhiên sai. A Nan ! Ví như có người cầm bình Tần Già. Đầy kín hai lỗ hổng giữa tràn đầy nâng trong Rỗng. Đi xa nghìn dặm dùng tặng cho Nước khác. Nên biết Uẩn Thức cũng lại như thế. A Nan ! Như thế khoảng không, tới phương đó sai, vào phương này sai. Như thế A Nan ! Nếu tới phương đó, chắc là trong bình trước kia đã tích chứa Rỗng ra đi. Với vị trí của bình trước kia, cần ít khoảng không. Nếu vào nơi này, dốc ngược bình mở nắp, cần thấy đổ ra Rỗng, vì thế nên biết, Uẩn Thức ảo vọng. Vốn dĩ Nhân duyên sai, Tính tự nhiên sai.

Kinh Đại Phật đỉnh vạn hành Thủ lăng nghiêm quyển thứ hai.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10