KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

Hán dịch: Sa Môn Thật Xoa Nan Ðà
Hoà Thượng Tuyên Hóa giảng giải
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

 

TẬP 07

QUYỂN MƯỜI BA

PHẨM QUANG MINH GIÁC THỨ CHÍN

Tại sao lại có quang minh ? Vì tu Bát Nhã, cho nên hiện ra quang minh. Giác là gì ? Tức là giác ngộ. Chúng sinh thấy được quang minh bèn sinh tâm giác ngộ. Phẩm nầy là phẩm thứ chín trong Kinh Hoa Nghiêm, cho nên gọi là Phẩm Quang Minh Thứ Chín.

Bấy giờ, dưới hai bàn chân của đức Thế Tôn, phóng ra trăm ức quang minh, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới.

Khi nói xong Phẩm Bốn Thánh Ðế, thì ở dưới hai bàn chân của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, phóng ra trăm ức quang minh, chiếu soi khắp ba ngàn đại thiên thế giới, chân là nơi đê tiện nhất của thân người, nhưng vì trí huệ bình đẳng, chẳng có cao thấp, cho nên từ dưới hai bàn chân phóng ra quang minh tôn quí nhất.

Một núi Tu Di, một mặt trời, một mặt trăng, một bốn đại châu, đó là một thế giới. Tích tụ một ngàn thế giới làm một tiểu thiên thế giới, tích tụ một ngàn tiểu thiên thế giới làm một trung thiên thế giới, tích tụ một ngàn trung thiên thế giới làm một đại thiên thế giới. Vì có ba ngàn cho nên gọi là ba ngàn đại thiên thế giới.

Có trăm ức cõi Diêm Phù Đề. Trăm ức cõi Phất Bà Đề. Trăm ức cõi Cù Gia Ni. Trăm ức cõi Uất Đơn Việt. Trăm ức biển lớn. Trăm ức núi Luân Vi. Trăm ức Bồ Tát thọ sinh. Trăm ức Bồ Tát xuất gia. Trăm ức Như Lai thành chánh giác. Trăm ức Như Lai chuyển pháp luân. Trăm ức Như Lai vào Niết Bàn. Trăm ức núi Tu Di. Trăm ức Thiên chúng trời Tứ Thiên Vương. Trăm ức trời Tam Thập Tam. Trăm ức trời Dạ Ma. Trăm ức trời Đâu Suất. Trăm ức trời Hóa Lạc. Trăm ức trời Tha Hóa Tự Tại. Trăm ức trời Phạm chúng. Trăm ức trời Quang Âm. Trăm ức trời Biến Tịnh. Trăm ức trời Quảng Quả. Trăm ức trời Sắc Cứu Kính. Hết thảy trong đó thảy đều hiện rõ. 

Có trăm ức (một vạn vạn là một ức) cõi Diêm Phù Ðề (Nam Thiệm Bộ Châu), có trăm ức cõi Phất Bà Ðề (Ðông Thắng Thần Châu), có trăm ức cõi Cù Gia Ni (Tây Ngưu Hóa Châu), có trăm ức cõi Uất Ðơn Việt (Bắc Câu Lư Châu). Lại có trăm ức biển lớn, trăm ức núi Tu Di, trăm ức Bồ Tát từ nội viện trời Ðâu Suất hàng xuống nhân gian thọ sinh. Có trăm ức Bồ Tát xuất gia tu hành. Có trăm ức Như Lai ở dưới cội Bồ Ðề thành chánh giác. Có trăm ức Như Lai đang chuyển bánh xe pháp, giáo hóa chúng sinh. Có trăm ức Như Lai ở giữa rừng song thọ vào Niết Bàn. Ðây là quá trình tám tướng thành đạo của Phật.

Tám tướng đó là :

1. Hàng thế.
2. Trụ thai.
3. Xuất thai.
4. Xuất gia.
5. Hàng ma.
6. Thành Chánh Giác.
7. Chuyển pháp Luân.
8. Vào Niết Bàn.

Có trăm ức núi Tu Di. Có trăm ức chúng trời Tứ Thiên Vương (ở giữa núi Tu Di, phía đông là Trì Quốc Thiên Vương, phía nam là Tăng Trưởng Thiên Vương, phía tây là Quảng Mục Thiên Vương, phía bắc là Ða Văn Thiên Vương). Lại có trăm ức trời Tam Thập Tam (tức là trời Ðao Lợi, vì bốn phương, mỗi phương có tám trời, chính giữa một trời, cho nên gọi là trời Tam Thập Tam. Tức cũng là chúa trời, là Thích Ðề Hoàn Nhân của Phật giáo, là Ngọc Hoàng đại đế của Đạo giáo, là thượng đế của Gia Tô giáo, ở tại cõi trời đó. Tên gọi tuy khác nhau, kỳ thật là cùng một người. Lại có trăm ức trời Dạ Ma (dịch là Thiện Thời Phần, vì cõi trời đó, lấy sự mở khép của hoa sen làm một ngày đêm). Lại có trăm ức trời Ðâu Suất dịch là Hỉ Túc, vì chúng sinh ở cõi trời đó hoan hỉ đầy đủ. Bồ Tát bổ xứ Phật vị đều ở nội viện cõi trời đó. Ðương Lai Hạ Sinh Di Lạc Bồ Tát đang ở đó. Lại có trăm ức trời Hóa Lạc (Thiên chúng cõi trời nầy toại tâm sở dục, hóa hiện các thứ đồ vui chơi để thọ dụng). Lại có trăm ức trời Tha Hóa Tự Tại (cõi trời này khoái lạc vô cùng, có thể biến hóa âm nhạc cõi trời khác làm ân nhạc của mình. Ma Vương Ba Tuần ở cõi trời nầy). Lại có trăm ức trời Phạm chúng (chúng sinh cõi trời nầy tâm rất thanh tịnh, chẳng có dục niệm, diện mạo như đồng tử, thân như màu bạc, có người nam, chẳng có người nữ, đều là biến hóa sinh ra). Lại có trăm ức trời Quang Âm (chúng sinh cõi trời nầy chẳng những thân tâm phóng quang, mà trí huệ cũng phóng quang. Quang phóng ra là màu đỏ, dùng để làm Phật sự, dùng quang để giáo hóa chúng sinh). Lại có trăm ức trời Biến Tịnh (chúng sinh ở cõi trời này đắc được diệu lạc thuần chân thanh tịnh. Vì quá khoái lạc nên dễ mất đi tâm đạo). Lại có trăm ức trời Quảng Quả (trời nầy phân làm hai thứ công phu thiền định. Người tu lập định của ngoại đạo sẽ sinh về Trời Vô Tưởng, người tu tập định của Bồ Tát sẽ sinh về trời Ngũ Bất Hoàn). Lại có trăm ức trời Sắc Cứu Kính (Ðây là trời sắc giới cao nhất. Người thiền định lợi căn, thì trực tiếp ra khỏi tam giới, người thiền định độn căn thì phải trải qua trời Tứ Không ‘’Vô Sắc Giới’’, mới ra khỏi tam giới được).

Hết thảy cảnh giới của chư Thiên như thế đều hiện ra rất rõ ràng.

Như nơi nầy, thấy đức Phật Thế Tôn ngồi trên tòa sư tử liên hoa tạng, có các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, cùng vây quanh đức Phật. Ở trong trăm ức cõi Diêm Phù Đề, cũng có trăm ức đức Như Lai ngồi như vậy.

Giống như thế giới Ta Bà, thấy được Ðức Phật Thế Tôn ngồi ở trên tòa sư tử liên hoa tạng, có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật cùng nhau vây quanh Ðức Phật. Ở trong trăm ức cõi Diêm Phù Ðề khác, cũng có trăm ức Ðức Như Lai ngồi ở trên tòa sư tử liên hoa tạng, đang chuyển pháp luân, giáo hoá chúng sinh.

Do nhờ thần lực của Phật, nên mỗi phương trong mười phương, đều có một vị đại Bồ Tát. Mỗi vị Bồ Tát, đều cùng với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, tụ lại đi đến chốn Phật. Tên của các Ngài là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ Tát Giác Thủ, Bồ Tát Công Đức Thủ, Bồ Tát Mục Thủ, Bồ Tát Tinh Tấn Thủ, Bồ Tát Pháp Thủ, Bồ Tát Trí Thủ, Bồ Tát Hiền Thủ.

Ðó đều hoàn toàn nhờ thần lực của Phật, trong mười phương thế giới, mỗi phương đều có một vị đại Bồ Tát. Mỗi vị đại Bồ Tát, cùng với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật tụ lại với nhau, cùng đi đến đạo tràng của Phật Thích Ca Mâu Ni, để nghe Phật diễn nói Kinh Hoa Nghiêm.

Có mười vị Bồ Tát, tên của các Ngài là :

1. Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, từ phương đông thế giới Kim Sắc đến, là mẹ của chư Phật ba đời, lại vì chư Phật mà làm thầy. Trong kinh Xứ Thai có nói : ‘’Xưa làm thầy Thích Ca, nay làm đệ tử Phật.’’

2. Bồ Tát Giác Thủ từ phương nam thế giới Diệu Sắc đến, Ngài là Bồ Tát giác ngộ thượng thủ, chứng được trí vô ngại.

3. Bồ Tát Tài Thủ từ phương tây thế giới Liên Hoa Sắc đến, Ngài dùng pháp tài giáo hóa chúng sinh, làm thượng thủ Bồ Tát, chứng được trí diệt ám.

4. Bồ Tát Bảo Thủ từ phương bắc thế giới Ðảm Bặc Hoa Sắc đến, Ngài là chân tục không lìa, đáng trân quý, làm Bồ Tát thượng thủ.

5. Bồ Tát Công Ðức Thủ, từ phương đông bắc thế giới Ưu Bát La Hoa Sắc đến, Ngài thông đạt được công đức của Như Lai ứng hiện thuyết pháp mà làm Bồ Tát thượng thủ.

6. Bồ Tát Mục Thủ, từ phương đông nam thế giới Kim Sắc đến, Ngài hay dùng phước điền chiếu đạo, như mắt với thân, bình đẳng phước điền, chứng đắc được trí cứu kính.

7. Bồ Tát Tinh Tấn Thủ, từ phương tây nam thế giới Bảo Sắc đến, Ngài dùng chánh giáo thâm sâu, tinh tấn tu vạn hạnh, được trí tối thắng.

8. Bồ Tát Pháp Thủ từ phương tây bắc thế giới Kim Cang Sắc đến, Ngài dùng nhiều pháp môn, tuy nhiều đều là chánh hạnh, hay thực hành mới đắc được tự tại mà làm thượng thủ.

9. Bồ Tát Trí Thủ từ phương dưới thế giới Pha Lê đến, Ngài dùng trợ đạo của Phật, tuy vô lượng môn, trí làm thượng thủ, hay tịnh vạn hạnh.

10. Bồ Tát Hiền Thủ từ phương trên thế giới Bình Ðẳng đến, Ngài dùng Phật trước Phật sau, một đạo thanh tịnh, do tự tánh thiện nên gọi là Hiền.

Các Bồ Tát đó, đến từ các cõi nước, đó là : Thế giới Kim Sắc, thế giới Diệu Sắc, thế giới Liên Hoa Sắc, thế giới Đảm Bặc Hoa Sắc, thế giới Ưu Bát La Hoa Sắc, thế giới Kim Sắc, thế giới Bảo Sắc, thế giới Kim Cang Sắc, thế giới Pha Lê Sắc, thế giới Bình Đẳng Sắc.

Mười vị đại Bồ Tát đó, từ cõi nước của mình đến chốn Phật để làm ảnh hưởng chúng. Những tên của các thế giới đó đã nói qua ở Phẩm Danh Hiệu Như Lai. Phương đông có thế giới Kim Sắc, phương nam có thế giới Diệu Sắc, phương tây có thế giới Liên Hoa Sắc, phương bắc có thế giới Ðảm Bặc Hoa Sắc, phương đông bắc có thế giới Ưu Bát La Hoa Sắc, phương đông nam có thế giới Kim Sắc, phương tây nam có thế giới Bảo Sắc, phương tây bắc có thế giới Kim Cang Sắc, phương dưới có thế giới Pha Lê Sắc, phương trên có thế giới Bình Ðẳng Sắc.

Các Bồ Tát đó, đều ở chỗ các đức Phật, tu phạm hạnh thanh tịnh. Đó là : Phật Bất Động Trí, Phật Vô Ngại Trí, Phật Giải Thoát Trí, Phật Oai Nghi Trí, Phật Minh Tướng Trí, Phật Cứu Kính Trí, Phật Tối Thắng Trí, Phật Tự Tại Trí, Phật Phạm Trí, Phật Quán Sát Trí.

Mười vị đại Bồ Tát đó, trong vô lượng kiếp về trước, tu Bồ Tát đạo lợi ích chúng sinh. Các Ngài đều ở trước hết thảy các Ðức Phật, lễ kính các Ðức Phật, rộng tu cúng dường, tu phạm hạnh thanh tịnh. Tu phạm hạnh tức là tu hạnh môn thanh tịnh, chuyên tâm nhất chí, khiến cho tạp niệm chẳng sinh. Thanh tịnh là khiến cho tất cả niệm ô nhiễm đều trừ diệt sạch. Thanh tịnh còn có ý nghĩa là quét trừ, giống như nhà cửa có bụi thì phải quét dọn cho sạch sẽ. Tu phạm hạnh thanh tịnh cũng như thế. Quét sạch hết bụi bặm ở trong tâm. Bụi bặm là gì ? Tức là tà tri tà kiến, cuồng tâm dã tánh, tư tưởng chẳng giữ quy cụ .v.v… Người chỉ biết quét bụi bặm trong nhà, mà chẳng biết quét bụi bặm trong tâm. Trong tâm có rất nhiều vọng tưởng và tạp niệm dơ dáy bẩn thiểu, nếu không quét cho sạch sẽ thì Bồ Tát đạo vĩnh viễn không có ngày thành tựu. Do đó, phải luôn luôn hồi quang phản chiếu, quay lại trong tâm mình, khiến cho tâm đừng phóng dật, đừng tùy tiện, sinh niệm đầu giác ngộ, đó tức là tu phạm hạnh thanh tịnh.

Trong Phẩm Danh Hiệu Như Lai có nói về mười vị Phật ở trong mười phương thế giới.

1. Phươmg đông thế giới Kim Sắc, có vị Phật hiệu là Phật Bất Ðộng Trí. Vị Phật nầy ở cõi Thường Tịnh Quang, tịch nhiên bất động. Tuy nhiên bất động nhưng biết khắp hết thảy. Ngài có chánh tri và có biến tri, cho nên trí huệ của Ngài rất rộng lớn. Chúng ta ai ai cũng đều đầy đủ trí huệ bất động nầy, song, ai ai cũng quên nó. Giống như khi nằm mộng thì tất cả học vấn cũng chẳng vận dụng. Cho nên vị Phật Bất Ðộng Trí khiến cho chúng sinh nghĩ tưởng lại trí huệ bất động vốn có của chính mình, khiến cho chúng ta trở về nguồn cội, bỏ mê về với giác ngộ.

2. Phương nam thế giới Diệu Sắc, có vị Phật hiệu là Phật Vô Ngại Trí. Trí huệ của vị Phật đó chẳng có chướng ngại, chẳng có gì mà không biết, chẳng có gì mà không thấy. Trí huệ này chẳng những chư Phật có, mà chúng ta chúng sinh cũng đều có, đáng tiếc chúng ta chẳng biết dùng, cho nên điên điên đảo đảo.

3. Phương tây thế giới Liên Hoa Sắc, có vị Phật hiệu là Phật Giải Thoát Trí. Vị Phật đó có trí huệ giải thoát, giải thoát là lìa khỏi tất cả chướng ngại, đắc được tự tại chân chánh. Trí huệ nầy ai ai cũng đều có, nhưng vì chấp trước vọng tưởng, cho nên không được giải thoát. Ðắc được trí huệ giải thoát, thì chứng được ngũ nhãn lục thông.

4. Phương bắc thế giới Ðảm Bặc Hoa Sắc, có vị Phật hiệu là Phật Oai Nghi Trí. Vị Phật đó có trí huệ oai nghi, oai là có oai đáng sợ, nghi là có nghi đáng kính. Do đó, có câu: ‘’Ði đứng nằm ngồi, bốn đại oai nghi.’’ Cổ đức có nói:

‘’Ði như gió
Đứng như tùng
Ngồi như chung
Nằm như cung.’’

Khi đi như gió nhẹ thoảng qua, nước sóng chẳng động, không phải là gió bão thổi trời đất u ám. Khi đứng thì thân thẳng như cây tùng, đứng thẳng một mình, chẳng nghiêng đông ngã tây, ưỡn trước đổ sau. Khi ngồi thì phải ngồi ngay thẳng như là đại hồng chung, chẳng giao động, tâm chẳng có vọng tưởng, tự nhiên bất động. Khi nằm thì nằm theo tư thế cát tường, tay phải để trên đùi, tay trái gối dưới đầu, hình giống như cây cung. Ðây là nói sơ lược, nếu nói rộng ra thì có ‘’Ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh.’’ Tóm lại, nơi nơi đều phải cẩn thận mà hành sự, luôn luôn phải chú ý hoàn cảnh. Ví như có người đang ngồi thiền, thì bạn đóng cửa đừng có gây tiếng động, tức là đi cũng đừng có tiếng động. Bằng không, thì làm ảnh hưởng đến người ngồi thiền động tâm. Do đó, có câu :

‘’Thà động ngàn sông nước
Đừng động tâm Đạo nhân.’’

Chúng ta người tu đạo mỗi cử chỉ hành động, lời nói việc làm đều phải hợp với tiêu chuẩn ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh, không thể chướng ngại người khác tu đạo. Ðiểm nầy hy vọng mọi người phải vâng giữ, không được phóng dật.

5. Phương đông bắc thế giới Ưu Bát La Hoa Sắc, có vị Phật hiệu là Phật Minh Tướng Trí, vị Phật đó có trí huệ minh tướng, thấu rõ thật tướng của các pháp. Thật tướng là vô tướng, chẳng chấp tướng, Do đó, có câu :

‘’Quét tất cả pháp, lìa hết thảy tướng.’’

Vì tướng từ tâm vọng sinh ra, chẳng chấp liền không, cho nên là thật tướng, tức là tướng chân thật.

6. Phương đông nam thế giới Kim Sắc, có vị Phật hiệu là Phật Cứu Kính Trí. Vị Phật đó có trí huệ cứu kính, tức cũng là trí huệ căn bản, chứ không phải là trí huệ được sau. Mục đích của chúng ta tu đạo là cầu trí huệ cứu kính, trí nầy hiện tiền, tức là khai ngộ.

7. Phương tây nam thế giới Bảo Sắc, có vị Phật hiệu là Phật Tối Thắng Trí. Vị đó có trí huệ tối thù thắng, trí huệ này trên hết không gì bằng, hay chuyển tám thức thành bốn trí.

8. Phương tây bắc thế giới Kim Cang Sắc, có vị Phật hiệu là Phật Tự Tại Trí. Vị Phật đó có trí huệ tự tại. Tự tại tức là tâm lìa phiền não, được cảnh giới vô ngại.

9. Phương dưới thế giới Pha Lê Sắc, có vị Phật hiệu là Phật Phạm Trí. Vị Phật đó có trí huệ thanh tịnh. Thanh tịnh tức là lìa khỏi các lỗi lầm ác hạnh, lìa khỏi các phiền não nhiễm ô.

10. Phương trên thế giới Bình Ðẳng Sắc, có vị Phật hiệu là Phật Quán Sát Trí. Vị đó có trí huệ quán sát, quán sát thể tánh của các pháp là không sinh không diệt.

Bấy giờ, tất cả mọi nơi, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi đều ở chỗ đức Phật, đồng thời phát ra tiếng, nói bài kệ rằng.

Lúc đó, tất cả mọi nơi, hết thảy Bồ Tát Văn Thù (Hoá thân của ngài khắp trong hết thảy tất cả đạo tràng của chư Phật, phàm là có Phật nói pháp, Ngài đều đến tham gia làm ảnh hưởng chúng). Ngài ở tại mỗi đạo tràng của Phật, đồng thời phát ra tiếng để diễn nói diệu pháp của Kinh Hoa Nghiêm.

Có người hỏi : ‘’Vậy cứu kính có bao nhiêu Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ?’’ Bồ Tát Văn Thù chỉ có một thân, song, hay biến hóa ra trăm ngàn ức thân. Tuy nhiên Bồ Tát Văn Thù ở tại bổn xứ chẳng động, mà hóa thân đến khắp mười phương cõi nước của chư Phật. Ðây là đạo lý:

‘’Một tức tất cả, tất cả tức một‘’.

Ví như nơi nào có nước, thì có mặt trăng hiện ra. Do đó, có câu :

‘’Ngàm đầm có nước, ngàn đầm có mặt trăng ‘’.

Lại nữa, ví như ở trong phòng bốn vách tường, và trên dưới đều gắng kính đầy phòng. Nếu người đứng ở giữa phòng, thì trong tất cả kính đều hiện ra hình người, có rất nhiều hình người. Do đó, có thể chứng minh, có bao nhiêu kính thì hiện ra bấy nhiêu thân.

Nếu thấy được Chánh Giác
Giải thoát lìa các lậu
Không chấp tất cả đời
Đó chẳng chứng đạo nhãn.

Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở trong hết thảy đạo tràng của chư Phật, đồng thời nói ra vấn đề bồ đề và phiền não. Bồ đề tức là giác đạo, phiền não tức là nghiệp chướng. Vì phiền não là từ tình cảm sinh ra, có phiền não thì có nghiệp chướng. Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi vì thương xót chúng sinh, mà nói ra phương pháp làm thế nào tu bồ đề giác đạo ? Làm thế nào đoạn phiền não nghiệp chướng. Cho nên mới nói : Nếu như có người thấy được Chánh Giác (Phật), thì đã chứng được giải thoát, lìa khỏi các bệnh, tức cũng là trong lìa tất cả các lậu, ngoài chẳng chấp trước pháp hữu vi thế gian. Nhưng hai cảnh giới nầy vẫn chẳng phải là cứu kính, vì còn có cái lìa, không lìa, chấp trước, chẳng chấp trước, pháp đối đãi. Nếu không có lìa, cũng chẳng có không lìa, chẳng có trước, cũng chẳng có chẳng chấp trước. Ðó mới là tuyệt đối đãi, được như thế thì chân chánh minh bạch pháp thế gian.

Chẳng có cái lìa, cũng chẳng có cái không lìa, đây là quét tất cả pháp. Chẳng có cái chấp trước, cũng chẳng có cái không chấp trước, đây là lìa tất cả tướng. Cảnh giới của Phật, thì chẳng có cái lìa, cũng chẳng có cái không lìa, mà là siêu tình lìa kiến. Vượt khỏi phàm tình, lìa khỏi tri kiến của phàm phu, cho nên nói cảnh giới của Phật không thể nghĩ bàn. Ðến được cảnh giới nầy, mới là bổn thể của chư Phật. Nếu nói chư Phật đã lìa khỏi các lậu, thì vẫn chưa thâm nhập minh bạch Phật pháp. Nếu nói Phật đã hết chấp trước pháp thế gian, thì cũng chẳng minh bạch Phật pháp, vì chư Phật vẫn ở tại thế gian giáo hóa chúng sinh. Tuy ở tại thế gian, nhưng chẳng có điên đảo của phàm phu. Phật thì quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng, chẳng có cái chấp trước, cũng chẳng có cái không chấp trước; chẳng có cái lìa, cũng chẳng có cái không lìa, đây là cứu kính, cho nên mới nói không chấp tất cả đời.

Nếu nói Phật còn có cái lìa, còn có cái không lìa, còn có cái chấp trước, còn có cái không chấp, đó là pháp đối đãi, chẳng cứu kính. Cho nên nói, đó chẳng chứng đạo nhãn. Ðạo nhãn tức là trí huệ chân chánh.

Giải thoát là gì ? Tức là đắc được tự do thật sự, vô câu vô thúc, đến đi tự tại. Chúng ta tại sao chẳng tự do ? Vì bị dây thừng vọng tưởng chấp trước trói chặt, cho nên hành động chẳng tự tại, chẳng được giải thoát.

Các lậu là gì ? Tức là tập khí mao bệnh từ vô thỉ đến nay. Ví như tham tiền tài tức là lậu tiền tài, tham sắc thì có lậu về sắc. Tham danh thì có lậu về danh, tham lợi thì có lậu về lợi. Lậu tức là chẳng viên mãn. Phàm là không hợp với quy cụ tức là các lậu.

Có người trong tâm khởi vọng tưởng : ‘’Ăn cơm cũng là lậu, mặc áo cũng là lậu, ngủ cũng là lậu. Vậy là gì không lậu ? Ăn cơm là lậu, song, ai ai cũng phải ăn cơm, chẳng có người nào không ăn cơm. Ai ai cũng phải mặc quần áo, chẳng có người nào không mặc quần áo. Ai ai cũng phải ngủ, chẳng có người nào mà không ngủ. Những sự cơm, quần áo, ngủ, đều có lậu. Chúng ta phải nên vô lậu. Song, không ăn cơm thì sẽ chết đói. Không mặc quần áo thì sẽ chết lạnh. Không ngủ thì sẽ chết vì mất ngủ. Nếu nói ba thứ đó là lậu, thì tôi kiên quyết phản đối, không tán thành lời nói pháp nầy.

Ai có thể không ăn cơm ? Ai có thể không mặc quần áo ? Ai có thể không ngủ ? Song, đừng quá nhiều, cũng đừng quá ít, phải giữ trung đạo. Ví như ăn cơm, ăn no thì được, đừng khời vọng tưởng, xem thử đồ ăn đó đáo để có dinh dưỡng hay chẳng có dinh dưỡng ? Mặc áo quần là để che lạnh, đủ ấm thì được, đừng có ngày nào cũng mặc quần áo mới, để cho người chú ý, làm cho người hâm mộ bạn. Có tư tưởng như thế thì là lậu. Ngủ là để tiêu trừ bệnh mệt nhọc, ngủ nhiều cũng là lậu, ngủ ít cũng là lậu. Vừa đủ không nhiều không ít thì chẳng có lậu. Tóm lại, vui mừng cũng là lậu, nổi giận cũng là lậu, thương cũng là lậu, ghét cũng là lậu, thất tình cũng là lậu, lục dục cũng là lậu. Lậu mà không lậu tức là vô lậu. Song, vô lậu vẫn chưa đến nhà ! Vì còn có cái vô lậu. Nếu chẳng có cái vô lậu, cũng chẳng có cái không lậu, thì đó mới là cứu kính.

Bây giờ giải thích sơ lược về thất tình.

Hỉ : Vốn không nên hoan hỉ, mà bạn hoan hỉ, tức là lậu. Giống như người ta chết mà bạn cứ cười, đây là không đúng.

Nộ : Thấy người ta giữ quy cụ, mà bạn nổi giận, mắng người ta trứng thối, chẳng biết tự do, tự tìm cái khổ. Như thế thì khiến cho mọi người nhàm chán bạn.

Ai : Khi người ta đang cử hành hôn lễ, thì bạn đến khóc la om sòm, còn nói các vị không nên kết hôn. Phàm là dùng không thích đáng đều là lậu.

Cụ : Người ta phát sinh việc bất hạnh, có cảm giác sợ hãi, bạn chẳng những chẳng an ủi họ, mà còn nói những lời không tốt. Như thế thì không đúng.

Ái : Thấy người ta thì nói : ‘’Tôi thương bạn‘’, khiến cho người nghe chẳng thoải mái sinh ra mặc cảm, chẳng lý tới bạn nữa.

Ác : Thấy người thì nói : ‘’Tôi ghét bạn‘’, khiến cho người nghe chẳng vui, thâm chí nổi giận, biện luận với bạn hoặc là chưởi mắng với nhau.

Dục : Dục vọng chẳng bao giờ ngừng, nhưng phải ham muốn có hạn, đừng có tham không biết chán, không nên có tham dục, nếu bạn có tham dục tức là lậu.

Trước khi thất tình nầy phát sinh là trung đạo. Nên hoan hỉ thì hoan hỉ, đáng lẽ nổi giận mà không nổi giận. Ai được như thế thì người đó cơ hội khai ngộ. Chúng ta tu đạo thì có tâm nhẫn nhục, không nóng giận, hãy học theo hạnh của Bồ Tát Di Lặc, nhẫn những việc mà thiên hạ nhẫn không được.

Pháp thế gian là gì ? Là pháp có hình có tướng. Trong Kinh Kim Cang có nói:

‘’Tất cả pháp hữu vi
Như mộng huyễn bọt nước
Như sương cũng như điện
Hãy quán sát như thế.’’

Pháp hữu vi tức là pháp thế gian, cũng giống như sương buổi sáng, mặt trời mọc lên thì tan mất.

Nếu biết được Như Lai
Thể tướng chẳng chỗ có
Tu tập thấu rõ được
Người đó sớm thành Phật.

Nếu như có người biết tám tướng thành đạo của Phật. Biết Phật trong quá khứ ở tại nhân địa tu hành như thế nào ? Tu phước huệ như thế nào ? Phật vốn là vô tướng, song, vô tướng mà vô sở bất tướng, thể tướng không chỗ có. Nếu muốn biết thế nào là chẳng chỗ có, thì phải tu tập tất cả pháp môn. Như thế, mới thấu rõ cảnh giới của Phật, là tận hư không, biến pháp giới, vô tại vô bất tại. Song, thể tướng thì vắng lặng, không hình không tướng không chỗ có. Nếu người đó minh bạch được Phật tu hành như thế nào ? Thành Phật như thế nào ? Nếu y pháp tu hành, thì người đó nhất định sẽ sớm thành Phật đạo.

Hay thấy thế giới nầy
Mà tâm chẳng giao động
Nơi  thân Phật cũng thế
Sẽ thành bậc Thắng Trí.

Hay thấy được pháp thế gian, mà ngộ được pháp xuất thế gian. Chứ chẳng phải lìa khỏi thế gian, riêng ngoài có xuất thế gian. Nếu lìa khỏi pháp thế gian, riêng ngoài có pháp xuất thế gian, như thế thì phải có hai người, một là phàm phu, một là đi thành Phật. Tức nhiên là một người, hoặc là phàm phu hoặc là thành Phật. Làm phàm phu, hoặc thành Phật, đều là chúng sinh, chứ chẳng có hai dạng. Cho nên trong kinh có nói : ‘’Tâm chẳng giao động,’’ tức là chẳng bị sự phân biệt làm mê hoặc, chẳng bị vọng tưởng chấp trước. Mười phương chư Phật và chúng sinh nguồn gốc là một thể, chẳng qua là giác và mê mà thôi. Tu hành đầy đủ đại trí huệ sẽ thành Phật. Chẳng tu hành đầy dẫy phiền não là phàm phu. Pháp thế gian và pháp xuất thế gian đều là một dạng. Nếu minh bạch thì pháp thế gian tức là pháp xuất thế gian. Nếu chẳng minh bạch, thì pháp xuất thế tức là pháp thế gian. Ở tại sự chuyển niệm, hồi đầu chuyển thân, thì thấy bổn địa phong quang. Người đó đương nhiên sẽ thành bậc đại trí thù thắng nhất, tức cũng là Phật.

Nếu nơi Phật và pháp
Mà tâm hiểu bình đẳng
Hai niệm không hiện tiền
Sẽ đạt được Phật vị.

Nếu như có người đối với Phật và pháp, minh bạch bình đẳng, chẳng có sự khác biệt, Phật và pháp là một thể, thì người đó sẽ đạt được cảnh giới của Phật. Phật mà vô Phật, bổn lai tức là Phật. Ðã thành Phật, thì không cần nương tựa pháp. Lúc đó, đến được trình độ:

‘’Tu vô khả tu, chứng vô khả chứng ’’.

Nghĩa là :

Tu mà không tu, chứng mà không chứng.

Trên quả vị vô tu vô chứng, có thể nói tức là chẳng có Phật, cũng chẳng có pháp. Nhưng khi phàm phu đang tu hành thì tuyệt đối không thể nói chẳng có Phật, chẳng có pháp. Cho nên, chưa đạt được trình độ tương đương, thì tuyệt đối không được nói chẳng có Phật, chẳng có pháp. Vì đã minh bạch Phật và pháp là bình đẳng, là một. Ðến được trình độ đó, thì mới có thể nói chẳng cần gì hết.

Nếu như Phật và pháp đều chẳng có, thì biến thành kẻ ngoại đạo không biết gì, ngoại đạo là chủ trương chẳng có gì hết. Hai niệm Phật và pháp không hiện tiền, chẳng có tâm phân biệt Phật và pháp, đạt được cảnh giới đó, thì sẽ bước lên quả vị không thể nghĩ bàn, tức cũng là Phật vị.

Nếu thấy Phật và thân
Bình đẳng mà an trụ
Không trụ không chỗ vào
Sẽ thành bậc khó gặp.

Nếu như có người thấy được Phật và chúng sinh, do đó : ‘’Tâm Phật và chúng sinh, cả ba không khác nhau‘’, đều là bình đẳng. Tuy nhiên an trụ, cũng không chỗ vào. Có được lối nhìn như thế, thì người đó sẽ thành tựu bậc khó gặp khó thấy, tức cũng là Phật.

Sắc thọ chẳng có số
Tưởng hành thức cũng thế
 Nếu biết được như vậy
Sẽ làm Đại Mâu Ni.

Bài kệ nầy nói về lý năm uẩn. Năm uẩn tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc tức là tất cả nhan sắc. Thọ tức là sự cảm thọ. Tưởng tức là vọng tưởng. Hành tức là hành động. Thức tức là tất cả sự phân biệt, phân biệt thiện ác, thị phi, trắng đen. Nếu chuyển được thức thành trí, thì sẽ thành tựu. Nếu không chuyển thức được, dùng tâm phân biệt để phân biệt tất cả pháp, đó vẫn là thức đang tác quái !

Sắc uẩn và thọ uẩn chẳng có số (có tướng sai biệt là số), tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, cũng giống nhau, chẳng có số. Nếu biết năm uẩn không lạc vào tất cả số, thì tương lai sẽ làm bậc Ðại Tịch Diệt, tức cũng là Phật quả.

Nếu có người chánh tri chánh kiến, thì họ chẳng bị năm uẩn trói buộc, ngược lại chiếu soi năm uẩn đều không, sớm sẽ thành Phật. Nguyên nhân chúng ta không thành Phật, tức là không chiếu soi được năm uẩn đều không, ngày ngày chuyển ở trong năm uẩn. Hiện tại biết năm uẩn chẳng có số, đó tức là không. Nhìn thành không thì sẽ thành Phật quả.

Thấy thế và xuất thế
Tất cả đều siêu việt
Khéo biết tất cả pháp 
Sẽ thành Đại Quang Diệu.

Thấy thế gian và thấy xuất thế gian, tất cả đều siêu việt nhập xuất. Nếu khéo biết tất cả pháp, hành trì tất cả pháp, thì sẽ thành bật Ðại Quang Diệu, tức cũng là Phật.

Lục Tổ Huệ Năng nói :

‘’Phật pháp tại thế gian
Chẳng lìa thế gian giác
Lìa thế cầu bồ đề
Ví như tìm sừng thỏ.’’

Phật pháp bao quát pháp thế gian, chẳng lìa khỏi thế gian mà giác ngộ. Nếu lìa khỏi pháp thế gian, riêng ngoài đi tìm pháp giác ngộ, thì là sai lầm. Giống như tìm sừng trên đầu con thỏ, chẳng bao giờ có.

Nếu nơi Nhất thiết trí
Phát sinh tâm hồi hướng
Thấy tâm không chỗ sinh
Sẽ được Đại Danh Xưng. 

Nếu ở nơi tất cả trí huệ mà phát sinh tâm hồi hướng bồ đề, tức là đem công đức và trí huệ hồi hướng cho pháp giới tất cả chúng sinh, mà còn cảm thấy chẳng có việc gì, chẳng chấp trước, chẳng có tâm sí đồ. Thấy tâm của mình chứ chẳng sinh ra tâm hồi hướng. Nếu phá được tâm chấp trước công đức, thì người đó sẽ đắc được Danh Xưng Lớn Nhất, tức cũng là Phật.

Hồi hướng có bốn thứ :

1. Hồi tự hướng tha.
2. Hồi nhân hướng quả.
3. Hồi sự hướng lý.
4. Hồi tiểu hướng đại.

Giải thích sơ lược như sau :

1. Hồi tự hướng tha : Hồi công đức của mình bố thí cho pháp giới chúng sinh, vì chúng sinh mà hồi hướng. Như có trí huệ thì phát nguyện đem trí huệ của mình bố thí cho chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đắc được tất cả trí huệ.

2. Hồi nhân hướng quả : Chúng ta tu hành tại nhân địa, thì tương lai mọi người đều đắc được quả vị Phật, hy vọng pháp giới chúng sinh đồng thành Phật đạo.

3. Hồi sự hướng lý : Hiện tại chúng ta tu hành tất cả các hạnh, nguyện ý hồi hướng lý thể của chư Phật vô thượng tịch tĩnh.

4. Hồi tiểu hướng đại : Hiện tại tâm lượng của chúng ta rất nhỏ, tư tưởng nông cạn. Phải phát nguyện, phóng tâm lượng rộng lớn như pháp giới, chu khắp như hư không, bao la vạn tượng, chẳng có gì mà chẳng dung chứa được. Nếu như từ trước tu tiểu thừa, thì nay hướng về tu pháp đại thừa.

Chúng sinh chẳng có sinh
Cũng lại không có hoại
Nếu được trí như vậy
Sẽ thành Vô Thượng Đạo.

Nếu minh bạch lý các pháp thật tướng, thấy Phật không sinh không diệt, thấy chúng sinh cũng không sinh không diệt. Vì tâm, Phật, chúng sinh, cả ba đều không khác nhau. Cũng chẳng có sinh cũng chẳng có hoại. Nếu có trí huệ như thế, thì chẳng chấp trước. Chẳng có cái ta, cũng chẳng có sở hữu của ta; chẳng có cái tu, cũng chẳng có sở tu. Tương lai sẽ thành tựu Phật quả vô thượng đạo.

Trong một hiểu vô lượng
Trong vô lượng hiểu một
Biết rõ cùng sinh khởi
Sẽ thành Vô Sở Úy.

Một là ít, vô lượng là nhiều. Một tán làm nhiều, nhiều lại làm một. Cho nên một sinh vô lượng, một chẳng tự một. Vô lượng quy về một, nhiều chẳng tự nhiều. Cùng nhau sinh khởi, cùng nhau vô ngại, cho nên nói trong một hiểu vô lượng. Vô lượng là từ một mà ra, nếu chẳng có một, thì cũng chẳng có vô lượng; chẳng có vô lượng, thì cũng chẳng có một. Chẳng có một tức là số ‘’0’’. Chúng ta học Phật pháp tức là học số ‘’0’’ nầy. Ðến được số ‘’0’’ thì sẽ trở về cội nguồn, bỏ mê về với giác ngộ.

Trong vô lượng lại thấu rõ một, một sinh vô lượng, vô lượng trở về một. Thấu rõ được lý luận cùng nhau sinh khởi, thì sớm sẽ thành tựu Vô Sở Úy, ít nhất cũng là Ðại Bồ Tát, nếu nói trên nữa thì cứu kính thành Phật.

Bấy giờ, quang minh vượt qua thế giới đó, chiếu khắp phương đông mười cõi Phật. Phương tây, nam, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế. Trong mỗi thế giới, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Đề, cho đến trăm ức trời Sắc Cứu Kính. Hết thảy trong đó, đều thấy hiện rõ, như thấy đức Phật Thế Tôn ở nơi đây, ngồi trên tòa sư tử liên hoa tạng, có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, cùng nhau vây quanh. Trong mỗi thế giới đó, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Đề, trăm ức đức Như Lai, cũng ngồi như thế. Đều nhờ thần lực của Phật, nên mỗi phương trong mười phương, đều có một vị đại Bồ Tát, cùng với các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, tụ lại cùng đến chốn Phật. Những vị đại Bồ Tát đó, tức là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v… từ cõi nước của Ngài đến .v.v… Đó là thế giới Kim Sắc .v.v… Đức Phật ở thế giới đó, hiệu là Bất Động Trí Như Lai .v.v…

Lúc đó, quang minh ở dưới chân của Phật phóng ra, vượt qua thế giới đó, chiếu khắp phương đông mười cõi Phật. Ở phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, chín phương còn lại của thế giới đó, cũng giống như vậy. Trong mỗi thế giới mười phương, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Ðề, cho đến trăm ức cõi Trời Sắc Cứu Kính. Hết thảy trong đó, đều hoàn toàn hiện rõ trong quang minh từ chân của Phật phóng ra. Như ở nơi đây thấy Ðức Phật Thế Tôn (Thích Ca Mâu Ni), ngồi trên tòa sư tử Liên Hoa Tạng. Ngồi kiết già chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sinh. Có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, cùng nhau đến chốn Phật, vây quanh Phật. Mỗi thế giới trong mười phương, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Ðề, lại có trăm ức Ðức Như Lai, cũng ngồi kiết già trên tòa sư tử Liên Hoa Tạng. Hoàn toàn nhờ đại oai thần lực của Phật, cho nên mỗi phương trong mười phương thế giới, đều có một vị đại Bồ Tát, cùng với các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật tụ lại, cùng nhau đi đến chốn Phật, nghe Phật diễn nói diệu pháp. Những vị đại Bồ Tát đó, tức là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi v.v… Các ngài từ nước của mình đến, tức là thế giới Kim Sắc .v.v… như đã nói. Mỗi vị đại Bồ Tát, đều cúng dường Phật, phụng sự đức Phật. Phật đó tức là Như Lai Bất Ðộng Trí v.v…Vân vân, tức là còn có chín vị đại Bồ Tát đại biểu, còn có chín thế giới; còn có chín vị Như Lai.

Bấy giờ, tất cả mọi nơi, đều có Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở chỗ đức Phật, đồng thời phát ra tiếng nói bài kệ rằng.

Lúc đó, khắp tất cả mọi nơi đều có Bồ Tát Ðại Trí Văn Thù Sư Lợi, ở trong mỗi đạo tràng của Phật, đồng thời tuyên nói bài kệ dưới đây.

Chúng sinh không trí huệ
Bị ái độc làm hại
 Vì đó cầu bồ đề
Các Phật pháp như vậy. 

Vì nhân duyên gì mà chúng sinh đến đời ác năm trược ? Vì có ái. Do đó, có câu :

‘’Ái không nặng không sinh Ta Bà
Nghiệp không sạch không sinh tịnh độ‘’.

Hết thảy tất cả phiền não đều từ ái mà sinh ra. Chúng sinh vì chẳng có trí huệ, cho nên bị ái độc làm hại. Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi đại bi tâm thiết chảy ra diệu vị cam lồ và đề hồ vô thượng, dùng trực tâm trí huệ để khai thị tất cả chúng sinh. Tại sao chúng ta điên đảo ? Tại sao lại hồ đồ ? Vì vô minh quá nặng. Có vô minh thì sinh hành, có hành thì có thức, có thức thì có danh sắc, có danh sắc thì có lục nhập, có lục nhập thì có xúc, có xúc thì có thọ, có thọ thì có ái, có ái thì có thủ, có thủ thì phải vì sở hữu của mình, truyển chuyển mà có sinh, có già, có chết. Ðây là đạo lý mười hai nhân duyên cùng nhau sinh khởi. Vì chúng sinh chẳng có trí huệ, nên bị ái độc làm thương hại.

Ái có chín ví dụ sau đây :

1. Như còn thiếu nợ : Ái giống như còn thiếu nợ của người, chưa trả sạch. Ví như tập dư của hàng Thanh Văn, Duyên Giác chưa đoạn sạch. Ái chưa đoạn sạch thì giống như thiếu nợ. Do đó, người tu đạo nhất định phải minh bạch sự lợi hại của ái, nó chẳng những hại thân mà còn làm thương hại tâm. Hãy cẩn thận, nên nhớ, nên nhớ ! Một khi xẩy chân ngàn năm ân hận, vĩnh viễn chẳng có biện pháp cứu vãn.

2. Như nữ La Sát : Quỷ nữ La Sát tâm địa rất độc hại, hay ăn sạch tiểu nữ La Sát do chính mình sinh ra, thậm chí ăn cả chồng của mình. Ðó là biểu thị ái hay khiến cho con người thọ sinh tử. Có sinh tử thì sẽ đọa lạc ở trong ba đường ác. Ba đường ác tức là súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục.

3. Như cộng hoa sen : Dưới cộng hoa sen, ẩn núp một con rắn độc. Người thích hoa sen đẹp, đi hái hoa sen thì sẽ bị rắn độc cắn. Ái hay khiến cho con người chẳng thoát khỏi sinh tử. Cộng hoa ví dụ cho năm dục (tài, sắc, danh, thực, thùy), ái ví dụ cho rắn độc. Nếu ái năm dục thì sẽ bị rắn độc cắn.

4. Như ác thực : Giống như vật ăn chẳng ưa thích, miễn cưỡng mà ăn, thì sẽ sinh bệnh mà chết, đọa vào ba đường ác. Ái cũng như thế, cưỡng cầu thì sẽ tán mất mạng sống.

5. Như dâm nữ : Tức là người nữ bán linh hồn, thứ người nầy hủy hại pháp lành, bị quỷ vô thường truy lùng, đoạt mất sinh mạng thì sẽ đọa vào ba đường ác.

6. Như Ma Lầu Ca Tử : Nó hay trói chặt phàm phu mất đi pháp lành, khiến cho điên đảo mà chết. Chết rồi đọa vào ba đường ác, chịu khổ vô cùng, chẳng được giải thoát.

7. Như nhọt có thịt thối : Ái như là sinh mụt nhọt bên trong có thịt thối. Nếu không trừ sạch mụt nhọt, thì mụt nhọt chín mùi sẽ sinh trùng, dần dần sẽ bị trùng ăn sạch pháp thân huệ mạng, mà người cũng tán mất trí huệ, do đó mà đọa lạc.

8. Như gió bão : Gió bão hay thổi ngã cây cối, ái hay làm gốc rễ bồ đề quật lên. Ái thật đáng sợ ! không biết bao nhiêu người vì nó mà thân bại danh liệt, thậm chí nhà tan người mất, còn không nhận thức tội lỗi nầy là hàng đầu.

9. Như sao chổi : Sao chổi chẳng cát tường, vì đuôi của nó có tia sáng nhoáng rất là mãnh liệt, hình như cây chổi. Một khi sao chổi xuất hiện thì thế giới chẳng thái bình, không có nạn đao binh thì có nạn đói khác, ái hay đoạn tất cả căn lành, khiến cho người đọa vào ba đường ác, ví như sao chổi chẳng cát tường.

Mười phương tất cả chư Phật ba đời vì cứu độ chúng sinh, bị ái độc làm thương hại mà khuyến phát cầu bồ đề và đề xướng phương pháp đoạn dục khử ái, khiến cho họ biến tâm ái dục thành tâm bồ đề, tâm ái dục là ngu si, tâm bồ đề là giác ngộ. Tại sao chúng ta ngu si : Vì bị ái làm mê hoặc, vì tất cả chúng sinh đều thích ái, chẳng có phản đối ái.

Khắp thấy nơi các pháp
Hai bên đều xả lìa
Thành đạo vĩnh chẳng lùi
Chuyển pháp luân vô đẳng. 

Khắp thấy sắc pháp, tâm pháp, tâm sở pháp, bất tương ưng pháp, vô vi pháp .v.v… Nhận thức tất cả các pháp tu trung đạo liễu nghĩa, mới xả lìa được hai bên có và không, không rơi vào bên không, không rơi vào bên có, tức là trung đạo. Chẳng chấp trước vào bên có và không, thấy được thật tướng của các pháp, thì chứng được trung đạo lý thể. Ðạo nghiệp sẽ có sở thành tựu, vĩnh viễn chẳng thối chuyển. Không thối chuyển phân làm ba thứ :

1. Vị không thối : Hành Bồ Tát đạo chẳng thối về pháp nhị thừa.

2. Hành không thối : Chỉ có tu hành tiến về trước, dũng mãnh tinh tấn, tơ hào không giải đãi thì sẽ không thối lùi về sau.

3. Niệm không thối : Phát tâm đại bồ đề, trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh. Phật thường chuyển đại pháp luân không gì sánh bằng, đây là tối cao vô thượng, khiến cho chúng sinh thành Phật đạo.

Kiếp không thể nghĩ bàn
Tinh tấn tu các hạnh
Vì độ các chúng sinh
Đây là sức Đại Tiên. 

Chúng ta từ nhiều đời nhiều kiếp cho đến bây giờ đều giải đãi phóng dật, đối với Phật pháp vẫn còn hoài nghi, chẳng dũng mãnh tinh tấn. Gặp được chánh pháp cũng chẳng dụng công tu hành, gặp được tà pháp thì hoan hỉ như điên cuồng, nỗ lực học tập. Ðức Phật chẳng phải như thế, Ngài ở trong vô lượng vô biên đại kiếp không thể nghĩ bàn, ngày đêm sáu thời siêng tinh tấn, siêng tu tất cả pháp môn. Ngài vì muốn độ tất cả chúng sinh, lìa khổ được vui nên siêng năng tu hành. Sau khi thành Phật rồi mới có sức lực để độ chúng sinh, giáo hóa chúng sinh. Ðó là sức Ðại Tiên, tức cũng là sức của Phật.

Lúc Phật Thích Ca Mâu Ni còn ở đời, thì một ngày nọ, Ngài cầm một nắm đất lên và hỏi đệ tử :

– ‘’Các con nói xem, đất trong tay của ta nhiều, hay là đất ngoài đại địa nhiều ? ‘’

– Các đệ tử đáp : ‘’Ðất trong bàn tay của Ðức Phật rất ít, đất ngoài đại địa nhiều.’’

– Phật lại nói : ‘’Các con có biết chăng ? đắc được thân người ít như đất trong bàn tay của ta, mất đi thân người nhiều như đất ngoài đại địa‘’.

Chúng ta học Phật chỉ có năm phút, chẳng có tâm thường hằng. Vì vậy cho nên lưu chuyển ở trong sáu nẻo luân hồi. Có khi đọa địa ngục, có khi lên trời, có khi làm A Tu La, có khi làm súc sinh, có khi làm quỷ, có khi làm người. Song, làm người chẳng phải là việc dễ dàng, Do đó, có câu :

‘’Thân người khó được, nay đã được,
Phật pháp khó nghe, nay đã nghe,
Đời nầy không độ thân nầy, khi nào độ thân nầy ?’’

Chúng ta rất may mắn được thân người, đừng có khinh thường sứ mạng làm người, phải hành Bồ Tát đạo, hãy lấy tất cả lợi ích chúng sinh làm tiền đề. Không thể ích kỷ lợi mình, chuyên nghĩ về mình, có lợi thì giành, có hại thì tránh, hành vi như thế không chấp nhận được, phải hiểu rõ triệt để đời trước chẳng tu, nay mới chịu khổ, đời sau này không tu thì đời sau càng khổ.

Đạo Sư hàng các ma
Dũng kiện vô năng thắng
Trong quang diễn diệu nghĩa
Từ bi nên như vậy. 

Ðạo Sưlà đạo sư tiếp dẫn chúng sinh, tức cũng là Phật. Tiếp dẫn chúng sinh trong tà đạo trở về con đường chân chánh, tiếp dẫn chúng sinh ác đi trên con đường thiện. Dẫn dắt chúng sinh liễu sinh thoát tử, bỏ mê về giác, bỏ tối theo sáng, dẫn dắt chúng sinh phát bồ đề tâm, hồi sự hướng lý. Vị Đạo Sư đó, tức là Phật Thích Ca Mâu Ni.

Khi Phật ở dưới cội bồ đề sắp thành chánh giác, thì ma vương Ba Tuần biết thế gian có vị Ðại Giác sắp thành đạo, bèn sinh đại sợ hãi. Vì Phật lực tăng trưởng, ma lực giảm bớt, cho nên ma vương Ba Tuần dùng đủ thứ sức lực để phá hoại đạo nghiệp của Phật. Do đó, suất lãnh quyến thuộc đến tứ phía cội bồ đề, xí đồ nhiễu loạn sự tu hành của Phật, uy hiếp Phật. Lúc đó, Phật phóng tướng luồng hào quang trắng nhập vào tam muội thắng ý từ tâm, ở trong tướng luồng hào quang trắng lại hiện ra đủ thứ quang minh, trong đủ thứ quang minh lại hiện ra đủ thứ hóa thân. Quang minh đó trên thông đến cõi trời, dưới suốt đến địa ngục. Lúc đó, hết thảy ma con, ma cháu, dân ma, binh ma, cản thấy tứ chi chẳng có sức lực, đầu ngước lên chẳng được, mắt cũng mở không ra, bèn thối lui.

Ma vương lại sai ba con ma nữ xinh đẹp, dùng sắc đẹp để nhiễu loạn tâm thanh tịnh tu hành của Phật. Ma nữ đến dưới cội bồ đề hiện ra tướng yêu mị để dẫn dụ Phật, xí đồ khiến cho Phật động tâm, mất đi đạo nghiệp. Phật bèn dùng tướng luồng hào quang trắng chiếu soi chúng. Lúc đó, các ma nữ bị quang minh chiếu, liền biến thành các bà lão xấu xí già nua, chín lỗ chảy ra đồ dơ bẩn. Ba ma nữ nhìn thấy tướng mạo của chúng xấu xa đáng ghét, nghĩ rằng : Tướng mạo xấu xí vô cùng, mà còn muốn dụ dỗ Phật chăng ? Bèn bỏ đi.

Tướng luồng hào quang trắng của Phật có oai lực không thể nghĩ bàn, cho nên hay hàng phục tất cả thiên ma ngoại đạo. Phật là bậc Thánh nhân đại trí, đại nhân, đại dũng, đại hùng, chẳng có ai thắng qua thần lực của Phật. Trong quang minh của Phật, hay diễn thần thông diệu dụng không thể tả được, dùng tam muội từ bi để hàng phục ma. Vì Phật từ bi cho nên mới hàng ma được như thế.

Phật dùng tâm trí huệ
Phá các phiền não chướng
Một niệm thấy tất cả
Đó là thần lực Phật.

Chư Phật nhờ sức trí huệ, mà phá được hết thảy phiền não chướng của chúng sinh. Phiền não có tám vạn bốn ngàn thứ, Phật nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, là để đối trị tám vạn bốn ngàn phiền não. Phiền não hóa hết sẽ biến thành bồ đề. Tại sao chúng sinh chẳng có trí huệ  như Phật ? Vì chúng sinh có phiền não chướng.

Trong một niệm đầy đủ tám vạn bốn ngàn pháp môn. Trong một niệm phá được tám vạn bốn ngàn phiền não chướng. Ðó là nhờ đại oai thần lực của chư Phật gia trì. Chỉ cần bạn cải ác hướng thiện, hồi tiểu hướng đại, y pháp tu hành, thì sẽ có sự cảm ứng như thế.

Đánh vang trống chánh pháp
Giác ngộ mười phương cõi
Đều khiến hướng bồ đề
Sức tự tại được vậy.

Khi Phật chuyển đại pháp luân như là đánh trống chánh pháp. Tại sao phải đánh trống chánh pháp ? Vì muốn khiến cho chúng sinh trong mười phương phương biển cõi nước tỉnh ngộ, khiến cho họ phát tâm đại bồ đề, vĩnh viễn không thối chuyển. Ðó là nhờ thần thông tự tại của Phật mới được như thế, khiến cho tất cả chúng sinh bỏ mê về giác.

Chẳng động vô biên cảnh
Mà đến các ức cõi
Nơi có chẳng chấp trước
Đó tự tại như Phật. 

Chẳng động bổn thể, Phật chẳng động đạo tràng, mà đến khắp pháp giới. Phật ngồi dưới cội Bồ đề, mà pháp thân đến vô biên cõi nước chư Phật. Ðó là cảnh giới có mà chẳng có, không mà chẳng không. Cho nên nơi có mà chẳng chấp, nơi không cũng chẳng chấp. Nơi có không chấp tức là chân không. Nơi không chẳng chấp tức là diệu hữu. Người có được cảnh giới như thế thì tất cả đều tự tại giống như Phật.

Pháp thân của chư Phật là vô tướng. Tuy chẳng có tướng nhưng sánh như hư không, hư không thì đầy khắp mọi nơi. Hư không chẳng có bờ mé, thân Phật cũng chẳng có bờ mé. Hư không là vô tướng, Phật cũng vô tướng. Do đó, có câu :

‘’Nếu ai muốn biết cảnh giới Phật
Hãy tịnh ý mình như hư không.’’

Cho nên nói cứu kính thường thanh tịnh, do đó, có câu :

‘’Phật pháp thanh tịnh nguyệt
Thường du tất kính không
Chúng sinh tâm cấu tịnh
Bồ đề ảnh hiện trung.‘’

Nghĩa là:

Phật pháp như trăng rằm
Thường ở trên bầu trời
Chúng sinh tâm thanh tịnh
Bóngbồ đề hiện ra.

Ý niệm luôn nghĩ đến Phật, thì sẽ sinh tâm hoan hỉ. Ðó là nguyện lực đầy đủ của chư Phật, khiến cho bạn sinh tâm hoan hỉ.

Trong mỗi mỗi địa ngục
Trải qua vô lượng kiếp
Vì độ các chúng sinh
Mà nhẫn được khổ đó.

BồTátlà người đầy đủ đại trí huệ, cho nên xả đi tiểu ngã của mình, mà thành tựu đại ngã của chúng sinh. Vì tự lợi lợi tha, tự giác giác tha, tự độ độ tha, mà hành Bồ Tát đạo. Chẳng sợ mọi sự khổ, chẳng ngại mọi khó khăn, nguyện vì chúng sinh mà chịu khổ. Như Bồ Tát Ðịa Tạng phát nguyện rằng :

‘’Tôi không vào địa ngục thì ai vào địa ngục’’!

‘’Ðịa ngục chưa trống không,
Thề không thành Phật.’’

Cho nên Ngài luôn ở dưới địa ngục với chúng sinh, hy vọng chúng sinh giác ngộ, phát bồ đề tâm, sớm lìa khỏi biển khổ. Trải qua vô lượng kiếp thời gian, mà vẫn không nhàm giáo hóa chúng sinh, độ thoát tất cả chúng sinh. Ngài vì khiến cho tất cả chúng sinh liễu sinh thoát tử, lìa khổ được vui, mà nhẫn tất cả khổ ở địa ngục, nghĩ rằng :

‘’Chịu khổ thì hết khổ
Hưởng phước thì hết phước.’’

Cho nên tâm cam tình nguyện chịu khổ. Bồ Tát tâm từ bi, vì độ chúng sinh mà nhẫn chịu khổ không thể nhẫn được, đó mới là tinh thần của Bồ Tát, đó mới là thật hành Bồ Tát Ðạo !

 Bồ Tát dùng bốn pháp nhiếp để giáo hóa chúng sinh. Bốn pháp nhiếp đó là bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự. Nay nói sơ lược về bốn pháp nhiếp.

1. Bố thí : Bồ Tát giáo hóa chúng sinh, xả mình vì người, đem lợi ích của mình bố thí cho người cần. Bố thí của Bồ Tát có ngoại tài và nội tài. Ngoại tài là tiền bạc châu báu, đất nước vợ con. Nội tài là đầu mắt tủy não, da thịt gân cốt. Tuy bố thí nội tài và ngoại tài, nhưng tam luân thể không, chẳng chấp trước. Tam luân thể không là: Chẳng có người thí, chẳng có người nhận, cũng chẳng thấy có vật thí. Tuy Bồ Tát bố thí mà lìa khỏi tướng bố thí, Ngài chẳng có tư tưởng của phàm phu tuyên truyền tự ngã của mình: ‘’Các vị biết chăng ? Chùa lớn nào đó, là tôi bỏ tiền ra làm, cây cầu nào đó, là do tôi bỏ tiền ra làm.’’ Ðó là bán quảng cáo, đó là chấp vào tướng bố thí. Tuy có công đức mà công đức nhỏ. Bồ Tát đối với việc công đức chẳng nhớ ở trong tâm, qua rồi thì không còn gì nữa, tuyệt đối chẳng tuyên truyền.

2. Ái ngữ : Khi Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, thì đối với chúng sinh đều hòa nhan duyệt sắc, tuyệt đối chẳng nổi giận, cũng chẳng dùng thô ngôn bạo ngữ để mắng người, càng không phỉ báng người, chẳng nói lời thị phi, càng không làm ly gián, chẳng bới lông tìm vết, chẳng tìm phiền não của người, chẳng nói chuyện xấu của người, sinh tâm hoan hỉ. Ái ở đây là ái hộ chúng sinh, tức cũng là lời hay lời tốt.

3. Lợi hành : Bồ Tát làm gì cũng đều lợi ích chúng sinh, lời nói việc làm cử chỉ hành động đều làm mô phạm cho chúng sinh, Do đó, có câu : ‘’Dùng thân làm phép tắc’’, khiến cho chúng sinh học theo. Ngài khiến cho chúng sinh sinh tâm tôn kính, sinh tâm tín ngưỡng, tin lời của Bồ Tát nói có chân lý.

4. Ðồng sự : Bồ Tát muốn độ tất cả chúng sinh mà hiện ra nghề nghiệp đồng với người, cùng với họ sinh hoạt với nhau, khiến cho họ sinh cảm thân thiện. Như Bồ Tát muốn giáo hóa chúng sinh, thì thị hiện thân phận học sinh, làm ảnh hưởng người học sinh đó phát tâm bồ đề, học vô thượng đạo. Bồ Tát muốn độ người làm công, thì thị hiện thân phận người làm công, đi cảm hóa họ phát tâm bồ đề. Bồ Tát muốn độ nông dân, thì thị hiện ra thân phận người nông dân, để làm ảnh hưởng họ phát tâm bồ đề, học vô thượng đạo. Bồ Tát muốn độ người buôn bán, thì thị hiện ra thân phận người buôn bán để cảm hóa họ phát tâm bồ đề. Bồ Tát quán sát có nhân duyên gì độ được họ, thì thị hiện ra thân đó mà độ họ, chẳng những tại loài người là như thế, mà dù súc sinh cũng như vậy. Khi Phật Thích Ca Mâu Ni ở trong quá khứ, đã từng làm nai chúa để giáo hóa đồng loại, và cảm hóa được ông vua không ăn thịt nai.

Không tiếc thân mạng mình
Thường hộ các Phật pháp
Vô ngã tâm điều nhu
Đắc được đạo Như Lai. 

Thuở xưa, khi Phật Thích Ca Mâu Ni đi khắp nơi cầu pháp, thì chẳng tiếc thân mạng, vì pháp quên mình. Một ngày nọ, Ngài gặp quỷ La Sát, nghe nó đọc nửa bài kệ:

‘’Các hành vô thường
Là pháp sinh diệt.’’

Ðây là nói về tất cả hành vi đều là vô thường. Tại sao lại vô thường ? Vì nó là pháp sinh diệt. Sinh rồi lại diệt, diệt rồi lại sinh, chẳng có lúc nào ngừng. Phật Thích Ca Mâu Ni (lúc hành Bồ Tát đạo tại nhân địa) nghe được, biết đây là bài kệ của Phật pháp, nhưng còn nửa bài kệ nữa mà quỷ La Sát không nói.

– Phật bèn yêu cầu quỷ La Sát : ‘’Ngươi chưa có đọc xong, nhất định còn hai câu nữa, xin hãy đọc hai câu kia cho tôi nghe có được không‘’?

– Quỷ La Sát nói : ‘’Ðược ! Nhưng tôi đã đói, chẳng còn sức để đọc ra. Nếu ông xả thân cúng dường cho tôi, thì tôi sẽ đọc cho ông nghe.’’

– Phật nói : ‘’Tôi hứa với ngươi; nhưng tôi cũng có điều kiện, trước hết ngươi hãy đọc ra để tôi khắc vào cây, lưu lại chánh pháp cho người đời sau, khiến cho họ y pháp tu hành. Sau đó nhà ngươi mới ăn ta, có được chăng ?’’

– Quỷ La Sát nói : ‘’Ðương nhiên là được ! Ông hãy lóng nghe :

‘’Sinh diệt diệt rồi
Tịch diệt là vui.’’

Cũng có nghĩa là dứt khổ sinh tử rồi, thì Niết Bàn là vui. Lúc đó, Phật dùng dao khắc lên cây:

‘’Các hành vô thường
Là pháp sinh diệt
Sinh diệt diệt rồi
Tịch diệt là vui.’’

Khắc xong rồi, trong tâm Phật nghĩ, thời gian lâu dài thì cây cổ thụ cũng dễ biến hoại, chẳng bằng khắc lên đá, sẽ giữ được lâu hơn, giúp cho người được pháp ích nhiều hơn.

– Do đó, yêu cầu với quỷ La sát rằng : ‘’Tôi quyết định đem thân thể nầy cúng cho nhà ngươi, tuyệt đối không hối hận. Xin ông hãy đợi chút nữa để cho tôi khắc bài kệ nầy lên đá, khiến cho người đời sau đều có cơ hội được nghe, có được chăng ?’’

– Quỷ La Sát nói : ‘’Ý của ông rất nhân từ, đáng kính, đáng phục ! Tôi đợi ông khắc xong rồi, tôi sẽ ăn ông.’’ Phật khắc bài kệ lên đá rồi, sau đó nhắm mắt lại, đợi quỷ La Sát đến ăn, trong tâm của Ngài rất an tĩnh. Ðợi thời gian rất lâu, chẳng có tiếng động gì, cảm thấy rất kỳ lạ, mới mở mắt ra xem, thì chẳng thấy quỷ La Sát đâu cả, bèn nhìn lên hư không thì thấy có vị trời, nguyên lai là vị trời đó, hóa làm quỷ La Sát đến khảo nghiệm Phật, có thật là vì pháp quên mình không. Lúc đó, vị trời cười rồi đi.

Bồ Tát hành Bồ Tát đạo chẳng tiết thân mạng mình để bảo hộ pháp của chu Phật nói. Bồ Tát chẳng có ngã tướng (tướng ta), chẳng có ngã sở (thuộc về ta), tâm ý đều nhu, chẳng có cang cường. Ngài dùng lời lẽ lương thiện để đối đãi tất cả mọi người; tu hành chẳng có ngã, tâm điều nhu, mới chứng được đạo của Phật tu.

Bấy giờ, quang minh vượt qua mười  thế giới, chiếu khắp trăm thế giới ở phương đông. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế. Trong các thế giới đó, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Đề, cho đến trăm ức cõi trời Sắc Cứu Kính, hết thảy đều hiện ra trong đó. Trong mỗi cõi Diêm Phù Đề đó, đều thấy đức Như Lai ngồi trên tòa sư tử liên hoa tạng, có các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, cùng nhau vây quanh. Do nhờ thần lực của Phật, mà mỗi phương trong mười phương, đều có một vị đại Bồ Tát, cùng với các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, tụ lại đi đến chốn Phật. Các đại Bồ Tát đó là : Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v… đến từ thế giới Kim Sắc .v.v… đức Phật ở thế giới đó, hiệu là Bất Động Trí Như Lai .v.v…

Lúc đó, quang minh từ dưới chân của Phật phóng ra, siêu qua mười thế giới, chiếu khắp trăm thế giới ở phương đông. Ở phương nam, phương tây, phương bắc, bốn hướng trên dưới, sáu phương cũng đều như vậy. Trong mười phương thế giới đều có trăm ức cõi Diêm Phù Ðề, cho đến trăm ức trời Sắc Cứu Kính. Hết thảy thế giới đều hiện ra trong đó. Trong mỗi cõi Diêm Phù Ðề, đều thấy Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi ở trên tòa sư tử Liên Hoa Tạng, chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sinh. Có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật vây quanh Phật. Ðó là nhờ đại oai thần lực, nên mỗi phương trong mười phương đều có một vị đại Bồ Tát, cùng với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, tụ lại cùng nhau đi đến chốn Phật, lắng nghe Phật nói diệu pháp. Mười vị đại Bồ Tát đó tức là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi v.v… các Ngài đều từ cõi nước của mình đến, tức là thế giới Kim Sắc v.v… như đã nói. Các Ngài phụng sự Phật ở nước của mình, tức là Phật Bất Ðộng Trí v.v… như đã nói.

Bấy giờ, tất cả mọi nơi, đều có Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, ở chỗ đức Phật, đồng thời phát ra tiếng, nói bài kệ rằng.

Lúc đó, khắp tất cả mọi nơi đều có vô lượng Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, ở chỗ đạo tràng của mỗi Ðức Phật, cùng lúc phát ra tiếng để nói bài kệ dưới đây.

Phật rõ pháp như huyễn
Thông đạt không chướng ngại
Tâm tịnh lìa chấp trước
Điều phục các quần sinh.

Mười phương ba đời tất cả chư Phật, đều thấu rõ các pháp như huyễn như hóa, chẳng có thật thể. Tất cả các pháp là đối trị các bệnh của chúng sinh. Nếu chúng sinh chẳng có bệnh, thì pháp cũng chẳng cần. Pháp ví như thuốc, vì chúng sinh có bệnh phiền não tham sân si, cho nên phải uống thuốc giới định huệ, khi bệnh hết rồi thì chẳng cần uống thuốc nữa.

Chư Phật minh bạch đạo lý các pháp chẳng không chẳng có, cho nên mới thông đạt được chẳng có chướng ngại. Người có trí huệ mới thông đạt được, người ngu si mới chướng ngại. Người có trí huệ, nếu chẳng minh bạch các pháp như huyễn, thì có sự chấp trước, tức cũng là pháp chấp. Nếu chẳng minh bạch đạo lý vô chướng ngại, thì cũng có chướng ngại về chấp trước, tức cũng là mê hoặc chấp trước. Có trí đức thì không đạt được, có đoạn đức thì chẳng chướng ngại.

Trí huệ chấp trước là minh bạch chấp trước; mê hoặc chấp trước là hồ đồ chấp trước. Người minh bạch có minh bạch chấp trước, người hồ đồ có hồ đồ chấp trước. Tóm lại, đều có sự chấp trước. Nếu chẳng có chấp trước thì sẽ có biện pháp. Biện pháp gì ? có thể hồi quang phản chiếu, cầu trở lại chính mình, chuyển cảnh giới bỏ giác hợp trần, thành cảnh giới bỏ trần hợp giác.

Trong tâm thanh tịnh thì lìa khỏi được trí huệ chấp trước, cũng lìa khỏi được mê chấp trước, cũng chẳng có pháp chấp, cũng chẳng có ngã chấp, lìa khỏi mọi chấp trước. Phật có nói : ‘’Tất cả chúng sinh đều có trí huệ đức tướng của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng chấp trước, nên không chứng đắc.’’ Nếu trong tâm chẳng còn vô minh, thì sẽ thanh tịnh chẳng có ô nhiễm. Thanh tịnh rồi thì tự nhiên sẽ lìa khỏi tất cả vọng tưởng chấp trước.

Phật đầy đủ ba đức :

1. Trí đức : Phá trừ được vô minh, đắc được Bát Nhã.

2. Ðoạn đức : Ðoạn trừ được phiền não, đắc được Niết Bàn.

3. Ân đức : Hay cứu độ chúng sinh mà được an lạc. Ba đức nầy viên mãn rồi, cho nên Phật mới điều phục được tất cả chúng sinh trong pháp giới.

Hoặc thấy Phật sơ sinh
Sắc đẹp như núi vàng
Trụ thân cuối cùng này
Vĩnh làm Nhân Trung Nguyệt. 

Bài kệ nầy nói về tám tướng thành đạo của Phật. Hoặc có người thấy được lúc Phật sơ sinh, thân màu sắc vàng đẹp như núi vàng không thể nghĩ bàn. Ðây là sự ra đời cuối cùng, vĩnh viễn làm ánh sáng mặt trăng trong thế gian. Mặt trăng chiếu khắp tất cả cõi nước, quang minh của Phật chiếu khắp tâm của tất cả chúng sinh. Do đó, có câu :

‘’Phật pháp thanh tịnh nguyệt
Thường du tất kính không
Chúng sinh tâm cấu tịnh
Bồ đề ảnh hiện trung.’’

Nghĩa là:

Phật pháp như trăng rằm
Thường ở trên bầu trời
Chúng sinh tâm thanh tịnh
Bóng bồ đề hiện ra.

Tức là đạo lý nầy. Khi Phật sinh ra thì biết đi, chân bước trên hoa sen, bốn phương đều đi bảy bước, sau đó tay trái chỉ trời, tay phải chỉ đất nói :

‘’Thiên thượng Thiên hạ,
Duy ngã độc tôn.’’

Thiên thượng thiên hạ tức là nhân gian, ta ở nhân gian (Phật) là người tôn quý nhất. Tại sao nói như thế ? Vì sinh tử và vận mạng của chúng sinh cầm giữ ở chính mình. Cho nên luật nhân quả ‘’Mình làm mình chịu‘’. Ðạo lý nầy chẳng có ai minh bạch, chỉ có Phật mới minh bạch được, cho nên nói ‘’Duy ngã độc tôn’’.

Hoặc thấy Phật bước đi
Đủ vô lượng công đức
Phước huệ đều thiện xảo
Trượng Phu Sư Tử bước. 

Hoặc có người thấy, lúc Phật mới sinh ra, thì đi bảy bước, mà đấy đủ vô lượng công đức. Phước cũng đủ, huệ cũng đủ, và đầy đủ đại trí huệ, cho nên dùng pháp môn phương tiện thiện xảo, để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh bỏ mê về giác. Tư thế bước đi của Phật, là bước đi của bậc Ðại Trượng Phu, là bước đi của Sư Tử.

Hoặc thấy mắt xanh biếc
Quán sát khắp mười phương
Có lúc hiện mỉm cười
Vì thuận ý chúng sinh. 

Hoặc có chúng sinh, thấy mặt của Phật xanh biếc, trong suốt như bốn biển, quán sát khắp mười phương tận hư không biến pháp giới. Phật thường ở trong định, như như bất động, liễu liễu thường minh, chẳng hoan hỷ, cũng chẳng buồn rầu. Nhưng có lúc Phật cũng mỉm cười. Tại sao ? Vì muốn tùy thuận sự ước muốn của chúng sinh, vì khiến cho chúng sinh hoan hỷ, mới hiện tướng mỉm cười.

Hoặc thấy sư tử hống
Thân thù thắng vô tỉ
Thị hiện sinh lần cuối
Nói pháp đều chân thật.

Hoặc có chúng sinh thấy Phật chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sinh, làm sư tử hống. Ðại Sư Vĩnh Gia có nói :

‘’Sư tử hống
Vô úy thuyết
Bách thú văn chi giai não liệt.
Hương tượng bôn ba thất cước uy
Thiên long tịch thính sinh hân duyệt.’’

Tạm dịch:

Sư tử hống
Nói không sợ hãi
Trăm loài nghe đều sợ hãi
Voibỏ chạy mất uy nghi
Trời rồng nghe được sinh vui mừng.

Khi Phật nói pháp thì giống như sư tử hống, thiên ma ngoại đạo nghe đều khiếp vía. Khi sư tử hống thì tất cả loài cầm thú đều hốt hoảng sợ hãi, hồn phách bay lạc, dù voi to lớn cũng mất đi uy nghi. Thiên long bát bộ nghe từ âm của Phật nói pháp, đều sinh tâm vui mừng, lạy Phật, hộ trì Phật. Phật có ba mươi hai tướng đại nhân và tám mươi vẻ đẹp. Thân đại trượng phu thù thắng đặc biệt như thế, chẳng gì sánh bằng. Ðó là sinh lần cuối cùng để thị hiện thành Phật. Pháp của Phật nói đều là pháp chân thật, chẳng có chút hư vọng nào.

 Hoặc thấy Phật xuất gia
Giải thoát mọi ràng buộc
Tu trị các hạnh Phật
Thường ưa quán tịch diệt. 

Xuất gia là ưa ra khỏi nhà phiền não, ra khỏi nhà vô minh, ra khỏi nhà ba cõi. Ai ai cũng đều có vô minh, chẳng dễ gì phá được, muốn vượt khỏi nhà vô minh thì sẽ ra khỏi nhà vô minh. Vì nhà thế tục có rất nhiều phiền não, cho nên phải ra khỏi nhà phiền não. Chúng sinh dục giới, sắc giới, vô sắc giới, đều ở trong sáu nẻo luân hồi, sinh sinh chết chết, vĩnh viễn không khi nào ngừng, cho nên phải ra khỏi nhà ba cõi. Không xuất gia thì bị tất cả sự ràng buộc chẳng được tự tại. Chẳng tự tại thì là phiền não, có phiền não thì ngu si, ngu si thì khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo. Xuất gia thì được giải thoát, giải thoát thì chẳng có sự ràng buộc.

Hoặc có người thấy Phật xuất gia. Sau khi Phật xuất gia rồi, giải thoát hết tất cả sự ràng buộc phiền não. Ngài tu hành các hạnh môn của chư Phật tu, tĩnh tọa tư duy, thường quán vui tịch diệt.

Hoặc thấy ngồi đạo tràng
Giác biết tất cả pháp
Công đức đến bờ kia
Sạch si tối phiền não.

Sau khi Phật xuất gia rồi, đi khắp các nơi tìm thiện tri thức, tải qua sáu năm, chẳng tìm được ai, bèn vào núi Tuyết tu khồ hạnh sáu năm, cũng chẳng chứng được pháp liễu sinh thoát tử. Cuối cùng, đến ngồi trên tòa kim cang dười cội bồ đề, tĩnh tọa bốn mươi chín ngày, vào ngày mồng 8 tháng 12, buổi tối thấy sao mai mọc mà ngộ đạo, đương thời chứng được pháp liễu sinh thoát tử.
Hoặc có người thấy Phật ngồi Ðạo Tràng, giáo hóa chúng sinh, sau khi Phật khai ngộ rồi, giác biết tất cả các pháp, thấu rõ tất cả các pháp, vì chúng sinh mà nói tất cả các pháp. Phước huệ của Phật đã đầy đủ, công đức đã viên mãn, đến cảnh giới chẳng thiếu chẳng thừa, cho nên đạt được công đức đến bờ kia. Phật đã quét sạch đen tối ngu si, vọng tưởng phiền não. Lúc đó, phiền não đã biến thành bồ đề.

 Hoặc thấy Thắng Trượng Phu
 Đầy đủ tâm đại  bi
Chuyển pháp luân thượng diệu
Độ vô lượng chúng sinh.

Hoặc có người thấy Phật hiện ra tướng Đại Trượng Phu thù thắng (Ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp). Phật đầy đủ tâm đại bi, xem tất cả chúng sinh giống như cha mẹ, con cái của mình, thường chuyển pháp luân vi diệu vô thượng, để giáo hóa vô lượng chúng sinh, để cứu độ vô lượng chúng sinh, chúng sinh độ được đã chứng được bốn đức Niết Bàn, khoái lạc chân thật thường lạc ngã tịnh.

 Hoặc thấy Sư Tử Hống
Oai quang tối thù thắng
Vượt  tất cả thế gian
Sức thần thông vô đẳng.

Hoặc có người thấy Phật nói pháp, giống như sư tử hống. Ðại oai đức của Phật, đại trí huệ, đại thần thông, đều đắc biệt thù thắng nhất, vượt hơn tất cả lực của thế gian. Thần thông diệu dụng của Phật, chẳng ai sánh bằng.

Hoặc thấy tâm tịch tĩnh
Như thế đăng vĩnh diệt
Hiện đủ thứ thần thông
Thập Lực làm như vậy.

Hoặc có người thấy Phật thường ở trong tịch tĩnh. Phật thường tu pháp tịch tĩnh. Pháp tịch tĩnh tức là pháp tịch diệt. Giống như đèn thế gian, vĩnh viễn không tắt. Phật có đủ thứ sức thần thông, là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Phật có mười lực, hay thị hiện đủ thứ diệu dụng, diệu không thể tả.

Bấy giờ, quang minh vượt qua trăm thế giới, chiếu khắp phương đông ngàn thế giới. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế. Trong mỗi thế giới đó, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Đề, cho đến trăm ức cõi trời Sắc Cứu Kính, hết thảy đều hiện rõ trong đó. Trong mỗi cõi Diêm Phù Đề đó, đều thấy đức Như Lai ngồi trên tòa sư tử liên hoa tạng, có các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật cùng vây quanh. Do nhờ thần lực của Phật, nên mỗi phương trong mười phương, đều có một đại Bồ Tát, đều cùng với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, tụ lại cùng đi đến chốn Phật. Các vị đại Bồ Tát đó, là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v… đến từ thế giới Kim Sắc .v.v…. đức Phật ở thế giới đó, hiệu là Bất Động Trí Như Lai .v.v…

Lúc đó, quang minh ở dưới bàn chân của Phật phóng ra, siêu qua trăm thế giới, chiếu khắp phương đông ngàn thế giới. Ở phương nam, tây, bắc, và bốn hướng, trên dưới, cũng lại như vậy. Trong mười phương thế giới, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Ðề, cho đến trăm ức trời Sắc Cứu Cánh, hết thảy đều hiện ra trong đó. Trong mỗi cõi Diêm Phù Ðề, đều thấy Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, ngồi trên tòa sư tử Liên Hoa Tạng, có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, cùng nhau vây quanh đức Phật. Ðó là nhờ oai thần lực của Phật, cho nên mỗi phương trong mười phương, đều có một vị đại Bồ Tát, mỗi vị đại Bồ Tát cùng với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, tụ tại cùng nhau đi đến chốn Phật, gần gũi Phật. Mười vị đại Bồ Tát đó, tức là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v…. Các Ngài từ cõi nước của mình đến, tức là thế giới Kim Sắc .v.v… như đã nói. Ðức Phật ở thế giới đó, tức là Bất Ðộng Trí Như Lai.v.v…

Bấy giờ, tất cả Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, ở chỗ các đức Phật, đều đồng thời phát ra tiếng, nói bài kệ rằng.

Lúc đó, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở khắp mọi nơi tại mỗi đạo tràng của Phật, cùng một lúc phát ra tiếng diễn nói ra bài kệ dưới đây.

Phật nơi pháp thâm sâu
Thông đạt không ai bằng
Chúng sinh không biết được
Phật khai thị thứ lớp.

Sau khi Phật thành Phật rồi, hết thảy tám vạn bốn ngàn pháp môn thâm sâu vi diệu, đều thông đạt không có chướng ngại. Chín pháp giới chúng sinh chẳng có ai có trí huệ bằng Phật. Vì trí huệ của Phật chẳng có gì mà không biết, chẳng có gì mà không thấy. Vì chúng sinh ngu si, cho nên không thấu rõ Phật pháp. Phật thương xót chúng sinh, nên rất từ bi vì chúng sinh mà nói pháp, khai thị có thứ lớp. Trước hết Phật vì chúng sinh ‘’độn căn’’ mà nói pháp tiểu thừa, nói về đạo lý ‘’có’’. Sau đó vì chúng sinh ‘’lợi căn’’ mà nói pháp đại thừa, nói về đạo lý ‘’không’’. Cuối cùng vì chúng sinh ‘’đốn căn’’ mà nói một thừa pháp trung đạo chân không diệu hữu.

Sau khi Phật thành đạo, trước hết vì các pháp thân Ðại Sĩ (thập địa Bồ Tát) nói Kinh Hoa Nghiêm. Sau đó, vì hàng tiểu thừa nói Kinh A Hàm. Sau lại vì người đại thừa nói Kinh Bát Nhã, cuối cùng nói Kinh Pháp Hoa và Kinh Niết Bàn. Ðây là vì chúng sinh mà khai thị có thứ lớp, giải thích thật lý của các pháp.

Ta tin chưa từng có
Cái ta cũng đều không
Sao lại các Như Lai
Đắc được thân có hình.

Ta tin tức là thân ta. Phật chẳng còn cái ta, cho nên mới có ta tin chưa từng có. Tánh đều chẳng tồn tại thì ở đâu có cái ta ? Ngã chẳng có, ngã sở cũng không có. Ngã tức là ngã chấp, ngã sở tức là pháp chấp. Tức nhiên chẳng có ngã chấp, cũng chẳng có pháp chấp, thì sao có thể nói tất cả Phật được thân có hình tướng ? Phật thì vô hình vô tướng, vô tại vô bất tại, phi không phi hữu, cho nên Phật là khắp hết thảy mọi nơi.

Minh hạnh bậc giải thoát
Vô số không ai bằng
Các nhân lượng thế gian
Tìm lỗi không thể được.

Giải thoát là lìa khỏi tất cả sự chấp trước. Nếu chẳng chấp trước, thì trí huệ sẽ viên mãn, đây là minh. Phước đức cũng viên mãn, đây là hạnh. Ðây là do sự tu hành mà được. Phước huệ đều viên mãn tức là Như Lai. Trí huệ công đức của Phật vô số không ai bằng, bất cứ người nào trên thế gian, cũng sánh chẳng bằng Phật được. Lượng ở trong nhân minh học có ba thứ:

1. Hiện lượng, tức là sự hiểu biết hiện tại để cân lường nó.

2. Tỉ lượng, dùng đạo lý để so sánh thì tự nhiên sẽ minh bạch. Ví như cách núi có khói thì biết là có lửa; cách tường có sừng thì biết là có bò.

3. Thánh ngôn lượng : Kinh luật luận có ngôn luận của Thánh nhân, dùng để suy lường đạo lý của ngoại đạo nói, thì biết là tà tri tà kiến. Nếu muốn tìm chỗ không đúng trong ba lượng thì không thể được, cũng chẳng cách chi tìm được.

 Trong Kinh Hoa Nghiêm nói, có năm mươi hai hạnh vị của Bồ Tát, tức là Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Ðẳng Giác, Diệu Giác. Song, tông Thiên Thai cho rằng là hạnh vị của biệt giáo Bồ Tát, chứ không phải là hạnh vị của viên giáo Bồ Tát. Các Ngài lập ra hạnh vị của Bồ Tát, tức là sáu tức vị, tức cũng là sáu tức Phật.
1. Lý tức Phật : Nói theo lý thì ai ai cũng đều là Phật. Tại sao chúng ta chẳng thành Phật ? Vì chấp trước trên sự tướng, có ngã chấp, có pháp chấp, cho nên chưa thành Phật.

Có bài kệ nói rằng :

‘’Ðộng tĩnh lý toàn thị
Hành tạng sự cách phi
Minh minh tuỳ vật khứ
Miểu miểu bất tri quy.’’

Ðộng tĩnh tức là đi đứng nàm ngồi. Nếu minh bạch đạo lý động tĩnh thì đều là đúng. Nếu chẳng minh bạch đạo lý thì đều là sai, Lúc đó, động cũng chẳng đúng, tĩnh cũng chẳng đúng. Hành là đi làm, tạng là thu vào, nghĩa cũng là động tĩnh. Nói theo sự tướng thì không đúng. Vì lý thì đúng, cho nên sự là sai. Minh minh nghĩa là chẳng biết chẳng hiểu, sai là ở trong sự không biết không hiểu, chạy loạn theo vật dục, chẳng giữ bổn phận. Miểu miểu là hồ đồ. Sai ở trong sự hồ đồ, chẳng biết trở về, trôi nổi quên về. Nghĩa là nói tự tin của chúng ta vốn giống như Phật, nhưng rơi vào pháp hữu vi, cho nên hiện là chúng sinh. Pháp hữu vi là sự, pháp vô vi là lý, nên hồi sự hướng lý.

2. Danh từ tức Phật : Hiện tại nghe được danh từ của Phật, biết chúng sinh và Phật đều là bình đẳng, bất quá Phật là Phật đã thành, chúng sinh là Phật chưa thành. Nhưng có danh từ Phật, chúng ta nghe được danh từ mười phương chư Phật, mới nói bài kệ dưới đây :

‘’Phương thính vô thanh khúc.
Thử văn bất tử ca.
Kim tri đương thể sự.
Phản hận tự tha đà.’’

Nghĩa là vừa mới nghe được ca khúc chẳng có tiếng, bây giờ lại nghe được bài ca bất tử, đến hôm nay mới biết tu hành, thì tương lai có thể sẽ thành Phật. Lập tức bỏ mê về giác, phát bồ đề tâm, đây là con đường thành Phật. Phải hồi quang phản chiếu, mình đã để thời gian trôi qua lãng phí, thật là đáng tiếc.

3. Quán hành tức Phật : Quán hành tức là quán sát sở tu hành tất cả các pháp thật tướng. Dùng sức quán chiếu để tu hành, thì mới có thể thành Phật.

Có bài kệ rằng :

‘’Niệm niệm chiếu thường lý
Tâm tâm tứ huyễn trần
Biến quán các pháp tánh
Vô tích diệt vô chân.’’

Nghĩa là niệm niệm luôn luôn chuyên nhất, dùng niệm để quán chiếu. Chuyên nhất là gì ? Chuyên nhất quán chiếu lý chân thường. Tâm tâm niệm niệm đều trừ sạch vọng tưởng, tiêu trừ hư huyễn trần cấu. Lúc đó, chân tâm sẽ hiện ra. Tại sao chúng ta chẳng khế hợp với chân tâm vốn có ? Vì cứ khởi vọng tưởng, vọng tưởng nhiều cho nên mộng, huyễn, bọt, ảnh, sương, điện, sáu thứ đó đều hiện ra. Cho nên phải dứt huyễn trần, khắp quán sát các pháp thật tướng, lìa khỏi những thứ giả dối đó, thì càng lìa khỏi cái chân thật nầy. Có chân thì có giả, có giả thì có chân. Vô giả vô chân thì đến được cảnh giới không tịch, cho nên thấy tất cả các pháp đều là không tịch.

4. Tương tự tức Phật : Tương tự tức là có chút tin tức muốn thành Phật, nhưng chưa thành Phật, chỉ là tương tự. Tương tự lại giống như đập sắt, tuy chưa thành đồ dùng, nhưng bổn thân nó là nóng, có độ nóng thì sẽ có cơ hội thành đồ dùng.

Có bài kệ rằng :

‘’Bốn trụ tuy ngã trước
Sáu trần chưa sạch không
Trong mắt vì có màng
Trong không thấy hoa hồng.’’

Bốn trụ tức là dục giới, sắc giới, vô sắc giới, kiến tư hoặc, bốn thứ, trụ ở tại mê hoặc. Ngã tức là chẳng có chướng ngại. Tuy nhiên phá cửa ải mà thông qua, nhưng sáu trần chưa có sạch không. Giống như con mắt có mao bệnh, thấy trong không có hoa vàng, hoặc hoa đỏ. Cảnh giới nầy vẫn chưa cứu kính, bất quá là đắc được chút tin tức tốt mà thôi, vẫn chưa đạt đến chỗ cùng cực.

5. Phần chứng tức Phật : Phần chứng tức là phá phần vô minh, thì chứng phần pháp thân. Tức cũng là phá phần vô minh bốn mươi mốt phẩm, mà thấy phần pháp tánh, chứng được bốn mươi mốt quả vị Bồ Tát.

6. Cứu kính tức Phật : Tức là chân chánh thành Phật, tức cũng là phá được bốn mươi hai phẩm vô minh, đến được địa vị Diệu Giác, chứng được trí huệ viên mãn cứu kính.

Có bài kệ rằng :

‘’Xưa nay thật là vọng
Hôm nay vọng là thật.’’

Từ vô thỉ đến bây giờ, bỏ thật theo giả, bỏ giác hợp trần, từ thật khởi vọng. Do đó:

‘’Một niệm không giác sinh tam tế,
Trước trụ cảnh giới lớn lục thô.’’

Hiện tại mới biết vọng là thật, trở về nguồn cội, biết mê về với giác ngộ, bỏ trần hợp giác, trở về địa vị vốn có. Cho nên vọng cũng là thật, trở về với Phật tánh tự có. Chẳng có pháp đặc biệt xảo diệu, tự tánh vốn đầy đủ Phật tánh, tất cả thành tựu Phật vốn có của mình, chứ chẳng phải Phật từ bên ngoài đến.

Kiến hoặc là đối cảnh khởi tham ái. Thấy cảnh giới liền sanh tâm tham và tâm ái. Một khi thấy cảnh giới thì chẳng minh bạch, bị sở thấy mê hoặc. Thấy tức là mắt thấy, đều là cảnh giới bên ngoài. Ví như thấy quảng cáo phim trên rạp chiếu phim, hôm nay ở rạp chiếu phim gì đó. Sau khi bạn xem quảng cáo rồi, bèn nghĩ tôi phải đi xem cho được, đó là bị cảnh giới chuyển. Xem phim rồi lại chẳng muốn đi, muốn xem tiếp phim nữa, thậm chí ba bốn phim, đó tức là bị mê hoặc, tham ái bộ phim đó, đó tức là kiến hoặc.

Tư hoặc tức là mê lý khởi phân biệt, tức cũng là hoặc trong tư tưởng. Trong tâm suy nghĩ tỉ mỉ, suy nghĩ gì ? Suy nghĩ đạo lý, càng nghĩ càng không minh bạch, càng không minh bạch, càng suy nghĩ, nghĩ đến đầu hôn não mê, cơm không ăn, trà không uống, quên hết tất cả. Mê nơi đạo lý thì sinh phân biệt. Ðây là đúng hay không đúng ? Ðây là đen hay trắng ? Thị phi chẳng rõ, thiện ác chẳng biết mà nhập vào tam muội mê hoặc. Ðây chẳng phải là chánh định. Dùng tâm vọng để suy nghĩ, cho nên bị mê.

Người tu đạo nếu đọan được tam giới tám mươi tám phẩm khiến hoặc, thì chứng được sơ quả A La Hán. Nếu đoạn được dục giới sáu phẩm tư hoặc trước, thì chứng được nhị quả A La Hán. Nếu đoạn được dục giới ba phẩm tư hoặc sau, thì chứng được tam quả A La Hán. Nếu đoạn sạch tam giới tám mươi mốt phẩm tư hoặc, thì chứng được tứ quả A La Hán. Ðây là hàng tiểu thừa, tu hành từng bước từng bước mà chứng được quả vị. Hàng đại thừa có thể từ sơ phát tâm bồ đề, mà chứng được giác vị, tức cũng là từ sơ vị thập tín, liền thẳng đến Ðẳng Giác vị.

Phật chẳng thế gian uẩn
Pháp sinh tử xứ giới
Số pháp không thể thành
Nên hiệu Nhân Sư Tử.

Sau khi Phật thành Phật rồi, đối với năm uẩn thế gian đã không, vượt qua pháp năm uẩn. Pháp sinh tử trong mười tám giới và mười hai xứ, số pháp không thể thành, cho nên gọi là Phật. Không thể ở trong pháp có đủ thứ số, để nghiên cứu cảnh giới của chư Phật, cho nên hiệu là Nhân Sư Tử. Sư tử trong loài người, vượt ngoài chúng sinh trong chín pháp giới.

Phật tánh vốn vắng lặng
Trong ngoài đều giải thoát
Lìa tất cả vọng niệm
Pháp vô đẳng như vậy.

Phật tánh vốn thanh tịnh không tịch. Tâm bên trong, thân bên ngoài, chẳng có chấp trước. Tức cũng là chẳng có ngã chấp, cũng chẳng có pháp chấp, hai chấp đều không, cho nên bên trong quán tâm không có tâm, bên ngoài quán cảnh không có cảnh. Quán tâm vô tâm thì tâm đắc được giải thoát, quán cảnh vô cảnh thì cảnh đắc được giải thoát. Phật lìa khỏi tất cả vọng tưởng và tất cả tâm niệm. Chúng ta chúng sinh lấy vọng làm thật, nhưng chư Phật chẳng còn chân vọng tồn tại, cho nên lìa khỏi con đường lời lẽ, chỗ tâm sở hành cũng chẳng có. Phật đắc được pháp vô đẳng, tức là như thế.

Thể tánh thường không động
Không ta không đến đi
Mà giác ngộ thế gian
Vô biên đều điều phục. 

Thể tánh của Phật như như bất động, liễu liễu thường minh. Vì không tịch cho nên không động. Phật vốn chẳng còn cái ta, tức nhiên vô ngã thì chẳng có đến, cũng chẳng có đi. Không đến không đi, không sinh không diệt. Phật dùng pháp vô vi để giác ngộ tất cả thế gian, khiến cho chúng sinh thế gian từ trong mộng tỉnh dậy. Hết thảy vô biên chúng sinh đều hoàn toàn bị điều phục mà phát tâm bồ đề, tương lai sẽ thành tựu vô thượng đạo.

 Phật thường quán tịch diệt
Một tướng chẳng có hai
Tâm Phật chẳng tăng giảm
Hiện vô lượng thần lực.

Phật luôn luôn quán sát tướng tịch diệt. Tướng này chỉ có một, tuyệt đối chẳng có hai. tâm của Phật không tăng không giảm. Tuy không tăng không giảm, nhưng ở trong cảnh giới tịch diệt, Phật vẫn hiện ra vô lượng thần lực để giáo hóa chúng sinh, khiến cho họ phát tâm bồ đề. Người học Phật tu đạo, nếu không phát tâm bồ đề, thì không thể đắc được quả vị vô thượng. Giống như cây nở hoa mà chẳng kết trái thật, chẳng có ích lợi gì cả.

Không làm các chúng sinh
Nghiệp báo nhân duyên hành
Mà thấu rõ vô ngại
Pháp Thiện Thệ như vậy.

Chúng sinh có đủ thứ nhân duyên, có đủ thứ hành vi, tạo nghiệp thọ báo. Phật chẳng có tình hình như vậy, song, Phật thấu rõ cảnh giới đó, Phật chẳng động đạo tràng mà chu khắp pháp giới, quán sát nghiệp quả báo ứng của chúng sinh, để giáo hóa chúng sinh. Pháp của đấng Thiện Thệ (Phật) là như thế.

Đủ thứ các chúng sinh
Lưu chuyển trong mười phương
Như Lai chẳng phân biệt
Độ thoát vô biên loài.

Hết thảy tất cả chúng sinh ở trong luân hồi, sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh, trôi đi trôi lại, mới trôi đến mười phương thế giới. Phật chẳng có phân biệt, chẳng phải nói chúng sinh ở phương nầy ta giáo hóa, còn chúng sinh phương khác ta chẳng độ. Phật chẳng có tâm phân biệt như vậy, bất cứ là chúng sinh có duyên hay vô duyên, Phật đều xem như nhau, chẳng phân biệt đó đây, đều dùng pháp môn phương tiện để độ vô biên loài chúng sinh, khiến cho họ lìa khổ được vui.

Chư Phật sắc vàng thật
Chẳng có khắp các cõi
Tùy tâm chúng sinh thích
Vì nói pháp tịch diệt.

Mười phương ba đời tất cả chư Phật, đều có tướng tốt trang nghiêm sắc vàng thật. Tuy Phật chẳng có hình tướng, nhưng khắp thị hiện trong tam giới hai mươi lăm cõi. Chẳng màng loài nào, Phật đều đi giáo hóa chúng sinh. Dùng chẳng có mà hiện cảnh giới có, tùy thuận tâm chúng sinh ưa thích, mà vì họ nói pháp tịch diệt thanh tịnh vô vi, tức cũng là pháp thường lạc ngã tịnh.

Bấy giờ, quang minh vượt qua ngàn thế giới, chiếu khắp phương đông mười ngàn thế giới. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế. Trong mỗi thế giới đó, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Đề, cho đến trăm ức trời Sắc Cứu Kính, hết thảy đều hiện ra trong đó. Trong mỗi cõi Diêm Phù Đề đó, đều thấy Như Lai ngồi trên tòa sư tử liên hoa tạng. Có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, đều cùng vây quanh. Do nhờ thần lực của Phật, nên mỗi phương trong mười phương, đều có một vị đại Bồ Tát, cùng với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, tụ lại cùng đi đến chốn Phật. Các đại Bồ Tát đó, tức là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v… đến từ thế giới Kim Sắc .v.v… đức Phật ở thế giới đó, hiệu là Bất Động Trí Như Lai .v.v…

Lúc đó, quang minh từ dưới chân của Phật Thích Ca Mâu Ni phóng ra, vượt qua ngàn thế giới, chiếu khắp phương đông mười ngàn thế giới. Ở phương nam, phương tây, phương bắc và bốn hướng, trên dưới, sáu phương, cũng lại như thế. Ở mỗi thế giới trong mười phương, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Ðề, cho đến trăm ức cõi trời Sắc Cứu Kính. Hết thảy thế giới đều hoàn toàn hiện ra trong đó. Ở trong mỗi cõi Diêm Phù Ðề, đều thấy có Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi trên tòa sư tử Liên Hoa Tạng, có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, đến vây quanh Phật. Nhờ thần thông lực của Phật, cho nên mỗi phương trong mười phương, đều có một vị đại Bồ Tát, cùng với các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật tụ lại, cùng nhau đi đến chốn Phật. Các vị đại Bồ Tát đó, tức là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v… đến từ thế giới Kim Sắc .v.v…. Ðức Phật ở thế giới đó, hiệu là Bất Ðộng Trí Như Lai .v.v…

Bấy giờ, tất cả mọi nơi, đều có Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở chỗ đức Phật, đồng thời phát ra tiếng, nói bài kệ rằng.

Lúc đó, khắp tất cả mọi nơi đều có Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở chỗ Ðức Phật cùng lúc phát ra tiếng, nói ra bài kệ dưới đây. Bài kệ nầy là đối với Bồ Tát mà nói.

Phát khởi tâm đại bi
Cứu hộ các chúng sinh
Ra hẳn chúng trời người
Nghiệp như vậy nên làm.

Tâm đại bi là gì ? Tức là ban vui cho tất cả chúng sinh, cứu tất cả khổ của chúng sinh. Phát khởi tâm đại bi thì sẽ sinh ra tư tưởng vô duyên đại từ, đồng thể đại bi. Cùng ở với chúng sinh chẳng phân biệt đó đây. Tôi thường nói với quý vị :

‘’Thật nhận lỗi của mình
Đừng nói lỗi của người
Lỗi người tức lỗi mình
Đồng thể gọi đại bi.’’

Bạn luôn luôn nhận thức lỗi của mình, thì sẽ không phê bình thị phi của người khác, càng không bình luận lỗi của người khác. Xem lỗi của người khác, coi như lỗi của mình, nhận rằng đồng một thể, đó tức là tâm đại bi.

Nếu xem tất cả chúng sinh đồng một thể, thì sẽ cứu hộ tất cả chúng sinh, vĩnh viễn ra khỏi tam giới. Nghiệp thiện như vậy hãy nên làm. Ðức nghiệp như vậy hãy nên làm. Ðạo nghiệp như vậy hãy nên làm.

Ý thường tin ưa Phật
Tâm đạo không thối chuyển
Gần gũi các Như Lai
Nghiệp như vậy nên làm.

Trong ý niệm phải luôn luôn tin ưa Phật. Bất cứ lúc nào đối với tâm tu đạo không thể thối chuyển. Người hành Bồ Tát đạo thì tin ưa Phật, gần gũi Phật, cúng dường Phật, thì tâm họ vĩnh viễn không thối chuyển. Ðạo nghiệp gần gũi mười phương ba đời chư Phật như vậy, hãy nên làm.

Chí ưa công đức Phật
Tâm họ vĩnh không lùi
Trụ nơi huệ thanh lương
Nghiệp như vậy nên làm.

Chí tại Thánh hiền thì có thể làm Thánh hiền. Chí tại hào kiệt thì có thể làm hào kiệt. Chí tại công đức Phật, thì sẽ có công đức Phật, Do đó, có câu :

‘’Người có chí, thì sự tất thành.’’

Chỉ cần có chí nguyện, thì tương lai nhất định sẽ thành tựu.

Công đức Phật là gì ? Tức là tự giác giác tha, tự lợi lợi tha, tự độ độ tha. Tự giác viên mãn thì có trí huệ. Giác tha viên mãn thì có công đức. Mình đắc được lợi ích của pháp, thì cũng dạy người đắc được lợi ích của pháp, tức cũng là giảng kinh thuyết pháp. Mình đắc được giải thoát, thì cũng dạy người đắc được giải thoát, đây là công đức Phật.

Chí của chúng ta tại công đức tu hành của Phật Bồ Tát, thì phải y chiếu hạnh môn tu hành của Phật Bồ Tát tu trong quá khứ, mới có thể thành tựu công đức của Phật Bồ Tát. Ðiều kiện căn bản học Phật pháp tức là, tâm vĩnh viễn không thối chuyển, phải có tinh thần kiên nhẫn, dũng mãnh hướng về trước, dù bất cứ giá nào cũng không lùi bước. Như thế thì mới trụ ở huệ thanh lương, chẳng có nhiệt phiền não. Do đó, có câu :

‘’Phi lễ vật thị
Phi lễ vật thính
Phi lễ vật ngôn
Phi lễ vật động.’’

Việc chẳng hợp với lễ nghĩa thì đừng phan duyên, thiện nghiệp như vậy, hãy nên làm.

Trong tất cả oai nghi
 Thường nhớ công đức Phật
Ngày đêm không  gián đoạn
Nghiệp như vậy nên làm. 

Bốn đại oai nghi đi đứng nằm ngồi, đều phải giữ quy cụ, không thể mất oai nghi. Do đó, có câu :

‘’Hành như phong
Tọa như chung
Lập như tùng
Ngọa như cung.’’

Trong bốn đại oai nghi thường nhớ công đức Phật, ngày đêm sáu thời không thể gián đoạn, hạnh nghiệp như vậy, hãy nên làm.

Công đức của Phật phải tin lâu dài, phải ưa thích lâu dài. Nếu muốn biết công đức Phật thì chẳng phải là việc dễ dàng. Trong kinh này có nói :

‘’Tâm niệm nhiều như hạt bụi
Cõi nước có thể đếm biết được
Nước trong biển cả uống hết được
Hư không lường được, gió buộc được
Không thể nói hết công đức Phật.’’

Việc không thể, đều có thể làm được, nhưng không thể biết được công đức của Phật có bao nhiêu ?

Quán vô biên ba đời
Học công đức Phật đó
Tâm thường không nhàm mỏi
Nghiệp như vậy nên làm.

Ba đời là đới quá khứ, đời hiện tại và đời vị lai. Quán sát mười phương ba đời chư Phật, các Ngài làm thế nào mà tu thành Phật ? Tức là không làm các điều ác, làm các điều thiện. Không làm các điều ác thì có công đức. Làm các điều lành thì có trí huệ. Công đức và trí huệ viên mãn thì sẽ thành Phật. Chư Phật ban đầu nếu không tu hành, thì hiện tại cũng giống như chúng ta, vẫn là phàm phu tục tử. Tại sao chư Phật thành Phật ? Vì siêng tu giới định huệ, tức diệt tham sân si. Do đó, có câu :

‘’Ba A tăng kỳ tu phước huệ
Trăm ức kiếp trồng tướng tốt.’’

Trải qua vô lượng kiếp tu phước tu huệ, công đức viên mãn, mới thành tựu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân.

Thuở xưa khi Phật hành Bồ Tát đạo thì xả mình vì người, vì pháp quên mình. Việc ác tuy nhỏ như hạt bụi cũng chẳng làm; việc thiện tuy nhỏ như hạt bụi cũng phải làm. Do đó, có câu :

‘’Không bỏ việc thiện nhỏ mà thành đại thiện,
Không làm việc ác nhỏ nên không đại ác.’’

Công đức của Phật vô lượng vô biên, suốt thuở vị lai, cũng không nói hết.

Chúng ta tin Phật thì phải học Phật, học Phật hành Bồ Tát đạo trong quá khứ chẳng sợ khổ, chẳng sợ gian nan. Tại sao ? Vì Phật biết chụi khổ thì hết khổ, hưởng phước thì hết phước. Cho nên Phật hay chịu khổ, hay nhẫn khổ. Trong sự tu hành thì tu khổ hạnh người khác không thể tu được. Do đó, có câu : ‘’Khó tu mà tu được, khó hành mà hành được‘’, đây tức là công đức của Phật.

Phật tu hành thì đều tổn mình lợi người, đối với mình chẳng có lợi, mà đối với người thì có lợi, vì vậy cho nên thành Phật. Khi Phật tu lục độ vạn hạnh, thì chẳng có tâm nhàm mỏi, chẳng có tâm thối chuyển. Chúng ta phải học tập tinh thần vô úy của Phật. Nếu học Phật pháp mà khởi tậm nhàm mỏi, thì không thể ra khỏi ba cõi. Nếu muốn ra khỏi sáu nẻo luân hồi, thì đừng có tâm nhàm mỏi, thời khắc chẳng có tâm nhàm mỏi, khai ngộ ở tại giây phút. Song, nếu tại thời gian một giây mà sinh tâm nhàm mỏi, thì sẽ mất đi cơ hội khai ngộ. Như vậy thì công phu trước kia hết sạch, thật đáng sợ ! Cho nên mới nói :

‘’Tất cả là khảo nghiệm
Xem thử bạn làm gì
Đối cảnh mà không biết
Phải luyện lại từ đầu‘’.

Tức là đạo lý nầy. Ðạo nghiệp như vậy, đức nghiệp như vậy, hạnh nghiệp như vậy, phải chân thật mà đi làm. Chúng ta học đạo thì không thể tìm thiện nghi, phải cước đạp thật địa, giữ quy cụ mà tu hành. Tu một tất thì được công đức một tất, tu một thước thì được công đức một thước. Ngày dài tháng rộng, thì sẽ tụ các thành tháp. Do đó, có câu :

‘’Ông tu ông đắc, bà tu bà đắc ‘’.

Ðây là lời nói rất chí lý.

Quán thân như thật tướng
Tất cả đều tịch diệt
Lìa ngã chẳng chấp ngã
Nghiệp như vậy nên làm. 

Quán sát thân Phật thì không thể dùng pháp hữu vi để trắc lượng. Vì thân Phật như thật tướng, thật tướng là tướng chân thật. Tướng chân thật tức cũng chẳng có tướng. Tuy vô tướng mà vô sở bất tướng. Vũ trụ bao la vạn tượng, đều là biểu hiện thật tướng. Tuy là biểu hiện thật tướng, nhưng tìm chẳng được bổn thể của thật tướng. Tại sao tìm chẳng được ? Vì vô tướng. Vô tướng thì không sinh không diệt, không tăng không giảm, không dơ không sạch, quét tất cả pháp, lìa hết thảy tướng, cho nên gọi thật tướng là vô tướng.

Vì thật tướng vô tướng, cho nên dấy tâm động niệm đều là pháp tịch diệt. Tịch diệt tức là không hình không tướng, lìa khỏi ngã tứ đại giả hoà hợp. Thân thể của chúng ta là do đất nước gió lửa bốn nguyên tố hợp thành. Da thịt gân cốt thuộc về đất, hơi nóng thuộc về lửa. Máu mủ mồ hôi, nước tiểu thuộc về nước, hơi thở không khí thuộc về gió. Thân thể nầy là nhân duyên tinh cha huyết mẹ mà thành, nếu phân tích kỹ thì do các nguyên tố hợp lại mà thành, căn bản chẳng có cái ‘’ngã’’ tồn tại. Nếu lìa khỏi ngã thì chẳng có ngã chấp; cũng chẳng có ngã sở chấp, tức chẳng có pháp chấp. Ngã chấp cũng không, pháp chấp cũng không, thì mới hợp với lý tịch diệt. Tu hành đạo nghiệp như vậy thì nên làm.

Đẳng quán tâm chúng sinh
Chẳng khởi các phân biệt
Vào trong cảnh chân thật
Nghiệp như vậy nên làm.

Bình đẳng quán sát tâm của tất cả chúng sinh, Do đó, có câu : ‘’Mắt từ nhìn chúng sinh‘’. Nếu không có ngã, không có người, không chúng sinh, không thọ giả, bốn tướng nầy, để quán sát tất cả chúng sinh, thì đều bình đẳng, càng không sinh khởi đủ thứ tâm phân biệt. Như thế thì vào trong cảnh giới chân thật. Ðạo nghiệp như vậy nên siêng tu, không thể giải đãi, không thể phóng dật.

Quán sát vô biên giới
Khắp uống tất cả biển
Thần thông đại trí lực
Nghiệp như vậy nên làm. 

Hoàn toàn quán sát vô biên thế giới, khắp uống sạch nước trong bốn biển, sức thần thông và sức trí huệ như thế đều rộng lớn vô biên. Ðạo nghiệp như vậy hãy nên làm.

 Tư duy các cõi nước
Sắc với chẳng sắc tướng
Tất cả đều biết được
Nghiệp như vậy nên làm. 

Tư duy tất cả các cõi Phật, có hình tướng có sắc tướng là hữu vi. Chẳng có hình tướng, chẳng có sắc tướng là vô vi. Hình tướng có sắc và không có sắc, đều rất phức tạp, nhưng đều biết được. Ðạo nghiệp như vậy hãy nên tu hành.

Bụi mười phương cõi nước
Một bụi là một Phật
Đều biết được số đó
Nghiệp như vậy nên làm.

Hết thảy hạt bụi trong mười phương thế giới, trong mỗi hạt bụi có một vị Phật, đang ngồi trong đó, chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sinh. Ðều hoàn toàn biết được có bao nhiêu vị Phật. Đạo nghiệp như vậy hãy nên tu hành.

Bấy giờ, quang minh vượt qua mười ngàn thế giới, chiếu khắp phương đông trăm ngàn thế giới. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế. Trong mỗi thế giới đó, đều có ức cõi Diêm Phù Đề, cho đến trăm ức cõi trời Sắc Cứu Kính, hết thảy đều hiện rõ trong đó. Trong mỗi cõi Diêm Phù Đề, đều thấy Như Lai ngồi trên tòa sư tử liên hoa tạng, có các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, cùng nhau vây quanh. Nhờ thần lực của Phật, nên mỗi phương trong mười phương, đều có một vị đại Bồ Tát, cùng với các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, tụ lại cùng nhau đi đến chốn Phật. Các đại Bồ Tát đó, tức là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v… đến từ thế giới Kim Sắc .v.v… đức Phật ở thế giới đó, hiệu là Bất Động Trí Như Lai .v.v… 

Lúc đó, quang minh của Phật Thích Ca Mâu Ni từ dưới bàn chân phóng ra, vượt qua vạn thế giới, chiếu khắp phương đông mười ngàn thế giới. Ở phương nam, phương tậy, phương bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế. Mỗi thế giới trong mười phương, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Ðề, cho đến trăm ức cõi trời Sắc Cứu Kính. Hết thảy đều hiện ra trong đó. Trong mỗi cõi Diêm Phù Ðề, đều thấy Như Lai đang ngồi trên tòa sư tử Liên Hoa Tạng, có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật vây quanh Phật. Vì nhờ thần lực của Phật, nên mỗi phương trong mười phương, đều có một vị đại Bồ Tát, cùng với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, tụ lại cùng nhau đi đến chốn Phật, gần gũi Phật. Mười vị đại Bồ Tát tức là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v… Các Ngài đến từ thế giới Kim Sắc .v.v… Ðức Phật ở thế giới đó hiệu là Bất Ðộng Trí Như Lai .v..v…

Bấy giờ, tất cả mọi nơi, đều có Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở chỗ đức Phật, đồng thời phát ra tiếng, nói bài kệ rằng.

Lúc đó, khắp tất cả mọi nơi đều có Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở tại đạo tràng của Phật, cùng một lúc phát ra tiếng, nói bài kệ dưới đây.

Nếu dùng uy đức sắc chủng tộc
Để thấy nhân trung Điều Ngự Sư
Đó là bệnh mắt thấy điên đảo
Người đó không biết pháp tối thắng.

Nếu như dùng sắc tướng đại uy đức, đại thần thông đại thế lực, và chủng tộc tôn quý để thấy Phật, thì đó là bệnh mắt, những gì thấy được đều là tướng điên đảo. Giống như mang kính màu, thấy nhan sắc đều giả. Do đó, có câu :

‘’Vì trong mắt có màng
Trong không thấy hoa hồng’’.

Ðây là bệnh mắt, cho nên thấy hoa hồng, hoa vàng, ở trong không. Nếu có tư tưởng điên đảo như thế, thì chẳng phải là pháp cứu kính, chẳng minh bạch pháp tối thắng vi diệu của chư Phật. Chẳng tương ưng với pháp, thì chẳng khế hợp Phật lý.

Chúng ta người tu đạo, muốn thành Phật thì phải trừ khử tướng điên đảo. Tại sao ? Vì Phật và chúng sinh là bình đẳng, Phật chẳng có tâm lý tự hào, cũng chẳng có cảm ưu việt, không coi chủng tộc của mình là cao quý, mình có đại thần thông đại trí huệ mà kiêu ngạo. Ngài với chúng sinh như nhau, tùy theo tâm chúng sinh mà thị hiện, thuận căn chúng sinh mà giáo hóa.

Bà La Môn giáo Ấn Ðộ sáng tạo thần thoại, cho rằng Ðại Phạm Thiên Vương sinh ra bốn thứ người, do đó, mà lưu lại bốn giai cấp. Kỳ thật là một phương pháp để người có trí huệ thống trị người ngu si. Từ miệng của Ðại Phạm Thiên Vương sinh ra Bà La Môn (Tăng lữ); từ trên vai sinh ra Sát Đế Lợi (vương tộc); trên đây là quý tộc. Từ bộ đùi sinh ra Phệ Xá (thương mại); từ bộ chân sinh ra Thủ đà (nô lệ); trên đây là hạ tiện. Ðương thời giai cấp phân biệt rất rõ ràng, dòng quý tộc chẳng cùng đi với giai cấp hạ tiện. Truyền thuyết nói, dòng hạ tiện (người thổ tức là người da đen) ra ngoài thì phải mang chuông theo trên mình. Dòng quý tộc (Tăng lữ, vương tộc tức là người da trắng) nghe tiếng chuông thì trốn, cho rằng thấy dòng hạ tiện thì ngày đó chẳng cát tường.

Ðiều Ngự Sư là gì ? Tức là Phật. Ðiều là điều hòa, ngự là giá ngự. Ðiều hòa như thế nào ? Ðiều hòa phiền não tam giới, mà chứng được một thừa bồ đề. Ðiều hòa phiền não thành bồ đề, giống như rang trà, năm vị điều hòa thì hợp với khẩu vị, mọi người đều nếm một chút. Phật điều hòa chúng sinh cũng như thế, điều hòa phiền não, thì thành mầm bồ đề, tương lai sẽ kết quả bồ đề.

Thế nào là giá ngự ? Xe thời xưa là ngựa kéo, hoặc là hai con, hoặc là bốn con. Người đánh xe ngựa phải có kỹ thuật, khống chế được ngựa tiến tới hoặc lùi sau. Như thế thì xe ngựa mới phát ra uy lực, chiến thắng quân địch. Giáo dục thời xưa là giáo dục văn võ hợp nhất, cho nên chọn dùng sáu nghề (lục nghệ) để dạy học. Học sinh phải hội đủ sáu thứ kỹ năng nầy, thì mới tốt nghiệp. Nay nói sơ lược về nội dung lục nghệ để tham khảo.

1. Lễ : Tức là lễ nghĩa, khi hôn nhân, cúng tế, mai táng, thì đều có lễ tiết, do đó, có câu :

‘’Lễ nghĩa ba trăm, oai nghi ba ngàn’’.

Làm việc phải lễ nhường, thấy người phải có lễ nghi. Có lễ là văn minh, vô lễ là dã man.

2. Nhạc : Tức là âm nhạc. Phàm là đi học đều phải học âm nhạc, chẳng những có năng lực thưởng thức, mà còn phải có kỹ năng diễn tấu. Vì âm nhạc có thể hun đúc tánh tình của con người, phải khoa mục. Khổng Lão Phu Tử khi học nhạc ba tháng chẳng biết mùi vị thịt, ông ta chuyên tâm học tập, cho nên ăn mà chẳng biết mùi vị.

3. Xạ : Là bắn cung. Người xưa dùng cung tên làm vũ khí, trong một trăm thước có thể bắn kẻ địch chết, có kỹ thuật trăm phát trăm trúng, có thể gọi là nhà vũ thuật. Khi nước nhà thái bình thì bắn cung có thể rèn luyện thân thể, khi quốc gia có chiến tranh thì bắn cung có thể bảo vệ nước nhà.

4. Ngự : Tức là cỡi ngựa. Ðây là kỹ thuật chuyên môn, phải biết tánh ngựa mới cỡi ngựa được. Phải biết chiến thuật mới đánh xe được. Những tri thức nầy phải hiểu rõ, phải có kinh nghiệm mới làm được.

5. Thư : Tức là viết chữ. Thời xưa dùng đao chẻ tre làm thành vở, dùng cây sơn biên lụa thành quyển. Về sau dùng lông làm thành bút để viết. Người đi học dùng thứ pháp làm dấu hiệu. Viết chữ đẹp thì biểu hiện có học vấn, cho nên người xưa cũng chuyên tâm luyện chữ.

6. Số : Tức là tính đếm. Chẳng những minh bạch lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, mà còn phải biết tính đếm, ví như tính về diện tích và thể tích. Bây giờ có máy điện toán, có thể tính số tự thiên văn, đây là do tính toán diễn biến mà thành. Ðến đời Tống thì người đi học chia ra văn võ, học văn thì không tập võ, tập võ thì không học văn. Ðây là phong tục tạo thành thư sinh tứ chi bất động, ngũ cốc bất phân, lại tạo thành vũ phu hữu dũng vô mưu.

Sắc hình các tướng Như Lai thảy
Tất cả thế gian không dò được
Ức Na Do kiếp cùng suy lường
Sắc tướng uy đức chuyển vô biên.

Sắc hình của Phật có ba mươi hai tướng đại nhân, tám mươi vẻ đẹp, nên tướng tốt trang nghiêm. Hết thảy chúng sinh thế gian không thể dò được sắc tướng của Phật cứu kính như thế nào ? Trải qua số ức Na Do Tha (vô số lượng) kiếp, để suy lường các tướng của Phật, càng suy lường thì sắc tướng của Phật càng nhiều, uy đức của Phật càng nhiều, vô lượng vô biên, triển chuyển số bất tận, chẳng cách gì thấu rõ. Tại sao ? Do đó, có câu :

‘’Nếu ai muốn biết cảnh giới Phật
Phải tịnh ý mình như hư không‘’.

Tuy hư không vô sở hữu, nhưng hết thảy đều bao hàm ở trong hư không. Ðây là nói trong chân không có diệu hữu, trong diệu hữu có chân không. Chân không chẳng không, cho nên có diệu hữu. Diệu hữu chẳng có, cho nên có chân không. Chân không chẳng không, diệu hữu chẳng có, đạo lý là ở chỗ nầy. Cho nên nói sắc tướng của Phật như hư không, chẳng có bờ bến.

Như Lai không dùng tướng làm thể
Nhưng vô tướng là pháp tịch diệt
Thân tướng oai nghi đều đầy đủ
Tùy thế gian thích đều thấy được.

Pháp thân của Phật là không hình không tướng. Tuy không tướng, nhưng đâu mà chẳng có tướng. Tất cả sơn hà đại địa, nhà cửa lầu đài, chúng sinh noãn thai thấp hóa, đều là một phần pháp thân của Phật. Song, không thể nhất định tìm pháp thân của Phật ở đâu, vì pháp thân của Phật là vô tại vô bất tại, khắp mọi nơi.

Phật thường trụ trong tịch diệt, không thể dùng có tướng để cầu Phật, lại không thể dùng vô tướng để cầu Phật. Tại sao ? Vì Phật như hư không. Hư không thì bất khả đắc, cho nên nói hư không là pháp tịch diệt.

Tuy thân Phật vô tướng, nhưng bốn đại oai nghi hiện tiền, hiển hiện rất rõ ràng đầy đủ. Phàm là tất cả chúng sinh thế gian, đều thành tâm hoan hỉ Phật, thì Phật sẽ thị hiện ra ở trước họ, khiến cho họ thấy được, toại tâm mãn nguyện. Tại sao ? Vì Phật luôn luôn thuận tâm chúng sinh. Phàm là chúng sinh có sở cầu, thì Phật nhất định có cầu tất ứng, khiến cho chúng sinh sinh tâm hoan hỉ.

Phật pháp vi diệu khó lường được
Tất cả lời nói không diễn được
Chẳng phải hòa hợp chẳng không hợp
Thể tánh tịch diệt không sắc tướng.

Lục Tổ Huệ Năng nói :

‘’Phật pháp tại thế gian
Chẳng lìa thế gian giác
Lìa thế gian cầu bồ đề
Ví như tìm sừng thỏ‘’.

Phật pháp thì ở trong thế gian. Không giác tức là pháp thế gian, giác ngộ tức là Phật pháp. Giác ngộ chẳng lìa khỏi pháp thế gian. Giác ngộ thế giới tất cả vạn vật vạn lý, đều dung thông vô ngại, như thế tức là thật minh bạch Phật pháp. Nếu lìa khỏi pháp thế gian, ra bên ngoài tìm bồ đề thì đó là tìm sừng trên đầu con thỏ, không thể nào được. Hết thảy tất cả thế gian đều đang nói Phật pháp. Minh bạch tất là Phật pháp, chẳng minh bạch thì là pháp thế gian. Do đó, có câu :

‘’Thấy việc tỉnh việc ra thế gian
Thấy sự mê sự đọa trầm luân‘’.

Thấy việc gì mà tỉnh ngộ việc đó, thì ra khỏi thế gian nầy. Thấy cảnh giới gì mà mê hoặc cảnh giới đó, chuyển thân không qua được, hồi đầu chẳng qua được, thì mê mất phương hướng, không biết đông tây nam bắc. Như thế thì chắc chắn sẽ đọa vào luân hồi.

Hết thảy thiện ác trên thế gian nầy, đều đang nói pháp, dạy người thức tỉnh. Người thiện thì nói pháp thiện, người ác thì nói pháp ác, ai ai cũng đang hiện thân thuyết pháp. Nhận thức được tức là ‘’Phật pháp tại thế gian, không lìa thế gian giác‘’. Không nhận thức, tức là ‘’Lìa thế gian cầu bồ đề, ví như tìm sừng thỏ‘’. Một mê, một giác. Mê là chúng sinh, giác là Phật.

Phật pháp vi tế đến cực điểm, áo diệu đến cực điểm, thật là khó nghĩ bàn. Nói Phật pháp là nhiều chăng ? Nhiều mà không nhiều. Nói là ít chăng ? Ít mà không ít. Nói là nhiều, lại biến thành một, nói là một, lại biến thành nhiều. Một nhiều không hai, thật chẳng có cách gì nói ra số lượng chính xác. Phật pháp vi diệu, tức là:

‘’Con đường lời nói đã dứt
Chỗ tâm hành cũng chẳng còn‘’.

Tức cũng là:

‘’Lìa lời nói tướng,
Lìa tướng danh tự,
Lìa tâm duyên tướng,
Lìa tất cả tướng‘’.

Lìa tất cả tướng, tức là tất cả pháp. Không lìa tất cả tướng, thì chẳng minh bạch tất cả pháp. Tất cả pháp đang ở đâu ? Ở tại nhân gian. Nếu muốn lìa khỏi thế gian để tìm cầu, thì vĩnh viễn tìm chẳng được.

Bất cứ là lời lẽ gì, cũng nói không ra khỏi cứu kính của pháp. Pháp là tịch diệt, cho nên nói chẳng hòa hợp. Bổn thể là tịch diệt, tịch diệt là không động, không động là không, không mới không động. Vậy tịch diệt và hợp gì ? Lại có thể nói đâu chẳng hợp. Tại sao ? Vì tự thể tịch diệt, tức là pháp thân. Song, pháp thân là tùy tâm chúng sinh ưa thích mà thị hiện. Ðây lại đâu chẳng hòa hợp. Nếu chẳng hòa hợp, thì làm sao ứng tâm chúng sinh ? Cho nên lại hòa hợp với tâm chúng sinh. Ðây là nói pháp thân, pháp thân như hư không, hư không tuy không, nhưng sinh vạn hữu. Tất cả vạn sự vạn vật, đều do hư không mà sinh.

Nói theo pháp thân thì do hư không, đầy khắp tất cả mọi nơi, vô tại vô bất tại. Nói theo báo thân thì duyên khởi tu thành. Giống như vàng tạo thành tượng Phật, tượng Phật đều là vàng. Nói theo hóa thân thì duyên tức chẳng duyên. Giống như hình ảnh, nói nó có, nhưng vô tướng khả đắc, nói nó chẳng có, lại có ảnh đen tồn tại. Hóa thân là ứng hóa tất cả sở cầu của chúng sinh, mà hiện thân nói pháp.

Tóm lại, có hình là hòa hợp, không hình thì không hòa hợp.

Thể tánh của Phật pháp là tịch diệt. Dùng lời lẽ nói không ra, dùng tâm suy lường cũng không ra, đây tức là cảnh giới diệu không thể tả, diệu không thể nghĩ.

Thân Phật không sinh vượt hí luận
Chẳng phải uẩn tụ pháp khác biệt
Được sức tự tại sẽ thấy Phật
Sở hành vô úy lìa lời lẽ.

Thân Phật là không sinh không diệt, mà vượt qua tất cả hí luận (khởi tâm động niệm đều là hí luận); tức cũng là tựa thật mà hư. Do đó, có câu :

‘’Hí luận phá huệ nhãn,
Cho nên chẳng thấy Phật‘’.

Thân của chúng sinh là do năm uẩn giả hợp mà thành. Nhưng pháp thân của chư Phật chẳng phải do năm uẩn tích tụ, pháp thân của Phật chẳng có sáu căn, sắu trần, sáu thức, mười tám giới đủ thứ pháp khác nhau. Phải tu đạo nghiệp thì sẽ đắc được sức tự tại. Ðắc được sức tự tại thì sẽ thấy được pháp thân của Phật. Cảnh giới nầy, sở hành vô úy, là lời lẽ đã dứt, tâm hành chẳng còn nữa, tức cũng là quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng.

Thân tâm đều bình đẳng
Trong ngoài đều giải thoát
Vĩnh kiếp trụ chánh niệm
Không chấp không ràng buộc.

Thân thuộc bên ngoài, tâm thuộc bên trong. Do đó, có câu :

‘’Bên trong quán tâm, tâm chẳng có tâm
Bên ngoài quán hình, hình chẳng có hình
Phía xa quán vật, vật chẳng có vật.’’

Bên trong chẳng có thân tâm, bên ngoài chẳng có thế giới, đây là thân tâm đều bình đẳng. Thân tâm không tịch, trong ngoài đều giải thoát. Giải thoát thì chẳng có chấp trước, giải thoát tức là chánh niệm, chánh niệm tức là chánh định chánh thọ, tức cũng là tam muội. Chánh niệm hiện tiền, thì vĩnh kiếp trụ ở trong tam muội, chẳng có chấp trước, chẳng có quái ngại. Vì tất cả đều buông xả, tâm chẳng có ràng buộc, cho nên chẳng có sợ hãi, xa lìa điên đảo mộng tưởng. Nếu trở về nguồn cội, thì sẽ thấy bổn địa phong quang, đây mới là tự tại thật sự !

Người ý tịnh quang minh
Sở hành chẳng nhiễm trước
Trí nhãn đâu chẳng đến
Lợi chúng sinh rộng lớn.

Ý tịnh tức là chẳng còn vọng tưởng, chẳng còn vô minh, chẳng còn ích kỷ, chẳng còn tham sân si các thứ phiền não. Ý niệm thanh tịnh là đại quang minh, chiếu thấy năm uẩn đều không, độ tất cả khổ ách. Ai tịnh ý thì người đó biết cảnh giới của Phật. Do đó, có câu :

‘’Nếu ai muốn biết cảnh giới của Phật,
Hãy tịnh ý mình như hư không‘’.

Nếu đoạn sạch kiến tư hoặc, trần sa hoặc, vô minh hoặc, thì lúc đó, ý niệm sẽ thanh tịnh, trí huệ sẽ hiện tiền. Tại sao chúng ta chẳng có trí huệ quang minh ? Vì tư dục quá nhiều, che lấp quang minh mà biến thành ngu si đen tối. Lúc đó, chẳng nhận thức được cảnh giới mê hoặc, làm thế nào biến đen tối thành quang minh ? Trước hết phải đại công vô tư. Ðại công vô tư là chẳng có ngã tướng (tướng ta), nhân tướng (tướng người), chúng sinh tướng (tướng chúng sinh), thọ giả tướng (tướng thọ mạng). Lúc đó, ta, người một thể, pháp giới đại đồng. Kế đến là chẳng có tâm ích kỷ, chánh đại quang minh, tất cả chẳng nghĩ về mình, phải nghĩ về mọi người, đó tức là hành vi của Bồ Tát.

Có hai câu thơ nầy nói rất có đạo lý :

‘’Lung thê hữu thực thang qua cận
Dã hạc vô lương thiên địa khoan‘’.

Nghĩa là: Gà ở trong chuồn, tuy có gạo ăn, có nước uống, song, đến lúc phải bị giết, làm thức ăn cho loài người. Con hạc tuy chẳng có gạo ăn, song, trời đất mênh mông, tùy ý tung hoành vũ trụ, vô câu vô thúc, chẳng có chấp trước, thật là tiêu dao, thật là tự tại ! Chúng ta người xuất gia, nên lấy trời đất làm nơi túc trực, bốn biển là nhà, không nên có chỗ trụ xứ. Nếu có chùa thì có lúc sẽ bị dính cứng.

Có vị Thiền sư đã từng nói : ‘’Năm ngoái nghèo còn có đất cắm dùi; năm nay nghèo, chẳng có chỗ cắm dùi‘’. Tư tưởng này thật là giải thoát tự tại, thật là diệu không thể tả. Chúng ta phải học theo vị Thiền sư nầy, ngoài một bình bát và ba y, chẳng cầu gì hết. Tiền là vật ngoài thân, sinh ra chẳng mang đến, chết chẳng mang đi. Có tiền hãy làm nhiều việc công đức, ấn tống một quyển kinh, một quyển sách, tuyên truyền Phật pháp, cũng là công đức vô lượng, hơn tạo chùa lớn, làm tháp lớn.

Quang minh làm gì cũng chẳng có chấp trước, chẳng có nhiễm ô. Nhiễm ô là gì ? Tức là tham tài ái sắc. Tài chẳng không, thì không thể trừ nhiễm ô được; sắc chẳng không, thì không thể trừ sạch mhiễm ô. Nếu không muốn nhiễm ô, thì chỉ có một biện pháp, tức là phá hai cửa ải tài, sắc, tận hư không biến pháp giới đều là nơi lập thân. Chúng ta người tu đạo, nên nhớ ! Tài, sắc là hai cửa ải, nếu phá được thì tất cả đều chẳng còn chấp trước. Chúng ta người xuất gia phải nên phản tỉnh, nên kiểm thảo.

Người xuất gia tại chùa Kim Sơn biết tiền là vật chẳng sạch, cho nên có người giữ giới không giữ tiền bạc, tức là tay chẳng đụng tiền bạc.

Tôi có vị đệ tử, nhà rất giàu có, chỉ có một đúa con trai duy nhất, anh ta chẳng muốn tài sản của cha mẹ, cha mẹ vì anh ta mà giới thiệu cô bạn gái, anh ta cũng cự tuyệt, quyết tâm xuất gia tu đạo, đến chùa Kim Sơn tu hành, cho nên đặc biệt tặng pháp hiệu là Hằng Không.

Một ngày nọ, cha mẹ của anh ta gọi điện thoại hỏi anh ta : ‘’Có cần tiền không ? Có thể gởi đến cho con.’’ Anh ta chẳng nhận tiền của cha mẹ anh ta. Anh ta giữ giới tiền bạc, chẳng thích tiền tài, chẳng tham sắc đẹp, thì không nhiễm trước, hành vi như thế nhất định sẽ có sự thành tựu.

Trí huệ nhãn là chu biến khắp mọi nơi, nếu không chấp trước, thì sẽ có lợi ích rộng lớn đối với tất cả chúng sinh.

Một thân làm vô lượng
Vô lượng lại làm một
Biết rõ các thế  gian
Hiện hình khắp tất cả.

Một thân Phật hay làm vô lượng thân, vô lượng thân lại quy về một thân. Ðó là cảnh giới của Phật. Chúng ta phải minh bạch ‘’Một làm vô lượng’’, đây là đạo lý một nhiều vô ngại. ‘’Vô lượng làm một‘’. đây là đạo lý nhiều một vô ngại. Tức cũng là cảnh giới cùng nhau vô ngại. Cảnh giới sự cũng vô ngại, lý cũng vô ngại, sự lý vô ngại, sự sự vô ngại, tức cũng là cảnh giới nói về Kinh Hoa Nghiêm.

Phật biết rõ tất cả tâm chúng sinh thế gian, giáo hóa chúng sinh chín pháp giới, chẳng từ khổ nhọc, chẳng sợ gian nan, tùy thuận theo tâm ý của chúng sinh, mà thị hiện tất cả thân hình, đầy khắp mọi nơi.

Hôm nay nói về pháp ngoài Kinh Hoa Nghiêm, pháp gì ? Pháp ‘’tiền’’. Tại sao tiền là vật dơ dáy nhất trên thế gian? Một số người khi đếm tiền thì dùng nước bọt, nước bọt có vô lượng vi trùng bé nhỏ, chẳng biết trải qua bao nhiêu nước bọt của mọi người, chẳng biết bao nhiêu thứ vi trùng đang truyền nhiễm, có thể thấy, tiền càng đếm nó thì càng không sạch sẽ, có người ngược lại rất ham tiền như mạng sống. Ðây tức là minh tri cố phạm. Có những người vì tham tiền mà hy sinh mạng sống. Ðây đủ chứng minh ma lực của tiền lớn cỡ nào.

Người Trung Quốc tạo chữ đều trải qua một phen tâm cơ mà thành tựu. Chữ Tàu gồm có: Tượng hình, có chỉ sự, có hội ý, có hình thanh, có chuyển chủ, có giả mượn. Mỗi chữ đều không lìa khỏi sáu phạm vi nầy. Ví như chữ ‘’tiền‘’ (钱), là thuộc về hội ý. Tiền gồm có chữ kim (vàng) (金), và hai chữ qua (cái mác). Có bài kệ rằng :

‘’Nhị qua tranh kim sát khí cao
Nhân nhân đà phạm lao đao
Năng hội dụng giả siêu tam giới
Bất hội dụng giả nghiệt nan đào‘’.

Nghĩa là : Tiền là dùng vàng đúc thành, có hai cái mác để tranh giành vàng, hai bên bạn tranh, tôi đoạt, mà tạo thành sát khi cao đến tận mây. Ai ai cũng vì tiền bạc, rước lấy chẳng biết bao nhiêu phiền não. Người biết dùng tiền, thì làm nhiều việc công đức, lợi người lợi mình, thì sẽ ra khỏi ba cõi, không thọ sinh tử. Người không biết dùng tiền, thì dùng nó để tạo tội nghiệt, đọa vào ba đường ác, vĩnh viễn không được giải thoát. Phải biết tiền là vật hại người, không thể tham cầu.

Tại sao chúng ta muốn xuất gia tu đạo ? Tức là muốn không còn tham muốn tài sắc, không chấp trước tài, không chấp trước sắc. Sau đó cử động hành vi của mình thời khắc hồi quang phản chiếu, nhiếp tâm khiến cho đừng chạy bên ngoài. Ngày dài tháng rộng, tâm tịnh như kính, thì thiện ác tự rõ. Lúc đó, mới ra khỏi ba cõi, mới liễu sinh thoát tử, đây tức là bổn hoài của sự xuất gia. Như xả bỏ chẳng được tài, xả bỏ chẳng được sắc, thì cô phụ bổn ý của sự xuất gia.

Người trên thế gian vì con cái mà kiếm tiền, nghĩ đủ cách vì con cái mà tích tụ tiền bạc. Nhưng họ không biết để tiền bạc lại cho con cháu lại gây họa đến. Nếu chẳng lưu tiền lại cho con cháu thì ngược lại chẳng có phiền não. Do đó, có câu :

‘’Có con như cha, để tiền lại làm gì ?
Có con không như cha, để tiền lại làm gì ?’’

Con cái có bản lãnh hơn cha, thì để tiền lại cho nó chẳng có lợi ích gì cả. Con cái mà chẳng có bản lãnh như cha, để tiền lại cho nó, ngược lại dạy nó ăn chơi phóng đãng, phung phí tiền bạc, thì đó chẳng phải là hại con cháu chăng ? Người có tiền làm nhiều công đức, tế thế cứu người, thì công đức vô lượng.

Chúng ta người xuất gia chẳng những tham tiền tài sắc đẹp, mà còn không khởi vọng tưởng. Khi đi đứng nằm ngồi, thì đều phải khống chế vọng tưởng. Khống chế như thế nào ? Chỉ một pháp môn tức là niệm Phật hoặc trì chú. Bớt nói chuyện, niệm nhiều danh hiệu Phật, niệm đến cảm ứng đạo giao, thì sẽ khai ngộ, đắc được trí huệ. Do đó, có câu :

‘’Ðánh niệm đầu chết đi
Pháp thân mới sống dậy‘’.

Cho nên người tu đạo phải luôn luôn tự mình quản mình. Do đó:

‘’Hãy nhớ vô thường,
Đừng có phóng dật‘’.

Dùng hai câu nầy để cảnh tỉnh, thì tự nhiên sẽ phản tỉnh. Hy vọng mọi người giữ gìn giới luật cẩn thẩn.

Thân nầy chẳng hình tướng
Cũng chẳng chỗ tích tụ
Vì chúng sinh phân biệt
Thấy Phật đủ thứ thân. 

Thân nầy hoặc là pháp thân, hoặc là báo thân, hoặc là hóa thân, chẳng có nhất định. Thân nầy chẳng có hình tướng, không thể dùng hình tướng để quán Phật. Trong Kinh Kim Cang có nói :

‘’Nếu dùng sắc thấy ta
Dùng âm thanh cầu ta
Người đó hành tà đạo
Không thấy được Như Lai ‘’.

Lại nói :

‘’Bậc Như Lai, chẳng từ đâu đến,
Cũng chẳng đi đâu, nên gọi là Như Lai ‘’.

Ðây là cảnh giới thân nầy chẳng có hình tướng. Thân nầy chẳng phải do năm uẩn tích tụ mà thành, cũng chẳng phải từ mười hai xứ, hoặc mười tám giới đến. Tất nhiên Phật chẳng có một hình tướng, tại sao chúng sinh thấy Phật có ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp ? Ðây là tùy thuận tâm phân biệt, hoặc tâm không tốt, Phật vì muốn khiến cho chúng sinh phát bồ đề tâm, mà thị hiện đủ thứ thân khác nhau, tăng thêm tâm hoan hỉ của họ, tăng thêm tâm ngưỡng mộ của họ. Ðây là pháp môn phương tiện khéo léo.

Người nam muốn tìm người nữ đẹp để làm vợ, người nữ muốn tìm người nam đẹp làm chồng. Ðây là chứng minh, ai ai cũng hoan hỉ đẹp, chẳng hoan hỉ xấu, người đồng tâm ấy, tâm đồng lý ấy, ai ai cũng đều mong muốn có người vợ đẹp, hoặc có người chồng đẹp. Ðây là thường tình của con người, là việc thiên kinh địa nghĩa.

Có người đưa ra vấn đề: ‘’Thầy giảng kinh, tại sao lại giảng về vấn đề nầy’’? Bạn nói không nói cái nầy, chứ nói cái gì ? Người xưa nói rằng : ‘’Quân tử chi đạo, triệu đoan ư phu phụ‘’. Trên thế giới nầy, chỉ có nam nữ hai người. Có nam nữ rồi mới tạo thế giới. Ở chỗ nầy đặc biệt thanh minh, đối với nam nữ nầy, chẳng phải ông Adam và bà Eve, cũng chẳng phải Thiên Chúa dựng bùn tạo thành người nam người nữ để đến thế giới nầy. Ðây đều là sự tích của trẻ con. Vậy cứu kính thì làm thế nào có người nam người nữ ? Hiện tại thì chẳng có thời gian để giảng, nói tóm tắc thì thế giới nầy là do vợ chồng tổ chức mà ra. Có vợ chồng, sau đó mới có cha con, có anh em, có ta người. Nam nữ tức là âm dương. Do đó, có câu :

‘’Một âm một dương gọi là đạo
Lìa âm dương thì đạo chẳng thành‘’.

Lại nói :

‘’Cô âm bất sinh, cô dương bất trưởng‘’.

Ðây là đạo lý tự nhiên. Chúng ta tu đạo thì phải trở về cội nguồn. Người nam tu đạo là ứng do ‘’Ly trung hư‘’ trở về ‘’càn tam vận‘’. Người nữ tu đạo là ứng do ‘’Khảm trung mãn‘’ đi về ‘’Khảm lục đoạn‘’. Càn (quẻ Càn) đại biểu cho nam, Khôn (quẻ Khôn) đại biểu cho nữ. Người nam phải trở về đồng chân, người nữ phải trở về đồng nữ. Người nam phải giống như Thiện Tài Ðồng Tử, người nữ phải giống như Long Nữ. Các vị đó đều là đồng nam đồng nữ, đã trở về cội nguồn. Chúng ta tu đạo cũng phải như thế, bảo trì đồng thể, như thế thì dễ chứng được pháp thân thanh tịnh.

Vì chúng sinh có tâm phân biệt, có thiện ác, có tốt xấu, có thị phi, có trắng đen, đủ thứ vấn đề, cho nên Phật tùy thuận tâm chúng sinh mà thị hiện đủ thứ thân, khiến cho chúng sinh thấy được thân Phật. Do đó, có câu :

‘’Ngàn đầm có nước,
Ngàm đầm có mặt trăng
Vạn dặm không mây,
Vạn dặm trời xanh‘’.

Phật thì theo loài mà hóa thân. Tâm nước chúng sinh tịnh, thì Phật hiện vào trong. Tại sao chúng ta chẳng thấy được thân Phật ? Vì lòng tư dục của chúng ta quá nặng, vô minh quá nặng, cho nên trí huệ chẳng hiện tiền. Tâm nước đục, thì có Phật cũng chẳng hiện.

Vô minh tức là đen tối, trí huệ tức là quang minh. Có vô minh thì có phiền não, có phiền não thì ngu si, có ngu si tức là đen tối, có đen tối thì chẳng có quang minh, chẳng có quang minh thì chẳng có trí huệ, chẳng có trí huệ thì chẳng thấy được Phật. Ðây đều có quan hệ với nhau. Muốn thấy thân Phật, thì phải siêng tu giới định huệ, sẽ diệt tham sân si. Như thế thì, thân Phật sẽ tự nhiên hiện tiền, để vì hành giả hiện thân thuyết pháp.

Tâm phân biệt thế gian
Tâm đó chẳng chỗ có
 Như Lai biết pháp nầy
Như vậy thấy thân Phật. 

Phân biệt là tâm vọng, chẳng phân biệt là chân tâm. Tâm chúng sinh có phân biệt, phân biệt tất cả pháp thế gian. Diệu minh chân tâm là không, cho nên nói là tâm chẳng chỗ có. Chân tâm nầy cũng vô tại vô bất tại, tận hư không biến pháp giới, đều là biểu hiện của chân tâm nầy.

Như Lai chứng được lý thể chân như, tứ là ‘’Thường trụ chân tâm, tánh tịnh minh thể‘’, minh bạch được pháp nầy, thì thấy được pháp thân của Phật.

Bấy giờ, quang minh vượt qua trăm ngàn thế giới, chiếu khắp phương đông trăm vạn thế giới. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế. Trong mỗi thế giới đó, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Đề, cho đến trăm ức trời Sắc Cứu Kính, hết thảy trong đó đều hiện rõ. Trong mỗi cõi Diêm Phù Đề đó, đều thấy Như Lai ngồi trên tòa sư tử liên hoa tạng, có các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, tụ lại cùng đến chốn Phật. Các vị Bồ Tát đó, là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v…. đến từ thế giới Kim Sắc .v.v… đức Phật ở thế giới đó, hiệu là Bất Động Trí Như Lai .v.v…

Lúc đó, Phật Thích Ca Mâu Ni từ dưới chân của Ngài phóng ra luồng hào quang, vượt qua một vạn thế giới, chiếu khắp phương đông một trăm vạn thế giới. Ở phương nam, phương tây, phương bắc và bốn hướng, trên dưới, sáu phương, cũng đều như thế. Mỗi thế giới trong mười phương, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Ðề, cho đến trăm ức trời Sắc Cứu Kính. Hết thảy thế giới ở trong đó, đều hoàn toàn hiện ra. Trong mỗi cõi Diêm Phù Đề, đều thấy Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi trên toà sư tử Liên Hoa Tạng, có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, đến vây quanh Phật. Hoàn toàn nhờ đại oai thần lực của Phật, nên mỗi phương trong mười phương, đều có một vị đại Bồ Tát cùng với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, cùng nhau đi đến chốn Phật, gần gũi Phật. Mười vị Bồ Tát đó, tức là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v…. Các Ngài từ nước của các Ngài đến, tức là thế giới Kim Sắc .v.v…. như đã nói. Các Ðức Phật ở thế giới đó hiệu là Bất Ðộng Trí Như Lai .v.v….

Bấy giờ, khắp tất cả mọi nơi, đều có Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở chỗ đức Phật, đồng thời phát ra tiếng, nói bài kệ rằng.

Lúc đó, khắp mọi nơi có vô lượng Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, ở trong đạo tràng của mỗi vị Phật, đồng thời phát ra tiếng, nói bài kệ dưới đây.

Như Lai tự tại nhất
Siêu thế chẳng chỗ nương
Đủ tất cả công đức
Độ thoát nơi các cõi.

Phật là tự tại nhất, chẳng vào chẳng tự được, tức cũng là tùy tâm như ý, muốn thế nào thì thế đó, chẳng có hạn chế, tự tại thật sự. Nếu mình làm chủ được, thì chẳng có phiền não gì cả, chẳng bị cảnh giới chuyển biến, không khởi vọng tưởng, chẳng chấp trước, đó đều là tự tại.

Phật vượt ra khỏi thế gian, chẳng có chỗ nương. Phật đầy đủ tất cả công đức, độ thoát tam giới hai mươi lăm cõi. Hai mươi lăm cõi đó là :

‘’Bốnchâu bốn đường ác
Phạm Thiên lục dục Thiên
Vô tưởng ngũ bất hoàn
Tứ không và tứ thiền‘’.

Tại dục giới có mười bốn cõi : Tức là bốn đại châu; bốn đường ác; sáu trời dục. Tại sắc giới có bảy cõi : Tức là Tứ Thiền Thiên (Ðại Phạm Thiên), Vô Tưởng Thiên, Ngũ Bất Hoàn Thiên (Vô Não Thiên, Vô Nhiệt Thiên, Thiện Kiến Thiên, Thiện Hiện Thiên, Sắc Cứu Kính Thiên). Tại vô sắc giới có bốn cõi : Tức là trời Tứ Không (Trời Không Vô Biên Xứ, Trời Thức Vô Biên Xứ, Trời Vô Sở Hữu Xứ, Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng) Chúng ta đều ở trong hai mươi lăm cõi, chưa lìa khỏi sinh tử.

Không nhiễm không chấp trước
Không tưởng không y chỉ
Thể tánh không thể lường
Thấy được đều khen ngợi.

Cảnh giới của Phật cũng chẳng nhiễm ô, cũng chẳng chấp trước, cũng chẳng có sắc thọ tưởng hành thức, cũng chẳng có chỗ y chỉ. Thể tánh của Phật không thể lường được. Phàm là ai thấy được Phật đều khen ngợi Phật. Thấy Phật chẳng thấy pháp, thì chẳng phải thấy Phật chân thật, thấy pháp mới là thật thấy Phật. Ðức Phật đến trời Đao Lợi vì mẹ của Ngài là Ma Gia phu nhân nói Kinh Ðịa Tạng xong rồi, trở về nhân gian thì Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc (thần thông bậc nhất bên Ni chúng), thấy Phật trước nhất, do đó, tự cho là vinh hạnh. Phật nói với Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc rằng : ‘’Người thấy ta trước nhất chẳng phải nhà ngươi, mà là Tu Bồ Ðề‘’. Lúc đó, Ngài Tu Bồ Ðề đang vá áo ở trong tịnh xá, chứ chẳng ra ngoài nghinh tiếp Phật, song, Tu Bồ Ðề dùng tâm để nghinh tiếp, đùng pháp để nghinh tiếp. Ngài là người giải không bậc nhất, Kinh Kim Cang do ngài thỉnh pháp. Trong kinh có nói :

‘’Nếu dùng sắc thấy ta
Dùng âm thanh cầu ta
Người đó hành tà đạo
Chẳng thấy được Như Lai ‘’.

Tức là đạo lý nầy.

Quang minh khắp thanh tịnh
Trần lũy đều tẩy sạch
Chẳng động lìa hai bên
Đây là trí Như Lai.

Trí huệ quang minh của Phật, khiến cho pháp giới thanh tịnh. Tẩy sạch hết tất cả trần cấu của tình ái, khiến cho chẳng còn sự ràng buộc tình và ái. Ðoạn dục khử ái là pháp môn trở về nguồn cội (khôi phục đồng thể). Chúng ta nên tu pháp nầy. Không rơi vào không có hai bên, không rơi vào đoạn, thường, nhị kiến tức là trung đạo. Chấp đoạn ngoại đạo nói : ‘’Người chết như đèn tắt, chẳng còn gì nữa‘’. Chấp thường ngoại đạo nói : ‘’Người chết đời sau vẫn là người, chó chết đời sau vẫn là chó‘’. Hai thứ ngoại đạo nầy, đều phủ nhận nhân quả, bát vô nhân quả. Phật chẳng động, lìa khỏi bên không, lìa khỏi bên có, đây tức là trí huệ của Phật.

 Nếu thấy được Như Lai
Thân tâm lìa phân biệt
Tức nơi tất cả pháp
Dứt hẳn các nghi trệ.

Nếu như có người thấy được Phật, thì thân tâm đều lìa khỏi sự phân biệt. Người đó thấy Phật như hư không, thì đối với tất cả các pháp thông đạt vô ngại, vĩnh viễn dứt hẳn tất cả sự nghi trệ.

Chúng ta tu đạo thì phải chiếu theo tin, hiểu, hành, chứng, bốn bước lớn nầy, mà tu hành, chẳng những đối với Phật chẳng có hoài nghi, mà đối với pháp cũng chẳng có hoài nghi. Phải tin pháp của Phật nói, đều là lời kinh nghiệm. Pháp của Phật nói, đều là pháp mà thân Phật trải qua các cảnh đó mà ngộ đạo.

Chúng ta học Phật pháp, tức là học phương pháp Phật thành Phật.

Trong tất cả thế gian
Nơi nơi chuyển pháp luân
Không tin không chỗ chuyển
Đạo Sư phương tiện nói.

Trong mười phương tất cả thế gian, nơi nơi đều có chư Phật đang ở trong đó chuyển đại pháp luân, đánh trống pháp lớn, thổi loa pháp lớn, giáo hóa chúng sinh. Pháp vốn chẳng có tự tánh, bổn thân pháp không thể chuyển pháp luân, cho nên không chuyển, Ðây là Phật dùng đủ thứ pháp môn phương tiện để nói pháp.

Nơi pháp chẳng nghi ngại
Dứt hẳn các hí luận
Không sinh tâm phân biệt
Là niệm Phật bồ đề.

Pháp là phương pháp, là pháp phương tiện giáo hóa chúng sinh. Pháp phương tiện nầy là vì người mà thí. Nếu chẳng có người, thì pháp cũng chẳng có. Pháp là Phật nói, Phật chẳng tại thế gian, song, pháp vẫn lưu tại thế gian. Tâm chúng sinh tin pháp nhẹ hơn so với tâm nghi hoặc. Có gì mà chứng minh ? Ví như có người giới thiệu cho bạn một người bạn, trước hết nói anh ta trung hậu ra sao, có học vấn như thế nào, tốt như thế nào, bạn nghe rồi thì nhất định sinh hoài nghi, muốn điều tra một phen. Ðây là vì niềm tin không đủ. Ðây là đối với thiện pháp mà nói. Nếu có người nói. Người nào đó phẩm hạnh chẳng tốt, tệ đến cực điểm, chẳng có hiếu với cha mẹ, chẳng trung với đất nước, bất tín đối với bạn bè, thì lúc đó, bạn liền tin sâu chẳng hoài nghi, không cần đi điều tra, đây là đối với ác pháp mà nói. Có người nói với bạn chánh pháp, thì bạn liền khởi nghi hoặc rằng có Phật chăng ? Có Bồ Tát chăng ? Có A La Hán chăng ? Như có người nói với bạn tà pháp thì bạn liền tin ngay, còn tham gia hội đoàn của họ, vì họ mà làm nô lệ, song, mình vẫn chẳng biết bị người lợi dụng, thứ người nầy thật đáng thương xót !

Hay đối với Phật pháp chẳng có nghi hoặc, tu giới tu định tu huệ thì vĩnh viễn đoạn tuyệt tất cả các hí luận. Hí luận gồm có:

1. Ðiên đảo hí luận.
2. Tổn hại hí luận.
3. Tranh cạnh hí luận.
4. Nơi người khác phân biệt thắng liệt hí luận.
5. Phân biệt công xảo dưỡng mạng hí luận.
6. Ðam trước thế gian tài lực hí luận.

1. Ðiên đảo hí luận : Vốn là vật màu đen mà nói là màu trắng, tức là điên đảo thị phi. Rõ ràng là ‘’phải‘’ mà bạn với người ta biện luận, cường từ đoạt lý nói là ‘’trái‘’, đây là điên đảo hí luận. Tức cũng là nói luận điệu trái với đạo lý, nói ra lời lẽ hư vọng chẳng chân thật.

2. Ðường tổn hí luận : Ðường tổn nghĩa là vứt đi. Ví như bạn làm công đức, mà có người nói bạn ngu si : ‘’Làm công đức có ích gì ? Làm công đức chẳng ăn cơm, có no không ? Làm công đức chẳng mặc y phục, có lạnh chăng ? Căn bản chẳng có công đức ! Ðây là pháp gạt người. Bạn thấy người xuất gia hóa duyên, dạy người ta bố thí mà mình chẳng bố thí. ‘’Ðây là lý luận méo lệch, như thế thì sẽ tổn hại công đức, vất đi. Phải biết có công đức thì mới có phước huệ, phước huệ viên mãn mới khai ngộ.

3. Tranh cạnh hí luận : Tranh là tranh biện, cạnh là so sánh hơn kém. Tranh thắng phụ với người, so sánh đứng hàng đầu. Do đó, có câu:

‘’Tranh là tâm hơn thua
Trái ngược lại với đạo
Tâm sinh ra bốn tướng
Làm sao được tam muội.

Người có tâm hơn thua, thì trái ngược lại với đạo, chẳng hợp với đạo, cũng chẳng hợp với pháp. Nếu có biện luận, thì sẽ sinh ra tâm bốn tướng (tướng ta, tướng người, tướng chúng sinh, tướng thọ mạng), làm sao mà đắc được tam muội ? Chẳng đắc được định huệ chân chánh, đối với pháp thì sinh tâm nghi hoặc.

4. Nơi người khác phân biệt thắng liệt hí luận : Phân biệt tốt hoặc xấu với người, hơn hoặc kém, trái hoặc phải. Ðây cũng như con quạ đậu ở trên lưng heo, chỉ thấy người ta đen, mà chẳng thấy mình đen như thế. Lại giống như giặc đồ dơ thế cho người ta, chỉ thấy đồ người ta dơ, mà chẳng thấy đồ mình dơ.

5. Phân biệt công xảo dưỡng mạng hí luận : Một khi sinh nghĩ phân biệt tức là hí luận. Giống như sinh viên tốt nghiệp rồi, hối hận ban đầu không nên học văn học, hoặc không nên học triết học. Nếu như ban đầu học y khoa, thì bây giờ có thể làm bác sĩ. Nếu ban đầu học luật khoa, thì bây giờ có thể làm luật sư, đời sống sẽ giàu có hơn. Khi học xong đại học, thì mới nghĩ công xảo dưỡng mạng, đây tức là hí luận.

6. Ðam trước thế gian tài thực hí luận : Tức là tham luyến tài, sắc, danh, thực, thùy, năm dục thế gian. hãy xem trên thế gian có bao nhiêu người vì tài mà mất mạng, vì sắc mà phá thân, vì danh mà bại thân, vì ăn mà hại thân, vì ngủ mà hủy thân ? Ðó là đam trước thế gian tài thực hí luận.

Nếu chẳng có những hí luận nầy, thì chẳng sinh tâm phân biệt. Chẳng có tâm phân biệt tức là niệm Phật bồ đề. Chẳng có tâm phân biệt thì sẽ khai mở đại trí huệ. Tại sao chúng ta chẳng có trí huệ ? Vì tâm phân biệt quá nặng, người ta khen bạn một câu, thì vui mừng vô cùng. Người ta chê bạn một câu, thì buồn bã vô cùng. Như thế thì làm sao mà học đạo ? Làm sao mà tu hành ? Muốn tu cảnh giới tám gió thổi không lay, thì xem tất cả thành một thể, mới là giác niệm, mới là thật công phu. Nhưng chẳng phải giống như người bùn, hoặc người gỗ, chẳng có tri giác.

Tám gió tức là: Khen, chê, khổ, vui, lợi, suy, được, mất. Tám gió này là chỗ người thế gian thương ghét, hay làm giao động tâm người, cho nên gọi là tám gió. Người tu hành, tu đến trình độ như như bất động, liễu liễu thường minh thì chẳng bị tám gió làm lay động. Dù vàng bạc trước mắt cũng chẳng đổi lòng; đao nhọn dơ lên đầu, cũng chẳng cải chí hướng. Ðây tức là tín niệm kim cang.

Biết rõ pháp khác biệt
Chẳng chấp nơi lời nói
Không có một với nhiều
Gọi là tùy Phật giáo.

Khi con người sinh ra, thì tâm biết mà chẳng biết, hay mà không hay, là một trang giấy trắng sạch. Nếu có vị thiện tri thức, hoặc là minh sư dạy dỗ chỉ bảo, thì sớm sẽ minh tâm kiến tánh, có chỗ thành tựu. Minh bạch pháp sai biệt. Pháp nầy chẳng chấp trước nơi tướng lời nói. Vì chẳng có lời nói, cho nên chẳng có phân biệt. Không phân biệt pháp, tức là tướng tịch diệt. Pháp của tướng tịch diệt, thì chẳng chấp trước nơi lời nói. Do đó, có câu :

‘’Miệng muốn nói mà lời bặc
Tâm muốn duyên mà tư tưởng chẳng còn nữa‘’.

Lúc đó, tức là cảnh giới :

‘’Ðường lời đã hết, nơi tâm hành đã diệt‘’.

Lúc đó, cũng chẳng có một, cũng chẳng có nhiều. Chẳng có một, là một mà chẳng một; chẳng có nhiều, là nhiều mà chẳng nhiều. Cảnh giới một nhiều chẳng lập. Ðây là giáo lý tùy thuận chư Phật.

Trong nhiều không một tánh
Một cũng không có nhiều
 Như vậy hai đều xả
Khắp vào công đức Phật.

Nói về từ vô thủy thì chẳng có sự bắt đầu; nói về sự vô chung thì chẳng có sự kết thúc. Do đó, có câu :

‘’Không đầu không cuối
Không một không nhiều
Không lớn không nhỏ
Không trong không ngoài‘’.

Ðây tức là số 0, tức cũng là vô cực. Không đầu là chẳng có bắt đầu, giống như vạch thứ nhất quẻ Càn trong Bát Quái là số 0; vạch thứ hai cũng là số 0; vạch thứ ba vẫn là số 0. Số 0 nầy lớn như pháp giới; nhỏ như hạt bụi. Lớn mà không ngoài, lại chẳng có gì lớn bằng nó; nhỏ mà không trong, lại chẳng có gì nhỏ bằng nó. Số 0 nầy chẳng có một, chẳng có nhiều, một mà chẳng một, nhiều mà chẳng nhiều. Nói nó là một, lại chẳng phải một. Nói nó là nhiều, lại chẳng phải nhiều. Nói nó chẳng phải một, nó nhỏ mà không trong. Nói nó chẳng phải nhiều, nó lớn mà không ngoài. Một chẳng thành một, nhiều chẳng thành nhiều, đều bao quát ở trong số 0. Ở trong đó tức là chân không, tuy chân không, cũng có diệu hữu. Do đó, có câu :

‘’Chân không chẳng không,
Mới có diệu hữu.
Diệu hữu chẳng hữu,
Mới có chân không‘’.

Trong số 0 nầy có gì ? Nhìn chẳng thấy gì, tuy nhìn chẳng thấy gì, nhưng không thể nói chẳng có gì. Trong số 0 nầy có diệu hữu. Chúng ta tu đạo tức là tu số 0 nầy. Ðây gọi là vòng tròn vô cực, vô đến cực điểm.

Số 0 nầy tức là đại viên cảnh trí, là bổn lai diện mục, tự tánh vốn đủ, tức cũng là đại quang minh tạng. Tại số 0 nầy tu hành thành công, thì biến thành đại quang minh tạng. Nếu phá hoại đại quang minh tạng, thì do vô minh sinh ra tướng tam tế (nghiệp chướng, chuyển tướng, hiện tướng), do số 0 mà biến thành một. Khi chẳng có một, thì nó vĩnh viễn là số 0, bất cứ thêm vào bao nhiêu số 0, vẫn chẳng có số mục để nói. Bây giờ số 0 phá thành một, thêm số 0 vào thì thành mười, lại thêm số 0 vào thì thành trăm, lại thêm số 0 vào thì thành ngàn, lại thêm số 0 vào thì thành vạn. Ngàn ngàn vạn vạn là từ số 0 mà sinh ra. Lúc số 0 nầy chưa biến thành một, thì nó là vô thủy; hiện tại biến thành một, thêm không vào tức là vô chung. Số một nầy mà thêm tận hư không biến pháp giới số 0 vào, thì cũng thêm chẳng xong, cho nên gọi là vô chung, tức là chẳng có khi nào kết thúc.

Trời được một là thanh, trời từ một trở về số 0 thì thanh minh. Ðất được một là yên, đất từ một trở về số 0 thì an ninh. Người được một là Thánh, người từ một tu đến đại quang minh tạng, trở về nguồn cội, tức là Thánh nhân. Tại sao chúng ta chẳng phải Thánh nhân ? Vì chưa đắc được một. Do đó :

‘’Ðược một vạn sự đều xong‘’.

Ðắc được một (đồng trinh) thì việc gì cũng đều xong. Việc gì cũng chẳng cần. Do đó, có câu :

‘’Những gì làm đã làm xong
Chẳng thọ thân sau nữa‘’.

Tại sao chúng ta có sanh tử ? Vì phá hoại đại quang minh tạng, phá số 0 thành một, có một thì có phiền não. Ðại quang minh đầy đủ tất cả, cho nên nói trong nhiều không một tánh. Nhiều tức là nhiều, vì chẳng có một tánh, tức cũng là nhiều mà chẳng nhiều, chẳng nhiều mà nhiều. Một cũng chẳng nhiều. Ðạo lý nầy chẳng dễ gì minh bạch, vậy phải làm sao ? Tức là không cần sinh tâm phân biệt, không cần dụng công phu trên số mục, đây là một, đó là nhiều, đừng chấp trước vào số mục, cho nên mới nói là hai đều xả. Một cũng xả, nhiều cũng xả, chẳng chấp một nhiều thì chẳng có tâm phân biệt, thì khắp vào công đức Phật, giống như công đức của Phật, chẳng có gì khác biệt.

Chúng ta đều có tâm phân biệt, thấy cảnh giới thì sinh tâm phân biệt. Do đó, có câu đối cảnh khởi tham ái, đây là kiến hoặc. Mê lý khởi phân biệt, đây là tư hoặc. Kiến hoặc có tám mươi tám phẩm, tư hoặc có hai mươi mốt phẩm. Nếu chẳng còn tâm chấp trước, thì đắc được công đức của Phật.

Một và nhiều là cùng nhau nương tựa, cùng nhau làm gốc ngọn. Hoặc một làm gốc, nhiều làm ngọn. Hoặc nhiều làm gốc, một làm ngọn. Hoặc một nương tựa nhiều, nhiều nương tựa một. Có bốn ý nghĩa :

1. Cùng thành nghĩa.
2. Cùng hại nghĩa.
3. Cùng tồn nghĩa.
4. Cùng hết nghĩa.

1. Cùng thành nghĩa : Một, nhiều, cùng lập, cùng nhau tồn tại. Vì một trợ giúp nhiều, nhiều trợ giúp một. Cùng nhau tồn tại, đó đây đều có. Tức cũng là một thành nhiều, nhiều thành một. Ðây là hai câu đầu tiên : ‘’Trong nhiều không một tánh, một cũng chẳng có nhiều‘’. Trong nhiều chẳng có một, tức là nhiều. Trong một chẳng có nhiều, tức là một. Ðây là ý nghĩa một nhiều cùng nhau thành lập.

2. Cùng hại nghĩa : Hình cướp lấy cả hai đều mất. Có một thì chẳng có nhiều, có nhiều thì chẳng có một. Một nhiều cùng nhau chướng ngại, biến thành vô lực, đều không thể độc lập. Ðây là câu thứ ba : ‘’Như vậy hai đều xả‘’. Cả hai đều chẳng tồn tại. Ðây là ý nghĩa một nhiều cùng nhau hại diệt.

3. Cùng tồn nghĩa : Cùng nhau tồn tại, chứ chẳng phải đơn độc tồn tại. Dùng một để trợ giúp nhiều, song, nhiều cũng vẫn không hoại, vẫn nhiều như nhau, nhưng do một mà thành nhiều. Dùng nhiều để trợ giúp một, song, một cũng chẳng hoại, vẫn tồn tại. Nhưng nhiếp một làm nhiều, tuy một nhiếp vào trong nhiều, nhưng cùng nhau tồn tại. Nhiều chẳng ngại một, một chẳng ngại nhiều. Ðây là ý nghĩa một nhiều cùng nhau tồn tại.

4. Cùng hết nghĩa : Cùng nhau diệt hết, đó đây chẳng còn nữa. Ðây và cùng hại nghĩa khác nhau, dùng sức của một để trợ giúp nhiều, mà nhiều cùng chẳng còn, dùng sức của nhiều để giữ một, mà một cùng chẳng còn.

Sau đây lại phân tích nghĩa lý một nhiều, có thể phân ra mười nghĩa:

1. Một ngọn độc lập.
2. Hai đồng thời hiện.
3. Hai cùng nhau mất.
4. Tự tại vô ngại.
5. Ðến đi không động.
6. Không lực cùng giữ.
7. Ðó đây không biết.
8. Sức dùng lấy nhau.
9. Tự tánh chẳng có.
10. Cứu kính lìa lời nói.

1. Một ngọn độc lập : Ðây là nói một nhiều hai pháp đều chẳng còn. Trong nhiều chẳng có một, cũng chẳng có nhiều. Trong một chẳng có nhiều, cũng chẳng có một. Tuy một chẳng có nhưng vẫn tồn tại. Tuy nhiều chẳng có, nhưng nhiều vẫn tồn tại. Một là một, nhiều là nhiều. Ðây là đạo lý một ngọn độc lập.

2. Cả hai đồng thời hiện : Biết một có nhiều, biết nhiều có một. Chẳng có một cũng chẳng có nhiều. Chẳng có nhiều cũng chẳng có một. Chẳng có trước, chẳng có sau, một nhiều cùng lúc hiện ra. Ví như cặp sừng bò và sừng dê đều hiện cùng lúc.

3. Cả hai đều mất : Cũng chẳng cùng một, cũng chẳng có cùng nhiều, cả hai đều chẳng còn. Tại sao ? Vì cả hai đều xả. Ðây là đạo lý cả hai cùng mất.

4. Tự tại vô ngại : Chẳng tạo tác mà tự tại. Do đó, có câu : ‘’Không vào mà chẳng tự được‘’, tùy tâm sở dục, muốn như thế nào thì như thế ấy. Muốn một tức là một, muốn nhiều tức là nhiều. Ðây là tự tại vô ngại. Một tức nhiên có thể làm nhiều, nhiều tức nhiên có thể làm một. Ðây tức là đạo lý một nhiều tự tại vô ngại.

5. Ðến đi không động : Một vào trong nhiều, một vẫn tồn tại ở trong nhiều. Nhiều vào trong một, nhiều cũng vẫn tồn tại ở trong một. Cho nên đến cũng chẳng động, đi cũng chẳng động. Giống như hai mặt kính, hình ảnh của một người chiếu ở trong hai mặt kính. Ðây là đạo lý một nhiều đến đi không động.

6. Không lực cùng giữ : Vì một có nhiều, cho nên nhiều chẳng có lực để chi trì một. Vì nhiều có một, cho nên một chẳng có lực chi trì nhiều. Cùng nhau chi trì, cùng nhau không lực. Ðây là đạo lý không lực cùng giữ.

7. Ðó đây không biết : Vì một, nhiều, cùng nương tựa, chẳng có thể, chẳng có dụng, cho nên một chẳng biết nhiều, nhiều chẳng biết một. Bồ Tát Giác Thủ có nói bài kệ rằng :

‘’Các pháp chẳng tác dụng
Cũng chẳng có thể tánh
Nên tất cả pháp đó
Thảy đều chẳng biết nhau‘’.

Các pháp chẳng có tác dụng của nó, vì nó chẳng có tự tánh. Vì vậy cho nên tất cả pháp thế gian, thảy đều chẳng biết nhau. Ðây là đạo lý một nhiều đó đây chẳng biết nhau.

8. Sức dùng lấy nhau : Tức là trong một hiểu vô lượng, trong vô lượng hiểu một. Cùng nhau trợ giúp. Một trợ giúp nhiều, nhiều trợ giúp một, mà cùng nhau dùng lấy. Ðây là đạo lý một nhiều sức dùng lấy nhau.

9. Tự tánh chẳng có : Vì cùng nhau khởi, cùng nhau mượn, bạn mượn tôi, tôi mượn bạn. Tự tánh của một cũng chẳng có, tự tánh của nhiều cũng chẳng có. Ðều là chẳng có. Ðây là đạo lý một nhiều tự tánh chẳng có.

10. Cứu kính lìa lời nói : Một, nhiều, nói ra tức là hí luận. Nên lìa lời nói tướng. Không thể nói nó là một, cũng không thể nói nó là chẳng phải một, cũng không thể nói nó là cũng một, cũng chẳng phải, cũng không thề nói nó là chẳng phải một, chẳng chẳng phải một. Do đó, có câu : ‘’Ly tứ cú, tuyệt bách phi‘’. Lìa khỏi bốn câu nói không ra, nói ra tức là chẳng đúng. Cũng không thể nói có tướng, cũng không thể nói không tướng, cũng không thể nói tướng thì tướng vào, cũng không thể nói không thì không vào, cùng nhau giao triệt. Vì nguyên nhân nầy, cho nên miệng muốn nói mà chẳng có lời để nói; tâm muốn phan duyên mà chẳng có duyên để phan. Tại sao ? Từ chẳng còn nữa, tư lự cũng bặc luôn. Ðạo lý nầy, cảnh giới nầy, chẳng phải nói ra mới minh bạch được. Nhưng nếu không nói, thì chẳng thể minh bạch. Nói ra là vì khiến cho chúng sinh tu hành, mà chứng được quả hải của tự tánh. Lúc đó, mới minh bạch được đạo lý một nhiều, nguyên lai là như thế. Ðạo lý sạch dơ cũng như thế.

Chúng sinh và cõi nước
Tất cả đều tịch diệt
Không nương không phân biệt
Vào được Phật bồ đề.

Chúng sinh là chánh báo, cõi nước là y báo, đây là chánh, y, hai báo. Trên phần của Phật mà quán sát, thì tất cả chúng sinh và tất cả cõi nước, đều là tịch diệt, cũng chẳng có một y báo, cũng chẳng có một chánh báo, tịch nhiên không động, chẳng có chỗ nương, cũng chẳng có phân biệt, như thế mới vào được đạo bồ đề của Phật.

Chúng sinh và cõi nước
Một khác bất khả đắc
Khéo quán sát như vậy
Gọi biết nghĩa Phật pháp. 

Chúng sinh là hữu tình thế gian, cõi nước là khí thế gian, Phật là chánh thế gian, đây là ba thế gian. Chúng sinh là hữu tình, tức cũng là động vật có cảm tình, có khí huyết. Khoáng thực vật là vô tình chúng sinh. Cõi nước giống như khí huyết để chở đựng chúng sinh, tức cũng là núi sông đất đai, nhà cửa phòng ốc. Phật là bậc giác ngộ chân chánh, hay khéo quán sát, đối với một nhiều chẳng có phân biệt. Bổn lai cũng chẳng có một, cũng chẳng có nhiều. Một nhiều không khác, đều là bất khả đắc. Tìm chẳng được một (cái một), cũng tìm chẳng được (một cái) nhiều. Nếu chẳng có tâm phân biệt, thì khéo quán sát diệu lý nầy, như thế mới thấu rõ nghĩa lý của Phật pháp.

Bấy giờ, quang minh vượt qua trăm vạn thế giới, chiếu khắp phương đông một ức thế giới. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế. Trong mỗi thế giới đó, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Đề, cho đến trăm ức trời Sắc Cứu Kính, hết thảy trong đó, thảy đều hiện rõ. Trong mỗi cõi Diêm Phù Đề, đều thấy Như Lai ngồi trên tòa sư tử liên hoa tạng. Có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, cùng vây quanh Phật. Do nhờ thần lực của Phật, nên mỗi phương trong mười phương, đều có một vị đại Bồ Tát, cùng với các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, tụ lại cùng nhau đi đến chốn Phật. Các vị Bồ Tát đó, tức là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v… đức Phật ở thế giới đó, tức là Bất Động Trí Như Lai .v.v…

Lúc đó, Phật Thích Ca Mâu Ni phóng ra quang minh từ dưới hai bàn chân, siêu qua trăm vạn thế giới, chiếu soi khắp phương đông một ức thế giới. Ở phương nam, phương tây, phương bắc và bốn hướng, trên dưới, cũng đều như thế. Trong mỗi thế giới mười phương, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Ðề, cho đến trăm ức trời Sắc Cứu Kính. Hết thảy thế giới trong đó, đều hiện ra rõ ràng. Trong mỗi cõi Diêm Phù Ðề, đều có Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi trên tòa sư tử Liên Hoa Tạng, có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, vây quanh Phật. Nương đại oai thần lực của Phật, mỗi phương trong mười phương, đều có một vị đại Bồ Tát, cùng với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, tụ lại rồi cùng nhau đi đến chốn Phật, gần gũi Phật. Mười vị Bồ Tát đó là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v… Các Ngài đến từ thế giới Kim Sắc .v.v… Các Ngài phụng sự các Ðức Phật Bất Ðộng Trí Như Lai .v.v…như đã nói.

Bấy giờ, tất cả mọi nơi, đều có Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở chỗ đức Phật, đồng thời phát ra tiếng, nói bài kệ rằng.

Lúc đó, ở khắp tất cả mọi nơi vô lượng Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, ở tại mỗi đạo tràng của Phật, cùng lúc phát ra tiếng, diễn nói bài kệ dưới đây.

Trí huệ vô đẳng pháp vô biên
Vượt các biển cõi đến bờ kia
Thọ lượng quang minh đều vô tỉ
 Là sức phương tiện bậc Công Đức. 

Công đức của Phật chẳng thể sánh bằng, trí huệ của Phật chẳng ai bằng được, pháp lực của Phật chẳng có bờ bến. Phật vượt ra khỏi tam giới các cõi, đã đạt đến bờ bên kia sinh tử. Thọ lượng của Phật, pháp thân của Phật vô thủy vô chung, báo thân thì hữu thủy vô chung, ứng thân thì hữu thủy hữu chung. Ðoạn kệ nầy là chỉ thọ lượng pháp thân của Phật, chẳng thể so sánh. Quang minh của Phật cũng vô lượng. Công đức viên mãn nên chứng được Phật vị, đây là Phật dùng phương tiện.

Hết thảy Phật pháp đều thấy rõ
Thường quán ba đời chẳng nhàm mỏi
Tuỳ duyên cảnh giới chẳng phân biệt
Đây sức phương tiện bậc Nan Tư.

Pháp của tất cả chư Phật mười phương ba đời, Phật Thích Ca Mâu Ni đều thấy rõ. Phật luôn luôn quán sát pháp của chư Phật ba đời, mà chẳng có khi nào nhàm mỏi, tuy nhiên cũng tùy theo cảnh giới để quán sát, nhưng chẳng phân biệt tất cả cảnh giới. Như vậy chứng được Phật quả khó nghĩ bàn, là sức phương tiện của Phật.

Thích quán chúng sinh chẳng sinh tưởng
Thấy khắp các cõi không tưởng cõi
Luôn trụ thiền tịch chẳng buộc tâm
Đây sức phương tiện Vô Ngại Huệ.

Phật rất ưa thích quán sát chúng sinh, chiếu cứ chúng sinh, giáo hóa chúng sinh. Trong Kinh Kim Cang có nói : ‘’Hết thảy tất cả loài chúng sinh, hoặc noãn sinh, hoặc thai sinh, hoặc thấp sinh, hoặc hóa sinh, hoặc có sắc, hoặc không sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, ta đều khiến cho vào vô dư Niết Bàn tịch diệt‘’. Tuy Phật độ thoát tất cả chúng sinh mà chẳng chấp trước độ chúng sinh. Chẳng có chấp trước, cho nên nói chẳng sinh tưởng. Phật thấy khắp chúng sinh trong bốn đường ác, đều nghiệp chướng nặng nề thọ đủ thứ khổ. Song, Phật thấy chúng sinh ác nhất cũng là chư Phật vị lai, cho nên thấy các cõi mà chẳng nghĩ tưởng.

Phật luôn luôn trụ ở trong thiền định tịch tĩnh, chẳng có chấp trước, chẳng có vọng tưởng, tất cả phiền não đều chẳng có, cho nên chẳng trói buộc nơi tâm. Chẳng trói buộc tâm, thì cũng chẳng có chướng ngại, đắc được trí huệ vô ngại, đó là sức phương tiện Phật gia trì, mới có cảnh giới đó.

Khéo léo thông đạt tất cả pháp
Chánh niệm siêng tu đường Niết Bàn
 Vui nơi giải thoát lìa bất bình
Đây sức phương tiện bậc Tịch Diệt.

Vạn vật trên thế gian đều đang nói pháp, hữu tình nói pháp hữu tình, vô tình nói pháp vô tình. Hoa hương điểu ngữ đều là nói pháp. Bách điểu hót trên không, vạn loài cá bơi lội dưới nước. Núi xanh mây trắng, hoa vàng trúc biếc, đều đang nói pháp khéo léo. Do đó, có câu : ‘’Phương tiện khéo léo độ chúng sinh‘’, tức cũng là quán cơ đầu giáo, vì người nói pháp, như thế mới khiến cho chúng sinh thông đạt tất cả pháp. Muốn biết rõ tất cả pháp, phải vào sâu tạng kinh, trí huệ mới như biển. Y theo pháp tu hành, tồn chánh niệm, tức là hồi quang phản chiếu, không đi đường tà, siêng tu giới định huệ, hướng về đường Niết Bàn, tức là pháp không sinh không diệt.

Giải thoát thì đắc được tự do sinh tử, khống chế được sinh tử, muốn sống thì sống, muốn chết thì chết (chẳng phải là tự tử), mà là đến đi tự do. Do đó, có câu : ‘’Biết từ đâu đến, biết đi về đâu‘’, khi đến cũng biết rõ, khi đi cũng biết rõ. Tu đến trình độ nầy, thì nắm lấy được sinh tử, mình làm chủ được mình, tùy theo tâm mong muốn, chẳng bị thời gian hạn chế, đắc được giải thoát thật sự, thì lìa khỏi các việc không bình đẳng. Ðây là sức đại phương tiện của bậc Tịch Diệt.

Hay khuyên người hướng Phật bồ đề
Hướng Nhất thiết trí như pháp giới
Khéo hóa chúng sinh vào diệu đế
Đây sức phương tiện trụ tâm Phật.

Chúng ta tự mình phát tâm bồ đề rồi, cũng phải khuyên người phát tâm bồ đề, hướng về pháp giới tất cả trí huệ tu hành, thì mới có trí huệ. Có trí huệ rồi, thì quán sát được nhân duyên của chúng sinh, khéo léo giáo hóa, khiến cho họ biết pháp thế gian là : Vô thường, khổ, không, vô ngã, mà sinh ra pháp xuất thế gian : Thường, lạc, ngã, tịnh. Nếu ai ai cũng phát tâm bồ đề, trên cầu Phật đạo, dưới hóa chúng sinh, thì tất cả tai nạn trên thế gian chẳng còn nữa, chiến tranh cũng tự nhiên tiêu diệt.

Phật pháp là pháp không nhất định, gặp chúng sinh thiện hóa không được, thì phải ác hóa. Ác hóa là gì ? Có chúng sinh chịu khổ đến cực độ, cảm thấy thế gian tất cả đều vô thường, hoặc gặp phi tai hoành họa, cảm thấy khổ là tánh bức bách, mới phát tâm bồ đề. Người thiện thì nói pháp thiện, người ác thì nói pháp ác. Ðủ thứ pháp môn nầy đều là giáo hóa chúng sinh tỉnh gộ, giáo hóa họ đối với cảnh giới mà giác ngộ cảnh giới, không thể mê luyến cảnh giới. Tôi thường nói : ‘’Thế gian tất cả đều đang nói pháp, bất cứ thiện hóa, hoặc ác hóa, đều đang giáo hóa chúng sinh phát tâm bồ đề. Cọp thì nói pháp cọp, mèo thì nói pháp mèo .v.v… Mỗi cử chỉ hành động đều giáo hóa chúng sinh, dạy bạn minh bạch nhân quả báo ứng, tơ hào chẳng sai. Nếu minh bạch thì đi vào chân lý‘’. Khéo giáo hóa chúng sinh vào lý thể chân thật, tức là vận dụng Phật tâm thường trụ đại từ đại bi, đại hỉ đại xả. Ðây là sức phương tiện tứ vô lượng tâm phát ra.

Pháp của Phật nói đều thâm nhập
Trí huệ rộng lớn chẳng chướng ngại
Tất cả xứ hành đều viên mãn
Đây sức phương tiện Tự Tại tu.

Chư Phật mười phương ba đời nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, mỗi một pháp môn đều thấu rõ mà  thâm nhập, chứng được trí huệ rộng lớn, tất cả đều chẳng có sự chướng ngại. Hết thảy cảnh giới của Phật, hết thảy pháp môn đều tu hành đạt đến cực điểm. Do đó : « Các lậu đã sạch, phạm hạnh đã vững, việc làm đã xong, chẳng thọ thân sau ». Tại sao đắc được tự tại ? Vì tu hành. Nếu không tu hành thì thế nào cũng chẳng đắc được tự tại sức phương tiện nầy.

Hằng trụ Niết Bàn như hư không
Tùy tâm hóa hiện đâu chẳng đến
Đây nương vô tướng mà làm tướng
Đây phương tiện bậc Đáo Nan Đáo.

Phật luôn luôn trụ ở trong cõi Thường Tịch Quang, giống như trụ ở trong hư không. Vì hư không chẳng có bờ bến, mà pháp thân của Phật cũng chẳng có bờ bến. Cho nên đầy khắp mọi nơi. Tùy thuận theo tâm niệm của chúng sinh mà hóa hiện để độ thoát chúng sinh. Chẳng có nơi nào mà chẳng đến, đây là nương vô tướng mà làm tướng, là lý thể chân thật. Phật đã đạt được quả vị tự giác viên mãn, giác hạnh viên cũng viên mãn. Do đó, « Ba giác tròn, vạn đức đầy », phát ra sức phương tiện nầy.

Ngày đêm năm tháng và số kiếp
Thế giới thủy chung tướng thành hoại
Như vậy nghĩ nhớ đều biết rõ
Đây phương tiện bậc Thời Số Trí.

Trong kinh Phật thường nói ngày đêm sáu thời. Ngày phân làm buổi sáng, buổi trưa, buổi tối. Ðêm cũng phân ra đầu hôm, nửa đêm và cuối đêm. Ðây là Ấn Ðộ dùng phương pháp để tính thời gian. Ở Trung Quốc một ngày phân làm mười hai thời. Dùng Tý Sửu Dần Mẹo Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi, mười hai địa chi làm đại biểu. Ban ngày từ giờ Mẹo bắt đầu (tức là lúc mặt trời mọc). Ban đêm từ giờ Dậu bắt đầu (tức là lúc mặt trời lặn). Nửa đêm mười hai giờ khuya là thời Tý. Mười hai giờ trưa là giờ ngọ. Bây giờ một ngày đêm phân làm hai mươi bốn giờ, tuy nhiên toán pháp khác nhau, nhưng thời gian giống nhau.

Một tháng có ba mươi ngày, một năm có mười hai tháng. Một ngàn sáu trăm bảy mươi chín vạn tám ngàn năm là một kiếp. Kiếp là tiếng Phạn, dịch là thời phần, tức là phân biệt thời gian. Kiếp phân ra tiểu kiếp, trung kiếp và đại kiếp. Hai mươi bốn tiểu kiếp làm một trung kiếp, bốn trung kiếp làm một đại kiếp. Thế giới có thành trụ hoại không bốn kiếp. Kiếp thành có hai mươi tiểu kiếp thời gian, kiếp trụ cũng hai mươi tiểu kiếp, kiếp hoại cụng có hai mươi tiểu kiếp, kiếp không cũng có hai mươi tiểu kiếp. Một thế giới thành hoại phải trải qua một đại kiếp. Thành thành hoại hoại, cuối rồi bắt đầu. Thế giới này hoại thì thế giới khác lại thành, tuần hoàn không ngừng, lưu chuyển mãi mãi.

Hiện tại là thời kỳ diệt kiếp của tiểu kiếp thứ chín trong kiếp trụ, tuổi thọ con người đến bảy mươi tuổi. Diệt kiếp là gì ? Từ tuổi thọ tám vạn bốn ngàn tuổi của con người mà bắt đầu, mỗi một trăm năm giảm xuống một tuổi, thân cao giảm xuống một tất. Giảm đến tuổi thọ con người 30 tuổi thì chúng sinh đầy dẫy tà kiến điên đảo, đầy đủ mười nghiệp ác. Lúc đó, trời chẳng mưa, đất đai khô cằn, ngũ cốc chẳng mọc, chúng sinh dùng rễ cỏ vỏ cây làm thức ăn. Con người chết đói vô số. Ðây là nạn đói khác. Lại giảm xuống còn hai mươi tuổi, thì bệnh ôn dịch lưu hành, thuốc than chẳng có hiệu quả. Tại sao lại có ôn dịch ? Vì tâm con người quá tệ hại, tâm hiếu thảo hoàn toàn mất đi, chẳng kính sư chẳng trọng đạo. Vì do nghiệp chiêu cảm, khiến cho kẻ ác bệnh chết, nhưng người thiện tồn tại, đây là nạn ôn dịch. Và khi tuổi thọ con người còn mười tuổi thì chúng sinh tệ hại đến cực điểm. Hoại như thế nào ? Lúc còn con nít thì có tâm dâm dục, muốn tìm bạn khác tánh. Giống như heo không khác, vừa sinh ra thì có tâm dâm dục. Ðến ba bốn tuổi thì kết hôn, chưa đến mười tuổi thì chết mất. Lúc đó, giữa người và người tàn sát với nhau, cỏ cây thành đao, cũng biến thành vũ khí giết người. Nhân loại chẳng phân thân sơ, thấy người thì giết, trở thành thế giới điên cuồng. Những người còn lại chạy trốn vào núi, trải qua tạo kiếp giết hại lẫn nhau như thế, con người còn lại chẳng bao nhiêu người, đây là nạn đao binh.

Lúc đó, tâm con người chuyển hướng về thiện lành, sinh tâm hối cải, linh quang xoay trở lại, trí huệ tăng dần, chẳng có tham sân si như lúc trước. Tuổi thọ con người lại bắt đầu tăng dần. Mỗi một trăm năm tăng lên một tuổi, thân cao tăng thêm một tất, tăng đến tuổi thọ là tám vạn bốn ngàn tuổi thì ngừng. Một lần tăng một lần giảm như thế là một kiếp. Trong một tiểu kiếp có ba tiểu tai. Trong một đại kiếp có một lần nạn lửa lớn, thiêu đốt đến cõi trời Sơ Thiền. Trải qua bảy lần nạn lửa lớn rồi, bèn phát sinh một lần nạn nước lớn, làm ngập đến trời Nhị Thiền, trải qua bảy lần nạn lửa lớn rồi, thì phát sinh một lần nạn gió lớn, thổi đến trời Tam Thiền. Tu thiền định đến được trời Tứ Thiền, thì mới không bị ba nạn lớn uy hiếp.

Thế giới vốn là vô thủy vô chung, nhưng vì phá số không thành số một, nên có số mục bắt đầu, nhưng vẫn là chẳng có dừng nghỉ. Giống như sau số một, thì dù thêm bao nhiêu số 0, cũng vĩnh viễn thêm không hết. Ðây nói về đạo lý tướng thủy chung thành hoại.

Trái đất thành được hai mươi tiểu kiếp, chúng sinh trụ ở trong đó hai mươi tiểu kiếp, sau đó biến hoại hai mươi tiểu kiếp; hoại thành không hai mươi tiểu kiếp. Trái đất có bốn tướng thành trụ hoại không, con người cũng có sinh trụ dị diệt bốn tướng, Sinh có hai mươi năm (thời kỳ học vấn), trụ có hai mươi năm (thời kỳ sự nghiệp), dị có hai mươi năm (thời kỳ biến hóa), diệt cũng có hai mươi năm (thời kỳ bệnh già). Bất cứ là ai cũng không thoát khỏi ngoài phạm vi bốn tướng. Một năm có xuân hạ thu đông bốn muà, mùa xuân là thời kỳ sinh, mùa hạ là thời kỳ trụ, mùa thu là thời kỳ dị, muà đông là thời kỳ diệt. Ðây là hiện tượng sinh trụ dị diệt bốn tướng trong một năm.

Trong trí huệ của Phật, những pháp thời gian đó, chỉ cần một niệm thì hoàn toàn thấu rõ hết. Ðây là thời gian và số mục trí huệ, phát ra sức phương tiện.

Tất cả chúng sinh có sinh diệt
Sắc với phi sắc tưởng phi tưởng
Hết thảy danh từ đều biết rõ
Đây phương tiện của bậc Nan Tư.

Hết thảy tất cả chúng sinh đều có sinh có diệt. Chúng sinh có sắc, chúng sinh không có sắc, chúng sinh có tưởng, hoặc không có tưởng, hết thảy danh từ, Phật đều thấu rõ. Ðây là sức phương tiện trí huệ đắc được không thể nghĩ bàn.

Chúng sinh có phân ra ba loại lớn:

1. Từ sinh để phân biệt, gồm có noãn, thai, thấp, hóa, bốn loài.

2. Từ thể để phân biệt, gồm có sắc và vô sắc hai loài.

3. Từ thức để phân biệt gồm có tưởng, vô tưởng, và phi tưởng, phi phi tưởng, ba loại. Ðây là chín loài chúng sinh.

Đời quá khứ hiện tại vị lai
Hết thảy lời nói đều biết rõ
Nên biết ba đời đều bình đẳng
Đây phương tiện bậc Vô Tỉ Giải.

Ðời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai, gọi là ba đời. Tất cả lời nói của chúng sinh rất tạp nhạp, bất cứ bạn thông minh như thế nào, cũng học không hết ngôn ngữ của thế giới. Song, Phật có đại trí huệ, Ngài chẳng cần học tất cả ngôn ngữ, mà hoàn toàn hiểu biết hết. Phật là chẳng có thầy mà tự biết, chẳng học mà thấu rõ. Phật lại biết ba đời đều bình đẳng. Tuy nhiên ba đời là như nhau, nhưng bất khả đắc. Tại sao ? Vì tâm quá khứ bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc. Kiến giải trí tuệ vô tỉ nầy, lại phát ra sức phương tiện.

Bấy giờ, quang minh vượt qua một ức thế giới, chiếu khắp phương đông mười ức thế giới. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế. Trong mỗi thế giới đó, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Đề, cho đến trăm ức trời Sắc Cứu Kính, hết thảy ở trong đó, thảy đều hiện rõ. Trong mỗi cõi Diêm Phù Đề, đều thấy Như Lai ngồi trên toà sư tử liên hoa tạng. Có các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, cùng nhau vây quanh Phật. Nhờ thần lực của Phật, nên mỗi phương trong mười phương, đều có một vị đại Bồ Tát, cùng với các Bồ Tát, nhiều như số hại bụi mười cõi Phật, tụ lại cùng nhau đi đến chốn Phật. Các đại Bồ Tát đó, tức là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v… đến từ thế giới Kim Sắc .v.v… đức Phật ở thế giới đó, hiệu là Bất Động Trí Như Lai .v.v…

Lúc đó, quang minh từ dưới chân của Phật Thích Ca Mâu Ni, vượt qua một ức thế giới, chiếu sáng khắp phương đông mười ức thế giới. Ở phương nam, phương tây, phương bắc, và bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế. Trong mỗi thế giới mười phương, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Ðề, cho đến trăm ức trời Sắc Cứu Kính. Hết thảy thế giới đều hiện ra ở trong đó. Trong mỗi cõi Diêm Phù Ðề, đều thấy Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi trên tòa sư tử liên hoa tạng, có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, vây quanh Phật. Nhờ thần lực của Phật, nên mỗi phương trong mười phương đều có một vị đại Bồ Tát, cùng với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật cùng nhau tụ lại đi đến chốn Phật, gần gũi Phật. Mười vị đại Bồ Tát đó, tức là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v… Các ngài đến từ thế giới Kim Sắc .v.v… Ðức Phật ở thế giới đó hiệu là Bất Ðộng Trí Như Lai v.v…

Bấy giờ, tất cả mọi nơi, đều có Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở chỗ đức Phật, đồng thời phát ra tiếng, nói bài kệ rằng.

Lúc đó, khắp tất cả mọi nơi vô lượng Bồ Tát Văn Thù ở tại Ðạo tràng của mỗi vị Phật, cùng một lúc phát ra tiếng, diễn nói bài kệ dưới đây.

Khổ hạnh rộng lớn đều tu tập
Ngày đêm tinh siêng chẳng nhàm mỏi
Đã độ khó độ sư tử hống
Khắp hoá chúng sinh là hạnh Phật.

Phật ở tại nhân địa tu vô lượng vô biên khổ hạnh. Có thể nói là dọc cùng tam tế, ngang khắp mười phương, đều là nơi Phật tu hành khổ hạnh. Tu khổ hạnh là gì ? Phật tu khổ hạnh tại núi tuyết sáu năm, mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè, để duy trì mạng sống. Khổ hạnh nầy, khổ nhất, khó nhất, ngày đêm tinh tấn siêng năng tu tập, chẳng có nhàm mỏi, chẳng có giải đãi. Phật tu khổ hạnh rộng lớn, cho nên chúng sinh sinh cảm động rất lớn. Chúng sinh vốn cang cường khó điều phục, song, vì Phật đầy đủ đức hạnh, khiến cho chúng sinh nghe pháp sinh niềm tin mà y pháp tu hành.

Từ tâm của Phật nói pháp như là sư tử hống. Sư tử hống còn gọi là quyết định nói, định nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật, đây là độ kẻ nhất siển đề (chẳng tin Phật pháp). Ðịnh nói vô ngã tồn tại, đây là độ tất cả ngoại đạo (cầu pháp ngoài tâm). Ðịnh nói khổ dục chẳng tịnh, đây là độ thiên ma Ba Tuần. Ðịnh nói thường lạc ngã tịnh, đây là độ hàng Thanh Văn (A La Hán). Ðịnh nói tâm đại bi, đây là độ hàng Duyên Giác (Bích Chi Phật). Ðịnh nói Như Lai vô ngại đại trí, đây là độ hàng Bồ Tát (phát tâm bồ đề). Cho nên nói khắp hóa chúng sinh. Phật khắp hóa hết thảy tất cả chúng sinh. Phật làm gì cũng là vì độ chúng sinh, giáo hóa chúng sinh. Ðây là việc làm của Phật. Khi những chúng sinh đáng được độ, đều được độ xong hết, Phật mới vào đại Niết Bàn.

Phật pháp là tuỳ theo nghiệp chướng của chúng sinh mà hưng suy. Chúng sinh nghiệp nặng thì Phật pháp chẳng còn nữa. Chúng sinh nghiệp nhẹ thì Phật pháp sẽ hưng thịnh lên. Có lúc Phật pháp hưng lên rất nhanh mà diệt cũng nhanh, có lúc Phật pháp hưng lên chậm, mà diệt cũng rất chậm, đều là do nghiệp của chúng sinh mà quyết định. Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện ra thế giới Ta Bà, có người tin Phật, cũng có người nghe Phật pháp mà chẳng tin. Thời kỳ chánh pháp cũng có tượng pháp, cũng có mạc pháp. Thời kỳ tượng pháp, cũng có chánh pháp, cũng có mạc pháp. Thời kỳ mạc pháp, cũng có chánh pháp, cũng có tượng pháp, bất quá mạc pháp thì nhiều. Phân ra mà nói thì có chánh pháp, tượng pháp, mạc pháp. Nếu hợp lại mà nói thì ở trong mỗi pháp, đều có chánh tượng mạc khác nhau. Ví như thời đại chánh pháp rõ ràng là người như nhau, mà có người tin Phật, có kẻ chẳng tin Phật. Người chẳng tin Phật, chỉ thấy tướng tốt trang nghiêm của Phật, đây tức là thời đại tượng pháp. Thậm chí lúc Phật còn ở đời cũng có rất nhiều chúng sinh chẳng thấy được Phật, cũng chẳng nghe Phật pháp, đây tức là thời đại mạc pháp. Vào thời đại tượng pháp có người chân chánh tu hành, chứng quả khai ngộ, đây tức là thời đại chánh pháp. Có người vốn chẳng nghe pháp, chẳng thấy Tăng; đây tức là thời đại mạc pháp

Hiện tại là thời đại mạc pháp, vì pháp sắp muốn diệt, cho nên chánh pháp cũng rất ít, tượng pháp cũng chẳng nhiều. Vì căn cơ của chúng sinh, hoàn toàn chẳng tin Phật pháp, hoặc chẳng nhận thức đúng đắn với Phật pháp, mà sinh hồ nghi. Họ cong thẳng thị phi, nói chánh pháp là mạc pháp, mạc pháp nói là chánh pháp, cho nên thời đại nầy là thời kỳ nguy hiểm, khiến cho tâm người rất mê hoặc, bất cẩn một chút thì lạc vào năm dặm mù, mê mất phương hướng, chẳng biết đông tây nam bắc. Ðây tức là hồ đồ mà ngu si.

Sự nhìn của tôi đối với Phật pháp, không muốn nói là Phật pháp, có thể nói là tâm pháp của chúng sinh. Phật giáo là tâm lý học vi diệu nhất, cũng là chân lý rốt ráo nhất, đều hợp với đạo lý. Tóm lại, phàm là hợp với đạo lý thì chúng ta tin; không hợp với đạo lý thì đừng tin. Hiện tại chúng ta đang nghiên cứu Phật pháp, thì phải tìm cầu chân lý, phải thâm nhập kinh tạng.

Nghiên cứu Phật pháp tức là nghiên cứu chúng sinh pháp. Trước hết phải biết tư tưởng của chúng sinh là gì ? Tư tưởng của chúng sinh tức là mình chẳng minh bạch, cũng chẳng muốn dạy người khác minh bạch, cho nên chẳng gọi là Phật pháp mà gọi là chúng sinh pháp. Cũng có thể gọi kinh Phật là kinh chúng sinh. Tâm, Phật, chúng sinh, là ba mà một, một mà ba. Ðiều mà Phật nói bạn có tin chăng ? Vậy chúng ta nói tin tâm pháp. Tâm pháp chẳng tin chăng ? Vậy chúng ta lại nói chúng sinh pháp. Phật nói Phật pháp, tâm nói tâm pháp, chúng sinh nói chúng sinh pháp.

Các bạn muốn tin pháp nào thì tin pháp đó, không tin cũng chẳng có cách gì hơn. Vì thời đại mạc pháp, tức là như thế.

Chúng sinh lưu chuyển biển ái dục
Lưới vô minh che lo bức bách
Chí nhân dũng mãnh đều đoạn trừ
Đương nhiên thệ cũng là hạnh Phật.

Chúng sinh là chúng duyên giả hòa hợp mà thành. Chúng sinh có noãn thai thấp hóa bốn thứ khác nhau. Thai sinh như cầm thú bốn chân, noãn sinh như loài phi cầm hai chân, thấp sinh như côn trùng nhiều chân, hóa sinh như bươm bướm… Thai sinh thì lớn lên ở trong thai mẹ, sau đó bèn sinh ra. Noãn sinh thì trứng ở ngoài thân mẹ được nhiệt độ mà lớn lên, sau đó sinh ra. Thấp sinh thì trứng ở chỗ ẩm ước, được khí ấm tự nhiên mà sinh ra. Hóa sinh thì biến hóa mà sinh, như nhộng hóa bướm… Chúng sinh trong sáu nẻo, thì chúng sinh trên trời và chúng sinh địa ngục là hóa sinh. Chúng sinh loài người và súc sinh là thai sinh. Loài A Tu La thì thai noãn thấp hóa bốn thứ sinh. Loài ngạ quỷ thì thai sinh hoặc hóa sinh. Ðộng vật cấp dưới thì noãn thấp hóa ba thứ sinh, động vật cấp cao thì thai sinh.

Vì chúng sinh có ái dục, cho nên trôi nổi ở trong biển sinh tử, chẳng dễ gì thoát khỏi biển khổ. Ở đây có năm thứ nguyên nhân:

1. Nước sâu: Biển ái dục quá sâu, người mà rớt vào, thì bất cứ như thế nào, cuối cùng vẫn lưu chuyển theo sóng.

2. Sóng nhanh: Trong biển ái dục có sóng rất lớn, do đó, mà dễ mê mất phương hướng, chẳng ra khỏi biển khổ được. Người nam nữ thế gian vô minh quá nặng, đàm tình nói ái, luyến ái chẳng thành công thì bèn quyết định tự tử. Ðây là bị biển ái dục nuốt chết. Sau đó đi thọ khổ sinh tử trong luân hồi, hoặc vĩnh viễn làm cô hồn dã quỷ; phàm là người tự tử, thì vĩnh viễn chẳng đi đầu thai.

3. Mê tối: Tức là vô minh. Bị nước ái dục ngập chìm mà hồ đồ. Trí huệ quang minh chẳng hiện tiền, mê đồ đen tối hiện ra, càng chẳng biết phương hướng, không thể đến được bờ bên kia, suốt ngày lưu chuyển ở trong biển sinh tử, chẳng được giải thoát.

4. Trùng chấp: Giống như con tằm, làm tơ, tự trói mình. Ở trong biển ái dục không thoát ra khỏi được. Tại sao ? Vì ngư trùng chấp trước, bị lưới tình vây khốn. Như thế nên lưu chuyển ở trong biển ái dục, theo sóng lên xuống, lúc lên trời, lúc ở nhân gian, lưu chuyển không ngừng.

5. Sầu lo: Bị khốn ở trong biển ái dục chẳng thoát ra được, thì sinh lo âu, khổ thọ bức bách. Do đó, mà mất đi trí huệ, mất đi sức lực. Bất cứ loài chúng sinh nào vẫn bị khốn, chẳng cách gì ra được.

Vì Phật siêng tu đủ thứ khổ hạnh, dũng mãnh tinh tấn, cho nên đoạn sạch hết trần lao biển ái dục, mà biến thành trí huệ quang minh. Chúng sinh muốn có trí huệ, thì thệ nguyện học tập theo Phật, đoạn sạch tất cả tâm ái dục, đây mới là hành vi tốt đẹp.

Thế gian phóng dật chấp năm dục
Chẳng thật phân biệt thọ các khổ
Phụng hành Phật giáo thường nhiếp tâm
Thệ độ chúng sinh là hạnh Phật.

Tất cả chúng sinh là hữu tình thế gian, sơn hà đại điạ là khí thế gian, tất cả Thánh nhân là chánh giác thế gian. Hiện tại nói thế gian là chỉ hữu tình thế gian mà nói, vì hữu tình chúng sinh phóng dật, chẳng giữ quy cụ mà chấp trước năm dục. Năm dục là gì ? Tức là tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ.

1. Người chấp trước tài, tham mà chẳng biết chán. Vàng bạc chất đầy như núi, cũng chẳng biết đủ, kết quả tay không mà đến, tay không mà đi, chỉ có nghiệp đã tạo ra, theo thân mà đi, theo nghiệp mà sinh.

2. Người chấp trước sắc: Mê sắc đẹp, tham luyến sắc đẹp, cho rằng sắc đẹp là vật quý giá nhất trên đời. Kết quả một cũng chẳng có, hoặc thân bại danh liệt, cuối cùng chẳng còn gì hết. Sắc nầy là chỉ nam nữ mà nói.

3. Người chấp trước danh: Vì muốn dương danh trong thiên hạ, bèn dùng đủ thứ phương pháp để đề cao danh dự, hoặc là làm những việc có danh, khiến cho mọi người đều biết, trở thành nhân vật danh cao tột đỉnh, hoặc là làm chánh trị gia, nhà giáo dục, nhà đại từ thiện, nhưng cuối cùng khó tránh cái chết.

4. Người chấp trước ăn: Cho rằng sơn trân hải vị là thức ăn bổ dưỡng nhất, ăn để cho cường thân sống lâu, nào ai biết được sinh ra đủ thứ bệnh, nào là mỡ quá nhiều, tạo thành hiện tượng não đầy ruột phì, chẳng phải bệnh máu cao, thì là bệnh tiểu đường, kết quả ngược lại bị chết sớm, trước hết đi gặp Diêm Vương.

5. Người chấp trước ngủ: Có thể buông xả đặng tài, sắc, danh, ăn, bốn thứ, chẳng tham cầu, nhưng ngủ buông xả chẳng đặng, vẫn tham luyến, ban ngày ngủ, ban đêm ngủ, ngủ suốt ngày, làm cho hồ đồ, chẳng đi làm việc có ích cho xã hội. Mê hồ một đời như thế, cũng chẳng biết ra khỏi biển khổ. Trong ngũ uẩn, tham ngủ thì thành đệ tam cái, che tấp tâm tánh, chẳng sinh ra được pháp lành. Có câu rằng:

« Tài sắc danh ăn ngủ
Điạ ngục năm gian phòng ».

Song, chúng sinh đều chấp vào năm dục, chẳng minh bạch năm dục, chẳng có thật thể mà là tướng hư vọng. Vì nhận thức chẳng rõ mà chấp trước, cho nên tạo ra rất nhiều nghiệp chướng, tương lai chắc chắn thọ quả khổ. Do đó: « Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo », ba pháp nầy có quan hệ với nhau.

Nếu phụng hành theo Phật giáo, thường thường nhiếp tâm, quản lý tâm của mình, đừng khởi vọng tưởng, chẳng tham năm dục. Hãy nhớ vô thường, đừng có phóng dật, phải phát thệ nguyện, hóa độ chúng sinh, đây là hành vi phải có.

Chúng sinh chấp ngã vào sinh tử
Cầu bờ mé kia không thể được
Khắp thờ Như Lai được diệu pháp
Vì họ diễn nói là hạnh Phật.

Bất cứ loại chúng sinh nào đều có chấp trước ngã, có chấp trước ngã sở. Ðây là ta, kia là thuộc về cuả ta. Cứu kính cái ta ở đâu ? Từ trên đầu xuống dưới bàn chân, cũng tìm chẳng được cái ta tồn tại. Tức nhiên vô ngã, tại sao còn chấp trước cái ta ? Bất quá cái ta là người đại biểu tổng gọi chung, đầu, thân, tứ chi, là tên gọi riêng. Cái ta là giả danh hư vọng, nó làm chủ chẳng được, khống chế các bộ phận thân thể hành động chẳng được. Khi già thì không khống chế được mắt đừng mờ, tai đừng điết, răng đừng rụng, tóc đừng bạc. Khi bệnh thì không khống chế được chỗ bệnh đừng đau, thực dục đừng suy, hành động đừng trở ngại, nói năng đừng ngại. Khi chết thì càng chẳng làm chủ được. Vua Diêm Vương kêu bạn đi canh ba, thì không thể nửa đêm đến. Do đó, đủ thấy căn bản thân thể chẳng phải thuộc về ta. Nếu thật thuộc về ta thì mới nói, mới làm chủ được. Nếu chẳng làm chủ được thì chẳng phải là ta, cũng chẳng phải là của ta. Thân thể của mình còn chẳng làm chủ được, hà huống là vật ngoài thân càng chẳng làm chủ đặng. Cho nên tất cả đừng chấp trước.

Tục ngữ có câu:

« Người sống bảy mươi xưa nay hiếm
Trước trừ niên thiếu sau trừ già
Thời gian còn lại chẳng là bao
Lại còn một nửa ngủ nghỉ.

Tuổi thọ con người tiêu chuẩn là bảy mươi tuổi. Từ nhỏ đến hai mươi tuổi, chẳng có thành tựu gì cả, đây phải trừ đi. Ðến lúc hai mươi năm tuổi già, cũng chẳng có tác dụng gì cho lắm, đây phải trừ đi. Như vậy chỉ còn lại ba mươi năm, lại có một nửa thời gian ngủ nghỉ. Tính qua đếm lại chỉ còn thời gian mười lăm năm, trong thời kỳ nầy có sự phát triển gì ? Có thể làm được những gì ? Cho nên nói : « Hư vọng mà sinh, hư vọng mà chết ». Trôi qua một đời, tay không ra đi. Làm việc lành thì sinh về cõi trời, làm việc ác thì xuống địa ngục, làm thiện vừa thì sinh làm người, làm ác vừa thì đọa làm súc sinh.

Có người hỏi : « Hoà Thượng ! Thầy nói như thế, vậy thì con người có thể gì cũng chẳng làm, để cho phát triển tự nhiên ». Suy nghĩ như thế cũng chẳng đúng. Kỳ thật, còn phải đi làm việc. Làm việc gì ? Phải làm việc thiện, đừng làm việc ác. Do đó, có câu :

« Lựa việc lành mà theo
Việc ác thì sửa đổi ».

Nếu chấp trước cái ta, hoặc chấp trước của ta, thì vào sinh tử. Muốn tìm bờ mé sinh tử thì chẳng thể được, bất khả đắc. Nên đem hết sức lực của bạn để phụng sự cho Phật, thì mới đắc được diệu pháp, phải luôn nhiếp tâm mình, thệ nguyện thế Phật tuyên dương Phật pháp, tuyên dương Phật giáo, tục Phật huệ mạng, đây là hành vi chúng ta phải làm.

Chúng sinh không tựa bệnh ràng buộc
Thường chìm đường ác tăng ba độc
Lửa lớn dữ dội luôn thiêu đốt
Tịnh tâm độ họ là hạnh Phật.

Chúng sinh chẳng có chỗ nương tựa, thì sinh vô minh phiền não đủ thứ bệnh, luôn luôn bị chúng ràng buộc, chẳng được giải thoát. Vì vô minh phiền não mà tạo nghiệp, tạo nghiệp phải thọ báo. Tạo nghiệp thiện thọ báo thiện, tạo nghiệp ác thọ báo ác, chìm đắm ở trong bốn đường ác. Nếu sinh khởi tham sân si ba độc, có ba độc ba nghiệp, thì đoạ vào A tu la, súc sinh, ngạ qủy, điạ ngục, bốn đường ác, để chịu báo khổ. Nếu ở trong đường ác, còn chẳng biết sám hối nghiệp chướng, ngược lại tăng thêm tham sân si, như thế thì trí huệ sẽ bị mê hoặc che lấp, giống như mặt trời bị mây che nên biến thành đen tối. Lửa vô minh thiêu đốt rất mãnh liệt, rất dữ dội. Lửa cao ba ngàn trượng, thiêu đến trời Sơ Thiền. Thứ lửa vô minh nầy càng thiêu càng nóng, thiêu hủy tất cả rừng công đức. Dùng tâm thanh tịnh, trí huệ quang minh để độ thoát chúng sinh trong bốn đường ác, đó là hành vi tốt phải làm.

Chúng sinh mê hoặc mất chánh đạo
Thường hành đường tà vào nhà tối
Vì họ đốt đèn lớn chánh pháp
Luôn luôn chiếu sáng là hạnh Phật.

Vì chúng sinh vô minh mà mê hoặc, dạy họ đi con đường chánh, mà họ lại đi con đường tà. Do đó, có câu :

« Thiên đường có lối chẳng ai đi
Địa ngục không cửa tự tìm đến ».

Hoặc là :

« Thích ăn, thích uống, thích nhảy đầm,
Ham đánh bạc, ham gái đẹp, ham hút độc ».

Ðây là đường tà. Hành vi như thế không thầy dạy mà biết hết, chẳng cần học. Nếu dạy họ tu hành như thế nào ? Trì giới như thế nào ? Niệm Phật như thế nào ? Ngồi thiền như thế nào ? Thì họ không muốn y theo pháp tu hành, hoặc là miễn cưỡng, hoặc là phô diễn. Tóm lại, chẳng nhận chân làm thì làm chẳng triệt để, ngược lại luôn luôn đi làm đường tà, làm việc chẳng chánh đáng. Loại chúng sinh nầy sẽ đi vào nhà tối (ngu si), tức cũng là điạ ngục. Vì lọai chúng sinh nầy điên đảo, giống như tằm làm tơ, tự trói thân mình, chẳng thấy quang minh. Vì loại chúng sinh nầy mà đốt lên ngọn đèn chánh pháp, chiếu sáng tâm chúng sinh, khiến cho họ lìa khổ được vui, liễu sinh thoát tử. Ðèn pháp đăng nầy, vĩnh viễn chiếu sáng nhà tối của chúng sinh. Ðây là hành vi của người hành Bồ Tát đạo phải nên làm.

Chúng sinh chìm nổi các biển cõi
Sầu khổ vô bờ chẳng biết về
Vì họ kiến tạo thuyền pháp lớn
Đều khiến độ được là hạnh Phật.

Chúng ta giống như hạt bụi ở trong hư không, hốt lên hốt xuống, theo nghiệp trôi nổi mà thọ qủa báo. Cho nên chúng sinh chìm nổi trong tam giới hai mươi lăm cõi, chẳng có lúc nào ngừng nghỉ. Trong các biển cõi có rất nhiều việc chẳng như ý, sầu lo khổ não chẳng có bờ bến. Ba cõi. Chúng ta chúng sinh chẳng có tri thức chân chánh, cho nên luôn luôn điên đảo, làm ra những việc hoang đường chẳng hợp đạo lý. Do đó, mà chẳng thấy bổn lai chân diện mục, chẳng minh tâm kiến tánh, không thể trở về nguồn cội. Chúng sinh và chư Phật vốn như nhau. Do đó, có câu :

« Tâm, Phật, chúng sinh
Cả ba chẳng khác nhau ».

Vì chúng sinh mê hoặc, nên chưa thành Phật, vì chư Phật giác ngộ mà đã thành Phật. Chúng sinh mê hoặc gì ? Mê là chẳng nhận thức chân lý rõ ràng, hoặc là chẳng phân biệt rõ ràng chánh đạo và tà đạo. Cho nên điên đảo trắng đen, mê chân tìm vọng. Chư Phật giác ngộ gì ? Giác ngộ các pháp thật tướng, thấy được bổn thể bổn tánh, bổn lai diện mục. Chúng sinh ngu si mà mê hoặc chân lý, chạy theo hư vọng, có lúc phát cuồng, mất đi lý trí. Như thế sẽ dễ đi vào đường tà nguy hiểm, gặp việc nguy hiểm thật đáng thương xót.
Tại sao Phật phải nói pháp ? Vì thương xót chúng sinh. Chúng sinh giống như ruồi, bay lọan xạ khắp nơi, tìm chẳng được lối ra, chẳng biết cách ra khỏi ba cõi. Cho nên Phật bèn tạo lập cầu pháp lớn, khiến cho chúng sinh từ bờ sinh tử bên nầy, đi qua cầu pháp lớn, đạt đến bờ Niết Bàn bên kia. Ðây là hành vi người tu đạo nên làm.

Thấy chúng sinh tại đường hiểm
Khổ già bệnh chết luôn bức bách
Tu các phương tiện chẳng hạn lượng
Thệ sẽ độ hết là hạnh Phật.

Tại sao Phật phải tu đạo ? Vì thấy tất cả chúng sinh đang ở trong đường hiểm, gặp rắn độc thú dữ xâm hại. Chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi, có sinh già bệnh chết bốn khổ lớn. Sự khổ nầy có tánh bức bách, chẳng cách chi thoát khỏi được. Cho nên Phật bèn tu tất cả pháp môn phương tiện, phát nguyện cứu độ tất cả chúng sinh thoát khỏi đường hiểm ba cõi, đắc được đại an lạc. Ðây là hành vi người tu đạo phải làm.

Nghe pháp tin hiểu chẳng nghi hoặc
Rõ tánh không tịch chẳng sợ hãi
Theo hình sáu nẻo khắp mười phương
Khắp dạy quần mê là hạnh Phật.

Người có căn lành lớn thì nghe pháp rồi, tuyệt đối tin chân lý của pháp, chẳng sinh nghi hoặc. Họ thấu rõ tự tánh vốn không tịch mà chẳng sinh sợ hãi. Phật tùy các loài chúng sinh mà ở trong sáu nẻo, hóa hiện mười phương chúng sinh khắp hết thảy mọi nơi, giáo hóa chúng sinh mê hoặc cang cường, lìa khỏi ba cõi đen tối, đắc được tịnh độ quang minh. Ðây là hành vi người tu đạo phải làm.

Bấy giờ, quang minh của Phật vượt qua mười ức thế giới, chiếu khắp phương đông trăm ức thế giới, ngàn ức thế giới, trăm ngàn ức thế giới, Na Do Tha ức thế giới, trăm Na Do Tha thế giới, ngàn Na Do Tha thế giới, trăm ngàn Na Do Tha thế giới. Như vậy, vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lường, bất khả thuyết. Tận pháp giới, hư không giới, hết thảy thế giới. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế. Trong mỗi thế giới đó, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Đề, cho đến trăm ức trời Sắc Cứu Kính, hết thảy trong đó, đều hiện rõ ràng. Trong mỗi cõi Diêm Phù Đề đó, đều thấy Như Lai ngồi trên tòa sư tử liên hoa tạng. Có các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, cùng vây quanh Phật. Do nhờ thần lực của Phật, nên mỗi phương trong mười phương, đều có một vị đại Bồ Tát, đều cùng với các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, tụ lại cùng nhau đi đến chốn Phật. Các vị đại Bồ Tát đó, tức là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v… đến từ thế giới Kim Sắc .v.v… đức Phật ở thế giới đó, là Bất Động Trí Như Lai .v.v…

Lúc đó, quang minh dưới bàn chân của Phật Thích Ca Mâu Ni phóng ra, vượt qua mười ức thế giới, chiếu khắp phương đông trăm ức thế giới, ngàn ức thế giới, trăm ngàn ức thế giới, Na Do Tha ức thế giới, trăm Na Do Tha ức thế giới, ngàn Na Do Tha ức thế giới, trăm ngàn Na Do Tha ức thế giới. Như vậy vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, không thể tính, không thể gọi, không thể nghĩ, không thể lường, không thể nói, tận pháp giới hư không giới, hết thảy thế giới. Ở phương nam, phương tây, phương bắc và bốn hướng, trên dưới, sáu phương cũng đều như thế. Mỗi thế giới trong mười phương, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Ðề, cho đến trăm ức trời Sắc Cứu Kính. Ở trong hết thảy thế giới, đều hiện ra trong quang minh dưới chân của Phật. Trong mỗi cõi Diêm Phù Ðề, đều thấy Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, đang ngồi trên tòa sư tử Liên Hoa Tạng, diễn nói đại pháp diệu nghĩa của Kinh Hoa Nghiêm. Có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật đang vây quanh Phật. Nhờ đại oai thần lực của Phật, nên mỗi phương trong mười phương thế giới, đều có một vị đại Bồ Tát, đều cùng với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, tụ lại cùng nhau đi đến chỗ Ðức Phật, gần gũi Phật. Mười vị đại Bồ Tát đó, tức là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v… Các ngài đến từ thế giới Kim Sắc .v.v… Ðức Phật ở thế giới đó là Bất Ðộng Trí Như Lai v.v…

Bấy giờ, tất cả mọi nơi, đều có Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở chỗ đức Phật, đồng thời phát ra tiếng, nói bài kệ rằng.

Lúc đó, vô lượng Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi tại khắp mọi nơi, ở trong mỗi đạo tràng của Phật, cùng một lúc phát ra tiếng nói mười bài kệ dưới đây.

Một niệm quán khắp vô lượng kiếp
Không đến không đi cũng không ở
Như vậy biết rõ việc ba đời
Vượt các phương tiện thành Thập Lực.

Chúng ta chúng sinh quán sát một việc gì, cũng rất khổ tâm suy nghĩ, phí rất nhiều thời gian để tính toán, dụng rất nhiều não lực để nghĩ thử. Tuy nhiên bây giờ có máy vi tính, cũng có rất nhiều phiền toái, song, trí huệ của Phật siêu hơn máy vi tính ngàn vạn lần ! Chỉ trong một niệm, Phật có thể quán sát hết thảy sự việc trong mười phương ba đời vô lượng kiếp. Một niệm đó, cũng chẳng đến, cũng chẳng đi, cũng chẳng ở. Một niệm đó, chiếu thời gian và không gian, thấu rõ sự việc ba đời. Phật vượt qua tất cả pháp môn phương tiện, thành tựu mười lực của Phật. Phật trong vô lượng kiếp siêng tu giới định huệ, tức diệt tham sân si, mới chứng được ba thân, bốn trí, năm nhãn, sáu thông, mười lực .v.v…

Ba thân tức là :

1. Pháp thân: Tích tụ lý pháp làm thân, chân như diệu lý, như là hư không, cho nên đầy khắp tất cả mọi nơi, do đó, mà « vô tại vô bất tại ».
2. Báo thân: Là tích tụ trí huệ làm thân. Các hoặc đã thanh tịnh mà thành tựu phước đức trí huệ thân.
3. Ứng thân: Là tích tụ cơ duyên làm thân. Có cơ duyên để độ, thì thị hiện hóa thân để độ. Như trăng hiện trong nước, hang không truyền thanh.

Bốn trí là :

1. Thành sở tác trí: Thành công tất cả việc làm.
2. Diệu quán sát trí : Dùng diệu trí để quán sát tất cả cảnh giới, chẳng khởi tâm phân biệt.
3. Bình đẳng tánh trí : Chẳng có tâm ta người, khắp cứu giúp tất cả hữu tình chúng sinh.
4. Ðại viên cảnh trí : Hay hiện phi không, phi hữu, tất cả tướng, lại hiện hữu vi, vô vi, tất cả các pháp.

Năm nhãn tức là :

1. Thiên nhãn : Trên quán trời Tam Thập Tam, dưới thấy địa ngục vô gián.
2. Nhục nhãn : Nhục nhãn nầy chẳng phải là mắt của phàm phu bình thường, mà là một mắt khác. Có thể thấy người, thấy qủy, thấy thần, thấy Phật Bố Tát.
3. Huệ nhãn : Tức là mắt trí huệ, thấu rõ được lý chân như thật tướng.
4. Pháp nhãn : Quán sát được tận hư không biến pháp giới, trong hết thảy mỗi hạt bụi, đều có tam tạng mười hai bộ kinh.
5. Phật nhãn: Chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, chẳng gì mà không biết, chẳng gì mà không thấy.

Sáu thông là:

1. Thiên nhãn thông: Thấy được người trên trời và tất cả cảnh giới.
2. Thiên nhĩ thông: Nghe được tiếng nói của người trên trời nói chuyện và tiếng nhạc trời.
3. Tha tâm thông: Biết được vọng tưởng khởi lên trong tâm của người khác.
4. Túc mạng thông: Biết được nhân duyên đời trước của người khác.
5. Thần túc thông: Trong định xuất du, thuận tâm sở dục, chẳng bị hạn chế.
6. Lậu tận thông: Tất cả các lậu đoạn sạch chẳng còn, đắc được cứu kính, thẳng đến Niết Bàn.

Mười lực tức là mười sức trí huệ :

1. Trí lực biết xứ phi xứ : Biết đạo lý và phi đạo lý của tất cả mọi vật.
2. Trí lực biết nghiệp chướng ba đời : Biết nhân qủa báo ứng ba đời của tất cả chúng sinh.
3. Trí lực biết thiền giải thoát tam muội : Biết tất cả thiền định và tám giải thoát với tam muội lực.
4.Trí lực biết các căn thắng liệt : Biết tất cả các căn thắng hoặc liệt.
5. Trí lực biết đủ thứ giải : Biết được đủ thứ tri giải của tất cả chúng sinh.
6. Trí lực biết đủ thứ giới : Biết đủ thứ cảnh giới khác nhau của tất cả chúng sinh thế gian.
7. Trí lực biết tất cả chí sở đạo : Biết tu năm giới mười pháp lành, thì đến nhân gian, trên trời; tu pháp Bốn đế Bát chánh đạo thì đến Niết Bàn.
8. Trí lực biết thiên nhãn vô ngại : Biết sinh tử của chúng sinh và nghiệp thiện ác, dùng thiên nhãn để quán sát mà chẳng chướng ngại.
9. Trí lực biết túc mạng vô lậu : Biết túc mạn của chúng sinh và biết Niết Bàn vô lậu.
10. Trí lực biết vĩnh đoạn tập khí : Biết tất cả vọng, hoặc dư tập, vĩnh viễn đoạn trừ không sinh.

Còn có mười lực. Tức là :

1. Lực rộng lớn.
2. Lực tối thượng.
3. Lực vô lượng.
4. Lực đại uy đức.
5. Lực nan hoạch.
6. Lực bất thoái.
7. Lực kiên cố.
8. Lực bất khả hoại.
9. Lực bất tư nghì.
10. Lực vô năng động.

Lại có mười lực :

1. Lực thân mạng không thể hoại.
2. Lực lỗ lông dung trì.
3. Lực công giữ lớn nhỏ.
4. Lực định dụng tự taị.
5. Lực thường biến diễn pháp.
6. Lực đức tướng hàng ma.
7. Lực viên âm biến triệt.
8. Lực tâm vô chướng ngại.
9. Lực pháp thân vi mật.
10. Lực đầy đủ hạnh trí.

Mười phương vô tỉ Thiện Danh Xưng
Vĩnh lìa các nạn thường hoan hỉ
Khắp đến tất cả các cõi nước
Rộng vì tuyên dương pháp như vậy.

Danh xưng của hết thảy chúng sinh trong mười phương thế giới, đều chẳng sánh bằng danh xưng của Phật. Thiện danh xưng là vĩnh viễn xa lìa tất cả tai nạn bất như ý, thường sinh hoan hỉ cát tường. Khắp đến mười phương tất cả cõi nước chư Phật, vì chư Phật tuyên dương diệu pháp, giáo hóa chúng sinh, khiến cho họ pháp bồ đề tâm, tu vô thượng đạo, sớm thành giác quả.

Vì lợi chúng sinh cúng dường Phật
Như ý đó được quả tương tự
Nơi tất cả pháp đều thuận biết
Khắp trong mười phương hiện thần lực.

Vì lợi ích chúng sinh lìa khổ được vui, do đó, mà cúng dường mười phương ba đời tất cả chư Phật. Cúng dường chư Phật tựa như đắc được qủa vị Phật. Trong tám vạn bốn nghìn pháp môn, môn nào cũng đều thấu suốt thì sẽ đắc được trí huệ vô tỉ. Ðối với tất cả đạo lý đều nghinh nhận mà giải, chẳng có khó khăn. Tất cả trí huệ nầy hay biết rõ các pháp thật tướng, khắp đến các cõi nước chư Phật trong mười phương, hiện ra đại uy đức thần thông lực. Ai được như thế ? Phật Thích Ca Mâu Ni mới được như thế. Vì Phật Thích Ca Mâu Ni, thuở xưa tại nhân địa thì tu hành đủ thứ pháp môn, cho nên mới đắc được thần thông diệu dụng như thế.

Ban sơ cúng Phật ý nhu nhẫn
Vào sâu thiền định quán pháp tánh
Khắp khuyên chúng sinh phát đạo tâm
Nhờ đó sớm thành quả vô thượng.      

Từ khi ban đầu phát bồ đề tâm, cúng dường Tam Bảo, tâm ý đó rất nhu hòa và nhẫn nại. Chẳng cang cường mà nhu hoà, chẳng bạo động mà nhẫn nại, như vậy mới có thể vào sâu thiền định, đắc được chánh định chánh thọ chân chánh. Thiền định nông cạn thì chẳng kiên cố, có lúc sẽ sinh tâm thối chuyển. Thiền định thâm sâu thì luôn luôn ở trong định, thường thường quán sát các pháp thật tướng. Phật giáo là tông giáo chẳng ích kỷ, tự mình phát bồ đề tâm, cũng khắp khuyến người khác phát bồ đề tâm. Tự mình giác ngộ rồi cũng dạy người khác giác ngộ. Tự mình chứng được diệu quả vô thượng cũng khiến cho người khác chứng được diệu quả vô thượng.

Nhu hòa nhẫn nại là mỹ đức của người tu đạo, nếu nhận chân tu hành, thì nhất định sẽ thành tựu đạo nghiệp. Nói một cách dễ hiểu tức là chẳng có nóng giận. Do đó, nhu hay khắc cang, nhu hay thắng cường. Nên nhớ ! Ðừng để tâm báo thù, tức là nhẫn. Gặp việc chẳng như ý thì phải nhẫn, gặp người phỉ báng thì phải nhẫn, gặp chuyện thị phi thì phải nhẫn. Người xưa có nói :

« Nhẫn một chút sóng yên gió lặng
Lùi một bước biển đẹp trời xanh ».

Tôi thường nói :

« Nhẫn là báu vô giá
Người người xử không tốt
Nếu biết xử dụng nó
Mọi việc đều tốt đẹp ».

Nếu có công phu nhẫn nhục thì tu đạo nhất định sẽ thành công; nếu chẳng có công phu nhẫn nhục thì chẳng dễ gì thành công.

Người tu đạo phải có chánh hạnh và trợ hạnh. Chánh hạnh là tự mình thời khắc tu hành, trợ hạnh là trợ giúp người khác để tu hành, khiến cho họ pháp bồ đề tâm, pháp tâm vô thượng đạo. Nếu chẳng có tâm phân biệt để trợ hạnh, chẳng có tâm tuyển chọn để trợ hạnh. Không màng là thân sơ đều xem như nhau, không màng là gần xa, đều bình đẳng. Bạn tin tôi thì tôi cũng khuyên bạn phát đạo tâm, bạn chẳng tin tôi, thì tôi cũng khuyên bạn phát đạo tâm. Ðây là trợ duyên trực tiếp khuyên người phát đạo tâm tu hành, cũng là gián tiếp trợ giúp cho chính mình tu hành đạo nghiệp, tức cũng là lập công, lập đức, lập ngôn. Mình tốt cũng muốn cho họ tốt; mình đắc được thọ dụng cũng muốn người khác đắc được thọ dụng. Mình đắc được diệu quả cũng muốn người khác đắc được diệu qủa. Ðây là tinh thần từ bi hỷ xả của Phật Giáo.

Mười phương cầu pháp lòng không đổi
Vì tu công đức khiến đầy đủ
Có, không hai tướng đều diệt trừ
Người nầy thấy Phật đúng chân thật.

Người tu đạo phải tìm hỏi bạn cùng tu, thỉnh cầu minh sư để chỉ đạo, tức cũng là cầu thiện tri thức để giáo hóa. Phải đến mười phương thế giới, phàm là chỗ nào có bậc thiện tri thức, thì nhất định đi cầu pháp, khiến cho mình minh tâm kiến tánh. Thiện tri thức là gì ? Phàm là người siêng tu giới định huệ, tức là thiện tri thức. Ác tri thức là gì? Phàm là người có tham sân si, tức là ác tri thức.

Có là có tâm tự mãn, không là không tâm tự ti, tức cũng là ta, người (nhân, ngã) hai tướng. Không rơi về không, không rơi về có. Rơi về không là vô biên, rơi về có là hữu biên, chẳng có « không, có » hai bên tức là trung đạo. Trung đạo tức là chân không sinh diệu hữu. Diệu hữu sinh chân không, chân không diệu hựu không thể phân ra. Nói nó là chân không chăng ? Lại có diệu hữu, nói nó là diệu hữu chăng ? Lại có chân không. Do đó :

« Chân không chẳng ngại diệu hữu
Diệu hữu chẳng ngại chân không ».

Chúng ta tu đạo tức là tu chân không diệu hữu. Nếu chẳng có chân không, thì không thể thành Phật; nếu chẳng có diệu hữu, thì không thể tu hành. Tu cũng chẳng có, tu nó làm gì ? Vì có diệu hữu, cho nên mới tu hành. Bổn lai là chẳng có (chân không), một khi tu hành thì có (diệu hữu). Chân không chẳng không, mới có diệu hữu; diệu hữu chẳng hữu, mới gọi chân không. Quét sạch hai tướng có, không, thì « Bổn lai chẳng một vật, chỗ nào dính bụi bặm » ? Ðừng có đầu lại thêm đầu, đừng cỡi lừa đi tìm lừa. Ðừng giống như Diễn Nhã Ðạt Ða soi gương, thấy trong gương có đầu người, cho rằng mình chẳng có đầu, bèn phát cuồng loạn hỏi : « Ðầu của tôi đâu mất rồi » ? Chạy đến ngã tư gặp người bèn hỏi : « Ông có thấy đầu của tôi ở đâu không »? Ðây là hiện tượng ngu si phát điên. Vốn chẳng mất đầu mà nói là đầu chẳng có. Ðây tức là chẳng minh bạch đạo lý có, không, hai tướng. Nếu quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng, thì đó là « Bổn lai diện mục ». Ðây tức là thật sự thấy Phật, thấy được tự tánh thiên chân Phật.

Người thời xưa, chịu ngàn vạn khổ sở, chẳng sợ gian nan, một lòng cầu pháp, vì pháp quên mình, chỉ hướng về trước, tuyệt đối chẳng lùi về sau. Giống như ngài Huyền Trang Ðại Sư đi Ấn Ðộ cầu pháp, bị khốn ở giữa sa mạc, bèn phát nguyện rằng :

« Thà đi về Tây phương mà chết
Chứ không về Đông độ mà sống ».

Tâm cầu pháp như thế thật là vĩ đại ! Tâm chân thành như thế, thì dù gặp hoàn cảnh gian nan khốn khổ như thế nào, cũng tuyệt đối chẳng thay đổi chí nguyện cầu pháp. Song, đắc được pháp thì nhất định phải có công đức, mới viên mãn. Nếu có pháp mà không có đức thì sẽ gặp ma chướng. Ma chướng có thiên ma, điạ ma, nhân ma, tài ma, sắc ma, nội ma, ngoại ma .v.v… Vì muốn tu hành mới có ma đến thử bạn. Nếu chẳng tu hành thì chẳng có ma. Có người nói: « Tức nhiên là như thế thì tôi chẳng dám tu hành ». Bạn chẳng tu hành thì chẳng thành đạo, chẳng có công đức. Tu đạo đều là người quý trọng nhất ở thế gian, do đó:

« Có đạo người người tu
Có đức người người kính ».

Người có đạo đức thì được mọi người tôn kính và khâm phục. Cho nên phải tu đạo, phải tu đức, đạo đức đầy đủ thì gọi là Phật.

Tại sao chúng ta không thể thành Phật ? Vì đạo đức chưa viên mãn đầy đủ. Khi nào viên mãn đầy đủ, thì không thể tự mãn (kiêu ngạo). Tại sao ? Vì mãn thì tổn thất, khiêm mới thọ ích. Nếu như bạn cảm thấy lớn hơn bất cứ ai, thì chẳng có hy vọng thành Phật. Giống như ngoại đạo, họ nói Thiên Chúa là lớn nhất, chỉ có một Thiên Chúa, người khác không thể làm Thiên Chúa, chỉ có thể làm kẻ nô lệ cho Chúa. Không thể trái với ý của Chúa, không thể làm trái ngược việc của Chúa, vì Thiên Chúa là người chuyên chế, độc tài, cường quyền, không bình đẳng, có giai cấp, cho nên không cho bất cứ ai làm Thiên Chúa, chỉ để cho mình y làm. Tổng thống thế gian, ai ai cũng đều có phần, chỉ cần có tài năng, phục vụ cho dân chúng, tức là có tư cách được bầu làm tổng thống. Phật giáo cũng như thế, ai ai cũng có thể thành Phật. Chỉ cần tinh tấn tu hành, thì có thể thành Phật, Không chịu tu hành thì tuyệt đối chẳng thành Phật. Cho nên nói Phật giáo là bình đẳng, Phật giáo là vĩ đại. Không giống như Thiên Chúa, bất cứ tu hành như thế nào, cũng không thể làm Thiên Chúa, chỉ có thể làm nô lệ. Tư tưởng như thế tuyệt đối chẳng hợp với đạo lý. Ðây chẳng phải là phỉ báng mà là nghiên cứu chân lý. Chân lý mới là bình đẳng, mới là dân chủ. Dân chủ chẳng phải là sở hữu của tư nhân, mà là sở hữu của nhân dân. Chân lý là cộng hữu, chứ chẳng phải độc hữu.

Đến khắp mười phương các cõi nước
Rộng nói diệu pháp hưng nghĩa lợi
Trụ nơi thật tế chẳng giao động
Người nầy công đức đồng với Phật.

Người tu đạo phải phát tâm rộng lớn, giáo hóa khắp hết thảy chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh siêng học Phật đạo. Còn phải quên người vô ngã. Tuy nhiên giáo hóa chúng sinh, nhưng chẳng có chúng sinh mà tôi giáo hóa. Căn bản chẳng có ngã, công đức nhất cử nhất động, nhất ngôn nhất hạnh, đều phải hồi hướng cho pháp giới chúng sinh. Khắp đến mười phương cõi nước để giáo hóa chúng sinh, rộng nói diệu pháp. Diệu pháp là pháp đối cơ, nếu chẳng đối cơ thì diệu cũng chẳng diệu; nếu đối cơ thì không diệu cũng diệu. Hưng lên sự nghiệp có ý nghĩa, để lợi ích tất cả chúng sinh, do đó : « Phàm có sự lợi ích, không thể không hưng lên ». Ðó là tận tất cả pháp phương tiện để giáo hóa tất cả chúng sinh.

Mình có định lực, mới có thể trụ ở nơi thật tế (chân lý), mới được như như bất động, liễu liễu thường minh. Ðối cảnh vô tâm, mà chuyển được cảnh giới. Tóm lại, chẳng bị cảnh giới chuyển thì chẳng giao động. Nếu thật như thế thì có định lực, thường chẳng động, chẳng bị tất cả cảnh giới làm giao động, thì người đó công đức giống như Phật.

Như Lai chuyển bánh xe diệu pháp 
Tất cả đều là bồ đề phần
Nếu nghe rồi ngộ pháp tánh
Như vậy người đó thường thấy Phật.

Như Lai, chẳng từ đâu đến, cũng chẳng về đâu. Tức cũng là đến mà chẳng đến, đi mà chẳng đi, cho nên gọi là Như Lai. Pháp của Phật nói có ba Tạng mười hai bộ. Ba Tạng là Tạng Kinh, Tạng Luật, Tạng Luận. Tạng Kinh hiển thị định học, Tạng Luật hiển thị giới học, Tạng Luận hiển thị huệ học. Kinh Luật Luận ba Tạng tức là giới định huệ ba học vô lậu. Phật pháp tức là phương pháp siêng tu giới định huệ, tức diệt tham sân si. Mười hai bộ chẳng phải có mười hai bộ kinh, mà là kinh điển của Phật nói, nội dung phân làm mười hai bộ phận. Mười hai bộ phận là gì ? Trước hết nói bài kệ :

« Trường hàng trùng tụng cập cô khởi,
Ví dụ nhân duyên dữ tự thuyết
Bổn sự bổn sinh vị tằng hữu
Phương quảng luận nghị và thọ ký ».

1. Trường hàng: Là văn dài từng hàng, từng hàng, trong kinh, cho nên gọi là trường hàng.

2. Trùng tụng: Dùng kệ tụng lại văn trường hàng ở trước, khiến cho người tụng dễ hiểu nghĩa kinh, dễ nhớ.

3. Cô khởi: Là cô độc mà có kệ, kinh văn trước sau đều chẳng có quan hệ, mà là hốt nhiên trong kinh xuất hiện mấy câu kệ, giống như Kinh Pháp Cú.

4. Ví dụ: Dùng phương pháp ví dụ để nói rõ đạo lý của pháp. Dùng một vật gì để ví dụ một việc nào đó.

5. Nhân duyên: khi giảng một bộ kinh thì có nhân duyên gì để nói ? Như Kinh Lăng Nghiêm do nhân duyên Ngài A Nan bị nữ Ma Ðăng Già dùng chú Phạm Thiên mê hoặc, để dẫn dụ đi đến nhà của cô ta, muốn phá đồng thể của ngài A Nan. Phật ở trong định biết, sai ngài Bồ Tát Văn Thù trì Chú Lăng Nghiêm, đi trước đến cứu Ngài A Nan thoát nạn phụ nữ.

6. Tự thuyết : Có người thỉnh pháp, Phật mới nói, chẳng có người thỉnh, Phật chẳng nói pháp. Chỉ có Kinh A Di Ðà không thỉnh mà nói. Tại sao ? Vì chẳng ai biết được cảnh giới của cõi Cực Lạc, cho nên chẳng có ai thỉnh pháp. Phật vì thương xót chúng sinh, mà nói pháp môn dễ tu dễ chứng nầy.

7. Bổn sự : Hoặc là chuyện của Phật Thích Ca Mâu Ni, hoặc của các vị đại Bồ Tát, hoặc của các vị đại A La Hán, trong đời quá khứ, sự nghiệp tu hành hoằng pháp lợi sinh.

8. Bổn sinh : Tất cả sự tích hoặc là của Phật, hoặc là của Bồ Tát trong đời nầy.

9. Vị Tằng Hữu : Pháp chưa từng nói qua, chẳng có ai biết pháp nầy. Hoặc là sáu thứ chấn động, hoặc là thần thông mười tám biến, là pháp chưa từng nghe qua.

10. Phương Quảng : Tức là kinh văn phương chánh quảng đại, giống như Kinh Hoa Nghiêm. Bộ kinh nầy lớn nhỏ dung với nhau, một nhiều không ngại, là cảnh giới không thể nghĩ bàn.

11. Luận nghị : Nghiên cứu tất cả nghiã lý cuả Kinh điển để thảo luận, rút tỉa chân lý.

12. Thọ ký : Phật thọ ký cho Bồ Tát, hoặc thọ ký cho các vị A La Hán. Phật nói : « Ông ở đời sau, ở thế giới gì ? Trong kiếp nào mà thành Phật ? Phật hiệu là gì ? Thọ mạng bao lâu » ? Giống như Phật Thích Ca, thuở xưa khi tu hành Bồ Tát Ðạo, thì lần nọ gặp Phật Nhiên Ðăng, đi qua đường bùn lầy. Ngài dùng đao cắt tóc của mình trải đường cho Phật Nhiên Ðăng đi qua, để khỏi dơ chân Phật. Vị Phật đó bèn thụ ký cho Ngài : « Ông ở đời sau sẽ thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni Phật, trụ ở thế giới Ta Bà ».

Phật chuyển diệu pháp luân tức là nói đạo lý Tam Tạng mười hai bộ. Phàm là giảng kinh thuyết pháp đều là chuyển diệu pháp luân. Pháp luân là hình tròn, không thể dừng lại không động. Các vị xem ! nước sông lớn, hằng ngày đều chảy. Chúng ta chùa Kim Sơn, hằng ngày đều giảng kinh, tức là kiến lập cầu pháp lớn, kiến lập thuyền pháp lớn, chuyển diệu pháp luân.

Ở trong đạo tràng, trồng hạt giống bồ đề thì kết quả bồ đề. Ai giác ngộ đạo nầy thì người đó có phần. Nếu nghe qua rồi thì sẽ minh bạch thật tướng của tất cả các pháp, pháp tánh của tất cả các pháp. Thật tướng của các pháp là chân không. Song, trong chân không lại có diệu hữu. Ngộ được nghĩa chân thật nầy thì người đó thường thấy pháp thân của Phật.

Chẳng thấy thập lực không như huyễn
Tuy thấy chẳng thấy như mù thấy
Phân biệt chấp tướng chẳng thấy Phật
Rốt ráo lìa chấp mới thấy được.

Thấy được mười lực của Phật, song, đừng trụ ở trong mười lực. Phải thấy mà chẳng chấp trước, thì mới là thật thấy. Như chẳng thấy mười lực của Phật, không như huyễn, như hoá, như không hoa, đừng chấp trước. Nếu chẳng thấy mười lực như thế, thì trụ ở trong mười lực của Phật, cho rằng đây là thật có. Nghĩa là tuy thấy được mười lực cuả Phật, song, chẳng minh bạch mười lực là không, vốn là chẳng hình tướng, còn chưa thấu rõ thật sự, chẳng thấy tức là chẳng minh bạch. Chẳng minh bạch thì giống như người mù, nhìn chẳng thấy vật gì. Nếu chỉ thấy đen tối, chẳng thấy được ánh sáng thì giống như chẳng thấy được.

Tuy nhiên thấy được mười lực, nhưng chẳng minh bạch diệu dụng cuả mười lực. Tại sao nói như thế ? Vì nhìn thấy hoặc chẳng nhìn thấy, hoặc có mười lực cuả Phật, hoặc chẳng có mười lực cuả Phật. Ðây đều là dụng công phu trên hình tướng, dùng tâm phân biệt để thủ lấy tướng Phật. Ðây là chẳng thấy được tự tánh thiên chân Phật, chẳng thấy được pháp thân chân thật cuả Phật. Nếu lìa khỏi tất cả sự chấp trước thì sẽ thật thấy được pháp thân của Phật.

Chúng sinh theo nghiệp đều khác nhau
Mười phương trong ngoài khó thấy hết
Thân Phật vô ngại khắp mười phương
Không thể thấy hết cũng như vậy. 

Trí huệ quang minh của Phật tận cùng hư không khắp pháp giới. Nghiệp chướng cuả chúng sinh đen tối, cũng tận cùng hư không khắp pháp giới. Nghiệp chướng chẳng có thật thể, chẳng có hình tướng. Nếu có hình tướng thì nghiệp chướng của một chúng sinh sẽ đầy hư không.

Nghiệp lực cuả chúng sinh có đủ thứ khác nhau. Có nghiệp thiện, có nghiệp ác. Nghiệp thiện thì kết quả thiện, nghiệp ác thì kết quả ác, đây là định luật nhân quả, tơ hào chẳng sai.

Giảng đến dây, nghĩ đến một câu chuyện buồn cười. Phong tục Trung Quốc đến mùa Xuân âm lịch, thì nhà nào cũng treo “Xuân liễn”, viết chữ cát tường, biểu thị Xuân đến, vạn sự như ý. Trong chùa cũng treo “Xuân liễn”, năm đó tôi mười sáu tuổi, thuận tay biên câu: “Trí huệ như hải” bốn chữ, treo trên tường.

Sư huynh của tôi thấy rồi đọc tới đọc lui “Trí huệ như hải, trí huệ như hải” đọc chẳng ngừng.

– Phía sau anh ta tôi nói: “Nghiệp lực của anh như hải” !

– Anh ta vừa nghe, thì lửa vô minh nổi dậy cao ba trượng, nổi giận nói: “Ông khinh người quá đáng ! Năm mới sắpđến mà mắng tôi, nghiệp lực như hải” !

– Tôi nói : “Xin sư huynh đừng có nóng giận, tôi nói sư huynh nghiệp thiện như hải, sư huynh thấy sao” ?

– Anh ta nghe bèn cười lên.

– Tôi nói : “Sư huynh một chút định lực cũng chẳng có, còn tu đạo gì ? phải quên nghiệp thiện đi, nghiệp ác cũng quên luôn, như thế mới có thể tu đạo”.

Thấy anh ta đờ ra, câm mồm, chẳng nói được câu nào. Về sau đi khắp nơi, đều nói : “Thầy đó thật có trí huệ, một chữ có thể khiến cho người nổi giận, một chữ cũng có thể khiến cho người sinh hoan hỉ”.

Tôi hy vọng các vị học Phật pháp, đừng bị cảnh giới lay chuyển mà phải chuyển được cảnh giới, đó mới là thật có định lực. Nghiệp của chúng sinh, mười phương trong ngoài không thể hoàn toàn đều thấy được. Pháp thân cuả Phật cũng vô ngại, cũng đầy khắp mười phương, cũng giống như nghiệp của chúng sinh, không thể hoàn tòan thấy được, là cùng một đạo lý.

Ví như trong không vô lượng cõi
Không đến không đi khắp mười phương
Sinh thành diệt hoại chẳng chỗ nương
Phật khắp hư không cũng như thế.

Ví như ở trong hư không, có vô lượng vô biên các cõi nước, tuy nhiên chẳng đến, cũng chẳng đi, nhưng khắp cùng mười phương. Sinh, thành, diệt, hoại, bốn giai đoạn, chẳng có chỗ nương tưạ. Pháp thân cuả Phật là đầy khắp hư không, cũng như thế.