Xuân Trong Cửa Thiền
(Trọn bộ 4 tập)
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

 

Một Mùa Xuân Hạnh Phúc

Hôm nay là ngày Tết Nguyên Đán, cũng là ngày vía đức Phật Di-lặc. Hàng Phật tử xuất gia và tại gia không quên được ngày quan trọng này. Đối với thế gian, ngày lễ Nguyên Đán là ngày dân chúng mừng năm mới. Đối với Phật pháp, ngày vía đức Phật Di-lặc là ngày rất hoan hỉ của giới xuất gia. Tất cả người tu đều có một nguyện vọng là giác ngộ viên mãn.

Ngày vía đức Phật Di-lặc đúng vào ngày mồng một Tết, ngày đầu của một năm mới, đó là thời gian hi vọng của tất cả chúng ta. Hi vọng điều gì? Hi vọng chúng ta đạt đạo, công phu tu hành đạt kết quả viên mãn. Nhớ đến ngày vía đức Phật Di-lặc, tức là nhớ đến những gì hứa hẹn ở ngày mai của chúng ta. Hứa hẹn không phải là ước nguyện suông, cầu mong hão huyền, mà chúng ta phải làm thế nào để được thọ ký như đức Phật Di-lặc. Cho nên, tới ngày đầu Xuân, hàng Phật tử thường chúc mừng: Chúc quí Thầy quí Cô hưởng một mùa Xuân Di-lặcXuân bất diệt, Xuân miên viễn. Lời chúc mừng đó có ý nghĩa gì? Chúng tôi sẽ lần lượt giải thích từng phần những lời chúc mừng ấy.

Trước hết là chúc một mùa Xuân Di-lặc. Hầu hết Tăng Ni cũng như Phật tử đều thấy tượng ngài Di-lặc với hình ảnh quen thuộc nhất là miệng luôn cười, gương mặt luôn vui vẻ. Như vậy chúc một mùa Xuân Di-lặc là chúc một mùa Xuân hoan hỉ, một mùa Xuân hạnh phúc. Hạnh phúc là gì? Là an vui. Mỗi gia đình hay mỗi người, trọn ngày, trọn tháng, trọn năm đều được an vui, đó gọi là hạnh phúc theo nghĩa gần, dễ thấy. Nhưng làm sao để được an vui? An và vui thế nào?

An là tâm không lo không buồn không sợ hãi. Nếu muốn được an, thì niệm vui buồn sợ hãi phải dẹp qua một bên, không lo buồn sợ hãi thì tự nhiên tâm an. Làm sao được vui? Sở dĩ chúng ta không vui là tại giận hờn bực tức. Khi vui thì không giận, khi giận thì không vui. Cho nên muốn được an vui chỉ có cách là không lo buồn, không giận hờn, tự nhiên tâm an vui. Đó là chúng ta hưởng được một mùa Xuân Di-lặc. Nếu không thì, dù là ngày mồng một Tết cũng không thấy Xuân chút nào. Đã lỡ lo sợ buồn giận thì làm sao cho hết? Nói suông không thể hết, nói suông tức là không biết tu.

Trong nhà Phật có dạy nhiều phương pháp để hết lo buồn sợ hải. Ở đây tôi chỉ nói phương pháp gần cho chúng ta ứng dụng. Khi lo buồn sợ hãi, liền đặt câu hỏi: – Cái gì lo? Rồi tự trả lời: – Cái lăng xăng. Khi lo, lo cho ai, lo cho mình, cho gia đình mình, cho chung quanh mình. Mình là cái gì? Mình là thân tứ đại giả hợp v.v… phân chia xét nét như vậy rồi, cái lo mất tiêu, vì nó không thật thì còn gì nữa để mà lo. Cái buồn cái sợ hãi cũng vậy. Phần nhiều chúng ta cứ tưởng tượng rồi sợ, mà không tìm xem sợ là cái gì? Tại sao mình sợ?

Thí dụ khi gặp con rắn chúng ta run lên vì sợ. Thử hỏi cái gì sợ? Khi đặt câu hỏi là đã hơi tỉnh, bớt sợ. Vì sao sợ? Sợ nó cắn mình. Xét cái mình này thật hay không? Xét một hồi thấy mình không thật, tâm lo sợ cũng mất. Cho nên các Tổ ngày xưa, gặp cảnh hãi hùng mà không sợ vì các ngài biết tâm sợ không thật và đối tượng để sợ cũng không thật. Đức Phật khi ngồi dưới cội bồ-đề, có con rồng chín đầu đến trước mặt phun lửa phì phì, đức Phật vẫn điềm nhiên không sợ, vì Ngài thấy rõ tâm sợ hãi không thật và đối tượng làm mình sợ cũng không thật luôn. Giả sử chúng ta gặp trường hợp đó thì kinh hoàng sợ hãi tâm không còn bình tĩnh sáng suốt. Cho nên khi gặp cảnh lo sợ, chúng ta dùng trí tuệ phân tích thì sẽ hết sợ hết lo. Nếu không quán xét, cứ theo tình cảm lo lắng thì cái lo sẽ tăng mãi đến mất ăn, mất ngủ, sanh bệnh hoạn, rốt cuộc không tới đâu cả. Đó là cái gốc nuôi dưỡng vọng tưởng.

Giờ đây nếu gặp cảnh lo buồn sợ hãi, chúng ta chịu khó nhớ lại những phương tiện Phật chỉ dạy trong các kinh như Bát Đại Nhân Giác, Bát-nhã v.v… cứ theo đó mà ứng dụng thì hết lo hết sợ. Hơn nữa muốn tâm mình an phải nhìn lại nó. Cái đang lăng xăng lộn xộn đó ở đâu? Nó là cái gì? Nhìn mãi tự nhiên nó tan hoang không còn, tức khắc mình được an ổn. Đó là phương pháp thiết yếu, chỉ có người biết ứng dụng mới thấy kết quả tốt.

Đến bực tức giận hờn làm sao cho hết? Bực tức giận hờn đố kỵ làm người ta không vui. Hạnh đức Di-lặc là hỉ xả nên Ngài cười hoài. Việc gì tới Ngài cũng cười, buông hết, không bận lòng. Cũng như chúng ta học uống “thuốc xổ”. Cứ mỗi ba tháng xổ luôn thì bụng sẽ sạch trơn. Biết buông xả thì lòng mới không bực bội. Ở đời có ai làm vừa ý mình hết đâu. Một trăm người thì tám chục người làm cho mình không vui rồi. Chừng hai mươi người mình hơi vừa ý một chút, chớ chưa hoàn toàn. Chỉ có một người có lẽ mình vừa ý hoàn toàn. Đó là ai? – Là mình. Thế mà có khi mình còn muốn rầy nó nữa. Ở thế gian này có lúc nào mình vui hoàn toàn đâu? Nếu cứ ôm ấp chuyện người này làm mình bực, người kia làm mình buồn, cứ dồn vô chứa cả một kho sân kho lửa, động đến là cháy. Chúng ta để ý, người nào đang bực bội, mà mình hỏi họ một câu, dù là câu không quan trọng, không đụng chạm gì hết, mới mở miệng hỏi là họ muốn cự với mình rồi. Vì lửa sân có sẵn bên trong, động một cái là nháng lên. Cho nên chúng ta phải biết rõ chủ yếu của bất an, không vui là tại tâm niệm ta chứa chấp cả một kho tật đố, giận hờn, sân hận. Gặp ai cũng cảm thấy hơi tức tối, bực bội. Muốn an vui chúng ta phải ứng dụng bằng hai cách:

1- Tùy hỉ để phá tâm tật đố.

Muốn tùy hỉ phải làm sao? Thí dụ người mình mến nhất, nghe người đó phát tài mình vui lây. Trái lại mình ghét nhất, nghe họ phát tài mình bực liền. Tại sao? Tại vì người mình không ưa mà họ được hơn, nên mình sanh tâm đố kỵ. Đó là tật đố. Dù cho đối với bạn thân cùng nghề với mình mà cấp trên cứ khen họ hoài mình cũng không vui. Người thù của mình được khen, mình không vui đã đành; còn người thân của mình được khen tốt, mình cũng không vui nữa. Như vậy người nào được khen tốt thì mình vui? – Chỉ có mình thôi. Nhìn thật kỹ, chúng ta thấy khó tìm được cái vui, vì lúc nào mình cũng muốn hơn thiên hạ hết. Cho nên lòng buồn hận xảy ra luôn luôn, đó là điều khó tránh. Vì vậy đức Phật dạy chúng ta muốn được vui thì phải phát tâm tùy hỉ. Tùy hỉ là vui theo người, coi người được như mình được. Người phát tài như mình phát tài, người được khen như mình được khen. Lúc đó mình mới hết tâm tức tối bực bội.

Như chúng ta thường chịu đố kỵ hơn là chịu tùy hỉ. Thấy người hơn mình thì tức, không bao giờ chấp nhận, không bao giờ vui với cái vui của người. Trong kinh đức Phật nói: Người nào phát tâm tùy hỉ thì công đức vô lượng vô biên. Người làm việc tốt được bao nhiêu công đức, mình tùy hỉ thì công đức cũng bằng với họ không thua chút nào hết. Người làm được việc tốt là đã có lòng tốt, mình tùy hỉ là phá tâm tật đố thì cũng tốt luôn. Công đức của cả hai như nhau. Cũng như cây đuốc này mồi qua cây đuốc kia, hai cây đều sáng mà không cây nào mất ánh sáng hết. Tùy hỉ cũng vậy, ai được cái gì tốt mình phát tâm vui mừng: Huynh được cái đó tốt quá, huynh sung sướng phát tài, tôi mừng tôi sung sướng như tôi phát tài vậy. Như vậy chắc chắn đời mình không nghèo. Ai sung sướng mình cũng mừng như mình được, thế nào họ cũng không bỏ mình. Khổ là, người ta được mình lại ghét, cho nên mình kiếm chuyện châm biếm, mỉa mai làm họ tức, do đó ai cũng không ưa mình hết. Vì vậy mà khổ suốt đời. Mầm an vui phát xuất từ lòng tùy hỉ, tức là biết nhìn thấy và nhận cái vui của người làm cái vui của mình. Cho nên Phật dạy: Phải phát tâm tùy hỉ, vui theo cái vui của những người chung quanh dù thân hay sơ. Chư Bồ-tát thấy một chúng sanh đau khổ, coi như mình đau khổ; thấy một chúng sanh an vui, coi như mình an vui. Chúng ta chưa bằng Bồ-tát, ít ra cũng phải tập theo hạnh đó để mang hạnh phúc đến cho mình.

Lối tu tập này không tốn công bao nhiêu mà được vui vẻ cả làng. Còn không là tự mình chuốc thêm tai họa có ích lợi gì đâu. Cho nên chúng ta cần gột bỏ hết những cái gây đau khổ để được an lành vui vẻ. Phải buông hết, đừng cố chấp thì lòng người mới nhẹ, tức là không sân không hờn và phải tùy hỉ.

2- Tỉnh giác để phá tâm sân hận.

Sân hận là tâm bệnh hoạn nhất. Động tới là nổi quạu lên la om sòm, tay chân lay động đưa đến tai họa không nhỏ. Thiền sư Đạo Thông đời Tống, một hôm Tướng công Vu Địch tới hỏi đạo. Vu Công thường tụng kinh Phổ Môn nên hỏi rằng: Thế nào là gió đen thổi thuyền trôi vào nước quỉ La-sát? Thiền sư trả lời: Kẻ khách Vu Địch hỏi việc ấy làm gì? Vu Địch liền đổi sắc. Ngài bèn nói: Cái đó là gió đen thổi thuyền trôi vào nước quỉ La-sát. Vu Địch liền hết nổi nóng. Chỗ này thật là tối quan trọng. Kinh nói: Giả sử luồng gió đen thổi thuyền trôi vào nước quỉ La-sát, lúc đó trong thuyền có người niệm Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát, thì bọn quỉ không dám lại gần. Nghe linh nghiệm như thế nên chúng ta nghĩ khi đi biển đi sông mà gặp gió to sóng lớn thì cứ niệm Quán Thế Âm Bồ-tát tức là qua hết. Nếu hiểu như vậy thì rất tội nghiệp cho kinh điển Đại thừa.

Hắc phong mà Thiền sư nói ở đây không phải là gió lớn bên ngoài. Hắc phong là luồng gió đen tự trong lòng mình dấy lên, nó thổi chiếc thuyền người tới cõi nước quỉ liền. Nghe một lời nói trái tai, nổi giận lên miệng nói lời ác, tay chân làm việc ác tức thì mình bị đưa tới cõi La-sát, phải ở tù phải khổ. Hắc phong là như vậy. Cho nên khi chúng ta nghe những lời trái tai, cơn giận vừa dấy lên thì biết đó là hắc phong thổi. Phải dừng nó lại thì nhất định không trôi đến nước quỉ, mà quỉ cũng không dám hại. Nếu lỡ bị thổi trôi đến nước quỉ, thì phải nhớ niệm Quán Thế Âm. Niệm bằng cách nào? Sở dĩ chúng ta giận vì do mắt thấy tai nghe, mà phần lớn là tai nghe những lời trái nên mới giận. Khi niệm Quán Thế Âm Bồ-tát tức là nhớ lại Tánh nghe của mình, bao nhiêu lời trái tai đều tan hết, cơn giận cũng chìm luôn. Đâu còn cái gì đưa đến nước quỉ, La-sát đâu dám ngó tới mình. Rõ ràng như vậy.

Kinh thường nói: “Bất phạ sân tâm khởi, duy khủng tự giác trì”, nghĩa là chẳng sợ tâm sân nổi lên, chỉ sợ giác chậm thôi. Giác thì tâm sân liền mất.

Như vậy, trước hết mình phải đề phòng gió dữ. Lỡ bị gió dữ rồi thì nhớ niệm Quán Thế Âm. Niệm Quán Thế Âm là nghe lại Tánh nghe, không chạy theo thanh trần tức là giác. Đó là ý nghĩa thâm trầm trong kinh. Nhiều khi chúng ta chờ tai nạn xảy ra mới niệm, mà không nhớ niệm hằng ngày. Muốn hết sân, hết hận, chúng ta phải nhớ như vậy để hằng ngày, hằng đêm dừng được bao nhiêu trận gió đen. Tỉnh giác kịp rồi thì tai nạn không đến với chúng ta, còn không tỉnh giác kịp thì thế nào rồi cũng bị quỉ xé thây. Chắc chắn như vậy không nghi. Đường lối rõ ràng như thế. Trên đây chỉ là ý nghĩa cạn của mùa Xuân Di-lặc thôi.

Đến ý nghĩa sâu hơn của mùa Xuân Di-lặc tức là mùa Xuân bất diệt mùa Xuân miên viễn. Nói đến đức Di-lặc là nói đến đức Phật sẽ thành. Đức Phật Thích-ca xác nhận rằng Ngài là Phật đã thành, còn tất cả chúng ta là Phật sẽ thành, như đức Phật Di-lặc vậy.

Phật sẽ thành là Phật ở chính nơi chúng ta, nhưng vì mình bỏ quên nên không nhận ra, như có viên ngọc quí mà không biết, cứ lo hỏi viên ngọc của đức Địa Tạng cầm trong tay. Có mà không chịu nhận là dối gạt thiên hạ.

Chúng ta còn quá lầm mê, không tự tỉnh giác nên bỏ quên ông Phật của chính mình, vì vậy phải lăn lộn trong luân hồi sanh tử. Sanh tử là biến chuyển sanh diệt, là vô thường, gốc của khổ đau. Còn luân hồi là còn khổ đau, muốn ra khỏi khổ đau thì phải thoát khỏi luân hồi sanh diệt. Đó mới là miên viễn, là bất diệt, là an vui cứu kính của con người.

Chúng ta đang sống trong vô thường sanh diệt nên luôn luôn bị bức bách ép ngặt. Thoát khỏi vô thường bức bách thì tự nhiên chúng ta an vui giải thoát.

Nói cách khác, thoát khỏi luân hồi sanh tử là sống với cái vô sanh an lạc. Vì vô sanh nên không bị dao động, hằng tỉnh táo an lạc, đó là niềm vui chân thật cũng là mùa Xuân Di-lặc bất diệt, miên viễn, mùa Xuân của Bản tâm thanh tịnh ở mỗi người. Chính đây là chỗ khao khát, ước mơ của chúng ta. Trong kinh gọi đó là Niết-bàn, an lạc tịch tĩnh. Còn hiện tại mùa Xuân của chúng ta chỉ là mùa Xuân sanh diệt, đến rồi đi qua rồi mất.

Giờ đây làm sao chúng ta hưởng được mùa Xuân bất diệt, mùa Xuân mà chính mình mong muốn? Muốn hưởng mùa Xuân bất diệt thì chúng ta phải sống với tâm bất diệt, còn tâm sanh diệt thì không bao giờ hưởng được. Trong kinh Kim Cang đức Phật dạy: “Tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại không thể được, tâm vị lai không thể được.” Tâm chạy theo quá khứ, hiện tại, vị lai là tâm sanh diệt. Đức Phật nói tâm đó không thể được vì nó không thật. Chúng ta đang sống với tâm nào? Với tâm quá khứ hiện tại vị lai. Tại sao tâm quá khứ không thể được? Như trước giờ nằm ngủ, chúng ta gác tay lên trán, nhớ chuyện năm ngoái năm xưa, tháng rồi tháng trước, không chịu buông, một hồi không ngủ được rồi than tôi mất ngủ. Đó là chưa kể có nhiều cuốn nhật ký đầy ắp bút tích kỷ niệm. Vì sợ ký ức nhớ không hết nên phải ghi thêm nhật ký để mai mốt có quên thì lật lại. Cái đó thuộc về quá khứ, mà quá khứ qua rồi đâu tìm lại được! Càng nghĩ càng rối cho mình thôi, nó đâu có thật mà nghĩ. Vậy mà hết một phần ba đời người chúng ta sống về quá khứ.

Còn những người trẻ thì sao? Sống với vị lai. Nghĩ bây giờ mình nhỏ quá, chưa làm được việc gì đáng kể rồi mong ước sau này mình sẽ như thế này như thế kia. Cũng mất hết phần ba cuộc đời.

Rồi một phần ba cuộc đời về sống về hiện tại. Hiện tại mà không hiện tại gì hết, nghĩa là hiện tại đầy ắp niệm tưởng suy nghĩ tính toán là khen, là chê, việc phải việc quấy. Niệm này hết thì niệm kia sanh. Cứ như vậy liên miên sanh diệt thì hiện tại đâu có.

Thế nên nghĩ đến quá khứ thì quá khứ là chuyện đã qua, nghĩ lại cái không có, cái nghĩ đó cũng là không. Cho nên quá khứ không thể được. Hiện tại hết nghĩ cái này tới cái khác, trong một ngày nghĩ không biết bao nhiêu thứ. Đó là tâm suy nghĩ sanh diệt nên không thể được. Vị lai chưa đến mà cứ phóng đại cái này cái nọ. Ngồi đó mà tưởng tượng đủ thứ. Cái chưa đến mà tưởng cũng là không tưởng, nên cũng không được luôn. Như vậy quá khứ hiện tại vị lai, ba thời đều không được. Chúng ta sống với ba cái đó là sống với cái hão huyền, không thực tế. Kiểm lại xem một ngày sống của chúng ta như thế nào?

Có chạy theo ba thời đó hay không? Nếu cả ngày sống với tâm chạy theo đó thì chúng ta đã mất tâm rồi. Gọi là tâm mà thật sự tâm đã mất. Sống với tâm sanh diệt thì có gì thật đâu. Hằng ngày chúng ta nói sống cho mình mà thật đã mất mình. Chỉ sống với ba cái tâm chết rất là đáng thương. Ba cái không có đó mà ráp lại thành cái có để sống, tuy nói sống mà thật ra không sống gì hết. Có gì mà hãnh diện.

Như vậy phải làm sao? Tôi nhắc lại muốn hưởng mùa Xuân bất diệt thì tâm mình cũng phải bất diệt. Mà muốn bất diệt thì phải bất sanh, tức không chạy theo cái sanh diệt thì tâm mình lặng lẽ thanh tịnh.

Thiền sư Thiền Lão diễn tả điều này rất rõ. Khi vua Lý Nhân Tông vào núi gặp Ngài, hỏi: Hòa thượng bao nhiêu tuổi? Ngài đáp:

Đản tri kim nhật nguyệt
Thùy thức cựu xuân thu.

Nghĩa là chỉ biết ngày nay thôi, còn bao nhiêu năm trước ai đâu nhớ. Như vậy Ngài không sống với tâm quá khứ, chỉ biết có ngày nay. Sống với ngày nay đó là sống với tâm lặng lẽ hiện tiền. Vua Lý Nhân Tông hỏi tiếp: Hòa thượng ở đây làm gì? Ngài trả lời:

Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân
.

Nghĩa là trúc biếc hoa vàng đều là cảnh chân thật, trăng trong mây bạc đều hiện chân thể hoàn toàn. Như vậy những gì hiện bày trước mắt Ngài đều là mùa Xuân miên viễn. Sống như thế mới thật là sống. Còn chúng ta hiện nay sống mà không thật sống. Chỉ khi nào không chạy theo cái suy tính phân biệt, sống với tâm thanh tịnh thản nhiên đó mới gọi là sống ngày nay biết ngày nay. Với tâm thanh thản lặng lẽ, nhìn muôn vật hiện có trước mắt đều là một màu chân thật, như như, không sanh không diệt, đó mới là mùa Xuân miên viễn, bất diệt, nhìn đâu cũng nên thơ, không thấy có lò lửa địa ngục, để than trách như chúng ta bây giờ. Thấy hoa cúc, thấy trăng, thấy mây, thấy cái gì cũng đều là Xuân rạng rỡ. Các Thiền sư nhìn đâu cũng thấy một mùa Xuân tràn trề, không cần tìm kiếm, không cần chờ đến tháng giêng mới có mùa Xuân.

Đức Di-lặc đã hưởng mùa Xuân đó rồi, cho nên Ngài cười hoài. Chúng ta tu hành cốt làm sao hưởng được mùa Xuân như thế, mùa Xuân thú vị, đẹp đẽ nhất mà người xưa đã hưởng.

Để kết thúc, tôi dẫn thêm Thiền sư Thiên Tùng, trong ngày đầu năm Ngài làm thơ dạy chúng, tựa là Tuế Triêu.

Kim tiêu tận đạo thiêm nhất tuế
Ngô đạo như kim giảm nhất niên
Tăng giảm khứ lai vô định số
Duy năng tiêu tận thế gian duyên
Tất tu thức đắc duyên trung chủ
Bách thiên vạn kiếp thường như nhiên
Vô tăng vô giảm như hà đạo
Nhất cú hà tu dụng khẩu truyền.

Dịch:

Sáng nay đều nói thêm một tuổi
Tôi bảo hôm nay bớt một năm
Thêm bớt lại qua số khôn tính
Chỉ hay dứt sạch duyên thế gian
Cốt là trong duyên biết được chủ
Trăm ngàn ức kiếp thường như nhiên
Không bớt không thêm làm sao nói
Một câu nào thiết dùng miệng truyền.

Ngài Thiên Tùng giải thích quá rõ ràng. Đến ngày mồng một Tết chúng ta đều nói chúc thầy cô thêm một tuổi thọ, chớ có ai chúc thầy cô mất một tuổi thọ đâu. Quả thật chúng ta đã mất một năm rồi. Nếu tuổi thọ chúng ta là sáu mươi, năm rồi năm mươi ba, năm nay năm mươi bốn, thì tuổi thọ đã bớt đi một năm. Qua một năm là bớt, tại sao lại nói thêm? Người đời chỉ nghĩ theo chiều thêm mà quên nghĩa bớt. Vì vậy Ngài nói “sáng nay đều nói thêm một tuổi, tôi bảo hôm nay bớt một năm”. Rõ ràng như vậy, nhưng có ai gan dạ thấy thế đâu. “Thêm bớt lại qua số khôn tính” là thêm bớt qua lại số không nhất định, nói thêm cũng được, nói bớt cũng được. Tính theo chiều sáu mươi để trừ lại thì thấy bớt, theo chiều năm mươi mấy cộng lại thì thấy thêm. Vì có cộng có trừ nên có thêm có bớt. Thật ra không biết nói thế nào cho đúng, nên Ngài nói con số không nhất định. Điều quan trọng là “chỉ hay dứt sạch duyên thế gian” tức là chỉ người tiêu sạch duyên thế gian giống như người tiêu chảy sạch hết, bụng trống rỗng. Nhưng chưa đủ còn phải thêm “cốt là trong duyên biết được chủ” tức là cần phải biết được Ông chủ trong các duyên đó, biết Ông chủ mới là điều tối thiết yếu. “Trăm ngàn ức kiếp thường như nhiên”tức biết được Ông chủ rồi thì trăm ngàn muôn kiếp đều như vậy. Chính đó là mùa Xuân bất diệt. Tất cả quá khứ hiện tại vị lai đều không biến chuyển. “Không bớt không thêm làm sao nói”, Ông chủ đó trăm ngàn muôn kiếp vẫn như nhiên, không thêm cũng không bớt. Thế gian có thêm có bớt nên nói được, còn đến chỗ không thêm không bớt thì nói cái gì? “Một câu nào thiết dùng miệng truyền”, một câu duy nhất đó đâu cần dùng miệng nói với nhau. Chỉ người nhận được, thấy được, sống được thì hưởng được mùa Xuân bất diệt. Chớ dùng lời thì nói không đến.

Thế nên đầu năm nay tôi không biết chúc câu gì, chỉ tạm chúc quí vị một mùa Xuân Di-lặc tùy theo nhận thức của mỗi người. Ráng hưởng cho được, đừng để ba tháng Xuân mất rồi tới Thu tới Đông, lại trông đến Xuân nữa, cực lắm. Phải luôn luôn hưởng mùa Xuân Di-lặc, lúc nào cũng là Xuân, dù sống trong cảnh nào gặp nhau chúng ta cũng cười. Như vậy là hạnh phúc ngay ở trần gian.