Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

VI. ĐỨC TUÂN PHỔ HIỀN ĐỆ NHỊ
(TT)

KINH VĂN:

Hàm cộng tuân tu Phổ Hiền Đại Sĩ chi đức, cụ túc vô lượng hạnh nguyện, an trụ nhất thiết công đức pháp trung, du bộ thập phương, hành quyền phương tiện, nhập Phật pháp tạng, cứu cánh bỉ ngạn.

VIỆT DỊCH:

Đều cùng tuân tu đức của Đại Sĩ Phổ Hiền, đầy đủ vô lượng hạnh nguyện, an trụ trong hết thảy pháp công đức, đi khắp mười phương, hành quyền phương tiện, vào pháp tạng của chư Phật, rốt ráo đến bờ kia.

GIẢNG:

Hàm cộng tuân tu Phổ Hiền Đại Sĩ chi đức: Pháp hội kinh này lấy Phổ Hiền Bồ Tát làm thượng thủ của hết thảy Bồ Tát. Các vị khác như: Văn Thù, Di Lặc, Hiền Hộ v.v…, các vị xuất gia, tại gia Bồ Tát và mười phương vô lượng vô biên các đại Bồ Tát đến nhóm hội đều tuân hành theo đức của Phổ Hiền Đại Sĩ. “Đại Sĩ” tức là Bồ Tát, là Đại đạo tâm hữu tình; “Sĩ” là sĩ phu. “Phổ Hiền Đại Sĩ chi đức” nói rộng ra chính là “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh”.

Trong Kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Đại Sĩ là Hoa Nghiêm trưởng tử, Văn Thù là thứ nam. Bộ kinh này là rút gọn của Hoa Nghiêm, là tinh hoa của Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm là nói tỉ mỉ của Kinh Vô Lượng Thọ. Nếu có thể khế nhập sâu rộng bộ kinh này, sau đó giảng Kinh Di Đà thì thật tuyệt, vì nội dung kinh này sâu sắc, lời lẽ dễ hiểu, vị sâu lời cạn, giảng mới có sức mạnh, có công lực. Câu trên đây là lấy từ Kinh Hoa Nghiêm, giảng năm năm cũng giảng chưa xong!

Cho nên, cần phải nắm lấy cương lĩnh. Thế Tôn trong Kinh Hoa Nghiêm có dạy: “Bồ Tát nếu không tu hạnh Phổ Hiền thì không thể viên thành Phật đạo”, tức không thể chứng được viên giáo Phật quả. Cốt lõi tột cùng phẩm đức của ngài Phổ Hiền là mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc, cũng là mười đại cương tu hành của Hoa Nghiêm. Trong mười đại cương tu hành này, hầu như mọi người đều có thể học thuộc lòng, tuy nhiên vẫn chưa thấu được ý nghĩa thâm sâu, chỉ hiểu một cách lờ mờ. Nói cách khác, bạn chưa tường tận, chưa thông suốt!

Mười đại nguyện vương của Phổ Hiền: Thứ nhất là lễ kính chư Phật, hai là xưng tán Như Lai, ba là quảng tu cúng dường, bốn là sám hối nghiệp chướng, năm là tùy hỉ công đức, sáu là thỉnh chuyển pháp luân, bảy là thỉnh Phật trụ thế, tám là thường tùy Phật học, chín là hằng thuận chúng sinh, mười là phổ giai hồi hướng. Nguyện thứ mười: “Phổ giai hồi hướng” hiển thị nghĩa chữ “Phổ”. Từ nguyện lễ kính đến nguyện thứ chín “hằng thuận chúng sinh” hiển thị ý nghĩa của chữ Hiền. Do đó, mười đại nguyện hiển thị danh xưng Phổ Hiền. Theo Hoàng Niệm lão: “Hiền” là theo chiều dọc tột cùng ba đời, “Phổ” là bao hàm trọn vẹn không sót.

Thanh Lương Sớ nói: “Với quả không gì chẳng đạt đến cùng tột là Phổ, chẳng bỏ tu nhân là Hiền”. Rõ ràng, Phổ Hiền trong kinh này là “Vị Hậu Phổ Hiền”, cũng tức là như Thiện Đạo đại sư nói là tướng từ Quả hướng đến Nhân.

1. LỄ KÍNH CHƯ PHẬT

Giáo học trong nhà Phật, lễ kính là trước tiên. Lễ kính là lưu xuất tự nhiên từ trong tánh đức của bạn, không phải từ bên ngoài. “Lễ” biểu hiện ra bên ngoài là cung cung, kính kính. “Kính” là giữ ở trong tâm. Trong nhà Phật, mọi người gặp nhau đều chấp tay xá chào. Chấp tay đại biểu cho sự nhất tâm. Bình thường, bàn tay chúng ta các ngón đều tách rời ra, biểu thị tâm tán loạn, vọng niệm rất nhiều. Nếu tất cả vọng niệm đều dập tắt, hợp nhất lại là nhất tâm, là cung kính. Nên biết: Tâm chân thành là cung kính, tâm thanh tịnh là cung kính, tâm bình đẳng là cung kính, tâm giác ngộ là cung kính. Tất cả đều là tu “thanh tịnh, bình đẳng, giác”.

Đối người, đối sự, đối vật đều cung kính. Cung kính ở đây không phải bảo bạn gặp ai cũng cứ gật đầu, lễ bái, tu như vậy hóa ra đầu óc bạn chẳng bình thường rồi! Trên đường phố nhiều người qua lại, gặp ai cũng gật đầu, làm gì có đạo lý này! Chữ “kính” ở đây là kính ở trong tâm, về mặt sự vẫn không đi ngược lại với pháp thế gian. Chỗ gọi là “Phật pháp tại thế gian, bất hoại thế gian pháp”, người thế gian dùng lễ tiết gì, chúng ta cũng dùng lễ tiết đó. Phải “hằng thuận chúng sinh, tùy hỉ công đức”, đây đều là trong “Thập nguyện vương” chỗ nói đến.

– Đối sự làm thế nào tu lễ kính?

– Phải tận tâm, tận lực, hết lòng làm cho tốt sự việc, đây là đối sự lễ kính. Pháp môn này là pháp môn Phổ Hiền, chẳng phải thông thường, dứt khoát không nên “khẩu thị tâm phi”, miệng nói mà tâm không hành, chống trái với Đạo.

– Đối vật, cung kính thế nào?

– Tất cả vật dụng bày biện ngăn nắp, sạch sẽ là đối với vật lễ kính. Trong ánh mắt của Phổ Hiền Bồ Tát, tất cả các pháp đều bình đẳng, vạn vật đều có pháp tánh, cùng với chân tâm bổn tánh là một.

Lục Tổ Huệ Năng lúc khai ngộ, ngài nói: “Hà kỳ tự tánh năng sinh vạn pháp”, thập pháp giới, y chánh trang nghiêm đều là tự tánh sở sanh, chỗ biến hiện ra. Tự tánh là Phật, Vạn sự vạn vật từ tự tánh sinh khởi biến hiện cũng đều là Phật. Phải dùng tâm lượng như vậy, quán sát như vậy, đối với tất cả đều cung kính, thế mới gọi là lễ kính chư Phật.

– Chư Phật là ai?

– Quá khứ Phật, hiện tại Phật, vị lai Phật đều là chư Phật. Quá khứ chư Phật, chúng ta đã xem thấy trong kinh đức Phật có giới thiệu. Hiện tại Phật, đức Thích Ca Mâu Ni cũng giới thiệu về đức Phật A Di Đà ở thế giới Tây Phương Cực Lạc; đức Phật Dược Sư ở thế giới phương Đông v.v… là Phật hiện tại.

– Vị lai Phật là ai?

– Là tất cả chúng sinh. Chỗ này phạm vi lễ kính sẽ rộng. Chúng ta cung kính Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà như thế nào thì đối với tất cả chúng sinh cũng đồng một tâm cung kính như vậy. Nếu sự cung kính có khác biệt thì bạn không phải tu hạnh Phổ Hiền. Tất cả chúng sinh đối với ta có ân, có oán, có giúp đỡ, có hãm hại, có nhục mạ v.v… ta đều xem họ là Phật, sự cung kính đều như nhau không thể có khác biệt. Có người nói:

– Việc này rất khó làm!

– Rất khó làm cũng phải làm cho được! Bạn không làm được tức là bạn không phải tu hạnh Phổ Hiền! Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh; đã có Phật tánh thì họ chính là Phật. Chúng ta lễ kính đối với họ, không phải vì bản thân, địa vị, đẳng cấp v… của con người họ, mà chúng ta tôn trọng Phật tánh của họ. Phật tánh của họ cùng với tất cả chư Phật Như Lai không hề khác biệt. Ngoài chúng sinh hữu tình ra, chúng sinh vô tình là vạn vật trong thế gian đều có Pháp tánh. Pháp tánh cùng Phật tánh là một tánh. Cho nên, trong Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật nói: “Tình dữ vô tình đồng viên chủng trí”.

Nói cách khác, chúng sinh vô tình cũng là Phật; đối với chúng sinh vô tình cũng phải cung kính, cùng một lòng cung kính như đối với Phật A Di Đà. Nếu có sự khác biệt, bạn không phải tu hạnh Phổ Hiền. Giả như có cái bàn để trước mặt, trên bàn để những thứ dơ bẩn, bạn lập tức lau nó sạch sẽ, cho dù bàn đó không phải sở hữu của bạn, đấy là bạn tu hạnh Phổ Hiền. Kế đến, bàn ghế để không được ngay ngắn, bạn lập tức sửa lại, xếp ngay thẳng chỉnh tề. Khi ngồi vào ghế, cũng phải ngồi ngay thẳng; không ngay thẳng là không tôn kính. Đó là tu lễ kính chư Phật.

Hàm cộng tuân tu Phổ Hiền Đại Sĩ chi đức”: Câu này mở đầu cũng là câu quan trọng nhất của toàn kinh, chúng ta nhất định không thể xem thường lướt qua được. Học Phật có thể được thọ dụng hay không then chốt là ở câu này.

Xưa kia, Quốc Sư Thanh Lương vào thời nhà Đường, sau khi hoàn thành phiên dịch và chú giải Kinh Hoa Nghiêm, ngài đặc biệt đem quyển sau cùng của Kinh Hoa Nghiêm đưa ra lưu thông đặc biệt. Quyển này gọi là “Biệt hành lưu thông bản”, đó chính là “Phổ Hiền Bồ Tát hạnh nguyện phẩm” mà hiện nay chúng ta thường thấy. Quyển kinh này là Hoa Nghiêm thứ bốn mươi, cũng chính là quyển sau cùng trong phẩm “Nhập pháp giới”, là tổng kết, cũng là tổng cương lĩnh của Kinh Hoa Nghiêm. Y theo bổn kinh này tu hành, cũng chính là y theo tiêu chuẩn của A Di Đà Phật, của Bồ Tát Phổ Hiền.

A Di Đà Phật là “Phật trung chi vương”, Bồ Tát Phổ Hiền có thể nói là “Bồ Tát trung chi vương”. Trong rất nhiều sám nghi, chúng ta đều đọc “Nam mô Phổ Hiền Vương Bồ Tát”, vua trong các Bồ Tát. Trong hàng Bồ Tát, không ai có thể thù thắng hơn Phổ Hiền. Trong tất cả chư Phật, không ai thù thắng hơn so với A Di Đà Phật. Bộ kinh này: Vua trong các Phật, vua trong các Bồ Tát, thảy đều đầy đủ. Chúng ta gặp được kinh này chẳng khác nào như trong kinh Phật đã nói: “như kẻ nghèo gặp được của báu”. Đích thật là có cái tâm trạng này, sự vui sướng chẳng thể nghĩ bàn! Đạt được rồi nhất định phải lý giải, phải giải được thật thấu triệt; sau đó phải y giáo phụng hành một cách triệt để.

– Phải bắt đầu từ đâu?

– Từ lễ kính mà phần trước đã nói “Lễ kính” là khai hiển ngay trong tánh đức của chính chúng ta, là lưu xuất tánh đức của chúng ta. Đại đức xưa thường nói: “Khởi tu tự tánh”. Đây chính là “tự tánh khởi tu”. Cách tu này có thể cảm ứng tương thông với mười phương ba đời tất cả chư Phật, Bồ Tát. – Vì sao? – Vì chư Phật, Bồ Tát cũng “khởi tu tự tánh”.

Ngày nay, chúng ta cũng “khởi tu tự tánh” nên liền có cảm ứng. Do đây có thể biết, vừa phát tâm chân thành để tu là “năng cảm”; chư Phật, Bồ Tát vốn “năng ứng”. Nguyên do cảm ứng chính ngay chỗ này. Cho nên, Ấn Quang Đại sư nói: “Một phần thành kính được một phần lợi ích”. Cũng có thể nói: một phần thành kính, chư Phật Như Lai gia trì một phần; mười phần thành kính được chư Phật Như Lai gia trì mười phần. Chúng ta hiện diện nơi đạo tràng, cảm thọ của chúng ta cùng với sự cảm thọ khi tiếp xúc với cuộc sống bên  ngoài hoàn toàn khác nhau. Cảm thọ nơi đây là vui mừng, có pháp hỉ thanh tịnh. Có đồng tu nói với tôi:

– Bước vào giảng đường nghe kinh là hưởng thụ.

– Lời nói này có thật không?

– Là thật!

– Hưởng thụ này do đâu mà có!

– Nhờ ánh sáng Phật chiếu vào! Mọi người ở đây đều được tắm mình trong hào quang của chư Phật.

Năm tôi sang Mỹ giảng kinh, có số người nước ngoài, mỗi lần tôi giảng họ đều đến, ngồi xếp bằng trên thảm, đôi mắt nhắm nghiền. Tôi nói gì họ cũng không hiểu. Mỗi ngày họ đều đến. Có đồng tu hỏi họ:

– Bạn nghe hiểu không?

– Không hiểu!

– Không hiểu, sao mỗi ngày bạn đều đến?

– Vì cảm thụ nơi đây rất tốt!

Bạn xem! Họ đến để hưởng thụ! Họ nói: Từ trường nơi đây rất khác biệt, cảm thụ đối với họ rất là thoải mái khiến họ sinh tâm hoan hỉ. Không phải do tôi giảng hay, tôi giảng không được hay nhưng nhờ Phật lực gia trì.

– Nhờ vào đâu mà được Phật lực gia trì?

– Đó chính là một lòng cung kính!

– Lòng cung kính có năng cảm, chư Phật Bồ Tát liền có ứng.

Nên biết:

– Giảng pháp dạy người, thành thật là thứ nhất!

– Dáng vẻ thành thật ra sao?

– Không lừa dối chính mình, không lừa dối người khác, chân thật có thể làm đến được, đây là thật thà. Người thật thà vô cùng đáng quí! Người thật thà được Phật quang thường chiếu đến họ, cho dù họ không có học Phật cũng vậy. – Vì sao? – Trung thực! Phật tâm của họ thanh tịnh, bình đẳng. Không thể nói, bạn học Phật thì đặc biệt được Phật chiếu cố; không học Phật thì Phật không chiếu cố, vậy là tâm không bình đẳng rồi! Không học Phật, tấm lòng thành khẩn, Phật đều chiếu cố.

Lễ kính” là lưu xuất thành khẩn. Chúng ta phải kính người, kính việc, kính vật. Lễ kính bình đẳng, không hề phân biệt, mới gọi là tu hạnh Phổ Hiền. Như đã đề cập ở phần trước: Tất cả người, tất cả vật bao gồm động vật, thực vật, khoáng vật v.v…, tất cả sự chúng ta đều phải nên tôn kính. Nếu nói chúng ta không làm được, thực tế mà nói, không phải làm không được mà chúng ta không chịu làm! Nếu bạn chịu làm thì làm gì có chuyện không làm được! Người xưa nói: Có hai việc khó: “Lên trời khó! Cầu người khó!”. Việc này là cầu chính bạn, không phải cầu người, thì đâu gọi là khó! Nếu bạn làm được, cũng chính là làm cho tánh đức của bạn được lưu xuất ra. Cho nên, chính mình phải nỗ lực, phải giác ngộ.

Hiện tại, thế gian tai nạn triền miên! Nếu không nỗ lực chăm chỉ tu, tương lai làm sao có thể cứu mình, cứu người?! Trong cuộc sống thường ngày tôi hoàn toàn không hay biết mọi tin tức bên ngoài. Tôi không xem truyền hình. “Tịnh Tông Học Hội” nơi đây không có truyền hình. Tất cả truyền hình đều là phát nội bộ, bên ngoài không có ăng ten trời, không nhận được tin tức bên ngoài. Chúng ta cũng không nghe phát thanh, không xem báo chí.

Có số đồng tu nói với tôi: Vài tháng gần đây họ xem thấy trên truyền hình chiếu tầng băng Nam cực đã và đang tan ra, vấn đề này tương đối nghiêm trọng! Băng của Nam, Bắc cực mà tan ra, mực nước biển sẽ dâng cao, đô thị duyên hải trên toàn thế giới đều chìm trong đáy biển!

– Tai nạn này do đâu mà đến?

– Có người cho rằng đây là do thiên tai, việc này thì không cách gì cứu chữa! Các khoa học gia cũng đem việc này đổ hết trách nhiệm cho thiên tai! Cách nhìn trong Phật pháp chẳng phải vậy! Trong Phật pháp nói: Bao gồm tất cả tai hại đều do chính chúng ta tạo nên! Câu nói này nếu bạn tin được, vậy chúc mừng bạn, bạn đã giác ngộ. Nếu bạn không tin, chính là bạn chưa giác ngộ! Đích thật chính do ta gây nên! Nếu người người đều tự giác, cải sửa, tự làm mới, tai nạn sẽ liền tiêu trừ.

– Nạn nước từ do đâu mà có?

– Do lòng tham!

Trên Kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đã nói rõ ràng: Tham dục là nước, sân hận là lửa, ngu si là gió. Tam tai là nạn: nước, lửa, gió. Nếu mọi người trên thế giới đều tăng trưởng tốc độ tham, sân, si thì nạn tam tai liền sẽ khởi dậy. Hoàn cảnh là y báo, y báo tùy theo chánh báo chuyển. Chánh báo là tâm chúng ta. Đức Phật luôn khuyên dạy chúng ta nên dập tắt tham, sân, si. Người người đều có thể dập tắt lửa tham, sân, si thì môi trường sinh thái trên địa cầu này chắc chắn sẽ hồi phục rất nhanh, không còn những tai hại này.

Ngoài tham, sân, si còn có ngạo mạn. Quả báo của “mạn” là động đất. “Mạn” là tâm cao thấp, không bình. Cho nên, những tai hại tự nhiên đều xuất phát từ tâm con người, chiêu cảm mà biến hiện ra. Muốn tiêu trừ khổ nạn phải bắt đầu từ nơi nội tâm; Phật pháp gọi là “nội học”, dùng nội công để cải thiện hoàn cảnh bên ngoài.

– Trường hợp không thể chuyển đổi được hoàn cảnh bên ngoài, riêng cá nhân có thể chuyển đổi được không?

– Vẫn được! Riêng ta chuyển đổi gọi là “Biệt nghiệp”; đại chúng là “Cộng nghiệp”. Trên hội Lăng Nghiêm, Phật nói: “Biệt nghiệp” và “cộng nghiệp”, quả báo không như nhau. Nếu “biệt nghiệp” thiện nghiệp của bạn thù thắng, cho dù ở trong “Cộng nghiệp” vô cùng ác liệt, bạn vẫn có thể tránh được. Ngay trong tai nạn lớn vẫn có rất nhiều người được may mắn, do “biệt nghiệp” không giống Bạn tỉ mỉ mà quan sát sẽ nhận ra những con người may mắn đó đều có tấm lòng lương thiện, tham, sân, si ít; từ bi, thiện niệm nhiều, nhất định chính là loại người này.

Tôi hy vọng tất cả đồng tu chúng ta, ở mọi lúc, mọi nơi, dùng tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm từ bi, tu tất cả cung kính. Phải đem việc này tập thành thói quen, đây là thật tu, thật dụng công. Thật dụng công ở đây không phải là bạn mỗi ngày đọc bao nhiêu bộ kinh, niệm bao nhiêu câu Phật hiệu. Nếu tư tưởng, lời nói, việc làm của bạn đều không tương ưng với những gì trong kinh đã dạy, cho dù bạn đọc hai trăm biến mỗi ngày cũng uổng công thôi! Không dùng được! Phải thật làm! Ngày ngày đọc kinh là để kiểm điểm lại chính mình. Đọc kinh cũng giống như soi gương, soi thấy lỗi lầm mình mà thức tĩnh, cải sửa lại cho hoàn thiện.

2.   XƯNG TÁN NHƯ LAI

“Xưng” là xưng dương, “tán” là tán thán. Ở đây không dùng “xưng tán chư Phật” mà là “xưng tán Như Lai”. Bởi “chư Phật” là từ trên sự tướng mà nói, “Như Lai” là từ trên tánh mà nói. Chúng ta đối với chư Phật cung kính thế nào thì đối với cha mẹ, sư trưởng cũng cung kính như thế ấy. Không những thế, đối với tất cả chúng sinh, thậm chí đối với những kẻ cực ác, chúng ta cũng phải cung kính như vậy, quyết không có phân biệt, không có chấp trước, đây là “lễ kính” từ trên sự tướng mà nói. Tuy nhiên, “xưng tán” thì lại khác. Vì sao? Vì “xưng tán” có thể ảnh hưởng đến xã hội, ảnh hưởng đến phong tục. Cho nên, nhất định chỉ xưng dương mặt phải tức là thiện, mặt trái thì chúng ta không xưng dương.

“Thiện” là tánh đức, “bất thiện” là trái với tánh đức. Cổ nhân thường nói “kính nhi viễn chi”, đối với người ác chúng ta vẫn “lễ kính” nhưng không “xưng tán”. “Viễn” là không theo họ, không bắt chước họ, như vậy là đúng. “Viễn” không phải là lánh thật xa, không phải ý này. Nếu làm như vậy thì tâm cung kính sẽ bị đánh mất. Cương lĩnh này chúng ta phải thực hiện ngay trong sinh hoạt hàng ngày, đối người tiếp vật. Phải tu chỉnh toàn bộ những suy nghĩ sai lầm, cách nhìn sai lầm, cách làm sai lầm trước kia, đây gọi là tu hành.

Trong Kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử với năm mươi ba tham vấn, chính là đem hạnh Phổ Hiền thực tiễn, biểu diễn hàng ngày cho chúng ta xem. Đó đích thật là bộ sách tốt nhất trong tất cả sách giáo khoa của thế gian, trong đây có lý luận viên mãn, có phương pháp vô cùng tinh tế. Thiện tài là đại biểu cho mô phạm, cũng chính là bản thân chúng ta, người tu hạnh Phổ Hiền. “Thiện” là thiện căn; “tài” là biểu trưng cho phước đức. Trong Kinh Di Đà nói: “Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức, nhân duyên đắc sinh bỉ quốc” (Không thể do căn lành, nhân duyên phước đức chút ít mà được sinh về quốc độ Cực Lạc đâu!) Có thể nói, người hội đủ thiện căn, phước đức vãng sinh Tây Phương Cực Lạc, người đó chính là Thiện Tài.

Năm mươi ba tham vấn của Thiện Tài đại biểu cho mọi tầng lớp trong xã hội, trong đó người xuất gia chỉ có năm vị, tại gia vẫn nhiều hơn. Đương nhiên trong đó cũng có kẻ xấu người tốt, có cả thiện lẫn ác, như Thắng Nhiệt Bà-la-môn đại biểu cho ngu si, Cam Lồ Hỏa Vương đại biểu cho sân khuể, tánh tình nóng nảy, gặp người hay sanh sự đánh người, chửi người, thậm chí đến sát hại người! Phạt

Tô Mật Đa là kỷ nữ, dâm nữ, đại biểu cho tham ái. Ba người này là đại biểu cho tham, sân, si tam độc phiền não. Thiện Tài đồng tử tiếp xúc với họ vẫn “lễ kính” nhưng không “tán thán”. Vì sao? Tham, sân, si là trái ngược với tánh đức.

Việc này nói với chúng ta, đối với người làm việc bất thiện, chúng ta vẫn phải lễ kính họ nhưng không tán thán. Đây là “ẩn ác dương thiện” mà cổ đức xưa đã dạy: Thấy người làm ác tuyệt đối không nói, một lời cũng chẳng nhắc. Thấy người tốt phải tán dương thì xã hội mới có thể chuyển ác thành thiện. Trong kinh văn phía sau, Phật dạy chúng ta “khéo giữ khẩu nghiệp, không nói lỗi người”.

– Xã hội ngày nay vì sao động loạn? Căn nguyên của động loạn là gì?

– Đó chính là người thế gian không nói đến “thiện” mà chỉ tận lực tuyên dương, tận lực tô vẽ cái ác khiến lòng người bất an. Nếu khuyên họ làm việc tốt; họ sẽ bảo bạn là người ngốc! Làm việc tốt đâu có ai khen, làm ác mới là anh hùng sẽ có biết bao người ca ngợi! Như vậy xã hội này làm sao có thể an định?! Xã hội ngày nay, luân lý đạo đức không có người giảng! Nếu nói đạo đức họ sẽ mắng: Anh lạc hậu rồi! Lỗi thời rồi! Đầu óc phong kiến không hợp với trào lưu thời đại.

– Cái gì là hợp thời?

– Bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa là hợp thời!

– Là người học Phật, chúng ta phải toàn tâm, toàn ý giúp xã hội này thay đổi thói xấu, phong tục tập quán không tốt.

– Làm thế nào đem nó chuyển đổi lại?

– Hoàn toàn dựa vào chúng ta, nhất định không thể đem trách nhiệm này đổ cho người khác, đổ cho người khác là sai! Chính mình phải làm cho được: Người thế gian bất trung, ta phải tâm

Người thế gian bất nghĩa, ta phải nghĩa khí. Người thế gian bất hiếu, ta phải tận hiếu. Giáo huấn của đại Thánh tiên Hiền chúng ta phải toàn bộ làm cho được.

Nếu mọi người đều có tín tâm kiên định, nỗ lực làm theo như phần trước đã nói: Tín Tuệ, Nguyện Tuệ, Hương Tượng Bồ Tát v.v…, cái thế giới này có thể được cứu, kiết vận có thể vãn hồi, tai nạn có thể hóa giải. Mỗi người chúng ta phải phát đại tâm như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Đại tâm phàm phu”, công đức và uy đức của họ vượt qua Thanh Văn, Duyên Giác, và quyền giáo Bồ Tát. Thanh Văn là A-la-hán; Duyên Giác là Bích Chi Phật, quyền giáo Bồ Tát là Bồ Tát Tam Hiền trở xuống.

– Thế nào gọi là phát “Đại tâm phàm phu?”

– Là người biết đem giáo huấn trong Kinh Vô Lượng Thọ dạy thảy đều làm cho được, công đức này khiến họ lập tức vượt qua bậc Tam Thừa. Đây là thật không phải giả! Vừa phát tâm liền siêu việt! Chân thật gọi là: “Buông bỏ đồ đao, lập địa thành Phật”. Phát tâm là quan trọng! Tầm nhìn của người thế gian rất cạn, chỉ mong cầu lợi trước mắt; hiện tại không có lợi ích, bảo họ làm Phật họ cũng không làm! Xin nói với bạn: Chỉ cần bạn phát Đại tâm, bạn liền có được lợi ích.

– Lợi ích gì vậy?

– Vĩnh viễn trẻ trung, vĩnh viễn khoẻ mạnh, dung mạo sáng lạn, Pháp hỉ tràn đầy, tự tại an vui, hiện tại có được lợi ích.

Thế gian xem tướng đoán mạng cũng thường nói: “Tướng tùy tâm chuyển”, “Đại tâm” của bạn vừa phát ra, (“Đại tâm” là gì? Là Phật tâm), thì tướng của bạn sẽ dần dần chuyển thành tướng Phật. Nếu thường giữ tâm thiện, lời thiện, việc làm thiện, tướng mạo, thân thể bạn sẽ liền thiện. Nếu giữ tâm ác, chuyên gây phiền phức cho người, chuyên nhìn khuyết điểm của người, tâm bạn ác, nói ác, làm ác, cuối cùng biến tướng mạo bạn cũng thành ác! Vậy thì tai họa làm sao không đến?! Vận mệnh con người hoàn toàn do chính bạn chủ động, không phải trên tay người khác.

Người như thế nào mới là “Đại tâm phàm phu”? Trên Kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử là mẫu mực “Đại tâm phàm phu”. Ngài gặp được Phật pháp, hoan hỉ tín thọ, lễ Bồ Tát Văn Thù làm thầy. Có lẽ bạn cho rằng Thiện Tài gặp vận may, gặp được Bồ Tát Văn Thù, một thầy giáo tốt như vậy, còn bạn đến đâu tìm thiện tri thức?! Tại bạn không biết! Bồ Tát Văn Thù ở ngay trước mặt mà bạn không nhận ra!

– Ai là Bồ Tát Văn Thù?

– Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh chính là Bồ Tát Văn Thù, biểu trưng trí tuệ. Trong kinh này, tràn đầy trí tuệ viên mãn, y theo kinh này mà tu học, chính là bạn thân cận với Bồ Tát Văn Thù. Nếu trực nhận ra được, ngoài chính bạn ra, thảy đều là chư Phật Như Lai: người thiện do Phật biến hiện, người ác cũng do Phật biến hiện; thuận cảnh hay ác cảnh đều do Phật biến hiện để thử thách bạn ngay trong đó mà tôi luyện, trải sự luyện tâm.

– Luyện cái gì?

– Luyện tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm Chánh Giác, tâm từ bi của chính mình. Đây là thật sự tu hành, thật sự công phu, thật sự là tấm gương cho người tu hành. Thế nên, Thiện Tài nhất định không có một bạn học; nếu có bạn học thì cả đời ngài cũng không thể thành Phật! Vì sao? Vì không thể làm được trọn vẹn sự lễ kính, tán thán! Anh là bạn tôi, anh và tôi ngang nhau; vậy là tánh đức của bạn đã kém khuyết đi một phần!

Tất cả cung kính, duy chỉ có một cái bạn không cung kính thì sao được thành tựu viên mãn! Một mê thì tất cả mê, một giác thì tất cả giác. Tất cả cung kính thì một cái nhỏ nhặt cũng không được bỏ. Cho nên, thị hiện của Thiện Tài trên đạo Bồ Đề: Học trò chỉ có mỗi mình ta, ngoài chính ta ra đều là Phật, Bồ Tát, đều là thiện tri thức. Chúng ta phải có cái thấy như vậy, phải dụng tâm như vậy mới đúng là tu hạnh Phổ Hiền.

Lúc trẻ đi học, thành thật mà nói, tôi có rất nhiều cách thấy, cách nhìn không hề giống như các bạn, ngay đến thầy giáo cũng không hề giống. Có lần đến lớp, trong bài văn giảng đến “Nhạc Phi tinh trung báo quốc”; nói đến Nhạc Phi, đương nhiên nói đến Tần Cối; ai mà không tán thán Nhạc Phi, không mắng Tần Cối! Quan điểm của tôi lại khác! Tôi nói:

– Tần Cối cũng không tệ! Là anh hùng của dân tộc! Mọi người trợn mắt nhìn tôi: Chú là người có đầu óc làm phản! Sao chú có cách nghĩ này?! Sau đó tôi giải thích cách thấy của tôi; vì sao cả hai người đều là anh hùng, đều rất cừ khôi, rất được chúng ta tôn kính: Nhạc Phi dạy chúng ta mặt chánh phải tinh trung báo quốc, tuy không may bị hãm hại mà chết, nhưng tấm gương trung nghĩa, mẫu mực của ông mãi lưu lại đời sau, khi nhắc đến tên ông, ai mà không nghiêng mình tôn kính! Chúng ta phải học tập, phải bắt chước ông.

Tần Cối, vì sao cũng là anh hùng dân tộc? Ông dạy ta mặt trái, ông đã làm việc sai trái, hãm hại trung lương, nên cuối cùng phải nhận chịu quả báo như vậy. Ông hiện thân nói pháp cho chúng ta thấy, đó là việc tốt, không phải là việc xấu. Chúng ta xem thấy Tần Cối, liền nghĩ ngay không dám làm việc xấu; nhìn thấy Nhạc Phi, gợi chúng ta nhớ phải làm việc tốt. Cả hai người đều là thầy giáo tốt. Tôi có thể nói ra một tràng đạo lý này. Do đây có thể biết, quần chúng xã hội đều là thầy của chúng ta, đều là điển hình mô phạm cho   chúng ta, đều là đại ân, đại đức giúp chúng ta thành tựu công đức của chính mình.

Tóm lại, “tán thán” thuộc về khẩu nghiệp; khẩu nghiệp thì chúng ta không nên khinh suất. Kinh Địa Tạng nói: Tương lai bị đọa vào địa ngục cắt lưỡi, nước đồng sôi đổ vào miệng, giường sắt nóng dính vào thân, đều do khẩu nghiệp mà gây tạo. Đây là chân tướng sự thật, không phải để hù dọa người, chúng ta phải nên hết sức cẩn trọng!

Nên nhớ: Là người học Phật, lễ bái, tôn kính Phật mà khẩu nghiệp không tu, suốt ngày chỉ thị phi nhân ngã thì một chút công đức của bạn đều rơi rụng hết, chỉ còn tích lũy tội nghiệp vô lượng vô biên. Cho nên, phải giác ngộ! Phải thông hiểu! Phải hồi đầu! Miệng này ngày ngày niệm A Di Đà Phật là “xưng tán Như Lai” thì trong tâm phải nhớ Phật. Trên miệng niệm Phật, tâm không xen tạp, không gián đoạn thì vô lượng vô biên công đức.

3.   QUẢNG TU CÚNG DƯỜNG

Điều này vô cùng quan trọng! Bồ Tát Phổ Hiền không phải tu bố thí mà ngài tu cúng dường. Thông thường, đối với Phật, Bồ Tát, đối với trưởng bối chúng ta mới cúng dường; đối với đồng bạn, với mọi người, chúng ta chỉ bố thí. Kỳ thật, bố thí và cúng dường là một sự việc, nhưng tâm thì khác nhau: Một bên có tâm cung kính; một bên tâm cung kính bị hạ thấp, thậm chí còn sinh tâm ngạo mạn khi bố thí! Có tâm cung kính thì đó là cúng dường; tâm cung kính không đạt đến tiêu chuẩn của Phổ Hiền vẫn gọi là bố thí.

Hạnh Phổ Hiền bố thí là đối với tất cả chúng sinh, bao gồm cả hàm linh xuẩn động, đều cung kính như cung kính cúng dường chư Phật. Được vậy thì phước báo vô cùng lớn, chúng ta phải nên học. Đặc biệt đối với người cùng khổ, không nên dùng tâm khinh mạn mà bố thí, phải dùng tâm cung kính mà bố thí như cúng dường chư Phật, đó mới là tu “Quảng tu cúng dường”.

Trong phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện đề ra Bảy đại cương về Pháp cúng dường như sau:

1. Như giáo tu hành cúng dường: (Tu hành đúng theo lời dạy để cúng dường). Chỗ này, chúng ta đặc biệt đề cao, phải đem Kinh Vô Lượng Thọ, mỗi câu mỗi chữ thảy đều làm cho được, đó chính là “như giáo tu hành cúng dường”.

2. Lợi ích chúng sinh cúng dường: Khởi tâm động niệm, lời nói, việc làm nếu thấy có lợi ích cho chúng sinh thì nên nỗ lực làm; nếu xét thấy không có lợi ích, nhất định không làm. Lợi ích chúng sinh thù thắng nhất vẫn là bố thí Phật pháp, đặc biệt là Kinh Vô Lượng Thọ, khiến cho tất cả chúng sinh hoan hỉ tín thọ phụng hành. Đây là thành tựu công đức “lợi ích chúng sinh cúng đường”.

3. Nhiếp thọ chúng sinh cúng dường: Điều này không phải dễ! Muốn nhiếp thọ chúng sinh, trước nhất chính mình cần phải có đức hạnh, có tu trì, có học vấn, mới có thể nhiếp thọ lòng người. “Nhiếp thọ” chính là bạn có một lực rất mạnh, có thể thu phục lòng người; người hiện tại gọi là “tâm lý học”. Làm thế nào có thể hiểu được tâm lý chúng sinh, dẫn dắt họ quay về Chánh pháp, đó chính là “nhiếp thọ chúng sinh cúng dường”. Nói cách khác, loại cúng dường này là thay thế tất cả chư Phật tiếp dẫn chúng sinh. Chúng ta phải tiếp dẫn tất cả chúng sinh qui hướng Tịnh Độ. Chỉ có pháp môn này mới một đời nhất định vãng

Trong nhà bạn, chúng sinh rất nhiều! Chuột, gián, ruồi, muỗi v.v… đều là chúng sinh, bạn phải nên giáo hóa chúng nó niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ, khuyên bảo chúng xả bỏ thân súc sinh. Đối với động vật còn phải vậy huống chi đối với người, càng phải thương yêu.

– Dùng phương pháp gì để nhiếp thọ?

– Phật tượng, Phật hiệu! Hiện tại, máy niệm Phật rất phổ biến, đối với người niệm Phật chúng ta, câu Phật hiệu trong nhà hai mươi bốn giờ không nên gián đoạn. Có người nói:

– Người trong nhà không tin! Họ phản đối niệm Phật!

– Đó chính là bạn tu chưa tốt!

Theo lý mà nói: Học trò của A Di Đà Phật là rất được mọi chúng sinh hoan nghinh. Bạn là học trò của A Di Đà Phật, không được họ hoan nghinh thì nhất định có vấn đề! Bạn phải cố gắng phản tĩnh, cố gắng kiểm điểm chính mình. Nhất định bạn chưa làm đúng như pháp, như lý. Làm gì có chuyện không được mọi người hoan nghinh chứ! Trong nhà nhất định bạn chưa tu lễ kính. Người trong nhà có lỗi lầm tuyệt đối không nhắc đến, không nên để trong lòng. Người nhà có gì tốt thì phải khen ngợi. Đây là thay đổi vận khí của cả nhà bạn. Nếu nhà nhà đều làm được như vậy, sẽ thay đổi được tập quán của xã hội.

Nên nhớ: Cúng dường là phục vụ! Nhiệt tâm vì gia đình phục vụ, chăm sóc đời sống đi lại của họ, đó chính là cúng dường. Dùng thể lực, lao tác để phục vụ là nội tài cúng đường. Nội tài thù thắng hơn so với ngoại tài. Dùng trí tuệ tư duy thay đổi cả sinh khí, nâng cao mức sống, hoàn thiện gia đình trải qua được đời sống an vui và hạnh phúc, đó là bạn dùng “Pháp cúng dường”, khiến mọi người an tâm làm việc, hăng hái làm việc, trẻ đi học thì nỗ lực siêng năng học tập… Chân thật là một gia đình mỹ mãn. Mở rộng ra là xã hội hài hòa, quốc gia an định, đó thảy đều là sự cúng dường. Nếu bạn không làm được, chỉ một mực trách người, đó là sai lầm!

Chân thật tu học như lý, như pháp nhất định có thể nhiếp thọ chúng sinh, khiến người ngưỡng mộ, khiến người noi theo, khiến người tự động, tự phát đến thỉnh giáo, học tập với bạn. Đây chính là “nhiếp thọ” có sức mạnh. Cho nên, chúng ta phải chân thật làm đến “nhiếp thọ chúng sinh cúng dường”, nhất định phải là tấm gương tốt cho mọi người trong gia đình cũng như ngoài xã hội.

4. Đại chúng sinh khổ cúng dường (Chịu khổ thế cho chúng sinh để cúng dường): Trên kinh Phật nói tất cả chúng sinh thọ dụng cả đời đều do tự làm tự chịu, không ai có thể thay thế. Biết vậy, nhưng chúng ta vẫn phải nỗ lực mà giúp họ. Chư Phật Như Lai, Pháp Thân Đại Sĩ v.v… đã siêu việt mười pháp giới, có thể an nghỉ Niết Bàn, nhưng do lòng bi mẫn các ngài vẫn thị hiện ở thế gian nầy tùy loại hóa thân, tùy cơ nói pháp, phổ độ tất cả chúng

Ngày nay, trong số đồng tu chúng ta, có không ít những người giàu có, nếu có thể đem đời sống sung túc của mình hạ thấp một bậc, dùng tiền của này bố thí, giúp những chúng sinh khổ nạn. Thường giữ cái tâm nầy đó chính là thay chúng sinh chịu khổ.

Đầu năm Dân Quốc lão Hòa Thượng Hư Vân, Đại Sư Ấn Quang đã nêu cao tấm gương tốt cho người xuất gia. Hai vị Đại Đức này đều rất tuyệt vời. Tín đồ của các ngài nhiều vô số, tài vật cúng dường các ngài cũng vô cùng phong phú. Thế nhưng, Hòa Thượng Hư Vân chưa từng may một bộ quần áo mới. Chúng ta xem thấy rất nhiều hình ảnh của ngài, quần áo ngài mặc trên thân đều là đắp vá rất nhiều chỗ. Tôi chưa thấy bức ảnh nào của ngài mặc quần áo không có đắp vá!

– Quần áo mới ngài có không?

– Có rất nhiều! Tín đồ vừa thấy ngài mặc quần áo rách, lập tức mang quần áo tốt, chất liệu tốt, thợ may đẹp đến cúng dường ngài, ngài cũng không xem qua, họ vừa đi, ngài liền đem biếu tặng cho người khác, ngài vẫn mặc quần áo cũ, chịu khổ thay cho chúng sinh, ngài đã thật làm!

Đại Sư Ấn Quang cũng thế, ngài ở chùa Báo Ân, Tô Châu thành lập một “Hoằng Hóa Xã”, chính là nơi lưu thông kinh Phật, ngài đem tất cả tiền cúng dường của mười phương làm vốn in kinh sách biếu tặng đến khắp nơi kết duyên với người. Sách của “Hoằng Hóa Xã” in rất đẹp, hiệu đính rất kỹ lưỡng, rất ít chữ sai. Cả đời ngài chỉ làm một việc nầy. Lúc ở Thượng Hải, “Hộ Quốc Tức Tai Pháp Hội”, trong lúc diễn giảng, ngài nhắc đến phương Bắc có tai nạn, từ trong tài khoản in kinh, ngài trích ra ba ngàn tiền Đại Dương đi cứu trợ. Có thể biết, tất cả tiền cúng dường, từng li từng tí ngài đều dùng để in kinh bố thí, không hề đem đi làm việc khác, không hề cải thiện đời sống của mình, một món ăn ngon cũng không đòi hỏi, không hề may một bộ quần áo mới, cũng không hề chỉnh lý hoàn cảnh nơi ở của mình, đây là ngài thay chúng sinh chịu khổ.

“Thay chúng sinh chịu khổ”, chúng ta có thực lực, nên tận hết sức để làm. Đặc biệt, khổ nạn lớn nhất của chúng sinh ngày nay là không nghe được Phật pháp. Không nghe được Phật pháp, họ vĩnh viễn chìm đắm trong mê hoặc điên đảo! Ngày tháng của họ ngày càng khổ, cái mê càng sâu! Cho nên, bố thí pháp là một trong những sự việc hàng đầu, là “thay chúng sinh chịu khổ” thù thắng nhất. Nếu có thật lực, nên xây đạo tràng, thỉnh Pháp sư giảng kinh thuyết pháp, giúp chúng sinh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, đó mới thật là vô cùng công đức!

– Phải xây dựng đạo tràng ra sao?

– Phải xây dựng đạo tràng mô phạm, thúc đẩy giáo dục Phật Đà, không làm kinh sám, không làm pháp sự, không làm pháp hội. Đạo tràng chúng ta thuần Tịnh Tông: Buổi tối giảng kinh, ban ngày niệm Phật. Có lẽ bạn sẽ hỏi:

– Đạo tràng không có pháp hội, không có pháp sự, làm thế nào để thu nhập?!

– Nếu chân thật muốn xả thân vì người, làm được như vậy mà phải chết đói thì thiết nghĩ chúng ta không cần phải tin Phật! Vậy Phật pháp là giả rồi! Nên biết: Người chân thật tu hành đúng pháp, không cần phải đi phan duyên người nào, không cần phải nịnh bợ một ai, cũng không cần phải xin tín đồ một xu nào. Nếu bạn chết đói, trong Phật pháp, vị thần hộ pháp thứ nhất là Bồ Tát Vi Đà phải bị cách chức để điều tra!! Đây là thật chớ không phải giả!

Cho nên, đạo tràng chân thật tu học nhất định được chư Phật hộ niệm; long thiên, thiện thần bảo hộ. Tuy không dư dã, nhưng đạo tràng của bạn quyết sẽ không có vấn đề. Nếu lương thực hết, Bồ Tát Vi Đà sẽ tìm người mang đến cho bạn, không thể để bạn thiếu hụt, không thể để bạn đói khát, cũng không thể để bạn lạnh rét. Chỉ cần bạn một lòng chuyên tâm niệm Phật, một lòng làm đạo thì tốt, danh vọng lợi dưỡng thảy đều buông bỏ; tâm địa thanh tịnh, bình đẳng, giác, đó gọi là đạo tràng chánh pháp, đạo tràng mô phạm. Không luận là đạo tràng lớn hay nhỏ, trong đó bốn chúng đồng tu đều có thể tuân theo sáu pháp hòa kính, đạo tràng này là đạo tràng đệ nhất thế gian! Công đức này thù thắng không gì bằng! Đây là giải hành tương ưng, chân thật là thay chúng sinh chịu khổ.

5. Cần tu thiện căn cúng dường: (Siêng năng tu tập căn lành để cúng dường): Đây là then chốt, thiện căn là tất cả pháp thiện từ nơi gốc này mà sinh Trong kinh Phật nói thiện căn của thế gian pháp có ba điều: Không tham, không sân, không si. Có những thứ này thì thật là bất an! Bệnh độc của thế gian có nghiêm trọng thế mấy, nhiều nhất chỉ chết một mạng người, nhưng “tham, sân, si”, tam độc này mới thật là tai hại, phiền phức! “Tham độc” quả báo ở đường ngạ quỷ; “sân độc” quả báo ở địa ngục; ngu “si độcquả báo ở đường súc sinh. Đến ba đường ác này mới biết được sự nghiêm trọng của nó.

Chỉ cần chúng ta trong mỗi giờ, mỗi lúc gìn giữ được tâm địa thanh tịnh, bình đẳng, giác đó chính là “cần tu thiện căn cúng dường”.

6. Bất xả Bồ Tát nghiệp cúng dường (Không bỏ hạnh Bồ Tát để cúng dường): Giả như trước kia chưa học Phật, bạn mở một cửa hàng nhằm mục đích kinh doanh đoạt lợi. Hôm nay học Phật, học làm Bồ Tát rồi, bạn mở cửa hàng không còn vì chính bạn mà vì xã hội đại chúng, vì phục vụ mọi người; cửa hàng đó của bạn chính là “ Bồ Tát nghiệp”. Cho nên, Phật Bồ Tát cùng chúng sinh chỉ khác nhau trong một niệm.

– Đối với bạn trẻ còn cắp sách đến trường, nếu mang trong tâm một hoài bảo: Ta phải gắng sức nỗ lực học tập thật tốt, lấy được học vị, sau này có thể phục vụ đại chúng, phục vụ xã hội, hoàn toàn không vì chính mình. Đây là học trò Bồ Tát”, việc đi học của bạn là “sự nghiệp Bồ Tát”.

– Nếu là chủ gia đình, có thể quên mình, dốc hết tâm sức nỗ lực làm việc, hướng dẫn, dạy dỗ, chăm sóc người thân, khiến mọi người trong gia đình đều được cuộc sống an vui, hài hòa, tự tại, đây đích thực là một gia đình gương mẫu, có trật tự, có kính nhường, bạn là “người chủ Bồ Tát”.

Sự nghiệp của Bồ Tát không cần phải vào tự viện, mà ngay trong đời sống, trong công việc, trong đối nhân xử thế, tiếp vật, chỉ cần có tâm niệm vì lợi ích chúng sinh, vì dẫn dắt chúng sinh phá mê khai ngộ, đều gọi là “Bồ Tát nghiệp”.

7. Bất ly Bồ Đề tâm cúng dường: (Chẳng rời tâm Bồ Đề để cúng dường). Trong bảy việc, việc đầu tiên và việc cuối cùng là quan trọng nhất. Tâm Bồ Đề là tâm chân thật, tâm triệt để giác ngộ. Đức Phật trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói tâm Bồ đề chính là chân tâm, bổn tánh của chính mình. Thể của tâm Bồ Đề là tâm chân thành:

Đối người, đối việc, đối vật nhất định phải dùng tâm chân thành, không thể dùng tâm hư vọng; phải nói lời thành thật, không tự gạt, không gạt người.

Tôi ở Hoa kỳ, có các đồng tu trách tôi:

– Pháp sư! Sao ngài không có bí mật nào hết vậy?!

– Bí mật gì?

– Tiền gửi trong ngân hàng!

Cái ngân hàng mà tôi gửi tiền mọi người đều biết. Họ nói việc này không thể cho người khác biết. Tôi nói vì sao không thể cho người khác biết? Hơn nữa số tiền đó không phải của tôi, tôi cũng sẽ không dùng đến. Số tiền đó do mọi người cúng dường, hiện tại chưa dùng nên phải để đó. Lúc có việc cần dùng mới lấy ra dùng, chính tôi từ trước đến giờ không dùng đến. Hiện tại, số tiền đó chi ra lớn nhất chính là cấp học bổng; còn lại là giúp cho một số khổ nạn.

Bảy loại pháp cúng dường trên đây mà Bồ Tát Phổ Hiền đã nói trong kinh Hoa Nghiêm, chúng ta nhất định phải học tập, phải quảng tu, phải dùng tâm chân thành, tận tâm tận lực mà vì lợi ích tất cả chúng sanh; phước báo ta có được sẽ giống như chư Phật trên quả địa Như Lai, viên mãn đến như vậy.