HỌC PHẬT TAM YẾU
Đại sư Ấn Thuận giảng
Thích Pháp Chánh dịch

 

IX. ĐẠI CƯƠNG VỀ TUỆ HỌC

 

(1) Tuệ học là trọng yếu của Phật học.
(A) Chỉ có tuệ học mới đủ để hiển dương sự đặc sắc của Phật pháp.

Phật pháp thâm sâu như biển, rộng lớn vô biên, nhưng những hành môn chủ yếu, ắt không ngoài: tín nguyện, từ bi và trí tuệ. Tất cả những công hạnh khác, chẳng qua đều là gia hành, quyến thuộc, đẳng lưu của ba hành môn vừa nêu trên. Cho nên tu học Phật pháp cần phải có ba hành môn này hổ tương nhiếp thọ, hổ tương thành tựu, tu trì đầy đủ, thì mới có thể đạt đến cảnh giới viên mãn. Tuy thế, hành giả mới vừa tiến nhập Phật môn, do vì căn tánh và hứng thú không đồng, đối với vấn đề này, hoặc giả có sự thiên trọng. Thế nhưng, đây chỉ là pháp phương tiện cho kẻ sơ học, nếu như dần dần hướng thượng tu học, mục đích rốt ráo vẫn là tu chứng viên mãn cả ba pháp môn (tín nguyện, từ bi, trí tuệ) này.

Tuy là như vậy, nhưng trong tất cả tôn giáo, có thể đại biểu đặc chất của Phật giáo một cách đầy đủ nhất, mà cũng là đặc điểm thù thắng, có thể hiển xuất Phật giáo khác biệt với bất kỳ một tôn giáo nào khác, tức là trí tuệ. Cho nên, Phật giáo là một tôn giáo (tôn trọng) lý trí. Đối với bất kỳ tôn giáo nào trên thế gian, chúng ta không thể nói rằng bọn họ không có ít nhiều trí tuệ, chẳng qua, những tôn giáo thông thường, phần lớn đều đặc biệt xem trọng tín ngưỡng, hoặc biểu hiện tâm hạnh nhân ái. Chỉ có tôn giáo của Ấn Độ, ngoài sự hàm nhiếo tín ngưỡng và từ ái, càng chú trọng đến mặt trí tuệ. Cho nên thông thường nói, tôn giáo của Ấn Độ vừa là tôn giáo vừa là triết học, vừa là triết học vừa là tôn giáo. Phật giáo xuất hiện trong hoàn cảnh tôn giáo văn hóa Ấn Độ, đối với phương diện này, đương nhiên cũng rất đặc biệt xem trọng. Thế nhưng, theo cái nhìn của Phật giáo, những tôn giáo phổ thông của Ấn Độ giảng về sự tu hành chứng ngộ, mặc dù thể nghiệm được những loại cảnh giới thù thắng, hoặc phát triển cao thâm, triết lý hình nhi thượng, đều không thể được xem là sự hoàn thành trí tuệ chân thật, mà chỉ là những công đức hữu lậu về thiền định hoặc du già. Trước khi đức Thế Tôn thành đạo, ngài đã từng đi cầu học ở các bậc thầy nổi danh, như A La La Ca Lam, Uất Đầu Lam Phất, v.v… Những vị này cũng đều cho rằng trình độ tu chứng của họ đã đạt đến cảnh giới Niết bàn tối cao, nhưng  y theo sự phê phán của Phật, chúng chẳng qua chỉ là cảnh giới của Vô tưởng định và Phi tưởng phi tưởng định, v.v…, mà vẫn chưa thoát khỏi sự sinh tử của ba cõi. Cho nên, các tôn giáo khác, tuy cũng có thể trừ khử một phần phiền não (thậm chí phần lớn các phiền não), nội tâm cũng có thể đạt đến một loại cảnh giới cực cao siêu, cực vi diệu, được tự do tự tại, mường tượng như đạt được giải thoát, thế nhưng, vì khiếm khuyết trí tuệ chân thật, đã không thể giải quyết vấn đề đến tận gốc rễ. Một khi định lực vị tiêu thoái, vô biên phiền não tạp nhiễm, vẫn có thể đều sinh trưởng trở lại, quả đúng như tục ngữ có nói: “Lửa ngoài đồng chưa tắt hết, đến khi gió xuân thổi liền cháy lớn trở lại.” Phật giáo sở dĩ trở thành Phật giáo, là nhân vì có đầy đủ cảnh giới thiền định siêu việt những tôn giáo thông thường, mà còn chú trọng đến sự sinh hoạt thể nghiệm của trí tuệ. Chúng ta tu học Phật pháp, nếu không nắm vững điểm tâm yếu này, mà chỉ chú trọng đến tín ngưỡng, hoặc chuyên trọng thiền định, thì sẽ đánh mất đặc chất của Phật pháp. Tuy rằng Phật giáo cũng cần có những phương tiện (tín ngưỡng, thiền định) này, nhưng nếu như phế bỏ trí tuệ, tức là không thể nào biểu hiện điểm đặc sắc tối cao vô thượng (không cùng chung với những tôn giáo khác) của Phật giáo.

(B) Chỉ có tuệ học mới có thể đạt đến chỗ thâm áo của Phật giáo.

Nội dung hoàn chỉnh của Phật pháp, tuy có sâu có cạn, hoặc Đại hoặc Tiểu, bao hàm vô cùng rộng lớn, thế nhưng, pháp môn (xuất thế gian) có thể siêu thắng tất cả tôn giáo học thuật của thế gian, chủ yếu là trí tuệ. Ước định pháp Thanh văn mà nói, ba pháp tăng thượng học (giới định tuệ), hoặc thêm “giải thoát” mà nói có bốn pháp, tức là khái quát toàn thể cương yếu của pháp môn Thanh văn. Y vào giới mà có thể đủ để tu tập đạt được Chánh định, y vào định thì mới có thể tu tập trí tuệ, phát tuệ rồi sau đó mới được giải thoát. Tầng bậc của ba tăng thượng học, giống như bậc thang, bước lên từng nấc, không thể thiếu một nấc nào. Thế nhưng, xét cho thấu đáo, chân chánh dẫn đạo chúng sinh tiến nhập cảnh giới giải thoát là do trí tuệ. Lại như, pháp môn Đại thừa, dùng sáu Ba la mật làm tổng cương, y vào bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến để tích tập rộng lớn tất cả tư lương, y vào thiền định để tu đắc Bát nhã ba la mật đa thì mới có thể thành tựu chứng quả Đại thừa, đoạn tận tất cả phiền não sinh tử. Cho nên trong thánh điển Đại thừa, nơi nào cũng tán thán nói: “Ở trong sinh tử vô lượng kiếp, tu tập tất cả pháp môn, nhưng vẫn không bằng ở trong một khoảnh khắc, đối với một bài kệ bốn câu trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, như thực tư duy, thọ trì, phụng hành.” Như vậy, có thể thấy, bất luận pháp Đại thừa, pháp Thanh văn, nếu như muốn thoát khỏi sinh tử, đoạn phiền não, chứng chân lý, cần phải y vào sức lực của trí tuệ mà hoàn thành. Nhưng điều này không có nghĩa là ngoài trí tuệ ra, cái gì cũng không cần, mà muốn nói là trong quá trình “đoạn hoặc chứng chân”, trí tuệ là một công cụ không thể thiết sót, và là một hành môn quan trọng nhất, quán triệt thỉ chung. Có trí tuệ thì mới có thể đạt đến cảnh giới thâm sâu của Phật pháp. Đối với tất cả pháp môn xuất thể, tuệ học là pháp tắc cơ bổn tối cao, tuyệt đối không có trường hợp ngoại lệ.

Ở đây, điều đáng chú ý là: trong pháp Tiểu thừa, ngoài định tăng thượng học, còn có tuệ tăng thượng học.  Trong pháp Đại thừa, phía sau thiền ba la mật, thì nói riêng về Bát nhã ba la mật đa. Đối với hành giả sơ học, tu tập pháp chỉ (định), còn phải tu pháp quán (tuệ). Thông thường, tuệ học được kiến lập trên cơ sở định học, nhưng tuệ học không phải là thiền định. Cho nên chúng ta cần phải chú ý thâm thiết đối với sự nhận thức và tu tập tuệ học, nhưng đối với các pháp môn phương tiện như tu định, tu thiền, tu chỉ, v.v…, cũng không được bỏ phế. Có người cho rằng: “Y vào định phát tuệ, nếu tu tập thành tựu định, thì trí tuệ sẽ tự nhiên phát xuất.” Điều này hoàn toàn hiểu lầm ý nghĩa tu hành của Phật giáo. Nếu như nói y vào giới đắc định, chẳng lẽ thọ trì giới hạnh thì được đắc định hay sao? Đương nhiên là không phải như vậy, thiền định cần phải tu tập mới được thành tựu. Cũng vậy, căn cứ vào bổn nghĩa của Phật pháp, tu đắc thiền định cũng chưa chắc có thể phát tuệ, mà chỉ là y vào sự tu tập thành tựu định lực làm cơ sở, rồi từ định tâm tu tập quán tuệ, thì mới có thể dẫn phát trí tuệ xuất thế gian. Trong ý nghĩa này, nói y vào định phát tuệ, quyết chắc không phải là một khi tu tập thiền định thành tựu, thì có thể phát tuệ. Nếu không, rất nhiều ngoại đạo đều đã đạt được định cảnh, hoặc sâu hoặc cạn, tại sao bọn họ không thể phát trí tuệ, đoạn phiền não, thoát sinh tử, giống như những bậc thánh trong Phật giáo? Nhân đây, chúng ta cần phải hiểu rõ, ước định nghĩa chung của sự tu học Phật pháp, cần phải quảng tu tất cả pháp môn, nhưng trong tất cả pháp môn này, chỉ có tuệ học là trực tiếp thông đạt được cảnh giới thâm sâu của Phật giáo.

(C) Chỉ có y vào tuệ học mới có thể thành thánh.

Tu học Phật pháp, tuy có nhiều loại pháp môn phương tiện, nhưng có thể chuyển phàm nhập thánh hay không, có thể nói rằng trí tuệ là đức tính đặc biệt của bậc thánh. Như thông thường nói có mười pháp giới là sáu phàm bốn thánh, đây là sự phân biệt giữa phàm và thánh, tức là giữa sự giác (ngộ) và sự mê (muội). Giác ngộ cho nên thành thánh, không giác ngộ cho nên là phàm phu. Ví như danh từ “Phật”, theo nghĩa dịch là bậc giác (ngộ), tức là có thể giác ngộ chân lý của vũ trụ và nhân sinh, biết rõ sự tướng của tất cả các pháp. Đức Phật nhân vì có đủ trí tuệ viên mãn, năng giác năng chiếu, cho nên gọi là bậc giác ngộ. Đồng thời, Phật được tôn xưng là: Thế gian giải, Chánh biến tri, quả đức cứu cánh mà đức Phật chứng đắc, cũng được gọi là Vô thượng chánh đẳng giác. “Phật”, bất luận là từ danh hiệu, hoặc là từ quả đức (thật ra danh hiệu là y vào quả đức mà thiết lập) mà nhìn, đều lấy “giác tuệ” làm trung tâm. Không những đức Phật như thể, mà hàng Bồ tát, Nhị thừa đều không xa lìa giác tuệ. Bồ tát, gọi đủ là Bồ đề tát đỏa, ý nghĩa là giác hữu tình, có thể giải thích là “hữu tình đã giác ngộ.” Như ngài Long Thọ nói: “Có một phần trí tuệ thì gọi là Bồ tát.” Trong Tiểu thừa, Bích chi phật gọi là Độc giác, hoặc Duyên giác. Danh từ “Thanh văn”, cũng có nghĩa là nghe lời dạy của đức Phật mà giác ngộ. Bốn hàng thánh: Phật, Bồ tát, Độc giác, Thanh văn, đều y vào trí tuệ mà thành thánh, cho nên không rời khỏi ý nghĩa “giác”, chỉ là có sự khác biệt giữa “đại giác” và “tiểu giác” mà thôi.

Giác tuệ, được xem như một đặc sắc của Phật giáo, đương nhiên không phải là một loại tri thức trừu tượng, hoặc là một loại lý trí khô khan lạnh lùng, mà là trong sự thống nhất lý tính giữa bi và trí, dẫn phát “chân tuệ như thực.” Giác tuệ, trong lịch trình tu chứng, là sự quán triệt thỉ chung. Bất luận là tự chứng, hoặc hóa độ kẻ khác, đều cần phải có trí tuệ dẫn đầu, đặc biệt là những hành giả Bồ tát tu học Đại thừa, vì muốn hóa độ chúng sinh, càng cần phải có vô biên phương tiện thiện xảo. Nhân đây, trong kinh điển đặc biệt ca ngợi trí tuệ, cho rằng trong tất cả công đức, trí tuệ giống như núi Tu Di so với các ngọn núi khác, như chuyển luân thánh vương so với các vua chúa khác, là siêu việt tất cả công đức, mà lại là hạch tâm (cốt tủy) của tất cả các công đức. Kinh điển Đại thừa nói: “Do y vào Bát nhã ba la mật đa, nhiếp đạo vô lượng vô số vô biên bất khả tư nghì công đức, thú hướng tiến nhập biển Nhất thiết trí.” Giáo pháp Thanh văn thừa cũng nói: “Minh (tuệ) là căn bổn của tất cả thiện pháp.” Trí tuệ là căn bổn của tất cả thiện pháp, tu chứng cần phải ly vào trí tuệ mới đạt đến cứu cánh viên mãn. Đây là điều mà Phật pháp tuyên thuyết một cách nhất trí. Trong tất cả các pháp môn, đối với trí tuệ là cơ bổn của các bậc thánh, cần phải đặc biệt tôn trọng và nỗ lực!

(2) Danh nghĩa và thể tướng cứu cánh của “tuệ.”
(A) Danh nghĩa của “tuệ.”

Tuệ, trong kinh luận Tiểu thừa, đã từng an lập nhiều loại danh xưng khác nhau, nhưng được dùng thông thường nhất là Bát nhã. Lại còn có những tên gọi như: quán, kiến, trí, phương tiện, quang, minh, giác, v.v… Trong Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, cũng lại có tên gọi là: chánh kiến, chánh tư duy, trạch pháp, v.v… Một cách khái quát, đều là những tên gọi khác nhau của tuệ. Nội dung mà các tên gọi muốn chỉ rõ, tuy không có sự khác biệt lớn lao, nhưng trong sự thuyết minh của Phật pháp, sự an lập của các tên gọi này, tự chúng cũng hàm nghĩa những đặc tánh khác biệt.

Trong các tên gọi khác nhau, ba tên gọi: Bát nhã (tuệ, prajna), xà na (trí, jnana), tỳ bát xá na (quán, vipassana), rõ ràng là đặc biệt quan trọng. Những tên gọi này, trong sự cộng thông, cũng có sự hiển nhiên khác biệt, thế nhưng, đương nhiên là thể tánh chân chánh của chúng không có sự sai khác. So với các tên gọi khác, “Bát nhã” có thể nói là tôn quý nhất, mà hàm nghĩa cũng rộng lớn thâm sâu nhất. Sự an lập của Bát nhã là chuyên trọng sự tu học tại nhân hành; đến lúc đạt được quả chứng cứu cánh viên mãn, thì Bát nhã được chuyển thành tên “Tát bà nhã” (Nhất thiết trí), hoặc “Bồ đề” (giác). Cho nên ngài La Thập nói: “Tát bà nhã là ‘lão’ Bát nhã.” Bát nhã đại biểu cho “nhân tuệ” trong sự học hành, còn trí và Bồ đề, v.v…, là y vào Bát nhã mà chứng ngộ “quả tuệ.” Lại nói về hai tên gọi: tuệ và quán. Tuệ dùng “giản trạch” (phân biệt chọn lọc) làm đặc tính. Nếu ước định tác dụng để lập danh, cái thể của tuệ (Hán: tuệ thể), dùng giản trạch làm đặc tánh này, ở giai đoạn sơ học, gọi tên là “quán.” Hành giả lúc bắt đầu tu tập tuệ, thường dùng tên gọi “quán” để thay thế (cho tuệ), đến lúc quán hạnh thành tựu, thì mới gọi là “tuệ.” Thật ra, hai tên gọi “quán” và “tuệ” này, ý nghĩa và thể tánh vốn là một, quán thông trước sau, chỉ là ước định sự tu hành lâu mau, sâu cạn để phân biệt sự thắng liệt mà thôi. Chúng ta nếu muốn hiểu rõ nội dung của “tuệ”, thì không thể xem thường ý nghĩa của “quán.”

Liên quan đến danh nghĩa của “quán”, trong Kinh Giải Thâm Mật, đức Phật đã nói với ngài Bồ tát Di Lặc: “Biện biệt chính xác, biện biệt thấu đáo, suy ngẫm sâu xa, khảo sát tường tận, hoặc lạc, hoặc tuệ, hoặc kiến, hoặc quán, đây gọi là tỳ bát xá na (quán).” Biện biệt, suy ngẫm, quán sát, khảo sát, v.v…, đều là công dụng của quán, nhưng tất cả thứ này cũng thông với tuệ. Tuệ cũng là “đối với cảnh sở duyên có tính biện biệt.” Tu tập quán tuệ, đối với cảnh được quán sát, không những cầu sự thấy biết rõ ràng, mà còn cần phải có thể dẫn phát sự biện biệt, suy ngẫm, khảo sát, v.v…, để có thể dẫn phát sự thể hội “tất cánh không tính” của các pháp. Bởi vì chỉ có loại khảo sát biện biệt như vậy mới là đặc tính của quán tuệ. Mười tám loại “không” trong Kinh Bát Nhã, tức là các loại pháp môn dùng để tìm cầu sự “vô tự tính” của các pháp. Nếu tu thập thành tựu quán môn, thì gọi là Bát nhã. Cho nên nói: “Chưa thành tựu gọi là Không, đã thành tựu gọi là Bát nhã.” Nhân đây, tu học Phật pháp, nếu vừa mới bắt đầu hạ thủ công phu, liền (quán sát) “tất cả vô phân biệt”, cho rằng do đây sẽ đắc “vô phân biệt”, đối với tất cả sự lý đều không cần biện biệt, suy ngẫm, thì sẽ vĩnh viễn không thể thành tựu tuệ học, mà chỉ là sự tu “chỉ”, hoặc chỉ là cảnh giới của thiền định.

(B) Thể tướng cứu cánh của tuệ.

Bắt đầu tu tập tuệ học, cần phải y vào trí tuệ tối cứu cánh, tối viên mãn làm mục tiêu, cho nên chân tướng của trí tuệ như thế nào, trước tiên, cần phải hiểu rõ một cách khái quát. Nếu không, nhân và quả không tương ưng, thì không cách nào đạt đến thành quả tối cực cứu cánh. Hiện nay, trí tuệ được bàn luận đến là ước định từ phần chứng của Bồ tát đến quả địa viên mãn của đức Phật mà nói. Phật pháp Đại thừa tuyên thuyết về tuệ học, ngài Long Thọ đã từng nói một cách đơn giản: “Bát nhã không phải là trí tuệ ly sinh (lìa chỗ này sinh chỗ kia) của ngoại đạo, mà cũng không phải là trí tuệ thiên chân (thiên trọng về Không) của Nhị thừa.” Tuy thế, ước định ý nghĩa rộng lớn mà nói, trí tuệ thiên chân và trí tuệ ly sinh cũng là những thành phần có đôi chút tương ưng với tuệ, thế nhưng (hai loại này) rốt ráo không thể trở thành trí tuệ cứu cánh của Đại thừa. Trí tuệ chân thật viên mãn của Đại thừa, thể tướng rốt ráo của nó, có thể từ bốn phương diện mà nhận thức:

(a) Tín trí nhất như. 

Nói đến trí tuệ, không phải là  hoàn toàn không liên quan với tín tâm. Ước định thông thường mà nói, một hành giả chân thật, lúc khởi đầu cần phải dùng tín tâm để khải phát trí tuệ, sau đó lại dùng trí tuệ để trợ giúp trưởng dưỡng tín tâm. Hai bên tương quan tương thành, cuối cùng đạt đến “tín trí nhất như”, tức là thành tựu trí tuệ chân thật. Trong pháp Thanh văn, hành giả sơ học, hoặc chú trọng tín tâm (tín hành nhân), hoặc chú trọng tuệ giải (pháp hành nhân), nhưng đến lúc chứng ngộ, tất cả đối với bốn “chứng tín” (Phật, pháp, tăng và giới), đều đạt được tín tâm thanh tịnh chân thực, mà cũng tức là đắc được trí tuệ chân thật, thành tựu trí chứng. Đây tức là “tín trí nhất như” của Nhị thừa. Trong kinh điển Đại thừa, ngài Văn Thù Sư Lợi là đại biểu cho “đại trí tuệ”, ngài không những khai thị những ý nghĩa thậm thâm về pháp tính của các pháp, mà còn đặc biệt tôn trọng sự phát Bồ đề tâm, sự phát khởi tín tâm Đại thừa, cho nên gọi ngài Văn Thù là thầy của chư Phật. Y vào Đại thừa chánh tín, tu tập Văn Thù trí, mà chứng ngộ Bồ đề, đây là pháp môn “tín trí nhất như” của Đại thừa.

(b) Bi trí giao dung. 

Trí tuệ thiên chân của hàng Thanh văn không thể hoàn toàn khế hợp với chân nghĩa của Phật giáo, nghĩa là, nhân vì họ thiên trọng sự thể nghiệm sinh hoạt của lý tính, tâm từ bi không đủ, cho nên sau khi chứng đắc giải thoát cứu cánh, khó có thể phát đại nguyện, quảng độ chúng sanh, thực hiện vô biên sự nghiệp công đức (công hạnh). Trí tuệ của Bồ tát mới thực sự là chân thật Bát nhã. Nhân vì lúc Bồ tát chứng ngộ triệt để pháp tính, thì đã có đầy đủ tâm thương xót tha thiết, đã có hạnh nguyện rộng lớn; trí tuệ chân chánh, tức là bi và trí hòa hợp (Hán: giao dung). Kinh điển Đại thừa nói: “Nếu như không đủ Bi tâm mà gấp cầu Không trí, thì phần lớn đều rơi vào hố sâu của Tiểu thừa, đánh mất ý nghĩa căn bổn của Bát nhã (Đại thừa) là sự hòa hợp giữa bi và trí, chướng ngại sự tiến tu Phật đạo.”

(c) Định tuệ quân bình. 

Tu học pháp Đại thừa, nếu thiên trọng thiền định (định mạnh tuệ yếu), hoặc thiên trọng trí tuệ (tuệ mạnh định yếu), đều không thể nào chứng đắc pháp tính thâm sâu, thành tựu trí tuệ chân thực. Nếu như tuệ lực của sự biện biệt, khảo sát tuy mạnh, nhưng định lực không đủ, giống như đuốc trong gió, dễ dàng bị thổi tắt. Như ngài A Nan, tuy được gọi là đa văn đệ nhất, nhưng cho đến khi đức Phật nhập Niết bàn, vẫn chưa chứng quả A la hán, đây là vì ngài chú trọng đến trí tuệ đa văn, nhưng định lực không đủ. Ngược lại, nếu như công phu của định quá sâu mà trí tuệ bạc nhược, thì cũng không phải là chánh đạo của Phật pháp, nhân vì trong định sâu, có thể sẽ dẫn phát một loại kinh nghiệm đặc thù, cực kỳ tịch tĩnh, cực kỳ vi diệu, khiến cho thân tâm sung mãn cảm giác của sự tự tại, khinh an, diệu lạc. Trong sự thọ dụng mỹ diệu này, dễ dàng say sưa thỏa mãn, nhưng ngược lại, sẽ là chướng ngại cho sự tu chứng trí tuệ. Cho nên kinh luận thường nói: “Những định cảnh thông thường, thâm sâu nhất, ngược lại không thể tương ưng với trí tuệ, không cách nào chứng ngộ.” Ngài Long Thọ nói: “Bồ tát thất địa được gọi là ‘đẳng định tuệ địa’, định tuệ bình đẳng mới chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn.” Đến lúc đó thâm nhập “vô sinh”, không còn thoái thất Đại thừa.

(d) Lý trí bình đẳng. 

Trí tuệ chân thật hiện tiền, tức là chứng lý thâm sâu của pháp tính, ước định danh ngôn để phân biệt, có “năng chứng trí” và “sở chứng lý”, thế nhưng, trong sự chứng nhập pháp giới vô sai biệt, là sự siêu vượt “năng và sở”, cho nên lúc hiện chứng trí tuệ chân thật, lý và trí bình đẳng, không hai không khác. Như trong kinh nói: “Không có như ở ngoài trí, không có trí ở ngoài như.”

Bốn điểm ở trên là nội dung mà trí tuệ cần phải có. Trong đây “tín trí nhất như”, “định tuệ quân bình”, “lý trí bình đẳng”, có thể thông với trí tuệ “thiên lệch” của Tiểu thừa, chỉ có “bi trí giao dung” mới là ý nghĩa “bất cộng” đặc sắc của Bát nhã Đại thừa. Bát nhã Đại thừa, tuyệt đối không phải là trí tuệ phân biệt trừu tượng, cũng không phải là lý tính thiên lệch khô khan, mà là có tín nguyện, có từ bi, vô cùng tịch tĩnh, vô cùng minh liễu (sáng suốt), tràn đầy sinh mạng (sức sống) tôn giáo. Cho nên, Đại thừa tuệ, có thể khế ngộ lý tính, đều hàm nhiếp vô biên đức tính (từ bi, tinh tiến, v.v…). Y vào Bát nhã tuệ đoạn trừ phiền não, chứng chân lý, có thể đắc pháp thân, đây là ý nghĩa chung của Phật giáo Đại thừa. Pháp thân, tức là thân do vô biên thiện pháp tạo thành, hoặc là thân do vô biên thiện pháp nương tựa, đều là không rời pháp tính, và đầy đủ vô biên công đức. Cho nên đức Phật chứng Bồ đề, hoặc thành tựu trí tuệ cứu cánh, đều dùng trí tuệ làm trung tâm, mà hàm nhiếp tất cả thiện pháp thanh tịnh. Chúng ta đối với sự tu tập tuệ học, không những cần phải liễu giải đặc tính của trí tuệ, mà còn phải hiểu rõ sự tương ưng giữa trí tuệ chân thật và những công đức khác. Như kinh nói: “Bát nhã nhiếp đạo vạn hạnh, vạn hạnh trang nghiêm Bát nhã.” Trong quá trình tu học, đối với tín nguyện, từ bi, cho đến thiền định, v.v…, cũng phải nên đồng thời tùy thuận tu tập thì mới có thể hiển phát Bát nhã chân tuệ.

(3) Phân loại Bát nhã.
(A) Ba loại trí tuệ.

Do vì tính tướng của các pháp quá sâu quá rộng, cho nên trí tuệ có thể thông đạt giải ngộ các pháp, cũng có sự phân loại lý sự, sâu cạn khác nhau. Hiện nay nêu ra để thảo luận những điểm quan trọng nhất mà trong giáo điển thường đề cập đến. Trí tuệ có thể quy nạp thành ba loại trí tuệ, mà sự phân loại này cũng lại phân thành nhiều loại như sau:

(a) Sinh đắc tuệ, gia hành tuệ, vô lậu tuệ. 

Ba loại này được xem là một sự phân loại mà chúng ta thường gặp.

(i) Sinh đắc tuệ: tức là tuệ tính vốn có lúc chúng ta được sinh ra. Mỗi người chúng ta, cho đến tất cả chúng sinh, đều không thể nói là không có một số tuệ lực. Nhân vì mỗi hữu tình, trong sinh hoạt hiện thực, đối với những sự vật nhận thức được, ít nhất đều có đầy đủ một năng lực nhận biết phân biệt, chọn lựa. Như bàn đến nhân loại, bất luận là người trí, ngu, tốt, xấu, mọi người sinh ra đều có một trí năng phân biệt thị phi, đúng sai, v.v… Đây là một biểu hiện của “sinh đắc tuệ.” Chẳng qua, loại sinh đắc tuệ này vẫn còn cần đến sự bồi dưỡng và trợ thành sau này, chẳng hạn như sự giáo dục của cha mẹ và sư trưởng, sự đào luyện của xã hội và văn hóa, cho đến những kinh nghiệm sinh hoạt tự thân, v.v…, đều là nhân duyên cho sự trợ giúp phát triển sinh đắc tuệ. Có được tất cả những trợ duyên tốt đẹp thì sinh đắc tuệ của nhân loại mới có thể phát triển toàn bộ, cho nên (nếu có người) nói đến sự ưu việt của dân tộc tính, v.v…, thì đây đều chỉ là nhân tố hạn hẹp sau này. Bàn luận đến sự thành tựu của trí này (sau khi sinh), chỉ là sự phát triển hay không phát triển, chứ không phải sự khác biệt về bổn chất. Chúng ta tu học Phật pháp, hoặc nghe kinh nghe pháp, hoặc nghiên cứu tìm tòi, đối với Phật pháp có sự hiểu biết, thậm chí có thể nói hữu nói vô, nói tâm nói tánh, hoặc đàm luận cao siêu về thánh đức của Phật quả, về cảnh giới “trùng trùng vô ngại”, cái tuệ lực “có thể biết có thể hiểu” này, có thể vẫn thuộc về sinh đắc tuệ. Nhân vì tri thức thông thường của thế gian có thể làm được, so với trí thức phổ thông không khác biệt bao nhiêu. Người học nếu như đình trệ ở đây, tự mãn tự túc, mà không chịu khẩn cầu sự thăng tiến, thì ở trong Phật pháp, người đó chẳng qua chỉ đạt được một mớ học vấn thế gian mà thôi, dù rằng sự hiểu biết đó toàn bộ đều là Phật pháp. Y vào sinh đắc tuệ để hiểu biết Phật pháp, chỉ là một bước đầu tiên trong sự tu học Phật pháp, cũng chỉ là một loại tiền phương tiện để thâm nhập Phật pháp, và vẫn chưa phải là tuệ lực mà chỉ riêng Phật giáo mới có.

(ii) Gia hành tuệ: gia hành tuệ so với sinh đắc tuệ có sự khác biệt rất lớn, nó không những có trí lực cao độ về lý giải, tư khảo, quyết trạch, mà hơn nữa, y vào tín niệm kiên cố, trải qua một phen hành trì tinh chuyên thành khẩn (Hán: đốc thực), và sau đó, từ trong nội tâm thanh tịnh phát sinh trí tuệ. Loại trí tuệ này, hoàn toàn do sự khải phát dẫn đạo của gia hành lực của Phật pháp, không phải do những sự hiểu biết thông thường thế gian có thể đạt đến. Loại gia hành tuệ này, trong giáo điển phân làm ba giai đoạn, tức là ba tuệ: văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ.

Văn tuệ, là y cứ vào tuệ lực của sinh đắc tuệ, do thân cận thiện tri thức, huân tập đa văn, dần dần thâm nhập Phật pháp. Dùng lòng tin thanh tịnh, dẫn phát một loại cảnh giới tương tự với chứng ngộ, đạt được tâm tín giải tương đối sâu xa đối với Phật pháp. Đây là y vào sự nghe pháp mà thành tựu trí tuệ, cho nên được gọi là “trí tuệ thành tựu do nghe pháp.” Không nên hiểu lầm! Chớ nên cho rằng nghe kinh pháp có được một ít  hiểu biết là đã thành tự văn tuệ. Cần phải biết, văn tuệ là thông qua ý niệm thanh tịnh của nội tâm mà dẫn phát một loại trí tuệ đặc thù đối với sự lý giải và quyết trạch Phật pháp, không phải những loại tri thức thông thường có thể so sánh.

Tư tuệ, là dùng văn tuệ làm cơ sở, mà tiến thêm một bước, tư duy (suy ngẫm), khảo biện, phân biệt, quyết trạch; đối với pháp tính thậm thâm của các pháp và sự tướng của nhân duyên quả báo, có sự thể nhận càng thâm sâu, liễu ngộ càng thân thiết. Loại tuệ giải do tư duy dẫn sinh này gọi là “tư sở thành tuệ.”

Tu tuệ, là trí tuệ thành tựu do sự nghe pháp và tư duy, là sự giải ngộ đối với Phật pháp, tương ưng với định tâm, quán sát quyết trạch thực tướng của các pháp và vô biên hành tướng của nhân quả duyên khởi. Tu tập pháp chỉ quán song vận mà phát khởi trí tuệ thâm sâu được gọi là “tu sở thành tuệ.”

(iii) Vô lậu tuệ: Trong ba gia hanh tuệ, văn tuệ là bước đầu, vẫn chưa rời khỏi sự tầm tư, lý giải những danh ngôn chương cú (của sự nghe pháp); tư tuệ dần dần tiến triển và trở thành nội tâm, đối với sự hiểu rõ ý nghĩa của văn tuệ, tăng gia quán sát, tư khảo thâm sâu. Định nghĩa đặc thù của tu tuệ là tương ưng với định, không y cứ vào văn ngôn chương cú mà quán sát pháp nghĩa. Ba tuệ văn tư tu này gọi chung là gia hành tuệ, nhân vì chúng vẫn chưa chân chánh đạt đến giai đoạn thực chứng. Trải qua sự tu tuệ thành tựu, định tuệ tương ưng, chỉ quán song vận, giản trạch (phân biệt chọn lọc), quán chiếu càng sâu xa triệt để hơn, cuối cùng dẫn phát vô lậu tuệ, còn được gọi là hiện chứng tuệ, do vô lậu tuệ này mà đoạn phiền não, chứng chân lý, đây mới chính là mục tiêu của tuệ học.

Thế nhưng, bàn luận tổng quát về tuệ học, đương nhiên phải y vào sinh đắc tuệ, trải qua trình tự của gia hành tuệ (văn tư tu) thì mới có thể đạt đến mục tiêu này. Quá trình tu tập tuệ học, bất luận là Đại thừa, hoặc Tiểu thừa, đều là nhất trí. Nếu án chiếu thuyết “lục tức” của Thiên Thai Tông, thì sinh đắc tuệ thuộc về giai đoạn “lý tức”, ba gia hành tuệ (văn tư tu) thuộc về “danh tự tức”, “quán hạnh tức”, và “tương tự tức.” Vô lậu tuệ thì mới là “phần chứng tức” đến “cứu cánh tức.” Cho nên, chứng ngộ pháp tính thậm thâm, tuy là sự việc của vô lậu tuệ, nhưng muốn đắc vô lậu tuệ thì không thể bỏ phế sinh đắc tuệ, mà lại càng không thể xem thường văn tư tu tuệ. Nói cách khác, nếu không dùng văn tư tuệ làm cơ sở, thì trên căn bổn, không thể thực hiện vô lậu tuệ, tự nhiên cũng không thể bàn đến việc “đoạn phiền não chứng chân lý.” Dùng vô lậu tuệ để đoạn hoặc chứng chân là mục tiêu cứu cánh của sự tu học Phật pháp, nhưng sinh đắc tuệ và văn tư tu tuệ là phương tiện cần thiết để đạt đến mục tiêu này. Điều này không những là định thuyết (lời dạy cố định) của các kinh luận Ấn Độ, mà ngay cả các bậc cổ đức như ngài Thiên Thai Trí Giả, v.v…, cũng đều không đi ngược với đường hướng tu tập này. Cho nên người mới tu học Phật pháp cần phải chú ý: Một là, không nên cho rằng nghe kinh, xem kinh, nhẫn đến nghiên cứu, giảng thuyết, là một sự thành tựu tuệ học, mà cảm thấy tự  mãn cao ngạo. Hai là, cần phải nhận rõ, tức là dù có tiến thêm một bước là dẫn phát văn tư tu tuệ, thì đây cũng chỉ là giai đoạn phương tiện tu học Phật pháp, cách mục tiêu cứu cánh vẫn còn rất xa, chớ nên nhân đây mà khởi tăng thượng mạn, cho rằng đã chứng đắc viên mãn, hoặc là đã ngang hàng với Phật. Ba là, nếu muốn đắc chân thực trí tuệ, không nên bỏ phế sinh đắc tuệ và gia hành tuệ, không nên xem thường công hạnh huân tu văn tuệ và tư tuệ.

(b) Căn bổn vô phân biệt trí, gia hành vô phân biệt trí, hậu đắc vô phân biệt trí.

Đây là chuyên ước định sự chứng nhập pháp tính vô phân biệt mà nói. Chân thực tuệ tương ưng với pháp tính, chứng ngộ chân như pháp tính, gọi là căn bổn vô phân biệt trí. Trong đây, phương tiện để trải qua sự tu hành để có thể chứng được chân như pháp tính, được gọi là gia hành vô phân biệt trí, tức là gia hành tuệ. Thông qua căn bổn vô phân biệt trí mà dẫn phát khả năng quán chiếu quán sát vạn vật, thì tức là hậu đắc vô phân biệt trí.

(c) Thế gian trí, xuất thế gian trí, xuất thế gian thượng thượng trí.

Đây là từ phàm phu đến Phật quả mà phân biệt thành ba loại trí tuệ. Thế gian trí, là chỉ cho trí tuệ có đầy đủ năng lực phân biệt quyết trạch của hàng phàm phu thông thường và những học giả chưa chứng thánh quả. Xuất thế gian trí, là chỉ cho chứng tuệ có thể thông đạt hành tướng của các pháp, như là khổ, không, vô thường, vô ngã của các bậc thánh Nhị thừa. Xuất thế gian thượng thượng trí, là Đại thừa bất cộng tuệ của chư Phật và Bồ tát. Tuy xuất thế gian, nhưng nhị đế vô ngại, tính tướng đều chiếu, siêu thắng trí tuệ xuất thế thiên chân của Nhị thừa, cho nên được gọi là xuất thế gian thượng thượng trí. Lối phân loại này, ý nghĩa rất tương cận với Luận Đại Trí Độ của ngài Long Thọ: ly sinh trí của ngoại đạo, thiên chân trí của Nhị thừa, và Bát nhã trí của Bồ tát.

(d) Nhất thiết trí, đạo chủng trí, nhất thiết trí trí. 

Trong Kinh Bát Nhã lại phân thành ba loại: nhất thiết trí, đạo chủng trí và nhất thiết trí trí. Loại phân biệt này là muốn nói đến trí tuệ sai biệt của các bậc thánh Tam thừa là Thanh văn, Bồ tát và Phật. Các thánh giả Nhị thừa (Thanh văn, Duyên giác), vốn cũng thông đạt cả hai phương diện (lý tính và sự tướng), gọi là tổng tướng trí và biệt tướng trí. Thế nhưng, nhân vì tâm yếm ly (nhàm lìa sinh tử) tha thiết, đặt nặng đến tổng tướng trí có thể thông đạt pháp tính phổ biến, cho nên có tên gọi là nhất thiết trí. Bồ tát Đại thừa cũng đầy đủ hai trí, tức là đạo trí và đạo chủng trí. Thế nhưng lại chú trọng đến việc từ chân xuất tục, một mặt quán Không, vô ngã, v.v…, tương ưng với pháp tính thường biến, một mặt dùng các loại pháp môn để thông đạt các loại sự tướng. Tâm bi độ sinh của Bồ tát thâm hậu, cho nên các ngài học tất cả pháp môn, đây gọi là “pháp môn vô lượng thệ nguyện học.” Chân chánh tu hành Bồ tát hạnh, dĩ nhiên phải chú trọng đến quán trí rộng lớn, cho nên gọi là đạo chủng trí. Bậc Đại giác Phật Đà, cứu cánh thông đạt tính tướng của các pháp, vô hạn sự sai biệt của nhân quả duyên khởi, có thể không cần phải gia công, mà có thể “tuy chân mà tục”, “tuy tục mà chân”, chân tục vô ngại, trí tuệ tối cực viên mãn, cho nên có tên gọi riêng là “nhất thiết trí trí.” Do ba loại phân biệt của Kinh Bát Nhã, chúng ta có thể thấy được đặc tính khác nhau của trí tuệ của Ba thừa.

(B) Hai loại trí tuệ.

Trong kinh luận liên quan đến sự phân loại “hai loại trí tuệ”, cũng có nhiều loại khác biệt.

(a) Ước định kinh điển Thanh văn.

Trước tiên, ước định kinh điển Thanh văn mà nói, có: pháp trụ trí và Niết bàn trí. Trong kinh nói: “Cần phải trước tiên đắc pháp trụ trí, sau đó đắc Niết bàn trí.” Pháp trụ trí, tức là trí tuệ thiện xảo, an lập duyên khởi nhân quả, cần phải đặt cơ sở trên sự tướng duyên khởi của hữu tình, thì mới có thể thông đạt thực tính của các pháp là khổ, không, vô thường, vô ngã, mà chứng nhập thánh cảnh giới Niết bàn. Người xưa nói: “Nếu không y vào thế tục đế, không thể chứng đắc đệ nhất nghĩa”, đây cũng là ý này. Nhân vì “đệ nhất nghĩa đế” bình đẳng nhất như, không có tướng sai biệt, không thể an lập, tư nghì, ngôn thuyết, mà chỉ có thể y vào thế tục đế, dần dần tu tập, mới có thể khế nhập chứng ngộ. Cho nên tu học Phật pháp, chớ nên xem thường sự hiểu rõ (Hán: liễu giải) sự tướng của nhân quả duyên khởi, mà chỉ chuyên trọng đệ nhất nghĩa trí (siêu việt thù thắng). Bởi vì như vậy sẽ dễ dàng rơi vào lỗi lầm là rơi vào “không kiến”, hoặc là rơi vào “chấp lý bỏ sự.”

(b) Ước định kinh điển Đại thừa.

Hai loại (trí tuệ) mà trong pháp Đại thừa thường nói đến – sự lý trí tuệ, có rất nhiều danh hiệu khác nhau. Thông thường hay nghe đến, như Kinh Bát Nhã nói đến Bát nhã (tuệ) và phương tiện (upāya). Kinh Duy Ma Cật dịch là tuệ, phương tiện. Bát nhã và phương tiện, cần phải nương nhau để thành tựu, cần phải nhiếp hộ nhau thì mới có thể phát huy diệu dụng thù thắng là lìa trói buộc được giải thoát, cho nên Kinh Duy Ma Cật nói: “Tuệ mà không có phương tiện là trói buộc, phương tiện mà không có tuệ là trói buộc; tuệ mà có phương tiện là giải thoát, phương tiện mà có tuệ là giải thoát.” Hai loại trí tuệ này, Kinh Bát Nhã còn gọi là đạo trí và đạo chủng trí; các nhà Duy Thức gọi là căn bổn trí và hậu đắc trí, hoặc gọi là tuệ và trí, hoặc gọi là thực trí và quyền trí, hoặc gọi là lý trí và lượng trí. Những sự phân loại này, trong Bồ tát học của Đại thừa, vô cùng trọng yếu. Thực tướng cứu cánh của các pháp, xưa nay vốn bình đẳng, vô nhị vô biệt (không hai không khác), không thể an lập, bất khả tư nghì, chỉ y vào quá trình của chúng sinh từ tu học đến chứng nhập mà nói. Các pháp được quán sát thông đạt, tổng quát có thể phân làm hai loại: (i) Như sở hữu tính, và (ii) tận sở hữu tính. Như sở hữu tính là Không tính bình đẳng phổ biến của tất cả các pháp, hoặc gọi là “tịch diệt tính”, “bất sinh bất diệt tính.” Tận sở hữu tính, tức là vô hạn tính sai biệt của tất cả duyên khởi nhân quả, sự tướng y chánh trong tất cả pháp giới. Do đây, nói đến trí tuệ của Bồ tát, bèn có  hai loại là Bát nhã và phương tiện. Bồ tát đầy đủ hai trí, nếu ước định sự lý chân tục mà nói, thì phần trên vừa nói, tức là: chứng chân như pháp tính, và chiếu hiện tượng của vạn pháp; nếu ước định tự tha giác chứng, tức là: tự chứng Không tính, và phương tiện hóa tha. Đây đều là hai mặt thắng dụng của trí tuệ Đại thừa. Thế nhưng, trong pháp tính tuyệt đãi, pháp chỉ là “chân pháp bất nhị”, hoặc gọi là “nhất chân pháp giới”, vốn không có tướng cách biệt giữa chân tục sự lý. Nhân đây, trí tuệ cũng chỉ là một Bát nhã mà thôi. Cho nên ngài La Thập cho ví dụ: “Bát nhã như vàng ròng, phương tiện giống như vàng ròng được chế biến thành các khí cụ trang sức, cả hai đều là khác mà không khác.” Tu học Phật pháp, đến lúc công hạnh thành tựu, tức là trước tiên chứng đắc Bát nhã căn bổn trí, chứng Tất cánh không tính, sau đó khởi phương tiện hậu đắc trí, thông đạt duyên khởi, nghiêm tịnh Phật độ, thành tựu hữu tình. Sau đó, chân trí và tục trí, dần dần chuyển biến dung hợp, đến lúc chân tục viên dung, hai trí cùng quán, tức là trung đạo trí tối cứu cánh viên mãn của Phật pháp.

Liên quan đến những sự phân loại khác của trí tuệ, kinh luận nói đến rất nhiều. Ngoài hai loại, ba loại trí tuệ vừa nêu trên, còn có bát nhẫn, bát trí của các học vị Tiểu thừa, cho đến tận trí, vô sinh trí của quả vị  A la hán. Lại như trí tuệ của quả vị Đại thừa, phái Duy Thức khai mở thành: thành sở tác trí, diệu quán sát trí, bình đẳng tính trí, và đại viên kính trí. Mật tông lại tăng thêm: pháp giới thể tính trí, thành Ngũ trí của Phật quả (diệu quán sát trí và bình đẳng tính trí thông với giai vị Bồ tát). Lại như Kinh Nhân Vương Hộ Quốc thuyết minh từ Bồ tát đến quả vị Phật có năm nhẫn. Nói tóm, Phật pháp y vào nhiều loại ý nghĩa khác nhau, giai đoạn khác nhau mà an lập nhiều sự phân loại về trí tuệ. Mặc dù sự phân loại nhiều đến vô lượng vô biên, nhưng rốt ráo, cảnh giới mà hành giả chứng đắc, chỉ là một chân như pháp tính. Trí tuệ năng chứng, cũng chỉ có một Như như trí; dùng như như trí khế nhập như như lý, trực đạt cảnh giới viên mãn vô ngại tối cao.

(4) Quán cảnh của tuệ.
(A) Trí tuệ chung của Ba thừa.

Trong phần tự thuật ở trên, chúng ta có thể biết rằng đặc tính của tuệ là: phân biệt, quyết trạch, tầm tư, v.v… Như vậy, đối tượng được phân biệt (sở quán cảnh) là gì? Trong Kinh A Hàm, Đức Phật đã từng nói: “Nếu đối với một pháp không biết khắp (Hán: biến tri), không chứng, thì không được giải thoát.” Mục đích của sự tu học Phật pháp là cầu giải thoát. Sự giải thoát là chung cho Ba thừa; mà muốn đạt đến mục đích này, cần phải có trí tuệ thậm thâm, thông đạt tất cả các pháp. Nói cách khác, cảnh sở quán của tuệ tức là tất cả pháp, đối với “không vô ngã tính” của tất cả pháp, phải có thể thông đạt, ngộ nhập cứu cánh. Cho nên Phật pháp vô cùng xem trọng trí tuệ xuất thế, mà đặc tính là đối với mỗi một pháp, chứng kiến pháp tính phổ quát.

Trong tuệ học, y vào căn cơ của hành giả, có thể phân làm hai loại: (a) Tiểu thừa tuệ (Đại thừa cũng có), còn gọi là tuệ chung cho Ba thừa. (b) Đại thừa tuệ, chỉ riêng Bồ tát mới có, không chung với Nhị thừa, hoặc gọi là Đại thừa bất cộng tuệ. Sự khác biệt giữa trí tuệ chung cho Ba thừa và trí tuệ riêng cho Đại thừa, tức là cảnh sở quán khác nhau. Quán cảnh của học giả Nhị thừa, có thể nói chỉ là “gần thì lấy thân (thể) làm đối tượng quán sát”, tức là trực tiếp quán sát thân tâm của chính mình. Hành giả Bồ tát, không những quán sát tự thân tâm, mà đối với các pháp ngoài thân tâm, vô tận thế giới, tất cả sự vật, không pháp nào mà không quán sát (Hán: biến quán).

Trong kinh thường nói: “Biết Tứ đế tức là trí tuệ Thanh văn.” Nội dung của Tứ đế: Khổ, là khuyết điểm sinh lão bịnh tử trên thân tâm của hữu tình.

Tập, là nhân duyên tạo thành vô biên thống khổ của thân tâm, cũng tức là lực lượng chiêu cảm khổ quả sinh tử. Diệt, là tính tịch diệt, xa lìa nghiệp nhân của phiền não, không khởi khổ quả sinh tử. Đạo, tức là con đường dẫn dắt hữu tình từ phiền não tạp nhiễm, trùng trùng thống khổ, hổ sâu sinh tử, chuyển hướng đến thanh tịnh giải thoát, tịch tĩnh Niết bàn. Pháp môn Tứ đế này, là nhị trùng nhân quả quan, trọng điểm tại thân tâm của hữu tình. Biết Tứ đế, tức là biết nhân quả sinh tử và giải thoát của hữu tình, nhưng không phải là xa lìa thân tâm của hữu tình mà quán sát thiên văn hoặc địa lý. Quán tuệ dùng Tứ đế làm đối tượng quán sát, lại có thể phân làm hai phương diện: (a) Hiểu rõ sự tướng của Tứ đế, tức là pháp trụ trí; chứng ngộ lý tính của Tứ đế, tức là Niết bàn trí. “Đế quán” (quán sát thấu đáo) sự tướng và lý tính, chứng đắc pháp trụ trí và Niết bàn trí, là nội dung cần phải có của “tuệ chung của Ba thừa.”

Trong kinh Phật, ngoại trừ pháp Tứ đế, còn nói đến duyên khởi. Ước định hiện tượng sinh diệt của sinh mệnh, duyên khởi được phân làm mười hai chi, từ vô minh duyên hành, cho đến sinh duyên lão tử; là lưu chuyển môn. Đây là hai đế: khổ đế và tập đế trong Tứ đế. Từ vô minh diệt đến lão tử diệt, là hoàn diệt môn. Đây là hai đế: đạo đế và diệt đế trong Tứ đế. Phương thức để thuyết minh về Tứ đế và Thập nhị duyên khởi tuy có sự bất đồng, nhưng ý nghĩa được nói đến không có sự khác biệt lớn lao.

Hành giả Nhị thừa phát tâm yếm ly, cầu thoát sinh tử, chứng Niết bàn, đây là y vào quán môn Tứ đế, hoặc Thập nhị duyên khởi để tu học. Cho nên giáo điển của Tiểu thừa đều đặc biệt thiên trọng về điểm này. Như Luận Thành Thực là y vào Tứ đế để thiếp lập chương mục, Luận Giải Thoát Đạo của Phật giáo Nam truyền, nói đến tuệ học, cũng là trước tiên dùng sự hiểu rõ về Ngũ uẩn, Thập nhị xứ, Thập bát giới, quả báo sinh tử, các loại sự tướng thế gian mà hạ thủ, sau đó mới nói đến sự chứng ngộ pháp tính tịch diệt của vô thường vô ngã.

Quán tuệ của hành giả Thanh văn, tuy thiên lệch nhỏ hẹp, nhưng nguyên tắc cơ bổn của họ, thoạt tiên là chú trọng sự quán sát tất cả sự tướng nhân quả thế gian và xuất thế gian. Nhân vì, nếu không thể biết rõ và tín giải nhân quả của sự tướng thì không thể chứng ngộ pháp tính vô sinh. Cho nên môn học A tỳ đàm, thường từ uẩn, xứ, giới mà thuyết minh, hoặc từ các pháp: sắc, tâm, tâm sở, tâm bất tương ưng hành, vô vi mà thuyết minh, đều là khai thị  vô cùng rõ ràng về tự tướng, cộng tướng, thể tính, tác dụng, nhân, duyên, quả báo, cùng sự tương ưng, bất tương ưng, thành tựu, bất thành tựu, v.v…, của mỗi một pháp. “Như thị tính, như thị tướng, …, như thị báo, như thị bổn mạt cứu cánh đẳng” của Kinh Pháp Hoa cũng tức là những cái này. Tuy nói rằng chỉ có Phật và Phật mới có thể tận tri (biết hết), nhưng các hành giả Thanh văn cũng không phải là tuyệt đối không biết gì, mà chỉ là không thể biết hết mà thôi. Đối với sự tường thuật sự tướng thì luận điển là tường tận nhất. Xưa nay có ba tạng giáo điển là kinh, luật, luận, phối hợp với ba tăng thượng học là giới, định, tuệ, thì luận tạng được xem là đặc biệt chú trọng đến tuệ học. Căn cứ vào sự thuyết minh của các luận điển, tuệ học nói về sự tướng, đại khái, trước tiên là biết nhân quả, biết thiện ác, biết có đời trước đời sau, biết có phàm phu trôi lăn sinh tử, biết có bậc thánh siêu xuất tam giới, v.v… Tin hiểu những thứ này, thì mới được xem là đầy đủ chánh kiến thế gian (thế tục tuệ), mà cũng là cơ sở đầu tiên cho sự tu tập tuệ học. Điều này, đương nhiên, vẫn chưa thể thoát sinh tử. Muốn giải thoát sinh tử, cần phải tiến thêm một bước, biết rõ sinh tử là đến từ phiền não, căn bổn của phiền não là vô minh. Vô minh, tức là không biết như thật thực tướng của các pháp, nhân vì không biết như thật, nên khởi đủ loại chấp trước, và lại do chấp trước mà dẫn đến tất cả những hành vi sai lầm, không hợp chánh lý. Sự vọng chấp lấy vô minh làm căn bổn này, chủ yếu là vô thường chấp là thường, vô ngã chấp là ngã, bất tịnh chấp là tịnh, khổ chấp là lạc. Chúng sinh có những điên đảo vọng chấp này, liền sinh khởi đủ loại hành vi phi pháp, tạo tác vô biên nghiệp ác, mà cảm thọ quả khổ sinh tử. Nhân đây, một phương tiện khác của Tuệ học là khế ngộ Tam pháp ấn. Tam pháp ấn, tức là: chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, Niết bàn tịch tĩnh. Trong tất cả pháp hữu vi của thế gian, thể chứng như thật tính vô thường “niệm niệm sinh diệt”, tính duyên khởi “các duyên hòa hợp”, lại có thể liễu đạt tính tịch diệt “tất cả hư vọng không sinh khởi.” Triệt để ngộ nhập tam pháp ấn, tức là chứng đắc Niết bàn thanh tịnh giải thoát. Chúng ta sở dĩ còn vướng mắc tại thế gian, điên đảo trong sinh tử, lý do là vì không thể chứng tín như thật “tam pháp ấn.” Liên quan đến vấn đề này, học phái Hữu Bộ ở phương bắc Ấn Độ, luận thuật rộng rãi và tổ chức nghiêm mật. Hữu Bộ tuy nói rộng về pháp tướng, thế nhưng, chân chánh chứng ngộ, chỉ là quán Tứ đế, Thập lục hành tướng mà ngộ nhập theo thứ đệ. Chẳng qua, trong các học phái, phương pháp tu chứng có hai chủ trương lớn là đốn ngộ và tiệm ngộ. Như trên đã nói, nếu theo thứ tự mà tu chứng thập lục hành quán, đây là tiệm ngộ. Còn như đốn ngộ, thì không phân thứ tự, xuyên qua quán tuệ về khổ, không, vô ngã, v.v…, mà ngộ nhập tịch diệt, tức là chứng nhập pháp tính thậm thâm.

Nói tóm, yếu nghĩa của “tuệ chung cho ba thừa”, một phương diện là đế quán tất cả sự tướng nhân quả, một phương diện khác là chứng ngộ Không tính tịch diệt: vô thường, vô ngã. Trong kinh nói: “Chư hành vô thường, là pháp sinh diệt, do vì sinh (bị) diệt, tịch diệt là vui.” Từ sự quán sát “chư hành vô thường”, tiến đến sự thể ngộ “như thực tính” (tịch diệt bất khởi). Thiền tông Trung quốc đem câu “tịch diệt là vui”, đổi thành “tịch diệt hiện tiền.” Trong quá trình tu trì, cũng là quán kiến “sát na sinh diệt” của tâm pháp, tiến đến ngộ nhập tịch diệt tính (như như không khởi không diệt). Ý nghĩa của hai bên cũng rất tương cận.

(B) Trí tuệ riêng biệt của Đại thừa.

Nếu như nói quán cảnh của “trí tuệ chung của ba thừa” là “gần thì lấy thân (làm đối tượng)”, thì quán cảnh của “trí tuệ riêng của Đại thừa” là biến khắp tất cả vô tận pháp giới. Tuy là quán khắp tất cả, nhưng chủ yếu vẫn là chú trọng đến thân tâm của chính mình. Trong kinh điển Đại thừa, thường thường quán sát từ thâm tâm của chính mình, khuếch đại đến vô biên hữu tình bên ngoài, vô biên cõi nước, vạn sự vạn vật bên ngoài. Loại quán cảnh này, như trong Kinh Bát Nhã, ý nghĩa biểu hiện bởi “lịch pháp minh không” (trải khắp các pháp để hiển rõ pháp không), so với Tiểu thừa, đương nhiên là rộng lớn hơn nhiều. Bồ tát chứng ngộ pháp tính, so với Thanh văn cũng triệt để hơn. Tứ đế của Nhị thừa là quán cảnh hữu lượng. Tận cùng pháp giới của Đại thừa là quán cảnh vô lượng, cho nên Đại thừa có thể thấu tận Phật đạo, giác ngộ tất cả, còn Tiểu thừa chỉ có thể chứng “thiên chân.” Các nhà Duy Thức nói: “Thanh văn có tâm xuất ly tha thiết, khẩn cấp cầu giải thoát cho chính mình, cho nên trực tiếp từ thân tâm chính mình, quán sát khổ không vô thường mà thoát sinh tử, còn Bồ tát Đại thừa có tâm từ bi sâu nặng, nơi nơi, dùng sự cứu độ chúng sinh làm tiền đề, cho nên quán tuệ của các ngài không thể cục hạn ở một thân của chính mình mà cần phải chuyển trên tất cả các pháp, dùng tất cả pháp làm đối tượng quán sát.

Kinh luận Đại thừa, nhân vì quan niệm bất đồng, cho nên chỗ trình bày, hoặc chú trọng cái này, hoặc chú trọng cái khác, đối với sự thuyết minh về quán tuệ, không tránh khỏi có sự tường tận hoặc sơ lược. Chẳng qua, tống hợp các giáo điển Đại thừa, hai phương diện: sự lý, chân tục, vẫn là phổ biến tồn tại. Trên phương diện quán sát sự tướng, các quan niệm cơ bổn, từ nhân quả, thiện ác, phàm thánh, tiền thế hậu thế, khuếch đại đến thân tâm của thánh giả Đại thừa, vô lượng số trang nghiêm Phật độ, đều là đối tượng mà quán tuệ cần quán sát thấu đáo. Hành giả học Phật, lúc tối sơ, làm thế nào phát tâm tu hành, làm thế nào tinh tiến tu tập, tầng bậc chuyển tiến, cho đến cần phải bao nhiêu thời kiếp để công hạnh mới viên mãn cứu cánh thành Phật, đây là một bộ phận rất quan trọng trong giáo điển Đại thừa. Ngoài ra, một bộ phận khác, là hiển thị quả đức của đức Phật. Phật có vô lượng vô biên bất khả tư nghì công đức, như hiện các loại thân, giảng các loại pháp môn, cho đến làm thế nào để trang nghiêm viên mãn thân tướng cứu cánh, quốc độ cứu cánh của Phật. Nhân hạnh thù thắng của Bồ tát, cùng với quả đức của Phật, là nội dung chủ yếu của kinh luận Đại thừa, mà cũng là cảnh giới thậm thâm của quán tuệ Đại thừa. Hành giả mới học Bồ tát hạnh, đối với điều này, chỉ có thể tín ngưỡng, chỉ có thể dùng đó làm mục tiêu trước mắt mà phát khởi các công hạnh, mong cầu thủ chứng. Trí tuệ chân chánh hiện tiền, tức là chứng ngộ pháp tính, thành tựu Phật quả. Nhưng sự thể chứng lý tính cứu cánh này chú trọng đến “nhất thiết pháp Không tính.” Điều này so với trí tuệ của Tiểu thừa có hai điểm bất đồng:

Một là, sự chứng ngộ pháp tính của Thanh văn là do y vào thứ đệ của tam pháp ấn mà ngộ nhập, từ vô thường, đến vô ngã, rồi đến tịch diệt; còn Đại thừa quán tuệ là đi thẳng vào “chư pháp không tịch môn.” Đồng thời, Đại thừa căn cứ vào một lý tính cứu cánh mà thuyết minh tất cả, khai triển tất cả, rõ ràng khác biệt với sự dùng vô thường làm quán cảnh của Nhị thừa. Kinh nói: “Khổ, v.v…, là bất khả đắc”, đây là ước định pháp tính cứu cánh này mà nói. Giáo điển Đại thừa, y cứ vào quán cảnh sở chứng, an lập các loại danh tự như: pháp tính, chân như, vô ngã, Không tính, thực tế, bất sinh, bất diệt, Như lai tạng, v.v… Có một số kinh điển tổng tập những danh tự này với nhau, như nói: “Tất cả pháp vô tự tính không, bất sinh bất diệt, bổn lai tịch tĩnh, tự tính Niết bàn”, hoặc nói tất cả chúng sinh vốn có đầy đủ pháp tính, là thường là hằng, là chân là thực. Luận Trung Quán nói “Tất cả pháp tất cánh không, tự tánh bất khả đắc”, cũng tức là giải thích ý nghĩa này.

Hai là, hành giả Thanh văn chú trọng đến sự quán sát thân tâm của chính mình, đối với ngoại cảnh tựa hồ không chú ý lắm, chỉ cần chứng tri thân tâm vô ngã vô ngã sở, thì có thể đạt đến giải thoát. Đại thừa không phải như vậy, ngài Long Thọ khai thị về thứ đệ tu đạo của Trung Quán, rốt sau, tuy vẫn dùng sự quán sát vô ngã vô ngã sở để giải thoát, nhưng ở trước những giai đoạn này, Bồ tát cần phải quán sát rộng rãi tất cả pháp không. Lại như các học giả Duy Thức, cho rằng các chúng sinh chấp ngoại cảnh có thực tính là một điều sai lầm căn bổn (tự tính do biến kế sở chấp), cho nên duy thức quán của họ, tuy cũng dùng sự thể ngộ viên thành thực (bình đẳng không tính) là cứu cánh, nhưng trước khi chứng ngộ duy thức tính cứu cánh, điều trước tiên là quán sát tất cả các pháp ngoài tâm đều là không vô tự tính, duy thức sở hiện. Do vì ngoài tâm không có cảnh, dẫn vào cảnh giới “tâm không cảnh tịch.”

Trí tuệ riêng của Đại thừa, ước định phương diện sự tướng, ngoại trừ nhân duyên quả báo, hiện tượng thân tâm của sinh tử thế gian, còn có hành nghiệp của Bồ tát, công đức của Phật quả, v.v…, đều là đối tượng quán sát của trí tuệ này. Dùng sự tín giải của trí tuệ thế tục, lại tăng thêm thắng nghĩa quán tuệ của pháp vô ngã tính (pháp không tính). Y vào văn tư tu mà tu tập chuyển tiến, rốt ráo mới có thể chứng nhập “chư pháp không tính” (chân thắng nghĩa đế). Tu học “Đại thừa tuệ”, quý ở điểm có thể “hiểu sự tức là lý, từ tục nhập chân”, không để cho sự và lý có sự cách biệt, chân tục có sự cách ngại. Cho nên quán tuệ Đại thừa cứu cánh viên mãn, cần phải đạt đến cảnh giới tối cao là “lý sự viên dung, chân thực bình đẳng vô ngại.” Thế nhưng, các hành giả sơ học, đương nhiên là không thể được như thế, bởi vì cảnh giới viên dung vô ngại, không phải là tâm cảnh của chúng sinh và hàng sơ học. Các bậc thánh giả ở Ấn Độ, khai đạo về thứ đệ tu tập, tuyệt nhiên không có sự kiện là mới nhập môn liền tu quán “sự sự vô ngại, pháp giới viên dung”, mà là do từ tín giải duyên khởi nhân quả, hạnh nguyện Bồ tát, công đức của quả Phật mà hạ thủ, sau đó mới từ sự nhập lý, từ tục chứng chân, thể ngộ không tính, xa lìa hý luận, tất cánh tịch diệt. Sau đó mới có thể “tức lý dung sự”, “từ chân xuất tục”, dần dần đạt đến sự thống nhất giữa lý tính và sự tướng, chân đế và tục đế.

Ngài Vô Trước ví dụ quá trình tu chứng này giống như chày kim cang, hai đầu thì to, chính giữa thì hẹp. Đầu tiên, phát tâm tu học, quán cảnh rộng lớn, pháp môn vô lượng, đến lúc sắp chứng ngộ, chỉ có một chân như, không còn một hào ly tự tướng khả đắc, gọi là cửa “vô nhị tịch tĩnh”, “chỉ có một cửa này.” Trong giai đoạn này, lìa tất cả tướng, con đường rất nhỏ hẹp; cần phải đi xuyên qua cánh cửa này, chân  thật thể chứng triệt ngộ không tính, thì mới mở lại phương tiện (hậu đắc trí), quán rộng vô biên cảnh tướng, phát khởi các loại công hạnh. Càng thâm nhập càng sâu, đạt đến cảnh giới “tức sự tức lý”, “tức tục tức chân”, “viên dung vô ngại” của chư Phật. Một phần giáo học của Trung Quốc, trực tiếp quán sát cảnh giới “viên dung vô ngại”, so với lời dạy của các thánh giả ở Ấn Độ, có ít nhiều sự khác biệt. Nhưng sự tu trì của Thiền Tông, giản yếu trực nhập, đối với sự thọ dụng thực tế của thân tâm, cũng tương đối được nhiều lợi ích hơn. Ở Ấn Độ, bất luận Trung Quán, hoặc Duy Thức, đều dùng “không tính ly tướng” làm yếu điểm cho sự chứng ngộ, sau đó mới dần dần càng lúc càng rộng lớn, hướng đến quả Phật.

(5) Sự tiến tu “tuệ học.” (A) Văn tuệ.

Có một số người, do vì trong đời quá khứ tu đắc trí tuệ thâm hậu, nên ở hiện đời, trở thành một loại căn cơ “nhất văn tức ngộ” (chỉ nghe một lần là hiểu). Thế nhưng, nếu đem đời trước và đời này nối kết lại, y vào toàn thể lịch trình từ sơ phát tâm đến hiện chứng, thì ắt là mỗi người học Phật đều cần phải trải qua các giai đoạn: văn, tư, tu, thì mới có thể đạt được “vô lậu hiện chứng tuệ” (hoặc gọi là hiện chứng tam ma địa), quyết chắc không có việc là chưa từng trải qua ba tuệ hữu lậu văn tư tu, mà có thể siêu chứng vượt bực. Cho nên bàn luận đến tuệ học, ắt nhiên cần phải y vào một quỹ tắc tiến tu thông thường, thuyết minh riêng biệt ba tuệ  hữu lậu này. Hiện nay hãy từ văn tuệ mà thảo luận.

Trong giáo lý Thanh văn, từ sơ học đến hiện chứng, có bốn chi dự lưu, tức là: thân cận thiện sĩ, huân tập đa văn, như lý tư duy, pháp tùy pháp hành. Điều này muốn nói, sơ phát tâm học Phật, cần phải gần gũi thiện tri thức, y vào sự khai đạo của thiện tri thức, theo thứ tự tu tập văn, tư, tu. Trong giáo điển Đại thừa, trên phương diện này cũng trình bày Thập pháp hành: thư tả (biên chép), cúng dường, thí tha (bố thí cho người khác), đế thính (lắng nghe), phi độc (đọc), thọ trì (ghi nhớ), phúng tụng, diễn thuyết, tư duy (suy ngẫm ý nghĩa), tu tập. Những tiết mục tu hành này, tám tiết mục đầu thuộc về văn tuệ. Tư duy thuộc về tư tuệ, và tu tập thuộc về tu tuệ.  Toàn thể được bao hàm trong ba tuệ, có thể thấy rằng ba tuệ hữu lậu (văn tư tu) là con đường chung phải trải qua trong sự tiến tu Phật pháp. Đây là điều mà Phật giáo Đại thừa và Tiểu thừa đều nhất trí công nhận. Tuy nhiên, mục tiêu tối cao của tuệ học là ở sự thể ngộ pháp tính, nhưng từ toàn thể trình tự của sự tu chứng, quyết không thể xem thường cơ sở văn tư tu.

Tu tập văn tuệ, thuở xưa, phần lớn tự thân nghe Phật giảng nói, hoặc do đệ tử của Phật triển chuyển truyền thọ, nhân đây, gần gũi thiện tri thức trở thành một điều kiện tiên quyết cho văn tuệ. Thế nhưng, từ khi các loại giáo điển được biên tập lưu thông về sau, những người hơi đầy đủ túc căn, tức có thể tự mình đọc sách, nghiên cứu, tu tập, y vào lời chỉ dạy của kinh luận mà đạt được chánh giải, tu hành, thành tựu văn tuệ. Từ thiện tri thức, hoặc từ trong kinh điển, những điều được thấy nghe, đều là ngôn giáo của các bậc đại thánh Phật Bồ tát, đến như dùng phương thức nào để thấy nghe tu học, bên trong thánh điển trình bày rất nhiều. Chẳng hạn như: nghe kỹ (Hán: đế thính), vấn nghi, hoặc tự mình đọc, ghi nhớ, biên chép, v.v…, đều là những hạng mục cần thiết để tiến cầu văn tuệ. Thông thường nói, văn tuệ đều do nghe các bậc thầy giảng thuyết, hoặc tự nghiên cứu mà có được, nhưng một điều kiện chủ yếu nhất là cần phải lý giải nghĩa lý (Hán: lý thú) căn bổn của Phật pháp.

Sự tu chứng (của tuệ), giống như phần trên đã nói, có tuệ chung cho ba thừa, và tuệ riêng của Đại thừa, quán cảnh vô cùng rộng lớn, nhân quả, duyên khởi, công đức của Phật quả, hạnh nguyện của Bồ tát, nhẫn đến “không lý thậm thâm” của “cực vô tự tính” của các pháp, không có gì mà không là cảnh giới đối tượng cho sự đối quán của tuệ. Văn tuệ làm cơ sở của tầng bậc đầu tiên, đối với các loại danh ngôn, pháp tướng, các loại giáo lý hành môn, tự nhiên cần phải hết sức quảng cầu đa văn. Thế nhưng, điều mà Phật giáo xem trọng là trong sự đa văn không nhàm chán, không ngừng nghỉ, lĩnh hội được tinh yếu của Phật pháp, khế ngộ ý nghĩa thâm sâu khác biệt với thế gian, cho nên án chiếu ý thú căn bổn của Phật pháp, nghe nhiều biết rộng cũng chưa chắc là văn tuệ, đa văn bác học mà lại có thể khế nhập Tam pháp ấn hoặc Một pháp ấn, thì mới đủ điều kiện được gọi là văn tuệ. Như kinh điển Tiểu thừa nói có thể như thật đế quán vô thường vô ngã, niết bàn tịch tĩnh, gọi là đa văn. Giáo điển Đại thừa thì cho rằng nghe hiểu được pháp tính không tịch, hoặc chân như thực tính, gọi là đa văn. Tu học Phật pháp, nếu không thể tương ưng với Tam pháp ấn, Một pháp ấn, tức là xa lìa hạch tâm của Phật pháp, không thể thành tựu văn tuệ. Nếu có thể trong các loại ngôn thuyết về pháp tướng, nắm được yếu điểm của Phật pháp, và đồng thời phát động hành vi của thân tâm, như thực tu luyện và thể nghiệm, khiến cho tâm địa dần dần thanh tịnh, an tĩnh, sau đó mới có thể dẫn phát văn tuệ, chân chánh đạt được lợi ích của Phật pháp. Cho nên văn tuệ tuy là cơ sở đầu tiên, rất rõ ràng thô thiển, rất bình thường thực tế, thế nhưng vẫn cần phải bỏ một phen nỗ lực tu tập, một phen tu luyện, thì mới có thể đạt được thành tựu. Điều này, trong bốn chi dự lưu của Tiểu thừa, được gọi là huân tập đa văn. Giả như dùng “tứ y” để hành lượng, thì tức là “y nghĩa bất y ngữ”, nhân vì sự huân tập đa văn, mục đích là muốn giải ngộ nghĩa lý mà kinh luận đã trình bày, chứ không phải chỉ là tích tập danh tướng, hoặc là sự nghiêm sức văn từ.

Liên quan đến ý nghĩa của sự huân tập đa văn, có thể từ hai phương diện để nhận biết: (a) Phật pháp vô cùng sâu rộng, rất nhiều nghĩa môn (giáo nghĩa), như hành giả phát tâm Đại thừa, cần phải có lòng mong cầu quảng đại là “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, siêng năng nghe nhiều, học nhiều, không hề nhàm chán. (b) Đối với mỗi một pháp môn, cần phải học tập nghiêm túc, để cầu sự tinh thâm. Với sự tích cực huân tập đa văn và thâm nhập không gián đoạn, trong một thời gian lâu dài, nội tâm dần dần đạt được sự thanh tịnh an định, manh nha sự thể ngộ, một lúc nào đó sẽ khoát nhiên đại ngộ, thì sẽ không lìa danh ngôn nghĩa tướng mà thấu rõ Phật pháp thậm thâm. Huân tập đa văn, đích xác là một khởi điểm quan trọng nhất của tuệ học, mỗi một hành giả học Phật đều cần phải dùng đây làm mục tiêu trước mắt để tiến nhập!

(B) Tư tuệ.

Y vào sự huân tập đa văn mà thành tựu văn tuệ là bước đầu tiên của sự tu học Phật pháp. Kế đến, tu duy quyết trạch đối với Phật pháp đã được nghe. Ở giai đoạn tư tuệ, không còn xem trọng văn tuệ (không còn chú trọng đến danh ngôn chương cú), mà là tiến nhập vào sự quyết trạch nghĩa lý. Điều này, trong bốn chi dự lưu, tức là “như lý tư duy”, trong pháp Tứ y, tức là “phải y vào liễu nghĩa mà không y vào bất liễu nghĩa.” Tư duy quyết trạch khế hợp với chánh lý, thì cần phải y vào giáo pháp liễu nghĩa, dùng giáo pháp liễu nghĩa làm mực thước, sau đó mới quyết đoán (giáo nghĩa của) Phật pháp, cho đến khi đạt được “giản trạch tuệ” (trí tuệ biện biệt) thì mới là chánh xác. Nếu không, đối tượng cho sự tư duy, nếu không là thiên lệch, thì cũng là tà vạy, làm sao mà khế hợp với bổn nghĩa của Phật pháp! Giáo pháp của đức Phật, vốn là “nhất vị bình đẳng”, thế nhưng, vì do thích hợp với các loại căn cơ mà thiết lập vô lượng vô biên pháp môn phương tiện, vì vậy mà Phật pháp nhất vị bình đẳng viên mãn cứu cánh mới phân chia thành liễu nghĩa và bất liễu nghĩa. Tu tập tư tuệ, quyết trạch nghĩa lý, nguyên tắc như sau: dùng liễu nghĩa quyết trạch bất liễu nghĩa, mà không được dùng bất liễu nghĩa quyết trạch liễu nghĩa. Nhân vì hành lượng giáo nghĩa, xem có phải là cứu cánh viên mãn hay không, tuyệt đối không thể dùng giáo nghĩa không cứu cánh viên mãn để làm chuẩn tắc. Ví dụ đức Phật thường giảng nói vô ngã, thế nhưng vì muốn dẫn đạo cứu độ một loại chúng sinh nào đó, đôi khi ngài cũng phương tiện nói “hữu ngã.” Vô ngã là giáo pháp liễu nghĩa cứu cánh, “hữu ngã” là giáo pháp không liễu nghĩa, không cứu cánh. Như vậy, nếu chúng ta muốn hành lượng hai lời dạy xem đâu là chánh lý, thì nhất định phải y vào “vô ngã” để quyết trạch “hữu ngã”, hiểu rõ phương tiện cùng ý thú mà đức Phật nói “hữu ngã”, quyết không thể điên đảo ngược ngạo, dùng “hữu ngã” làm căn cứ cho liễu nghĩa mà quyết trạch về vô ngã, tu chánh vô ngã. Giả sử không thể chánh xác nhận rõ quan điểm “liễu nghĩa, bất liễu nghĩa”, mà lại tưởng nghĩ đến việc quyết trạch chánh lý Phật pháp, thì kết quả là sự sai khác với chánh lý của Phật pháp sẽ cách xa đến tám vạn bốn ngàn dặm! Cho nên đối với sự tư duy quyết trạch Phật pháp, cần phải căn cứ vào giáo pháp liễu nghĩa làm mực thước, thì những kiến giải đạt được mới không bị rơi vào sự thiên lệch sai lầm!

Sự phân biệt giữa liễu nghĩa và bất liễu nghĩa, rốt ráo là như thế nào? Nói đại khái, Tiểu thừa là bất liễu nghĩa, Đại thừa là liễu nghĩa. Nhưng giáo lý Đại thừa, do phần lớn là vì thích ứng cơ nghi, cũng vẫn có một phần “bất liễu nghĩa.” Lúc đức Phật thuyết pháp, vì muốn khuyến khích chúng sinh khởi lòng tin tu học, thường thường trong kinh đó tán thán, hầu như mỗi một bộ kinh đều có những câu như “vua trong các kinh” (Hán: kinh trung chi vương), v.v… Đệ tử đời sau của Phật, nếu chỉ y cứ vào những câu tán thán như vậy, dùng đó làm giáo chứng cho sự cứu cánh viên mãn, để mà quyết trạch sự liễu nghĩa bất liễu nghĩa của Phật pháp thì e rằng không đủ. Những vấn đề như vậy, tham khảo ý kiến của các thánh giả nổi tiếng thời xưa, thì có thể đạt được một số giải đáp. Các luận sư thời cổ, không chú trọng đến bộ phận tán thán trong kinh điển, mà chú trọng sự luận chứng của nghĩa lý, cho nên những điều họ bàn về liễu nghĩa bất liễu nghĩa, có thể làm tiêu chuẩn cho chúng ta học hỏi. Điều này, ở Ấn Độ có hai lập trường lớn:

(a) Các ngài Long Thọ, Đề Bà, v.v…, y vào giáo lượng của các kinh Vô Tận Ý, Bát Nhã, v.v…, mà phán đoán các giáo điển: nếu nói về “tất cả pháp không”, vô ngã, vô tự tánh, bất sinh bất diệt, bổn lai tịch tĩnh, thì là giáo pháp liễu nghĩa; nếu nói có tự tánh, bất không, hữu ngã, thì là bất liễu nghĩa. Họ căn cứ trên kiến giải này, bất luận là quyết trạch nghĩa lý, khai đạo phương pháp tu hành, tự họ có một điểm đặc sắc là vừa nghiêm mật, vừa lại khác biệt với những kiến giải thông thường. Nói đến chứng ngộ, họ dùng “cực vô tự tánh” làm cảnh giới chứng ngộ của trí tuệ. Đây là điều hoàn thành một đại hệ về Trung quán kiến.

(b) Các ngài Vô Trước, Thế Thân, v.v…, y vào giáo lượng của các kinh Giải Thâm Mật, v.v…, mà cho rằng sự thiết lập ba tự tính: biến kế chấp là vô tính, còn y tha khởi, viên thành thực là hữu tính, mới là giáo pháp liễu nghĩa; nếu chủ trương “tất cả pháp không”, mà không nói y tha, viên thành thực hữu tính, thì là giáo pháp không liễu nghĩa. Họ dùng đây làm mực thước để phán giáo, hành lượng giáo nghĩa của Phật pháp, riêng thành một đại hệ về Duy thức kiến. Phương pháp tu hành cũng không giống với các nhà Trung Quán. Họ dùng “tính” do Nhị không hiển hiện làm sự hiện chứng cứu cánh.

Quyết trạch liễu nghĩa bất liễu nghĩa, nếu chỉ đơn thuần từ phương diện của kinh điển, thì không thể đạt đến kết luận, cho nên chúng ta chỉ còn cách y theo quỹ tắc mà các bậc thánh đời trước đã khai mở, làm chỗ y cứ để giản trạch chánh lý. Điều này, bất luận là Trung quán kiến, hoặc Duy thức kiến ở Ấn Độ, thậm chí ngay như Phật giáo Trung Quốc, dùng Kinh Lăng Nghiêm, Luận Khởi Tín làm giáo chứng cứu cánh, đều là sự phán giáo với một thái độ thận trọng, và một phương pháp luận chứng nghiêm mật. Chúng ta không ngần ngại trong việc thu thập những ưu điểm xuất sắc, gạt bỏ những quan điểm thiên lệch, hổ tương tham khảo chứng minh, hội thông những quan điểm với nhau, để cầu mong đạt được quan điểm quyết trạch hợp lý, hoàn thành tư tuệ sáng suốt, sắc bén và thuần chánh.

(C) Tu tuệ.

Trong quá trình tu hành ba tuệ hữu lậu, tư tuệ và tu tuệ đều cùng sanh khởi sự phân biệt quyết trạch các pháp, chỉ là tư tuệ (tuy cũng đã từng tu định) chưa tương ưng với định tâm, còn tu tuệ thì tương ưng với định tâm. Tư duy, hoặc còn dịch là “tác ý”, vốn là tên gọi khác của quán tưởng, nhân vì tu định chưa thành, chưa tương ưng với định tâm, vẫn còn là một loại tán tâm quán, cho nên được gọi là tư tuệ. Nếu như định tâm thành thục, có thể ở trong định mà quán sát quyết trạch thực tướng của các pháp, tức là thành tựu tu tuệ. Tâm có thể an trụ trong một cảnh – bất luận là hiện tượng thế tục, hoặc thắng nghĩa đế lý, đây là tướng “chỉ.” Tướng “chỉ” hiện tiền, đối với cảnh giới của các pháp, tâm địa tuy rất sáng tỏ, nhưng đây không phải là quán tuệ, mà là tâm cảnh cần phải có của chỉ và định. Tu chỉ thành tựu, tiến thêm một bước, trên sự tướng thế tục, quán nhân quả, quán duyên khởi, nhẫn đến quán tướng hảo trang nghiêm của Phật; hoặc trong thắng nghĩa đế, quán pháp vô ngã, xưa nay vốn tịch diệt. Đây không phải chỉ là tâm cảnh cực kỳ tịch tĩnh, sáng suốt, mà còn có thể trong tâm cảnh sáng suốt tịch tĩnh, như thực quán sát, quyết trạch, thể hội thực tướng của các pháp. Từ trong sự tĩnh chỉ đề khởi sự quán chiếu, đây tức là tu quán thành tựu. Đây là cảnh giới mà đức Phật đã thiết định lúc khai thị cho các Bồ tát Di Lặc, v.v…

Nếu như chỉ duyên vào thế tục, đạt được sự thành tựu của định tâm, thì vẫn không đưa đến sự chứng ngộ, mà cần phải quán sát tất cả pháp vô ngã, tất cánh không tịch, thì mới có thể từ tu tuệ hữu lậu dẫn đến sự hiện chứng “tuệ vô lậu.” Tu tuệ tuy không thể trực tiếp chứng ngộ, nhưng lại là một giai đoạn cần  phải vượt qua để đạt đến sự chứng ngộ. Trong Tứ y, là “y vào trí, không y vào thức”, tức là sự chỉ đạo tiêu chuẩn cho sự tu tuệ. Thức là hữu lậu, hữu thủ, là vọng tưởng phân biệt, lấy ngã ngã sở làm cơ bổn. Nếu y vào thức mà tiến tu, không những không chứng đắc quả giải thoát, mà còn chướng ngại con đường chứng ngộ giải thoát. Trí thì ngược lại, là tuệ quán có đầy đủ công năng diệt trừ ngã chấp, phá trừ tà kiến, có thể hàng phục phiền não của tự tâm, dẫn phát sự hiện chứng trí tuệ.

(6) Thành tựu sự tiến tu tuệ học.
(A) Thành quả của tín, giới, định, tuệ.

Sự tiến tu của tuệ học, và tất cả những công đức thanh tịnh, một cách tổng quát, cần phải tương ưng với nhau, làm tăng thượng cho nhau, quyết không có việc bỏ phế vô biên hạnh nguyện khác, mà có thể đơn độc thành tựu tuệ học. Cho nên, nói nghiêm cách, tuệ học cũng nhân vào sự huân tu của các công đức khác mà được hoàn thành, mà vô lượng công đức khác, cũng nhờ vào sự thành tựu của tuệ học mà được tăng trưởng. Tất cả những công đức thanh tịnh và tuệ học, trong sự tu chứng hoàn thiện, là tương nhiếp tương quan, nương tựa vào nhau mà tăng tiến. Trong kinh điển Đại thừa nói về sáu Ba la mật làm tăng thượng cho nhau, trong pháp Tiểu thừa nói ngũ căn (tín, tiến, niệm, định, tuệ) nương tựa nhau để thành tựu. Đây là sự thuyết minh rằng tuệ học và các hành môn khác, tương ưng nhau mà không xa lìa nhau. Ba tuệ hữu lậu văn tư tu là gia hành cho sự tu tập để đạt đến tuệ vô lậu, mà cũng là ba giai đoạn trong toàn thể quá trình của tuệ học. Sự thành tựu của mỗi giai đoạn đều có bao nhiêu công đức thanh tịnh cùng lúc được sinh khởi. Hiện nay, ước định sự thù thắng mà nói, y vào thứ tự mà nói sơ lược như sau:

(a) Sự thành tựu văn tuệ. 

Tức là đầy đủ chánh kiến, đồng thời cũng là thành tựu tín căn. Những hành giả mới tu học, từ trong sự huân tập đa văn, thâm nhập Phật pháp, thành tựu văn tuệ, đối với nhân của nghĩa lý thâm sâu của Tam bảo, có thể thấy chân, thấy chánh, cho nên cũng có thể tin sâu đậm, tin tha thiết. Hành giả học Phật đến lúc thành tựu văn tuệ, hoặc đầy đủ tín căn, thì dù phải chịu đựng những sự phỉ báng, uy hiếp, công kích, đều không bị lay động một tơ hào tín niệm; nhẫn đến sống trong thời đại mạt pháp, trong những vùng Phật pháp suy vi, mọi người không còn một ai tin Phật, thì hành giả đó vẫn có thể tự một mình tin tưởng, một mình tu hành. Nếu như đã chân thực thâm nhập Phật pháp, đầy đủ chánh kiến, thì không còn nhân vì người khác tin hay không tin, hoặc nhân vì hoàn cảnh Phật pháp thịnh suy, mà quyết định sự tín ngưỡng Phật pháp của chính mình. Tu tập tuệ học, bước đầu tiên là phải sinh khởi chánh kiến, phát sinh thâm tín, đầy đủ tín niệm kiên quyết, không còn mưu toan lợi hại được mất, dũng mãnh tiến bước, vĩnh viễn không thoái chuyển.

(b) Thành tựu tư tuệ. 

Đây cũng tức là đầy đủ tịnh giới. Ước định Đại thừa mà nói, thì cũng tức là thành tựu các công đức: từ bi, bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn, v.v… Chúng ta đối với sự tiến tu Phật pháp, chánh tín, chánh giải (chánh kiến), bất quá chỉ là sự thành tựu sơ bộ. Công hạnh của bước kế tiếp, tức là thực hành những gì mình đã tin hiểu, khiến cho tất cả hành vi thân tâm của chính mình đều khế hợp với chánh đạo của Phật pháp. Tư tuệ, tức là giai đoạn từ sự thấy nghe tin hiểu chuyển nhập hành động thực tế. Tư tuệ, tuy dùng phân biệt quyết trạch làm đặc tính, nhưng không phải chỉ là tâm hành nội tại, mà hơn nữa, có thể phát lộ ra bên ngoài, tương ưng với lời nói và hành động bên ngoài, dẫn dắt chúng sinh đi trên con đường chánh. Trong Bát chánh đạo của Phật pháp, trước tiên là chánh kiến, chánh tư duy, sau đó mới là chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mệnh. Điều này muốn nói, sau khi có chánh tư duy (thành tựu tư tuệ), bất luận hành động, nói năng, nhẫn đến sinh hoạt kinh tế, v.v…, tất cả đều có thể dẫn vào chánh quỹ của Phật pháp. Đây là do thành tựu tư tuệ, mà dẫn xuất giới đức viên mãn. Đồng thời, tịnh giới của Đại thừa, thường tương ưng với tâm bi, trong khi thọ trì tịnh giới, có thể trưởng dưỡng tâm bi, mà hơn nữa, chỉ có đầy đủ tâm bi, mới có thể thành tựu hoàn thiện tịnh giới Đại thừa. Tâm bi và tịnh giới có tính liên quan mật thiết. Sự chế giới của Phật giáo, nguyên lai đầy đủ ý nghĩa của hai phương diện: một là tiêu cực phòng phi chỉ ác, hai là tích cực lợi sinh tế thế. Xét kỹ động cơ và mục đích của nó, thì không ngoài hai phương diện tự lợi và lợi tha. Tự lợi, có thể áp chế khiến cho phiền não không phát sinh, đạt được sự thanh tịnh của thân tâm. Lợi tha, là vì thấy chúng sanh khổ não, không nhẫn tâm đem thêm sự gia hại, cho nên trước tiên thực hành việc không não hại chúng sanh, tức là biểu hiện một cách tiêu cực bằng cách phòng phi chỉ ác. Đoạn trừ được ác hành tức là phát khởi bi hành lợi lạc nhiêu ích hữu tình, mà cũng tức là thành tựu tâm bi của Đại thừa. Cho nên Bồ tát thọ giới, không phải chỉ là vì tự tịnh thân tâm mà phòng phi chỉ ác, mà đồng thời lại cần phải đặc biệt chú trọng đến hành động tích cực nhiêu ích hữu tình. Nhân đây, các công hạnh Đại thừa như bố thí, nhẫn nhục, tinh tiến, v.v… đều được sinh khởi cùng lúc với tịnh giới.

(c) Thành tựu tu tuệ. 

Cần phải từ tán tâm phân biệt quán sát, mà đạt đến sự tương ưng với định tâm thì mới là tu tuệ. Cho nên, tu tuệ tức là đầy đủ chánh định – thành tựu định. Từ tu tuệ nỗ lực thăng tiến không ngừng, chân thực vô lậu tuệ hiện tiền, thành tựu hiện chứng tuệ, tức là có thể đoạn phiền não, thoát sinh tử, thành tựu công đức giải thoát.

Phần trên nói đến thể tướng cùng tột của trí tuệ là: tín trí nhất như, bi trí nhất như, định tuệ quân bình (Hán: quân hành), lý trí bình đẳng. Điều này, đến lúc đạt được vô lậu tuệ của Đại thừa, đều được thành tựu – phần chứng. Như thành tựu văn tuệ, hàm nhiếp tín căn, quyết định không còn nghi ngờ đối với đế lý của Tam bảo, tức là sự biểu hiện của tín trí nhất như. Thành tựu tư tuệ, do sự phát khởi đồng thời của tịnh giới, đặc biệt dẫn phát bi nguyện thâm thiết, mà đạt thành “bất cộng tuệ của Đại thừa”, bi trí dung thông. Thành tựu tu tuệ, thì ắt phải tương ưng với định tâm, tức là định tuệ quân bình. Hiện chứng vô lậu tuệ, dùng như như trí, chứng như như lý, như trí như lý bình đẳng bất nhị, đạt đến cảnh giới tối cao, lý trí bình đẳng, mà cũng là đạt đến giai đoạn này thì mới đầy đủ tất cả bốn loại (tín trí nhất như, bi trí tương ưng, định tuệ quân bình, lý trí bình đẳng). Do đây có thể biết, sự thành tựu của tuệ học không thể tách rời khỏi các công đức khác, mà các công đức khác cũng phải y vào tuệ học mới có thể thành tựu rốt ráo. Nếu bỏ phế: tín, giới, bi, định, mà chuyên bàn đến sự hiện chứng vô lậu tuệ cao thâm, thì đó chỉ là vọng tưởng. Ngài Long Thọ nói: “Không có cơ sở của tín và giới, mà vọng tưởng thủ ‘chân không’, thì đó là ‘tà không.'” “Không” mà không thể tương ưng với tín, giới, thì tức là rơi vào hố sâu “tà ác”, vĩnh viễn không đạt được hiện chứng giải thoát. Liên quan đến điểm này, ngài Thái Hư cũng đã từng chỉ xuất rõ ràng. Nói tổng quát, nếu tu tuệ học, mà bỏ phế vô biên công đức thanh tịnh khác, thì bất luận là học pháp Thanh văn, hoặc trong giáo pháp Đại thừa, đều là cực kỳ không tương ưng.

(B) Thành tựu công dụng “vào tục cứu thế.”

Trong quá trình tiến tu Tuệ học, những người học Phật, thường thường chỉ chú trọng đến việc làm thế nào chứng đắc thắng nghĩa đế lý, mà lại không tách rời sự tướng thế tục, nghĩa là từ chân xuất tục, tức tục tức chân, sự lý vô ngại, khiến cho sinh hoạt hiện thực và lý tính đạt đến sự thống nhất hoàn toàn. Chẳng qua, sự sơ chứng của trí tuệ, phần lớn không tránh khỏi sự thiên trọng “chân tính”, cho nên lúc vừa mới chứng đắc “nhất thiết pháp không tính”, vẫn còn phải tiếp tục huân tu không ngừng, đem chân lý được thể ngộ chứng nghiệm vào trong sự tướng của các pháp, sau đó mới có thể thấu qua chân lý mà biết rõ thế tục, không chấp trước, xa lìa hý luận, chân tục viên dung vô ngại. Do đây, ngộ lý và sự hành, sinh hoạt và lý tính, không chỗ nào mà không tương ưng. Nắm chắc một điểm quan trọng này, vốn là không sai lầm, thế nhưng tuệ học Đại thừa, cần phải chú ý thêm sự khuếch triển của tuệ lực. Lúc chưa thành tựu ba tuệ văn tư tu, đối với thế gian, tất cả những loại học vấn có ích lợi cho nhân sinh xã hội, đều cần phải học tập rộng rãi. Thế nhưng, nếu không có đặc chất của văn tu tu của Phật pháp làm căn bổn, thì đương nhiên, chỉ là tri thức phổ thông mà thôi, không liên hệ gì đến Phật pháp. Vả lại, Bồ tát phát tâm, dùng sự giáo hóa chúng sinh làm công hạnh thiết yếu, ắt cần phải có đầy đủ nguyện dục rộng lớn, học khắp vô biên pháp môn của tất cả thế gian và xuất thế  gian, tất cả tri thức thiện diệu. Cho nên Bồ tát sơ học, một mặt tu học văn tư tu, một mặt đối với các loại học vấn, cũng cần phải tùy phần tùy lực cầu sự hiểu biết rộng rãi. Thánh điển Đại thừa cũng từng chỉ xuất: “Bồ tát cần phải học ngũ minh.” Nhân vì trong ngũ minh, ngoại trừ Nội minh (Phật pháp – bao quát thánh đạo của ba thừa) là căn bổn mà Bồ tát cần phải học, còn các học vấn khác như y phương (y học), công xảo (kỹ thuật), nhân minh (luận lý học), thanh minh (ngữ ngôn học), đều là các loại học vấn có thể giúp cho việc hoằng dương Phật pháp, có lợi ích chúng sinh, đối với loại học vấn này, tự nhiên không thể không học. Một cá nhân, giả như lúc chưa chứng đắc Phật tuệ, nhẫn đến chưa tin Phật pháp, nếu như đa văn bác học, đối với tri thức thế gian, không môn nào mà không rõ ràng thông đạt, thì nếu như họ tin tưởng quy y Phật giáo, đạt được chứng ngộ, thì có thể thuyết pháp vô ngại, giáo hóa vô lượng chúng sinh. Như ngài Xá Lợi Phất, trước khi quy y học Phật, đã từng là một vị học giả nổi danh, cho nên khi ngài chuyển nhập Phật pháp, chứng A la hán, liền trở thành một bậc đại thánh trí tuệ đệ nhất. Đồng thời, trong quá trình tu học, đang khi hành giả thể chứng pháp không, lìa chư hý luận, trong cảnh giới “nhất vô sở đắc”, tất cả học vấn thế gian tựa hồ đều là sự dư thừa của vọng tưởng phân biệt, thế nhưng, nếu xuyên qua cửa ải (Không) này, thì học vấn thế gian, ngược lại, lại trở thành công cụ to lớn trong việc tế thế lợi sinh. Có người sau khi chứng ngộ, lại càng phải học tập, cũng như vận dụng Phật pháp, khiến cho học vấn thế gian và Phật pháp dung thông vô ngại. Bồ tát không những chỉ là “đạo trí”, mà còn phải là “đạo chủng trí.” Đây là điều mà mọi người không chú ý lắm. Đại thừa tuệ học chân chánh, không những xem trọng sự tương y giữa quán cảnh và sinh hoạt, sự thống nhất giữa lý tính và sự tướng, mà hơn nữa, có thể thông đạt tất cả học vấn thế gian, dung nhiếp vô biên vi diệu thiện pháp, khiến cho tất cả học vấn thế gian, không những không chướng ngại đối với Phật học xuất thế gian, mà đồng thời trở thành phương tiện thiện xảo lợi ích chúng sinh của Phật pháp.

Thường Giác ghi.