Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

II. PHÁT ĐẠI THỆ NGUYỆN ĐỆ LỤC
(TT)

Với lời nguyện này, các vị Cổ Đức chú giải kinh cũng hiểu khác nhau. Có vị bảo: “Nguyện này thuộc về Thượng phẩm, nói nguyện này tiếp độ Hạ phẩm là sai” Lại có vị bảo: “Nguyện này thuộc về ba phẩm bậc thượng, mười niệm được nói ở đây là dựa vào mười pháp để khởi niệm, chớ chẳng phải là mười niệm xưng danh”. Bảo “dựa vào mười pháp để khởi niệm” là ý nói mười niệm trong Kinh Di Lặc Sở Vấn, trong đó Di Lặc thỉnh giáo với Thế Tôn:

Cụ túc như thị niệm, tức đắc vãng sinh An Dưỡng quốc độ. Phàm hữu thập niệm, hà đẳng vi thập?” (Đầy đủ những niệm như sau liền được vãng sinh An Lạc quốc độ. Có mười niệm, những gì là mười?)

Mười niệm trong Kinh Di Lặc Sở Vấn là cảnh giới trên quả địa của Phật, Bồ Tát. Tuy rất cao, chúng ta phải nên tùy phần, tùy sức mà học tập, nhất định có chỗ tốt.

“Nhất giả, ư nhất thiết chúng sinh thường sinh từ tâm. Ư nhất thiết chúng sinh, bất hủy kỳ hạnh. Nhược hủy kỳ hạnh, chung bất vãng sinh” (Một là, với hết thảy chúng sinh thường sinh từ tâm. Với hết thảy chúng sinh chẳng hủy hoại hạnh của họ. Nếu hủy hạnh của họ, trọn chẳng được vãng sinh).

Câu “ư nhất thiết chúng sinh thường sinh từ tâm”, chúng ta có làm được hay không? Chúng ta thấy người này ưa thích, người kia chán ghét thì không có tâm từ bi rồi! Trong tâm vẫn còn tốt xấu; còn có ưa thích, chán ghét. Thực tế mà nói, việc này có chướng ngại đối với vãng sinh. Có rất nhiều người niệm Phật cả đời, lâm chung một niệm sai lầm không thể đi được.

– Ý niệm gì sai lầm?

– Ân oán không thể buông xả! Tình ái không thể buông xả! Con cái, cháu chắt không thể buông xả! Tài sản không thể buông xả! Chỉ cần có một niệm không thể buông xả thì không thể đi được!

Ư nhất thiết chúng sinh bất hủy kỳ hạnh”. Sự tu hành của mỗi chúng sinh không giống nhau. Trong nhà Phật có tám vạn bốn ngàn Pháp môn. Chúng ta tu Tịnh Độ, người khác tu Thiền, người kia tu Mật. Nếu bạn nhất định muốn họ bỏ Thiền, bỏ Mật đến niệm Phật, đây gọi là “hủy kỳ hạnh”. Hiện tại, Singapore có chín tôn giáo, nếu bảo họ thảy đều bỏ tín ngưỡng, tôn giáo đến đây niệm Phật, cũng là “hủy kỳ hạnh”. Chư Phật Như Lai không làm vậy. Dưới cái nhìn của các ngài: Mỗi tôn giáo đều tốt, mỗi tôn giáo đều thiện, mỗi   tôn giáo đều làm Phật, làm Bồ Tát. “Phật pháp tại thế gian, bất hoại thế gian pháp”, bạn nghe qua chưa? Chính là cái ý này!

Cho nên, Phật pháp là “Đa nguyên văn hóa”, không phải là “Nhất nguyên”. Phật pháp là muôn màu muôn vẻ, thì ra là một thể, bạn hiểu hay không? Ví như thân thể bạn, tay cùng chân khác nhau; đôi mắt cùng đôi tai khác nhau v.v… nếu muốn “hủy kỳ tướng”: Đôi mắt không tệ, thảy đều là đôi mắt, vậy có được không?! Tay không tệ, chân cũng biến thành tay, bộ não cũng biến thành tay v.v…, vậy thì thành cái thứ gì?! Bạn muốn “hủy kỳ hạnh”, muốn giống y như bạn, vậy chẳng phải muốn biến thành loại hiện tượng này hay sao?! Đây là sai lầm lớn!

Người chân thật học Phật, không luận xem thấy tín đồ một tôn giáo nào, đều chân thành chấp tay lễ kính họ. Nhất định không thể bảo họ thay đổi tín ngưỡng của họ đến tin Phật Giáo, đức Phật không có ý này.

Nhược hủy kỳ hạnh, chung bất vãng sinh”: Câu nói này rất quan trọng!

– Vì sao “hủy kỳ hạnh” thì không thể vãng sinh?

– Nếu “hủy kỳ hạnh”, bạn là người bất giác; bất giác thì tạo nghiệp, làm sao có thể vãng sinh! Người giác ngộ sẽ không làm việc này. Tịnh tông tuy thù thắng, chư Phật đều tán thán, có thể “Đới nghiệp vãng sinh”, nhưng “đới nghiệp” chỉ có thể “đới nghiệp cũ” không thể đới nghiệp hiện hành! Việc này chúng ta phải cẩn trọng và ghi nhớ.

Nhị giả, ư nhất thiết chúng sinh, thâm khởi bi tâm, trừ tàn hại ý (Hai là với hết thảy chúng sinh, phát khởi bi tâm sâu xa, trừ bỏ ý tàn hại).

Chữ “nhất thiết chúng sinh” ở đây chỉ cho chúng sinh tận hư không khắp pháp giới. “Thâm khởi bi tâm”: “Bi” là cứu khổ, cứu nạn. Chúng sinh có khổ nạn, chúng ta phải dùng tâm thậm thâm lân mẫn mà cứu giúp họ. “Trừ tàn hại ý”, “tàn” là tàn nhẫn, “hại” là giết hại. Điều này chúng ta thật có! Vô tình hay cố ý xem thấy một con muỗi, đưa tay liền đập chết, đấy là tàn hại! Trong nhà bếp, thấy kiến, một tay đè chết, là tàn hại! Trẻ con thích bắt chuồn chuồn, bắt bướm, bắt chim chơi cho đến khi chúng chết, đó là tàn hại; ý niệm tàn hại này là tập khí phiền não, từ vô thỉ kiếp sát sinh đã nuôi thành thói quen rồi!

Hiện tại đã học Phật, Phật dạy chúng ta không được làm. Muỗi có đến cắn đốt ta, xem như ngày trước ta làm muỗi cũng đã từng đốt chúng! Chúng đói, muốn ăn một chút gì đó thì chúng ta cúng dường một bữa thôi. Cái ý niệm này khiến bạn chuyển đổi được tâm niệm, sẽ không sát hại chúng. Người giác ngộ, ngay trong một đời trả nợ là xong hết! Oan gia nên giải không nên kết!

– Làm thế nào hóa giải?

– Đối với oan gia, càng phải nên quan tâm đến họ, càng phải nên ái hộ họ, càng phải nên giúp họ. Con người luôn là có tình cảm; người ác ý đối với ta, ta dùng thiện ý đối với người; lâu ngày dài tháng nhất định sẽ cảm hóa được họ. Ngược lại, nếu dùng ác ý đối với người, người dùng thiện ý đối với ta, lâu dần chính mình sinh ra hổ thẹn, đây là chân thật.

“Tam giả, phát hộ pháp tâm, bất tích thân mạng. Ư nhất thiết pháp, bất sinh phỉ báng” (Ba là phát tâm hộ pháp, chẳng tiếc thân mạng. Với hết thảy pháp, chẳng sinh phỉ báng):

Phát hộ pháp tâm, bất tích thân mạng”, việc này khó! Đạo tràng Cư Sĩ Lâm, Tịnh Tông Học Hội, người hộ pháp rất nhiều. Nếu nói không tiếc thân mạng, vậy thì ít, rất khó tìm được một người!

Thế nhưng, vẫn có một, nên Phật pháp của đạo tràng Cư Sĩ Lâm mới hưng vượng đến như vậy.

– Đó là ai?

– Cư sĩ Lý Mộc Nguyên không tiếc thân mạng! Cho nên có cảm ứng, được chư Phật Bồ Tát, thần hộ pháp giúp ông.

Giai đoạn trước, cư sĩ Tề của Đông Thiên Mục Sơn, Hàn Châu, bà đến đây tham học, hồi báo với chúng ta: Bà đã trải qua hộ trì đạo tràng Đông Thiên Mục Sơn. Con người bà cũng là không tiếc thân mạng, cho nên cảm động chư Phật, Bồ Tát, long thiên hộ pháp đến giúp bà. Chân thật là tay trắng làm nên! Một phân tiền cũng không có!

Tuy nhiên, sau bốn năm ngắn ngủi, bà đã hồi phục được đạo tràng này. Nếu không phải chư Phật, Bồ Tát hộ trì nhất định không làm được. Bà có một báo cáo rất tường tận, chúng ta đem nó ghi thành đĩa ghi hình. Tôi thấy lúc nào đó tìm một cơ hội, đem băng ghi hình này chiếu cho mọi người xem. Sau khi xem xong, bạn sẽ có cảm nhận giống như là chuyện thần thoại.

Đạo tràng này có vào thời đại vua Lương Võ Đế; Bảo Chí Công khai sơn kiến lập. Mọi người đều biết Bảo Chí Công là Quán Thế Âm Bồ Tát hóa thân đến. Cho nên, đạo tràng này là đạo tràng Quán Âm Bồ Tát, nhiều đời đã đào tạo không ít Tổ Sư, cao tăng, đại đức. Nghe nói, hiện tại trên núi này có Phật, Bồ Tát, có La Hán, có quỉ thần, cũng có súc sinh đều đang tu hành.

Đạo tràng này hoang phế có hơn bốn mươi năm, không người ở, điện đường đều ngã đổ! Bà nói: Sau khi lên núi xem thấy cảnh tượng như vậy, bà khóc sướt mướt, phát tâm liều mạng phải xây dựng lại đạo tràng này. Vậy thì phải có tiền! Cũng không tệ! Có một số người bỏ tiền ra, tuy không nhiều, có bao nhiêu thì xây bấy nhiêu, từ từ mà xây.

Khi cần phải có cây, người quản lý khu vực sơn lâm đó không chịu cho bà, một cây cũng không được! Bà quay về cũng không có cách nào! Trước tượng Bồ Tát Quán Âm, Bồ Tát Vi Đà mà khóc! Hiện tại phải làm sao? Một gốc cây con cũng không thể tìm được! Bà nói: Buổi tối hôm đó mưa to gió lớn, nghe bên ngoài âm thanh rất lớn vang vọng cả đêm không ngớt. Đến sáng hôm sau, vừa mở cửa liền thấy có rất nhiều cây to nằm la liệt trước cửa của bà, không biết từ nơi nào thổi đến. Những cây cối bên cạnh phòng ở không hề bị tổn hại một cây nào. Cây to ở nơi khác, bật ngay đến gốc, thổi đến tặng cho bà.

Bà đem số cây cối này hồi phục dựng lại. Đại điện này còn lợi hại hơn Tế Công, đều là thật không phải giả! Cho nên, hoan nghênh các đồng tu đến Thiên Mục Sơn để tham học. Những việc cảm ứng ở nơi đó của bà thật quá nhiều, nói không hết!

– Vì sao bà có cảm ứng?

– Bà hộ pháp không cần đến thân mạng. Cho nên mới cảm ứng được thần hộ pháp. Thế nên, chúng ta phải chân thật phát tâm, không tiếc thân mạng. Thân mạng không quan trọng, Pháp Thân Tuệ mạng mới quan trọng hơn.

Hiện tại, đạo tràng đó đã được hồi phục, đại khái đã trở thành một “thôn Di Đà đệ nhất”, gồm có hơn hai trăm người ở, ngày đêm niệm Phật không gián đoạn. Không có người giảng kinh, băng đĩa của chúng ta ở nơi đây họ cũng tìm được một ít. Mỗi ngày, định thời gian để phát chiếu băng đĩa, mọi người cùng đến nghe kinh. Họ có một máy truyền hình, trên núi không có điện nên không mở được. Lần này đến gặp tôi, tôi nói với bà:

–  Rất tốt! Không nên mở đường, không nên kéo điện lên, không cần phải tìm lấy phiền phức!

–  Xem truyền hình thì phải làm sao?

–  Nơi đó của họ có một máy phát điện loại nhỏ, chính là loại máy phát điện ở trên xe hơi. Khi mở máy truyền hình để nghe giảng kinh thì mở máy phát điện đó. Sau khi nghe xong thì tắt máy phát điện. Dùng phương pháp này rất diệu. Đây là đạo tràng tu học chân thật. Sau khi chúng ta nghe rồi cũng rất tán thán, khích lệ bà, toàn tâm toàn lực giúp bà. Bà có thể không tiếc thân mạng, chúng ta cũng không nên tiếc tài mạng mà giúp đỡ bà.

Ư nhất thiết pháp bất sinh phỉ báng”: Cư sĩ Tề đã làm đến được! Sau khi đạo tràng xây xong, bà hy vọng có người xuất gia đến ở, cho dù họ tu pháp môn nào cũng tốt, chỉ cần khoác lên mình Pháp phục xuất gia, bà liền xem họ như Phật, Bồ Tát. Bà không có tâm phân biệt, rất cung kính đối với người xuất gia, chăm sóc chân thật là hết mức chu đáo. Người xuất gia nơi đó hưởng phước, không niệm Phật, bảo người tham thiền, bảo người đọc chú, kết quả đều bị thần hộ pháp đuổi xuống núi!

Làm cách nào đuổi? Bà nói: Pháp sư buổi tối đi ngủ, sáng sớm thức dậy không biết tại sao bị người khiêng để ở bên ngoài hồ nước! Hoặc khi đang ngồi thiền, bỗng nhiên dường như bị người xô ngã, ngã đến mặt xanh, chỗ này bị xước, chỗ kia bầm tím, đau nhức cả thân! Cho nên, biết thần hộ pháp đuổi xuống núi, họ nói với cư sĩ Tề: Tôi ở đây không được, ngày mai xin phép ra đi!

Sau cùng, mọi người biết được: Nếu không phải là người chân thật niệm Phật, không luận tu học pháp môn nào, đến nơi đó đều không thể ở, đều sẽ bị quỉ thần nơi đây đuổi xuống núi. Cho nên, khẳng định nơi đó là đạo tràng niệm Phật thật. Bồ Tát rất từ bi  “bất hủy kỳ hạnh”, thế nhưng đối với quỉ thần thì không được! Họ xem thấy không vừa mắt liền đuổi đi!

Cho nên, trong tất cả pháp, không riêng gì Phật pháp mà đối với tất cả các tôn giáo khác cũng không được phỉ báng. Chúng ta chỉ có thể phân biệt tà chánh, không nên phỉ báng, phỉ báng là sai! Sai ở chỗ nào? Sai ở tâm mình không thanh tịnh, tâm mình không bình đẳng! Lục Tổ Huệ Năng trong Đàn Kinh nói rất hay: “Nếu là người chân tu thì không thấy lỗi thế gian”.

Ư nhất thiết pháp bất sinh phỉ báng”. Đây là việc vô cùng quan trọng! Trong Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn Kinh nói đến rất nhiều về sự việc này: Hủy báng chánh pháp, quả báo đều ở A Tỳ Địa ngục. Ngày nay, chúng ta tu học Chánh pháp, hoằng dương Chánh pháp, người hủy báng cũng rất nhiều, chúng ta cũng không còn cách nào! Không thể nói vì họ hủy báng nên ta không làm! Nếu chúng ta không làm đâu xứng đáng là đệ tử Phật, cũng không xứng được với tất cả Tổ sư, đại đức nhiều đời. Cho nên, dù chướng nạn thế mấy, cũng vẫn kiên trì làm, quyết không lùi bước, khiếp sợ. Phải hiểu được: Hộ trì chánh pháp không tiếc thân mạng, tự nhiên có thể được chư Phật, Bồ Tát hộ niệm, long thiên thiện thần bảo hộ.

“Tứ giả: Ư nhẫn nhục trung sinh quyết định tâm” (Bốn là sinh tâm quyết định nơi nhẫn nhục): Lời giáo huấn này, đặc biệt là đối với thời đại hiện nay, nhất định phải nỗ lực học tập, vì hiện nay trong quần chúng xã hội rộng lớn, có mấy ai hiểu được đúng pháp?! Họ không hiểu lý, không đúng pháp vì họ chưa học qua, không có người dạy họ nên chúng ta cần phải tha thứ, chính mình nhất định phải nhận chịu. Không những thế, mà còn phải hoan hỉ giáo huấn họ, thành tựu họ, hy vọng thế giới này, xã hội này có thể hồi phục được trật tự tốt đẹp. Cái trật tự này không phải là pháp trị; pháp trị là miễn cưỡng, trong tâm họ tuyệt nhiên không phục. Đây là giáo dục từ trong nội tâm mà sinh ra thiện tâm, thiện ý, thiện hạnh, không gì không thiện.

Cho nên, giáo dục ngày nay, thực tế mà nói, chúng ta không nghĩ ra ai có thể gánh vác?! Tôi đã suy nghĩ rất nhiều, sau cùng chỉ có cầu cứu với tất cả các nhà tôn giáo. Tôi qua lại với các tôn giáo trên toàn thế giới, mục đích chính ngay chỗ này. Hy vọng tất cả mọi tôn giáo đều có thể hiểu được tầm quan trọng của giáo dục tôn giáo, có thể thực tiễn, đề xướng giáo dục tôn giáo, xã hội này, kiếp nạn này chắc chắn có thể hóa giải.

Nếu chúng sinh không hồi đầu, vẫn cứ tạo mười ác nghiệp, xã hội này về sau thật không thể nào tưởng tượng nổi! Hiện tại, bên bờ của tai nạn lớn, chúng ta quay đầu vẫn còn cứu kịp. Hồi đầu, cần phải có người chỉ dạy. Đối diện với hoàn cảnh xã hội hiện thực, nhẫn nhục là việc vô cùng quan trọng, bất cứ thứ gì cũng đều phải nhẫn, ngay trong nhẫn nhục sinh tâm quyết định.

Chúng ta phải hoán tỉnh đại chúng xã hội, trùng tân lại nhận thức Phật Giáo, khẳng định Phật Giáo không phải tôn giáo. Thế nhưng, Phật Giáo biến thành tôn giáo, chí ít có ba trăm năm rồi! Ngày nay thiên hạ nói Phật Giáo là tôn giáo, chúng ta cũng không thể phản đối. Đích thật đã biến thành tôn giáo rồi! Thật sự, cách đây hơn ba trăm năm về trước, Phật Giáo không phải là tôn giáo mà là giáo dục đa nguyên văn hóa. Thích Ca Mâu Ni Phật không phải là thần, mà là đấng đạo sư trọn đời dấn thân vì nghĩa vụ trong công tác giáo dục này, chúng ta cần phải nhận biết rõ ràng.

Ngày nay, chúng ta tiếp nối giáo dục chí thiện, viên mãn của Phật Đà đã gặp không biết bao nhiêu là chướng nạn. Phải biết ở thế gian này, làm được việc tốt đệ nhất cũng phải nhẫn chịu vũ nhục vô cùng nghiêm trọng nhất!

– Con người này vẫn có thể tiếp tục sống được chăng?

– Vẫn là phải tiếp tục sống!

– Vì sao mà sống?

– Vì những chúng sinh mê hoặc điên đảo này! Nếu họ không mê hoặc, chúng ta có thể đổi nghề khác; chính vì họ mê hoặc, không còn cách gì, bức chúng ta phải chọn lấy nghề nghiệp này.

Thế Tôn , trên Kinh Kim Cang nói với chúng ta: “Nhất thiết pháp đắc thành ư nhẫn”. Tôi không biết các đồng tu có loại thể hội này chăng? Giả như chúng ta gặp phải rất nhiều cảnh ngộ khó khăn; mở Phật kinh ra, tinh thần chúng ta liền được nâng cao, dường như được chư Phật, Bồ Tát đang không ngừng khích lệ. Cho nên, nếu không đọc kinh điển, không nghe giảng kinh, thoái đọa là nhất định không thể tránh khỏi!

Tôi, hai mươi sáu tuổi, may mắn nhận được giáo huấn của Đại Sư Chương Gia. Tôi tin tưởng, vâng lời ngài dạy: “Tất cả nhìn thấu, buông xả đem đời này phụng hiến cho Phật pháp, tự nhiên sẽ có Phật, Bồ Tát chăm sóc”. Tôi nghe rồi rất hoan hỉ, cảm thấy tôi có thể làm được như vậy; phải làm được như vậy!

Cả đời tôi không có lo lắng. Có đồng tu đến tính sổ cho tôi, tôi nói: Cả đời tôi không hề tính sổ, cũng không biết số mục của tiền, cái thứ này thật là bận tâm! Thật là phiền não! Sinh không mang đến, chết chẳng mang đi, quan tâm thế này thật là mệt chết người! Sổ các bạn tự tính đi! Tính xong đến nói với tôi cũng được, không nói cũng chẳng sao, bởi tôi không quan tâm đến những thứ này. Người thế gian rất xem trọng những thứ này, riêng tôi thì thấy quá tan nhạt đối với nó.

Mấy mươi năm gần đây, nhờ vào di giáo của Đại sư Ấn Quang, tôi chỉ có một sự việc in kinh bố thí, chỉ có lưu thông kinh điển, chánh pháp mới thường trụ ở thế gian. Chúng sinh nương Chánh pháp mới hiểu được đâu là thiện, đâu là ác, đâu là mê, đâu là giác ngộ. Đại sư Ấn Quang suốt đời chỉ làm một chuyện này. Tôi hiểu được dụng tâm của Ấn Tổ, hiểu được tồn tâm của Tổ Sư ngài. Tôi tiếp nối làm theo, hy vọng ngay trong nhà Phật, đời đời có người tiếp nối, làm cái công tác này. Công tác này làm được tốt thì bao gồm tất cả đều tốt.

Lần này tôi đến Bắc Kinh tham dự lễ kỹ niệm năm mươi năm Quốc Khánh Trung Quốc. Tôi cũng tặng một chút lễ nhỏ, tặng năm trăm bộ Long Tạng Đại Tạng Kinh. Tôi nghe nói Thạch Kinh ở Phòng Sơn khắc trên đá toàn bộ Đại Tạng Kinh. Nghĩ lại dụng tâm của người xưa, các ngài e sợ trong thiên tai nhân họa, Phật pháp bị thất truyền nên đã nghĩ cách đem Đại Tạng Kinh khắc trên đá. Toàn bộ công trình này phải mất gần tám trăm năm; nhân viên làm việc ba, bốn trăm người mới hoàn thành được bộ kinh này cất trong chín cái sơn động.

Năm chín mươi ba, tôi đến Bắc Kinh, Triệu Phát lão nói với tôi nhất định phải đi xem. Ông phái xe, phái người dẫn tôi đi tham quan. Sau khi xem xong, tôi không ngớt lời tán thán. Công trình đó không thua kém Vạn Lý Trường Thành. Cho nên, tôi phát tâm muốn đem bộ Tạng Kinh này in ra. Tôi làm cái việc này! Việc này không có người nào làm! Vì sao? Người thông thường không biết công việc này vô cùng quan trọng, không biết sự việc này có lợi ích đối với tất cả chúng sinh trên thế giới. Đây là lợi ích bậc nhất!

Muốn lợi ích tất cả chúng sinh cả ngàn năm vạn thế, chỉ có cách đem Đại Tạng Kinh mở mang rộng lớn, ấn hành lưu thông số lượng nhiều. Hy vọng mọi quốc gia trên thế giới, ở mỗi thư viện trường Đại học đều có Đại Tạng Kinh sẽ giúp các học giả trẻ tuổi có chí khí, các vị xuất gia đều là học giả có tài liệu tham khảo, chăm chỉ, nỗ lực tu học, tự hành hóa tha mới thành tựu công đức viên mãn.

Trong nhẫn nhục sinh tâm quyết định, nhất định được chư Phật, Bồ Tát hộ niệm “Phật thị môn trung, hữu cầu tắc ứng, hữu nguyện tắc thành”.

Những năm đầu giảng kinh, khoảng hơn ba mươi năm về trước, tôi ở chùa Pháp Hoa, Đài Bắc giảng Kinh Địa Tạng, có vị Pháp Sư, nay đã qua đời, lúc đó nghe tôi giảng kinh đến “hữu cầu tắc ứng”, đợi sau khi tôi giảng xong đi xuống, ông nói với tôi:

– Pháp Sư! Ngài nói “Phật thị môn trung, hữu cầu tắc ứng”, lời nói này thật không đáng tin! Tôi hỏi:

– Vì sao không đáng tin? Ông nói:

– Tôi ở trước mặt Phật, Bồ Tát phát nguyện cầu một cái tủ lạnh, đã cầu ba năm mà vẫn không tin tức gì!

– Đạo tràng thầy có mấy người?

– Chỉ một mình tôi!

–  Một người thì không cần, ông cầu không hợp lý, không như pháp nên không được cảm ứng!

– Tôi nói với ông: Tôi học Phật, chân thật là có “Hữu cầu tắc ứng”, chưa từng thất vọng bao giờ. Ông hỏi tôi:

– Ngài cầu cái gì?

– Tôi cầu kinh sách! Chỉ cần nghĩ đến bộ kinh nào đó, nhanh thì khoảng một, hai tháng liền có người đưa đến cho tôi, chậm nhất là nửa năm. Trung Quán Luận Sớ, việc này tôi ấn tượng rất sâu sắc. Tôi nghĩ đến sách này, nửa năm sau thì có người mang đến cho tôi Trung Quán Luận Sớ, sách đóng bìa mười hai tập. Tôi chân thật là “hữu cầu tắc ứng”, điều này thầy tôi dạy, một chút cũng không giả! Tôi học Phật cần có kinh sách, đây là hợp tình, hợp lý. Nếu học Phật mà muốn cầu một cái tủ lạnh để sống thoải mái thì e rằng Phật cũng lắc đầu! Nhất định phải hiểu được đạo lý này, đặc biệt đối với người trẻ tuổi, sức cám dỗ của vật chất quá lớn cần phải viễn ly, tuyệt nhiên không thể hưởng thụ.

Bồ Tát Phổ Hiền dạy chúng ta “hằng thuận chúng sinh, tùy hỉ công đức”, không luận là thuận cảnh hay nghịch cảnh; thiện duyên hay ác duyên đều phải nhẫn nại. Trong thuận cảnh, thiện duyên không sinh tâm hoan hỉ, không khởi tâm tham. Trong nghịch cảnh, ác duyên không khởi tâm sân hận. Đây gọi là “ư nhẫn nhục trung sinh quyết định tâm”.

Ngũ giả, thân tâm thanh tịnh, bất nhiễm lợi dưỡng (Năm là thân tâm thanh tịnh, chẳng nhiễm lợi dưỡng). Học Phật, quan trọng nhất trong tâm bạn không có phiền não, lo lắng; không có vướng bận phải quấy, tốt xấu; không có nhân ngã, được mất v.v… Nếu tâm còn đa mang những thứ này, làm sao có thể thanh tịnh?! Tâm không thanh tịnh, nhất định thân thể cũng không thanh tịnh, sẽ nảy sinh nhiều tật bệnh!

Nên nhớ: Tâm thanh tịnh thì tất cả mọi khí quan, mọi tế nào trên cơ thể đều thanh tịnh, tốt lành. Thân tâm thanh tịnh, hoàn cảnh cũng thanh tịnh, đây chính là từ trường tốt. Cảnh tùy tâm chuyển! Cho nên, tâm thanh tịnh quan trọng hơn bất cứ thứ gì. Muốn tâm thanh tịnh, bạn cần phải ghi nhớ “bất nhiễm lợi dưỡng”, quyết không tiêm nhiễm năm dục, sáu trần, danh vọng lợi dưỡng, “bất nhiễm” ở đây không phải bảo bạn không cần, đạo lý này phải hiểu. “Bất nhiễm” là nhất định không để vào tâm, tất cả tùy duyên là tốt! Tùy duyên thì tự tại, nhất định không phan duyên, hơn nữa đời sống càng đơn giản càng tốt!

Rất nhiều đồng tu hỏi tôi:

– Pháp sư à! Ngài dùng phương pháp gì để bồi dưỡng, xem ra thân thể ngài rất tốt! Tôi nói:

– Tôi có bổ phẩm tốt nhất!

– Là bổ phẩm gì vậy?

– Nước máy từ công ty nước máy Đài Loan! Tôi chỉ uống nước trắng, không có bất cứ thứ gì, trà lá tôi cũng không uống!

– Sao vậy?

– Pha trà phiền phức! Hao phí tinh thần, làm việc này thật là không đáng!

Tôi ăn cơm cũng rất đơn giản, xem qua chẳng có dinh dưỡng, tôi ăn vào thì rất khỏe mạnh. Đây là lời thật không phải giả!Vì sao? Thân thể là bộ máy không ngừng hoạt động. Hoạt động cần phải có năng lượng. Năng lượng chính là thức ăn, nước uống bổ sung cho cơ thể. Thế nhưng, cơ thể mỗi người một khác, cơ thể tôi là tiết kiệm năng lượng, cơ thể bạn tiêu hao năng lượng, cho nên bạn cần bổ sung nhiều.

Nên nhớ! Chín mươi lăm phần trăm năng lượng đều tiêu hao do vọng tưởng. Cho nên, tâm càng thanh tịnh, năng lượng tiêu hao càng ít. “Bất nhiễm lợi dưỡng”, câu nói này, đặc biệt là đối với các đồng tu xuất gia phải nên ghi nhớ: Vừa nếm lợi dưỡng, bạn liền đọa lạc! Quyết không nên tiêm nhiễm. Nếu bạn đã thành tựu Định -Tuệ thì có thể tùy duyên, trong tùy duyên quyết không tiêm nhiễm.

Lục giả, phát “Nhất Thiết Chủng Trí” tâm, nhật nhật thường niệm, vô hữu phế vong” (Sáu là phát tâm Nhất Thiết Chủng Trí, hàng ngày thường niệm, chẳng hề quên mất): Nhất Thiết Chủng Trí là trí tuệ chân thật trên quả địa Như Lai. Chúng ta học Phật, mong cầu chính là cái sự việc này. Tiếng Phạn gọi Nhất Thiết Chủng Trí là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề cũng dịch thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Từ trên trí tuệ mà nói có ba loại:

– Một là Nhất Thiết Trí, A-la-hán chứng được Trí tuệ này gọi là Chánh Giác. Họ biết được thể tánh của tất cả vạn pháp là giai không nên không còn chấp trước. Thế nhưng, nguồn gốc và sự biến hóa của vũ trụ nhân sinh họ đều không biết.

– Hai là Đạo Chủng Trí. “Đạo” là đạo lý của vũ trụ nhân sinh, tất cả vạn vật. “Chủng” là chủng loại vô số hình tướng chủng loại khác nhau; cũng bao gồm vô lượng, vô biên nhân duyên quả báo. Loại trí-tuệ này nếu thành tựu gọi là Chánh Đẳng Chánh Giác, đây chính là “Bồ Tát sở chứng”.

–  Ba là Nhất Thiết Chủng Trí, là trí tuệ viên mãn trên Như Lai quả địa.

Gần đây, khoa học gia khẳng định không gian là đa chiều, gọi là không gian ba độ, không gian bốn độ v.v… mãi đến không gian vô hạn độ. Nhưng, trên thực tế, khoa học gia chỉ mới chứng thật có mười một độ không gian trong vô lượng độ không gian đang tồn tại, vẫn chưa biết được không gian do đâu mà hình thành? Không gian đa chiều từ đâu mà có? Cũng không biết được làm thế nào để đột phá “thời không”. Trên kinh Phật không gọi là không gian mà gọi là “Pháp giới”. Phật nói rất rõ ràng: Pháp giới vốn dĩ là Nhất Chân.

–  Vì sao pháp giới Nhất Chân lại biến thành pháp giới đa chiều?

–  Vì do vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chúng sinh mà biến hiện ra! Do đây có thể biết, chỉ cần đem vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đoạn dứt thì tất cả giới hạn của không gian khác nhau hoàn toàn được hóa giải hết. Giới hạn của mắt bạn lúc này sẽ thay đổi: Bạn có thể nhìn thấy đời sống của thiên nhân, đời sống của ngạ quỉ, đời sống của địa ngục, cũng có thể xem thấy đời sống của   chư Phật, Bồ Tát mười phương pháp giới. Không gian đời sống của bạn bỗng chốc mở rộng, tự tại vô cùng!

– Nhà Phật dùng phương pháp gì để đột phá “Thời Không”?

–  Dùng Thiền định, dùng tâm thanh tịnh! Tâm càng thanh tịnh, tầng thứ không gian đột phá càng lớn, không gian đời sống càng mở rộng.

Tóm lại, chân thật có trí tuệ, bất cứ việc gì cũng đều có thể giải quyết. Cho nên, chúng ta phải thường niệm trí tuệ. Trong Thiền Tông, Đàn Kinh vừa mở đầu, Lục Tổ Huệ Năng liền dạy mọi người tổng niệm: Ma Ha Bát Nhã Ba-La-Mật Đa, cũng chính là học Trí tuệ Bát Nhã Ba-La-Mật Đa trong Lục Độ.

– Chúng ta có cần đi cải niệm Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa hay không?

–   Không cần thiết! Chúng ta niệm câu A Di Đà Phật cũng là Ma Ha Bát Nhã Ba-La-Mật Đa, cũng là niệm Nhất Thiết Chủng Trí, điều nầy cần phải biết.

Danh hiệu A Di Đà Phật là dịch âm từ tiếng Phạn, Ấn Độ; ý nghĩa là vô lượng giác, vô lượng trí tuệ. Niệm câu Phật hiệu này là mỗi giờ, mỗi phút nhắc nhở chính mình luôn sống trong tỉnh giác, trí tuệ. Câu Phật hiệu này, mười phương ba đời tất cả chư Phật, chư Bồ Tát đều niệm, không ai mà không niệm. Cho nên, niệm A Di Đà Phật liền có thể đạt được oai thần chư Phật gia trì, được cộng hưởng với tất cả chư Phật, Bồ Tát, sức mạnh này vô cùng to lớn.

Trong tất cả kiết tường của thế gian, kiết tường tốt nhất là niệm A Di Đà Phật. Trong nhà thờ cúng Phật A Di Đà, mười phương pháp giới chúng sinh trong vô lượng không gian duy thứ khác nhau, nghe được Phật hiệu A Di Đà Phật, thảy đều chấp tay hoan hỉ,  kính lễ, tán thán. Cho nên, chúng ta phải “nhật nhật thường niệm, vô hữu phế vong”, không nên quên mất.

“Thất giả, ư nhất thiết chúng sinh, khởi tôn trọng tâm, trừ ngã mạn ý, khiêm hạ ngôn thuyết”. (Bảy là với hết thảy chúng sinh, khởi tâm tôn trọng, trừ ý ngã mạn, nói năng khiêm tốn). Lời nói này chân thật dường như nói với chúng ta. Vì sao? Vì chúng ta đích thật phạm phải tâm bệnh này! Cho nên, đối với tất cả chúng sinh, không phân nam nữ, già trẻ, trí ngu, sang hèn, chủng tộc, màu da, tôn giáo tín ngưỡng v.v… nhất nhất chúng ta đều phải một mực bình đẳng, một mực tâm tôn trọng mà đối xử. Đây chính là nguyện thứ nhất trong mười đại nguyện vương của Bồ Tát Phổ Hiền: “Lễ Kính chư Phật”.

– Vì sao phải tu điều này?

– “Trừ ngã mạn ý”!

Chúng sinh nào mà không cống cao ngã mạn?! Cống cao ngã mạn là đại phiền não; trong sáu phiền não căn bản, nó xếp ở hàng thứ tư. Phiền não này nếu không tiêu trừ, cho dù bạn có tu hành thế mấy cũng không thể khai ngộ, cửa ngộ đã bị nó đóng bít nên không thể nào nâng cao cảnh giới.

Trong “Lễ Ký”, ngay chương thứ nhất nhà Nho cũng dạy: “Ngạo bất khả trưởng”, cái ngạo mạn này không nên để tăng trưởng. Trong Kinh Đại thừa, Phật nói với chúng ta: Người sinh về trời Sắc giới, cái phiền não “mạn” này không có! Nói cách khác, tâm ngạo mạn nếu vẫn còn, bạn tu dù tốt thế mấy, nếu được sinh thiên, chỉ có thể sinh về trời Dục giới.

Do đây có thể biết: Tâm ngạo mạn chướng ngại thiền định. Ngay cả chúng sinh tạo tác tội nghiệp, chúng ta cũng không thể khinh mạn họ, cũng phải tôn trọng họ. Đối với loài ngạ quỉ, địa ngục,  yêu  ma quỉ quái đều phải tôn trọng. Thậm chí người hủy báng, nhục mạ, hãm hại ta, vẫn phải khởi tâm tôn trọng đối với họ. Vì sao? Vì họ vô tri không biết mới làm sai. Nếu họ được tiếp nhận từ giáo dục tốt, họ sẽ có trí tuệ, sẽ là người tốt.

Cho nên, chúng ta phải học theo Phổ Hiền Bồ Tát “Lễ Kính chư Phật”, xem tất cả mọi người, mọi vật là chư Phật, Bồ Tát hóa hiện, chỉ có ta là phàm phu thì dám đâu không “khiêm hạ ngôn thuyết” đối với tất cả. Việc này giúp ta tăng trưởng trí tuệ, tiêu diệt phiền não, tập khí cống cao ngã mạn của chính mình.

“Bát giả, ư thế đàm thoại, bất sinh vị trước” (Tám là chẳng lầm lẫn, ham thích những lời đàm luận): Chuyện phiếm của thế gian, chớ nên chấp trước để trong lòng, chớ xem nó là quan trọng thì tâm mới thanh tịnh. Có chấp trước liền biến thành tình kiến rơi vào trong ý thức, sẽ sinh phiền não, không sinh được trí tuệ. Thật sự lãnh hội được ý này, bạn sẽ không còn chấp trước vào pháp thế gian, xem như tất cả những hiện tượng trước mắt chỉ là vở kịch đang diễn biến trên màn hình. Tất cả đều không thật! “Bất sinh vị trước”, chữ “vị” là hứng thú, thú vị, đây là tình chấp; chữ “trước” là chấp trước. Nên nhớ: Chấp trước vào ngôn luận của thế gian, là tạo nghiệp luân hồi, không cách nào ra khỏi lục đạo.

–  A-la-hán đối với tất cả sự việc thế gian đều không chấp trước nhưng vẫn còn phân biệt.

Bồ Tát, tất cả đều không phân biệt, không chấp trước nhưng vẫn còn khởi tâm động niệm.

–  Phật hoàn toàn không khởi tâm động niệm, không phân biệt, không chấp trước.

“Cửu giả, cận ư giác ý, sinh khởi chủng chủng thiện căn nhân duyên, viễn ly hội náo tán loạn chi tâm” (Chín là chú  trọng giác ý, sinh khởi các thứ thiện căn nhân duyên, xa lìa tâm ồn náo, tán loạn).

Cận ư giác ý”, chữ “Cận” là tiếp cận, “giác ý” ở đây là chỉ Phật Đà. Phật Đà là đại giác viên mãn, Bồ Tát tuy giác nhưng so với Phật vẫn còn kém cự ly rất xa. Cho nên, luôn phải “Cận ư giác ý”, tiếp cận, học tập từ giáo huấn của Phật Đà.

Sinh khởi chủng chủng thiện căn nhân duyên, viễn ly hội náo tán loạn chi tâm”, “Thiện căn” là vô tham, vô sân, vô si. Câu này chú trọng hai chữ “nhân duyên”.

– Cái gì là “nhân duyên”?

–  “Nhân duyên” ở đây ngầm chỉ yếu tố tâm niệm và ngoại duyên hoàn cảnh, phải viễn ly nơi phồn hoa náo nhiệt. Không những thân viễn ly mà tâm cũng phải viễn ly. Thân “ly”, tâm không “ly” thì chẳng có lợi ích!

Hiện tại, khoa học kỹ thuật phát triễn, trong núi sâu cũng mắc được truyền hình; chỉ cần có truyền hình, có phát thanh thì bạn không thể “ly”! Do đây có thể biết yếu tố ngoại duyên rất quan trọng. Tuy nhiên, nếu ở đô thị mà bạn tuyệt đối không xem báo chí, không nghe phát thanh, không xem truyền hình thì bạn đã chân thật “viễn ly” rồi.

Xã hội hiện nay chú trọng đến khích lệ mọi người tiêu xài. Đây là chính sách kinh tế của nhiều quốc gia tiên tiến chọn lấy, cũng chính là khuyến khích mọi người “tham-sân-si”. Nếu bạn không tham, không sân, không si thì họ không thể kiếm tiền! Cho nên, sự việc này rất phiền phức! Chúng ta chính mình phải đoạn dứt “tham- sân-si-mạn”, nhất định phải học tiết kiệm, giản dị, trải qua đời sống đơn giản nhất. Có như vậy, mới có thể “Cận ư giác ý”, thân cận Phật Đà. Nên nhớ: “cận ư giác ý” là quay đầu; “cận ư nhiễm ý” thì không thể quay đầu!

Sinh khởi chủng chủng thiện căn nhân duyên”: Nếu mỗi niệm vì chính mình, đây là tạo nghiệp! Phải chân thật chuyển đổi lại, phải hoan hỉ trải qua đời sống thanh đạm. Đời sống đơn giản là đời sống hạnh phúc nhất, đời sống xa xỉ không có hạnh phúc! Vì sao? Tỉ mỉ mà xét xem: “Cái được không bằng cái mất! Cái được quá ít, cái bỏ ra thì quá nhiều!

– Bỏ ra cái gì?

– Là lo lắng! Hiện tại chúng ta gọi là áp lực của tinh thần, áp lực của vật chất. Đời sống đơn giản, thân tâm tự tại, mới có thể “cận ư giác ý”, tâm Bồ Đề mới có thể hiện tiền, mới có thể “sinh khởi chủng chủng thiện căn nhân duyên”.

“Thập giả, chánh niệm quán Phật, trừ khử chư căn” (Mười là chánh niệm quán Phật, trừ khử các căn): Đây chính là không để các căn trần làm nhiễu loạn thân tâm. Câu nói này chính là trong “Pháp Tướng tông” nói “Chuyển thức thành trí”. Đại sư Giao Quang trong Lăng Nghiêm Chánh Mạch có nói: “Xả thức dụng căn”. Cái “dụng căn” ngài nói ở đây chính là dùng “tánh” ở trong “căn” chớ không phải dùng “căn”. Chỗ này nói “trừ khử chư căn”, “trừ khử” là trừ đi “thức” ở trong “căn”, chớ không phải đem “căn” bỏ đi.

Cho nên, cách nói tuy khác nhau nhưng tuyệt nhiên không có mâu thuẫn. Ví như quan sát một sự vật, chúng ta phải dùng “tánh” của “nhãn căn” (căn của mắt) tức là dùng “tánh thấy” để thấy, không nên dùng “nhãn thức” (ý thức phân biệt của mắt) mà thấy. Đây chính là “trừ khử căn mắt”. Nếu đọc Lăng Nghiêm không hiểu tường tận, vội cho rằng Lăng Nghiêm nói phải “dụng căn”, còn chỗ này nói phải đem “căn” bỏ đi thì đã hiểu sai rồi!

– Vì sao không dùng “nhãn thức” để thấy?

– Vì có “thức” là có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Trong “tánh” không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần bên ngoài, chỉ cần lìa vọng tưởng, phân biệt, chấp trước chính là “xả thức dụng căn”, cũng chính là chỗ này nói “trừ khử chư căn”. Sau khi “trừ khử chư căn”, câu thứ nhất “chánh niệm quán Phật” tự nhiên thành tựu. Chánh niệm là không có tà niệm.

– Cái gì là tà niệm?

– Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là tà niệm.

Trong Tông môn thường nói “chánh niệm vô niệm”, trong chánh niệm không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là cái ý này. Dùng chánh niệm để quán Phật thì cảnh giới Phật liền hiện tiền. Quán Phật, không phải bảo bạn suốt ngày từ sớm đến tối cứ nhìn thấy tượng Phật, không phải vậy! Quán Phật là như trong Đại Kinh, Phật nói: “Đại địa chúng sinh vốn dĩ thành Phật”, phải xem tất cả chúng sinh hữu tình đều là chư Phật Như Lai, đây là người có chánh niệm. Nếu xem thấy chúng sinh đều là phàm phu tạo nghiệp, đó là bạn không có chánh niệm mà là tà niệm quán thế gian.