Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

II. PHÁT ĐẠI THỆ NGUYỆN ĐỆ LỤC
(TT)

KINH VĂN:

Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sinh, văn ngã danh hiệu, chí tâm tín nhạo, sở hữu thiện căn, tâm tâm hồi hướng, nguyện sinh ngã quốc, nãi chí thập niệm, nhược bất sanh giả, bất thủ Chánh Giác; duy trừ ngũ nghịch, phỉ báng Chánh pháp.

VIỆT DỊCH:

Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sinh, nghe danh hiệu tôi, chí tâm tin ưa, tất cả thiện căn, tâm tâm hồi hướng nguyện sinh cõi tôi, dẫu chỉ mười niệm, nếu chẳng được sinh chẳng lấy Chánh Giác, chỉ trừ kẻ ngũ nghịch, phỉ báng Chánh pháp.

GIẢNG:

Đoạn kinh văn trên là nói về nguyện thứ mười tám “Thập niệm tất sinh”. Các vị Cổ Đức thuộc Tịnh Tông Nhật Bản phán định rằng: Trong các kinh, chỉ Kinh Hoa Nghiêm là chân thật. Nhưng nếu đem Hoa Nghiêm so với kinh này thì kinh này mới là chân. Đem các  nguyện khác so với nguyện này thì nguyện này chân thật nhất, nghĩa là nguyện này chân thật nhất trong các nguyện chân thật.

Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sinh, văn ngã danh hiệu” (Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sinh, nghe danh hiệu tôi):

– Trong đây ai là người giới thiệu đệ nhất?

– Mười phương tất cả chư Phật Như Lai là người giới thiệu đệ nhất. Thích Ca Mâu Ni Phật ở thế gian này vì chúng sinh tuyên giảng Tịnh Độ Tam Kinh, chúng ta mới biết được pháp môn này, mới biết được danh hiệu của A Di Đà Phật, đây là người giới thiệu đệ nhất. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật kết tập kinh tạng, mục đích là hy vọng giáo huấn của Phật Đà thường trụ thế gian, đời đời nối nhau, đây là người giới thiệu đệ nhị. Chúng ta phải vô cùng cảm kích đại ân, đại đức của Phật cùng các đại đệ tử của Phật, kế đến là chư vị Tổ sư, đại đức đời đời truyền giáo đều có ân đức đối với chúng ta.

Phật dạy chúng ta phải tri ân, báo ân.

– Làm thế nào để báo ân Phật, chư đại đệ tử của Phật cùng các Tổ sư, đại đức này?

– Chỉ có một phương cách là y giáo phụng hành, vãng sinh Tịnh Độ. Chư Phật Như Lai đều hy vọng chúng ta sớm một ngày thành Phật, sau khi làm Phật, rộng độ chúng sinh.

Văn ngã danh hiệu”, chữ “văn” này rất quan trọng rất thiết yếu, nhân duyên thù thắng không gì bằng. Sau khi nghe rồi, ngay trong đời này có thể thành tựu hay không, quyết ở bốn câu sau:

Chí tâm tín nhạo, sở hữu thiện căn, tâm tâm hồi hướng, nguyện sanh ngã quốc” (Chí tâm tin ưa, tất    cả thiện căn, tâm tâm hồi hướng, nguyện sinh cõi tôi). Chữ “Ngã” này là A Di Đà Phật tự xưng. “Chí tâm” là tâm chí thành, tâm chân thành đến tột đỉnh.

Sách Kim Quang Minh Văn Cú nói: “Chí tâm là tột cùng nguồn tâm, tận cùng Thật Tế của tâm nên bảo là chí tâm”. “Nguồn tâm” là nguồn gốc của bản tâm. “Thật Tế” là “Chân Thật Tế” nói trong kinh này.

– “Chân Thật Tế” là gì?

–  Là chân tâm, là bổn tánh, là “minh tâm kiến tánh” mà trong Thiền tông nói.

Ngày nay, tuy chúng ta chưa đạt đến, nhưng phương hướng phải chính xác, mục tiêu phải tường tận. Không thể làm đến được “Phát tâm Bồ Đề” cũng phải được gần giống với “phát tâm Bồ Đề”, vậy mới có thể vãng sinh. “Tín nhạo” là tin ưa, tin thuận theo pháp đã được nghe. Do ưa thích nên sinh lòng tin hoan hỉ, đây là “hoan hỉ khánh hạnh chi tâm”, việc này người thế gian cũng có. Thế nhưng, tín tâm của người thế gian không rời khỏi tình chấp; tín tâm của họ là đạo tâm sương sớm, như lục bình trôi sông, cho nên tạo nghiệp. Thậm chí có người cả đời tu hành, đến già bảy, tám chục tuổi vẫn còn bị cảnh giới xoay chuyển, vẫn bị ngoại cảnh làm dao động! Họ có tín tâm gì chứ?! Tín tâm như vậy không hữu dụng! Tín tâm như vậy có niệm Phật cũng không thể vãng sinh!

–  Vì sao không thể vãng sinh?

– Họ không có “tâm tín nhạo”!

Ái lạc của Phật, Bồ Tát hoàn toàn vượt hẳn tình chấp, không còn vì chính mình. Cũng có thể nói “chí tâm” là trong tâm ngoài A Di Đà Phật ra, nhất định không có tạp niệm, ngoài việc cầu sinh thế giới Tây Phương Cực Lạc quyết không có cách nghĩ thứ hai; người như vậy đời này nhất định vãng sinh.

Đại Thế Chí Bồ Tát trong “Niệm Phật Viên Thông Chương” của Kinh Lăng Nghiêm dạy chúng ta phương pháp tu học là “Tịnh niệm tương tục”. Chữ “Tịnh” đó chính là “chí tâm”.

–  Tiêu chuẩn của “Tịnh” là gì?

– Bồ Tát Giác Minh Diệu Hạnh trong Tây Phương Xác Chỉ nói rất hay “không hoài nghi, không xen tạp”, đây mới là tịnh niệm. Nếu tâm còn vướng bận, lo lắng, nghĩ nhớ đủ chuyện thì không thanh tịnh; không thanh tịnh thì không phải chí tâm.

Mặt khác, “chí tâm tín nhạo” cũng chính là “phát Bồ Đề tâm” như trên kinh “Quán Vô Lượng Thọ Phật” nói: Thể của tâm Bồ Đề là “tâm chí thành”, chính là “chí tâm” mà chỗ này nói. Khởi dụng của tâm Bồ Đề là thâm tâm, hồi hướng phát nguyện tâm. “Thâm tâm” chính là chỗ này nói “tín nhạo”. “Hồi hướng phát nguyện tâm” chính là hai câu phía sau nói: “Sở hữu thiện căn, tâm tâm hồi hướng”.

Hiện tại, từ Nhật Bản, rất nhiều nơi truyền đến gọi là “Bổn nguyện niệm Phật”. Các Tổ sư đề xướng chắc chắn không có vấn đề; truyền đến đời sau, rất nhiều khúc giải, ý nghĩa của Tổ sư biến thành loại chướng ngại cho người niệm Phật! Đây là việc chúng ta không thể không tường tận. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nhất tức thị đa, đa tức thị nhất”, chúng ta phải sâu sắc lảnh hội cái ý này. Cái gọi là “Bổn nguyện” tuyệt đối không phải chỉ có một nguyện này. Chúng ta phải rất rõ ràng, bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà, mỗi nguyện đều viên mãn, hàm nhiếp bốn mươi bảy nguyện kia, như vậy mới là ý nghĩa chân thật của bổn nguyện.

Nói cách khác, nếu chỉ riêng đề cập đến nguyện thứ mười tám, thì nguyện thứ mười tám này phải nói được thấu triệt tường tận, trong đó bao gồm cả “chí tâm tín nhạo” lẫn “phát Bồ Đề tâm”. Nếu chỉ nương vào nguyện này mà không đề cập đến “phát tâm Bồ Đề” (tức tâm chân thành giác ngộ) thì nghiêm trọng rồi! Vì sao? Vì chưa có “chí tâm tín nhạo” mà tự cho là có “chí tâm tín nhạo” thì ngay đến cơ duyên cải lỗi, phản tỉnh, nỗ lực, tự làm mới của họ cũng đoạn mất hết!

Hơn nữa, nếu nói niệm Phật chỉ cần theo Bổn nguyện này là đủ, mười niệm liền có thể vãng sinh, bất cứ tội nghiệp nào cũng chẳng sao, đều có thể “đới nghiệp vãng sinh”, vậy thì sai lầm đến hại chết người! Trong nguyện thứ mười tám, chúng ta phải đặc biệt chú trọng đến sáu chữ “chí tâm tín nhạo, thiện căn”. Chúng ta hồi hướng cầu sinh Tịnh Độ chính là sáu chữ này. Nếu không có sáu chữ này, chúng ta lấy gì để hồi hướng?! Mỗi ngày đọc kệ hồi hướng “nguyện dĩ thử công đức” (nguyện đem công đức này), “công đức” này chính là “chí tâm tín nhạo, sở hữu thiện căn”. Nếu sáu chữ trên thảy đều không có, thì hồi hướng của bạn chỉ là lời trống không!

Đồng tu tại gia nên biết: Nếu chân thật phát tâm từ bi, hộ trì Pháp sư xuất gia, không nên bảo Pháp sư xuất gia làm những việc tạp của thế gian! Tôi nói “việc tạp thế gian” là quản lý đạo tràng, việc này xen tạp quá nhiều! Nếu chân thật muốn thành tựu người xuất gia, phải để họ xa lìa tất cả nhiễu loạn. Điện thoại đến mỗi ngày cũng là nhiễu loạn! Không việc gì, bạn điện thoại Pháp sư làm gì?!

Viết thư gửi pháp sư cũng là nhiễu loạn! Cư sĩ ưa thích Pháp sư này; Pháp sư lại phan duyên kéo tín đồ rơi vào danh vọng lợi dưỡng!

Hôm nay, tôi đặc biệt nêu ra lời này, bởi chính tôi trong đời này có được chút thành tựu như hiện nay cũng nhờ không bị nhiễu loạn. Tôi là người hiện tại đáng để cho các bạn tham khảo. Cả đời tôi không quản người, không quản việc, không quản tiền, không bị quấy nhiễu. Bao gồm tất cả quấy nhiễu, cư sĩ gánh vác cho tôi rồi, đây là chân thật hộ trì tôi.

Năm xưa, Quán Trưởng Hàn hộ trì tôi, ba mươi năm như một ngày. Bất cứ việc gì cũng không cần tôi hỏi qua, bà tự quyết định, nên tôi có được tâm thanh tịnh, mỗi ngày có thể đọc tụng Đại Thừa, khi xếp kinh lại chỉ tư duy nghĩa kinh, vậy mới có chỗ ngộ. Cảnh giới mỗi năm không giống nhau. Tôi cảm ân đối với Quán Trưởng Hàn, bà thành tựu tôi. Không luận người nào tìm tôi, trước phải thông qua cửa ải của bà. Gọi điện thoại bà nghe, tôi không nghe. Những người viết thư gửi cho tôi, bà bốc ra xem trước. Nếu không phải là việc lớn lao gì, tôi không cần phải quan tâm. Mời tôi giảng kinh, phải thông qua cửa ải của bà, bà thẩm tra có nên đi hay không?

Quán Trưởng Hàn vãng sinh, bà chân thật vãng sinh, cái công đức này rất lớn! Các bạn đều không biết, bà chân thật thành tựu tôi. Công đức tôi hoằng pháp lợi sinh, bà phải được phân nửa.

Sau khi bà đi rồi, cư sĩ Lý gánh vác việc này. Ngày nay, mỗi nơi mời tôi giảng kinh, tôi đều đem những tin tức này nói với ông, do ông quyết định. Ông quyết định nơi nào có thể đi, nơi nào không nên đi. Tôi ở đây nghe theo ông ấy. Các vị cúng dường cho tôi, thảy đều đưa cho Cư Sĩ Lâm. Những bao đỏ, ngay đến xem, tôi cũng không xem qua, chưa bao giờ mở bao bì ra, tôi cũng không biết là được bao nhiêu, toàn bộ giao cho họ. Cho nên, tôi ở đây vẫn là không quản người, không quản việc, không quản tiền; tôi ngay một đời mới có được chút thành tựu như vậy. Nếu muốn quản hết mọi việc mà cũng có thể được thành tựu như tôi thì bạn cao minh hơn tôi nhiều! Tôi tự xét không bằng, tôi không thể so được với bạn. Tâm của tôi là Định, là thanh tịnh.

Pháp sư giảng kinh, giai đoạn sơ học, việc đầu tiên là phải thuộc. Cho nên, tôi khuyên mọi người trước tiên nên học Kinh Vô Lượng Thọ; đem Kinh Vô Lượng Thọ đọc qua ba ngàn biến, đọc đến có thể thuộc rất thuần thục. Sau khi thuộc rồi, mỗi ngày đều đọc qua một, hai lần, ngay trong một đời không thể quên đi. Chúng ta chỉ tu bộ kinh điển này. Bước thứ hai, phải giảng mỗi ngày, đây là tôi đem phương pháp truyền cho bạn. Mỗi tuần lễ chí ít phải giảng ba lần, vĩnh viễn không gián đoạn, bạn mới có thể có được thọ dụng.

– Ba lần giảng như thế nào?

– Bạn đến chỗ này giảng một lần, lần sau giảng lại đoạn kinh văn này ở chỗ khác, tìm thính chúng nơi khác. Ngày trước tôi ở Đài Trung học tập với thầy Lý, hoàn cảnh lúc đó kém rất xa so với hiện tại.

– Chúng tôi đến chỗ nào để học?

– Đến nhà cư sĩ để học?

Thứ hai giảng ở nhà cư sĩ Trường, thứ ba giảng ở nhà cư sĩ Lý, thứ tư giảng ở nhà cư sĩ Dương, đều giảng đoạn kinh văn này. Nếu tìm được bảy nhà cư sĩ, một tuần lễ giảng bảy ngày, không trống qua ngày nào, đây là pháp duyên của bạn rất tốt.

Đến nhà cư sĩ giảng kinh, thầy Lý có qui định: Không được tiếp nhận cung kính cúng dường của người khác, chỉ có thể uống một ly nước do họ tiếp đãi, các thứ khác không được tiếp nhận, giảng xong lập tức cáo từ ra về, không nên có chuyện nhàn rỗi, đoạn tuyệt phan duyên.

Thực tế, nếu bạn không thể tìm được người nghe kinh, vậy thì pháp duyên của bạn không tốt, không có người nghe. Hiện tại có băng ghi âm, máy ghi hình, bạn có thể đối mặt với máy ghi hình mà giảng. Sau khi giảng xong lại mở ra xem, nghe lại lần nữa, xem cái sai sót của chính mình cũng được mà! Quyết không thể nào lơ là, khi vừa lơ là bạn liền khởi dậy vọng tưởng! Sự việc này phải dựa vào chính mình.

Tôi giảng đến tuổi tác lớn như thế này, một tuần lễ bảy ngày, bảy ngày tôi đều không có rảnh. Mỗi ngày chí ít giảng hai giờ đồng hồ. Nếu không tu học cần khổ như vậy làm sao có thể thành tựu. Việc này đáng được để các đồng tu làm tham khảo. Người xuất gia chúng ta lập định phương hướng, cả đời hoằng pháp lợi sinh, dấn thân trên con đường này thì tâm phải Định, Định mới có thể sinh Tuệ, khi mở quyển kinh bạn mới có thể thấy được từng câu, từng chữ bao hàm chân thật nghĩa, vô lượng nghĩa. Không luận tu học pháp môn nào đều là “chí tâm tín nhạo”. Cái tâm này là tâm chân thành. Ngạn ngữ thường nói: “Thành tắc linh”, chưa hề học qua thứ này, khi vừa tiếp xúc liền thông đạt, không hề có chướng ngại.

– Do nguyên nhân gì?

–  “Thành tắc linh”, tự nhiên liền thông đạt!

Cho nên, học giảng kinh không thể một ngày không giảng Ngày trước, thầy Lý thường khuyên dạy chúng tôi; ông nói:

Quyền bất ly thủ, khúc bất ly khẩu”. Người xướng ca ngày ngày phải rèn luyện, ngày ngày phải ca, người đánh võ ngày ngày phải tập. Chúng ta học giảng kinh, ngày ngày phải giảng. Nếu không có người thì giảng với cây cối, hoa, cỏ; làm theo cách này bạn mới có thể thành công. Tôi nêu ra điểm này để các đồng tu tham khảo, đều là “chí tâm tín nhạo”. Tôi là dựa vào cái này. Sau đó, chúng ta mới chân thật làm được “sở hữu thiện căn, tâm tâm hồi hướng”, cái hồi hướng này mới không trống không, mới có công đức chân thật.

“Chí tâm” cùng “thiện căn” mà Thế Tôn dạy cho phu nhân Vi-Đề-Hy trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, chúng ta nhất định mỗi giờ, mỗi phút phải luôn ghi nhớ trong tâm, y giáo phụng hành. Đây chính là Tịnh Nghiệp Tam Phước, cũng là Chánh nhân Tịnh nghiệp ba đời chư Phật. Cho dù bạn tu học pháp môn nào, thành tựu

Phật quả cứu cánh, đều phải dựa trên căn bản ba điều, mười một câu, bốn mươi bốn chữ này.

Phước thứ nhất: Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp”. Bạn đã làm được chưa? Đây chính là thiện pháp trong sáu cõi. Thật không phải dễ dàng! Tuy nhiên, khó, dễ đều ở nơi tâm của chính mình. Nơi Đại Hùng Bảo Điện, chúng ta cúng dường, lễ bái Phật.

– “Đại hùng” là ý nghĩa gì?

– Người bình thường không làm được, Phật có thể làm được, đây là đại anh hùng!

– Cái gì người bình thường không làm được?

–  Không khắc phục được phiền não, tập khí của chính mình! Do đây có thể biết, nếu chúng ta có thể khắc phục được phiền não, tập khí, chúng ta cũng là đại anh hùng.

Phước thứ hai: Thọ trì tam qui, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi”. Bạn có làm được hay không? Đây là bước đầu vào cửa Phật. “Tam qui”: “qui” là quay đầu, hồi đầu. “Y” là nương tựa. Qui y Phật là từ mê hoặc, điên đảo quay đầu lại nương tựa tánh giác gọi là qui y Phật. Bạn từ sớm đến tối có làm được vậy không? “Pháp” là chánh tri, chánh kiến; Qui y Pháp chính là từ tà tri tà kiến quay đầu lại nương chánh tri, chánh kiến. Tôi thường khuyến khích các đồng tu, phải đem vọng tưởng, chấp trước, thành kiến của chính mình thảy đều buông bỏ, y theo dạy bảo của Phật, đây là Qui y Pháp. “Tăng” là sáu căn thanh tịnh, không nhiễm một trần. Qui y Tăng là dạy chúng ta từ tất cả ô nhiễm của sáu căn quay đầu lại nương vào tâm thanh tịnh. Trên đây gọi là “Tam qui y”.

Cho nên, người chân thật biết quay đầu, đời sống của họ là đời sống của “Giác, Chánh, Tịnh”, khác hẳn với đời sống của phàm phu là “mê, tà, nhiễm”. Xét xem đời sống chúng ta ra sao? Nếu vẫn là “mê, tà, nhiễm” thì phải cảnh giác, học Phật như vậy là học sai rồi, không phải Phật sai mà là chúng ta sai!

Phước thứ ba: Phát Bồ Đề tâm, thâm tín nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả”. Cư Sĩ Lâm phát Bồ Đề tâm, ngày ngày tu đại bố thí, cho nên tài nguyên của Cư Sĩ Lâm ùn ùn mà đến, như dòng nước của Trường Giang, muốn ngăn cũng không ngăn được! Do nguyên nhân gì? Bố Thí mà có được quả báo! Nếu tâm lượng của họ nhỏ, người đến ăn một bữa cơm, phải xem họ có quyên được một số ít gì hay không? Vậy thì tài của họ cũng không có! Mỗi ngày cúng trai của họ sẽ không thể làm được! Đây là họ thật tâm hoan hỉ bố thí. Mỗi người đến ăn, họ đều hoan hỉ. Cho dù bạn tin Phật hay không tin Phật, bạn mắng Phật, nhục mạ Phật, hận Phật v.v… đến ăn cơm, họ đều mỉm cười nghênh đón. Cho nên, họ mới có thể hưng vượng.

Thế pháp hay Phật pháp đều cùng một đạo lý: Nếu bạn tận lực bố thí, bố thí càng nhiều, tiền tài của bạn càng vô. Muốn được thông minh trí tuệ, bạn phải tu “Pháp Bố Thí”, hoan hỉ vì người diễn nói. Muốn khoẻ mạnh, sống lâu phải ưa thích sửa lỗi, ưa thích sám hối. Nhân và quả nhất định tương ưng. Chỗ này cũng phải “chí tâm tín nhạo” mới có thể làm được. Y theo giáo huấn của Phật, càng làm càng tự tại, càng làm càng hạnh phúc, càng làm càng mỹ mãn.

Đây là nói “thiện căn” của chúng ta, “thiện”, không thể không tu, phải ngày ngày tu, “thiện” mới có thể có gốc. Cái ý sinh gốc này phải nuôi thành thói quen hành thiện, thành thói quen hiếu thiện. Tập quán hành thiện, phải thật kiên cố, cứng chắc, không thể nhổ, cái “thiện” này mới chân thật có gốc. Thật có gốc cũng chính là đem lợi ích của người khác xem là lợi ích của chính mình, đây là bạn đã nghĩ được chu đáo. Nhà Phật nói đến chí thiện, đến chân thiện, đó chính là phát Bồ Đề tâm, phá mê khai ngộ, bỏ đi những vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, tự tư tự lợi. Từ chỗ này chúng ta mới “tâm tâm hồi hướng, nguyện sinh ngã quốc”.

Hai ngày trước có năm vị cư sĩ đến từ Đông Thiên Mục Sơn, Hàn Châu, dẫn đầu là cư sĩ Tề. Bà nói với tôi: Trải qua hồi phục đạo tràng Đông Thiên Mục Sơn rất không dễ dàng! Đạo tràng này đã bị hoang phế bốn, năm mươi năm, không người ở, điện đường đều sụp đổ. Bà phát tâm hồi phục nó lại. Suốt bốn năm trên núi, cảm ứng không thể nghĩ bàn. Bà là một cư sĩ, đạo tràng hồi phục, luôn hy vọng có người xuất gia thường trụ trên núi, tu hành dụng công, đây là tâm nguyện của bà. Cho nên, gặp được Pháp sư, chỉ cần là người xuất gia, bà đều chân thành cung kính cúng dường. Tâm chân thành cúng dường của bà đích thật được chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần bảo hộ, trong đó cũng có quỷ thần.

Tôi nghe được câu chuyện của bà trong đó có đoạn: Quỷ thần nhập vào thân một thanh niên khỏe mạnh. Quỷ thần này cũng không tệ! Những người tu hành trên núi đó họ không nhập. Nên biết người bị quỷ thần nhập vào thân, thể lực của người đó bị tiêu hao rất lớn, người thể lực yếu sẽ không chịu nổi. Người thanh niên này cư sĩ Tề cũng quen biết. Thế nhưng, hôm đó nhìn thấy sắc mặt anh ta trắng bệt, rất khó coi. Vừa bước vào cửa, anh đuổi tất cả người trong nhà ra ngoài hết, đóng cửa lại nói với cô:

– Tôi có lời muốn nói cho một mình cô.

– Hôm nay anh làm gì vậy?

– Tôi mới từ địa ngục ra đây! Nhân duyên của Thiên Mục Sơn, trước đây vốn dĩ tôi không đồng ý cô đến đây. Nhưng, sau đó thấy cô chân thành vì Phật pháp, vì chúng sinh, không vì chính mình nên chúng tôi hộ trì cô. Anh ta nói: Người xuất gia trên núi, cô không nên quá cung kính đối với họ, những người đó đều không có đạo tâm,  tôi chỉ hận không thể đuổi họ đi! Những người xuất gia đó quả nhiên từng người, từng người đều bị họ đuổi đi hết! Chân thật là “ngẩng đầu ba thước có thần minh”. Bất kể người tu thiền, tu mật nào lên núi đó ở, nhiều nhất là hai, ba tháng đều phải dọn đi; ít thì ba, bốn ngày phải xuống núi! Nửa đêm họ ngồi thiền, quỷ thần xuất hiện đẩy họ ra khỏi chỗ ngồi, té ngã trầy xước cả thân, đành phải cuốn bồ đoàn mau chân xuống núi! Những người đó đều là người xuất gia. Bà nói: Người trên núi đó niệm Phật, mỗi mỗi đều bình an vô sự, đều ở được rất tốt, trong đó có không ít lão ông, lão bà niệm Phật.

Đạo tràng này rất khó được! Thần hộ pháp nơi đó theo dõi, đốc thúc họ có thật làm hay không? Thật làm thì ủng hộ, không thật làm thì đuổi họ xuống núi! Cho nên, tôi nói với đồng tu: Cư sĩ Tề đến đây là Phật, Bồ Tát phái bà đến làm kiến chứng cho chúng ta, nhắc nhỡ chúng ta, khích lệ chúng ta. Hy vọng đồng tu xuất gia chúng ta tương lai đều đến trên núi đó ở một thời gian xem sao, có bị thần hộ pháp đuổi xuống núi không? Đến đó để khảo thí, khảo nghiệm xem!

Cho nên, “thiện căn” nhất định phải bồi dưỡng. Phật định cho chúng ta tiêu chuẩn là năm giới, mười thiện, chúng ta có chân thật làm được hay chưa?? Phải thường xuyên kiểm điểm, ngày ngày phản tỉnh, ngày ngày cải lỗi. Tôi khuyến khích đồng tu chúng ta phải giữ tâm thiện, duy nhất tâm thuần thiện, ý thuần thiện, hạnh thuần thiện, có được như vậy “tâm tâm hồi hướng” nhất định được sinh. Hơn nữa, vãng sinh đích thật là tự tại, muốn lúc nào đi thì đến lúc đó đi.

Hôm trước, có đồng tu đến hỏi tôi:

– “Thừa nguyện tái sinh” có phải nhất định là sau khi đến thế giới Tây Phương Cực Lạc rồi mới trở lại đầu thai ở thế gian này không?

–  Không hẳn là như vậy! Chúng ta ngay đời này có thể chuyển “nghiệp lực” thành “nguyện lực”. Người chân thật chuyển đổi được, không luận là thuận cảnh hay nghịch cảnh, thiện duyên hay ác duyên, họ đều không động tâm. Loại người này, người khác không biết được, nhưng chính họ rất rõ ràng. Sáu căn họ tiếp xúc với sáu trần đích thật làm đến được “bất thủ ư tướng, như như bất động” như Kinh Kim Cang nói; chúng ta liền biết được họ đã chuyển đổi được “nghiệp lực” của họ rồi.

Tóm lại, “thiện căn” là sự lành nơi ba nghiệp. “Thân-khẩu- ý” kiên cố chẳng đổi có thể sinh ra diệu quả và các điều lành khác nên gọi là “thiện căn”. “Tâm tâm” là tấm lòng thuần nhất, tấm lòng “Tịnh niệm liên tục”. “Hồi hướng”: chữ “hồi” là hồi chuyển; “hướng” là hướng đến. “Hồi hướng” là “hồi tự hướng tha”, hồi chuyển công đức mình đã tu để hướng đến điều mình mong mõi thì gọi là “hồi hướng”.

Sách Hoa Nghiêm Đại Sớ Sao, quyển hai mươi ba, có ghi: “Hồi là chuyển, hướng là hướng đến. Chuyển vạn hạnh của chính mình để hướng đến ba chỗ nên gọi là hồi hướng. Ba chỗ là chúng sinh, Bồ Đề và Thật Tế”. “Hồi hướng chúng sinh” là vì tất cả chúng sinh mà tu học. “Hồi hướng Bồ Đề”, Bồ Đề là trí tuệ, chúng ta học Phật chỉ cầu Trí tuệ, không cầu danh vọng, lợi dưỡng. “Hồi hướng Thật Tế”, Thật Tế là “minh tâm kiến tánh” (theo Thiền Tông), là “Lý nhất tâm bất loạn” (theo Tịnh Tông), là “Đại khai viên giải” (theo Giáo Hạ). Danh từ không giống nhau nhưng cùng chung một ý nghĩa là hồi phục tánh đức của chính mình.

Vãng Sinh Luận Chú, quyển Hạ cũng nói: “Hồi hướng là đem công đức của chính mình thí cho khắp các chúng sinh đều cùng được thấy A Di Đà Như Lai, sinh về cõi An Lạc”.

Câu: “Nguyện sinh ngã quốc” (Nguyện sinh cõi tôi) chính là lời hồi hướng: Nguyện cho hết thảy chúng sinh đều vãng sinh cõi nước Cực Lạc.

Nãi chí thập niệm” (Dẫu chỉ mười niệm). Kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy: “Cụ túc thập niệm, xưng Nam mô A Di Đà Phật” (Đầy đủ mười niệm xưng Nam mô A Di Đà Phật).

Sách Tiên Chú giảng: “Mười lần xưng danh”, ngài Vọng Tây bảo: “Trong khoảng mười niệm, chuyên xưng danh hiệu Phật thì là mười niệm. Chữ ‘niệm’ ở đây là xưng ‘Nam mô A Di Đà Phật’. Đọc hết sáu chữ ấy là một niệm”.

Câu: “Nãi chí thập niệm” (Dẫu chỉ mười niệm), ý nói: Tối thiểu chỉ xưng niệm danh hiệu mười niệm cũng được vãng sinh. Đây là nói đến mức độ thấp nhất, nên bảo là “nãi chí”. Chỗ này cụ Hoàng Niệm Tổ nêu ra vấn đề; nếu có kẻ cật vấn:

–  Trong kinh chỉ nói “mười niệm”, sao lại chỉ khuyên xưng niệm danh hiệu Phật, mà chẳng thực hành những cách niệm Phật khác? Đáp:

– Chữ “niệm” trong “thập niệm” chỉ cho cách niệm danh hiệu Phật bằng miệng, điều này thật có chứng cớ. Bản Tống dịch tương đối rõ ràng ghi: “Sở hữu chúng sinh, cầu sinh ngã sát, niệm ngô danh hiệu, phát chí thành tâm, kiên cố bất thoái. Bỉ mạng chung thời, ngã linh vô số bật sô (tỳ kheo) hiện tiền vi nhiễu, lai nghênh bỉ nhân, kinh tu-du gian, đắc sinh ngã sát”. (Tất cả chúng sinh, cầu sinh trong cõi ta, niệm danh hiệu ta, phát chí thành tâm, kiên cố chẳng thoái. Người ấy lúc mạng chung, ta sai vô số bật sô (tỳ kheo) hiện ra trước mặt, cùng quây quần đến đón người ấy. Trong khoảnh khắc, được sinh về cõi ta). Chữ “niệm ngô danh hiệu” (niệm danh hiệu ta) trong đoạn kinh trên chỉ có thể hiểu là niệm hồng danh của A Di Đà Phật mà thôi.

Kinh Bát Châu cũng đề xướng Trì Danh Niệm Phật nói: “Nhĩ thời A Di Đà Phật ngữ thị Bồ Tát ngôn: – Dục lai sinh ngã quốc giả, thường niệm ngã danh, mạc hữu hưu tức, như thị đắc lai sinh ngã quốc độ” (Lúc bấy giờ, A Di Đà Phật bảo Bồ Tát ấy rằng: – Muốn sinh về cõi ta, hãy nên thường niệm danh hiệu ta chẳng ngớt. (Làm) như vậy thì được sinh về cõi ta).

Trong phần “Hạ Phẩm Hạ Sinh”, Quán Kinh cũng nói: Nếu có chúng sinh tạo nghiệp chẳng lành Ngũ Nghịch, Thập Ác, làm đủ các việc chẳng lành. Lúc mạng sắp chết, gặp thiện tri thức giảng cho diệu pháp, dạy cho niệm Phật (Quán Tưởng Niệm Phật). Nếu chẳng thể niệm nổi thì hãy nên xưng danh hiệu Phật: “Như thị chí tâm, linh thanh bất tuyệt, cụ túc thập niệm, xưng Nam Mô A Di Đà Phật, xưng ngã danh cố, ư niệm niệm trung, trừ bát thập ức kiếp sinh tử chi tội. Mạng chung chi hậu, tức đắc vãng sinh” (Chí tâm như vậy, chẳng để dứt tiếng, đầy đủ mười niệm, xưng Nam Mô A Di Đà Phật. Do xưng Phật danh nên trong mỗi niệm trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử. Sau khi mạng chung liền được vãng sinh). Do những đoạn kinh trên, ta thấy rõ “Thập niệm” được nói trong kinh này chính là “Trì Danh Niệm Phật”.