Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

II. PHÁT ĐẠI THỆ NGUYỆN ĐỆ LỤC
(TT)

“ Nhược hữu chúng sinh, kiến ngã quang minh, chiếu xúc kỳ thân mạc bất an lạc, từ tâm tác thiện, lai sinh ngã quốc” (Nếu có chúng sinh thấy quang minh của tôi chiếu chạm vào thân, không ai là chẳng an vui, từ tâm làm lành, sinh về cõi tôi): Đây là nguyện thứ mười bốn thuật rõ quang minh của Phật đầy đủ diệu đức lợi ích chúng sinh.

Phẩm Quang Minh Biến Chiếu của kinh này có chép: “Ngộ tư quang giả, cấu diệt thiện sanh, thân ý nhu nhuyễn. Nhược tại tam đồ cực khổ chi xứ, kiến thử quang minh, giai đắc hưu tức. Mạng chung giai đắc giải thoát” (Gặp được ánh sáng này, phiền não diệt, điều lành sinh trưởng, thân ý nhu nhuyễn. Nếu đang ở chốn tam đồ cực khổ mà được thấy quang minh này thì (mọi sự khổ) đều được ngưng nghỉ, chết đi đều được giải thoát). Đây chính là ý nghĩa của câu “mạc bất an lạc, từ tâm tác thiện” (không ai chẳng an vui, từ tâm làm lành).

Sách Lễ Tán cũng viết: “Di Đà Thế Tôn vốn phát thệ nguyện sâu nặng, dùng quang minh, danh hiệu nhiếp hóa mười phương”. Lại như Quán Kinh nói: “Quang minh biến chiếu thập phương thế giới niệm Phật chúng sinh, nhiếp thủ bất xả” (Quang minh chiếu khắp chúng sinh niệm Phật trong mười phương thế giới, nhiếp thủ chẳng bỏ). Câu này hiển thị quang minh có lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. Tuy quang minh là đức tướng nơi thân Phật, nhưng quang minh ấy thật ra là để lợi lạc chúng sinh.

– Chúng ta thấy được quang minh của Phật không? Quang minh của Phật ở đâu?

– Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Quang minh đó chính là bổn Kinh Vô Lượng Thọ này! Chúng ta từ trong kinh này mà thấy. Đây chính là phương tiện tối sơ, như thắp lên một ngọn đèn: Trước hết phải đốt cháy tiêm đèn, tiêm đèn càng cháy thì ánh sáng càng lớn, chiếu được càng xa. Kinh này là “tinh tinh chi hỏa”, từ ngay chỗ này mà bắt tay vào. Mỗi câu mỗi chữ trong kinh này tràn đầy trí tuệ, vô lượng vô biên trí tuệ.

Chúng ta xem thấy chú giải của Tổ Sư, Đại đức xưa nay, những chú giải đó chính là cái “quang” này, các ngài đã thấy  được.

Quang huy dần dần mở rộng, mỗi người phạm vi mở rộng tuyệt nhiên không như nhau, đều có thể làm tư liệu cho chúng ta tham khảo.

Kiến ngã quang minh”: Chữ “ngã” dùng ở đây rất hay, đây là “song quang ngữ”. Từ trên mặt chữ mà nhìn, chữ “ngã” này là Bồ Tát Pháp Tạng; ý nghĩa sâu hơn là “chính ta”.

Chiếu xúc kỳ thân”: Đây chân thật là “chiếu kiến”. Chúng ta tự mình xem xét chính mình thì không dễ, nhưng nhìn người khác xem lại chính mình thì dễ dàng hơn, rõ ràng như xem gương vậy. Thử hỏi: Có người nào mỗi ngày không xem gương vài lần?

– Vì sao phải xem gương?

– Chính mình không thể thấy mình nên phải xem gương! Bạn có nghĩ đến hay không? Bao gồm tất cả cảnh giới đều là tấm gương cho bạn. Khi sáu căn bạn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần bên ngoài, tất cả người, tất cả sự vật v.v… chính là lúc bạn soi gương.

– Mục đích soi gương để làm gì?

– Không phải để trang điểm chính mình mà đem cấu uế trên khuôn mặt mình rửa cho sạch sẽ! Nên biết: Cảnh giới sáu trần là tấm gương. Không biết soi, cảnh giới liền ô nhiễm sáu căn của bạn; biết soi, cảnh giới sáu trần giúp bạn thanh khiết sáu căn của mình.

– Cái gì là Phật quang?

– Giáo huấn của Phật trong kinh điển là Phật quang, là vô tận trí tuệ. Tiếp xúc với kinh điển, chúng ta khai ngộ, đây chính là chúng ta tiếp xúc được Phật quang; đem quang tự tánh của chính mình dẫn khởi ra, chẳng khác nào mồi được ánh sáng của Phật, nhóm lên ánh sáng của chính mình.

Nếu chỉ dựa vào năng lực của chính mình để khai mở trí tuệ thì thật khó không phải dễ dàng! Trí tuệ quang minh của tự tánh chúng ta cùng tự tánh quang minh của chư Phật không hề khác biệt. Trên kinh, Phật nói: “Mười phương ba đời tất cả chư Phật cùng đồng một Pháp Thân”. “Cùng đồng một Pháp Thân” chính là cùng đồng một tự tánh, cùng đồng một thể sinh mạng. Mọi người, mọi việc xung quanh đều có quan hệ với chúng ta. Cái thâm nghĩa này ít ai hiểu được!

Giáo học của Phật pháp không gì khác hơn, chính là nói rõ chân tướng sự thật: Quan hệ giữa người với người; quan hệ giữa người với đại tự nhiên tất cả vạn vật. Nếu nói xa hơn, rõ ràng tường tận hơn, phải nói đến căn nguyên của vũ trụ, hư không pháp giới tất cả chúng sinh do đâu mà có? Đây chính là giáo học triệt để của Phật pháp.

Tường tận hiểu rồi, sau đó mới có thể chân thật thấy được Phật quang. Không những thấy được Phật quang của Phật A Di Đà, Phật quang của Bổn Sư Thế Tôn , Phật quang của cả ba đời tất cả mười phương chư Phật, đều có thể cảm nhận được, cùng quang minh tự tánh của chính mình đều dung hợp thành một thể.

– Thế nhưng, hiện tại vấn đề này chúng ta không ngộ được, vậy phải làm sao?!

–  Xin trả lời bạn: Phương pháp đơn giản nhất để giác ngộ chính là niệm “A Di Đà Phật”. Lời này là chân thật! Phật pháp rất thâm sâu, nhưng phương pháp rất đơn giản. Nếu bạn nghe giảng, đọc kinh vẫn không thể khai ngộ, nên một lòng một dạ lão thật niệm Phật. niệm Phật được ba năm, năm năm hay mười năm v.v… rồi cũng sẽ khai ngộ.

– Thế nào mới gọi là thật niệm?

– Bồ Tát Đại Thế Chí dạy chúng ta: “Gom nhiếp sáu căn, tịnh niệm tương tục”, đây là thật niệm, vậy mới có hữu dụng. Nếu một mặt niệm Phật, một mặt khởi vọng tưởng thì không dùng được!

Từ tâm tác thiện”:

– Cái gì là thiện?

– Thiện cao nhất không gì hơn là niệm Phật.

“Từ tâm” là đại từ đại bi. “Từ tâm tác thiện” là vì tất cả chúng sinh mà niệm Phật, không phải vì chính mình, vì “minh tâm kiến tánh” mà niệm Phật, quyết không vì cầu danh vọng lợi dưỡng, phú quí trời người. Chúng ta sống ở thế gian phải vì tất cả chúng sinh mà sống. Chúng ta chết cũng vì tất cả chúng sinh mà chết. Sinh tử đều vì chúng sinh không vì chính mình; chính mình liền không có sinh tử, đây gọi là học Phật, đây gọi là “Từ tâm tác thiện”.

Bất cứ chúng sinh nào có duyên gặp được kinh này, có thể tu học như lý, như pháp, đều có thể khế nhập cảnh giới A Di Đà Phật, cùng với tâm nguyện giải hành của A Di Đà Phật hoàn toàn tương ưng, cũng có thể giống như Phật Di Đà “từ tâm tác thiện”. Cho nên, câu sau ngài nói rất hay “lai sinh ngã quốc”, đây là nói rõ “từ tâm tác thiện”, cái “thiện” này phải làm được viên mãn, phải làm ra thành tích, nhất định phải cầu sinh Tịnh Độ. Nếu như không cầu sinh Tịnh Độ, “từ tâm tác thiện”, cái “thiện” này không viên mãn.

Ngày nay, chúng ta học Phật, lắng nghe giáo huấn của Phật, tùy thuận Phật hạnh, chúng ta xả mình vì người, mỗi niệm vì tất cả chúng sinh phục vụ, phải nhớ đem công đức này hồi hướng cầu sinh Tịnh Độ. Cũng chính là nói: Ta vì tất cả chúng sinh phục vụ, không mong cầu bất cứ thứ gì, chỉ cầu vãng sinh thế giới Tây Phương Cực Lạc.

– Được vậy không?

– Nhất định được!

– Dựa vào đâu?

– Dựa vào cái nguyện này! Trong nguyện này nhân quả rất rõ: Trước tự độ, sau mới độ người. Trước “ kiến ngã quang minh chiếu xúc kỳ thân” là “chuyển mê khai ngộ”, quả báo là “lìa khổ được vui”, “mạc bất an lạc”, đây là chính mình thành tựu. Sau khi chính mình thành tựu phải giúp đỡ người khác; “từ tâm tác thiện” và “lai sinh ngã quốc” là hai cái tương đồng: Chính mình cầu sinh Tịnh Độ, cũng phải giúp tất cả chúng sinh cầu sinh Tịnh Độ. Cho nên, hai câu này là “song quang”, chính mình cùng chúng sinh đều phải cầu sinh Tịnh Độ. Nếu “từ tâm” của chúng ta viên mãn, “tác thiện” cũng viên mãn mà không cầu vãng sinh Tây phương Tịnh Độ, cái “từ tâm tác thiện” này là thiện quá nhỏ! Vì sao? Vì không ra khỏi sáu cõi luân hồi! nhiều nhất chẳng qua là hưởng phước báo của trời người mà thôi.

Cho nên, chúng ta giúp người, khuyên người, nhất định phải lấy Tịnh Độ làm chỗ quay về, đây mới là chân thiện. Thực tế mà nói, nghĩa thú của kinh văn không cùng tận. Thế nhưng, cương lĩnh chúng ta biết được, quan trọng nhất là phải làm thế nào thực tiễn được ngay trong đời sống thường ngày, đến lúc nào chúng ta thấy được vô lượng quang, chân thật lãnh hội được vô lượng thọ; đem vô lượng quang thọ Di Đà đã chứng được, giác ngộ được quang thọ của chính mình vốn dĩ cũng là vô lượng, chúng ta, trong nguyện này liền có được thọ dụng. Nhờ vậy mà tín tâm của chúng ta kiên định, nguyện tâm thêm lớn, chân thật hiểu được trải qua đời sống của Phật, Bồ Tát, biết được “từ tâm tác thiện”, giúp tất cả chúng sinh, hiểu được hằng thuận chúng sinh. Thế nhưng, mục tiêu cuối cùng nhất định phải giúp họ phá mê khai ngộ. Sau khi họ giác ngộ, nhất định phải giúp họ  nhận thức Tịnh Độ, tường tận Tịnh Độ, tu học Tịnh Độ, thành tựu Tịnh Độ; công đức này mới được viên mãn.

Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác” (Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác). Chúng ta biết Phật A Di Đà thành Phật đã mười kiếp, tất nhiên hai nguyện này ngài đã thành tựu.

KINH VĂN:

Ngã tác Phật thời, thọ mạng vô lượng. Quốc trung Thanh Văn, thiên, nhân vô số, thọ mạng diệc giai vô lượng. Giả linh tam thiên đại thiên thế giới chúng sinh tất thành Duyên Giác, ư bách thiên kiếp, tất cộng kế giảo, nhược năng tri kỳ lượng số giả, bất thủ Chánh Giác.

VIỆT DỊCH:

Lúc tôi thành Phật, thọ mạng vô lượng. Trong nước tôi, Thanh Văn, trời, người vô số, thọ mạng cũng đều vô lượng. Giả sử chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới đều thành Duyên Giác, trong trăm ngàn kiếp cùng nhau tính toán mà biết nổi số lượng ấy thì chẳng lấy Chánh Giác.

GIẢNG:

Chương này gồm nguyện thứ mười lăm “thọ mạng vô lượng” và nguyện thứ mười sáu “Thanh Văn vô số”. Trong nguyện “thọ mạng vô lượng”, không những thọ mạng của A Di Đà Phật vô lượng mà vô số Thanh Văn, trời, người trong cõi ấy cũng đều thọ mạng vô lượng. Kinh Pháp Hoa nói về thọ mạng của Sơn Hải Tuệ Như Lai như sau: “Thọ mạng vô hữu lượng, dĩ mẫn chúng sinh cố” (Thọ mạng chẳng hạn lượng vì thương xót chúng sinh). Chúng ta thấy Sơn Hải Tuệ Như Lai, từ trên danh tự, có thể hiểu được Như Lai này có tâm từ bi, có đại trí tuệ. Dùng núi và biển để thí dụ. Núi, người Trung  Quốc thường nói: “Thọ tỉ nam Sơn”, “Sơn” là thí dụ cho thọ mạng cao. “Tuệ” là dùng biển để thí dụ, “Hải Tuệ” là biển trí tuệ. Vị Phật này có thọ mạng lâu, trí tuệ rất lớn.

– Vì sao cần trí tuệ lớn, thọ mạng cao như vậy?

–  Vì lân mẫn chúng sinh, vì phổ độ chúng sinh! Rất nhiều chúng sinh cần có cơ duyên thân cận và tiếp thu giáo huấn của Phật Đà. Nếu Phật chỉ trụ thế thời gian ngắn thì sự giáo hóa của Phật cũng ngắn ngủi, chúng sinh khó có thể gặp gỡ được.

Ngã tác Phật thời, thọ mạng vô lượng” (Lúc tôi thành Phật, thọ mạng vô lượng). Ngài Trừng Hiến khen ngợi: “Phật thọ vô lượng là hạnh đức giáo hóa tột bậc, ai lại chẳng khâm ngưỡng lời nguyện ấy hay sao?

Hơn nữa, Di Đà là Báo Thân Phật; Cực Lạc là “Báo Độ” (cõi của Báo Thân Phật ngự); giáo chủ thọ mạng vô lượng là thật sự vô lượng chớ chẳng phải “vô lượng của hữu lượng” (cụm từ “vô lượng của hữu lượng” chỉ con số “vô lượng” rất lớn được nói trong Kinh Hoa Nghiêm, dẫu rất lớn nhưng vẫn tính đếm được nên gọi là “vô lượng của hữu lượng”). Đây là cách giải thích của cụ Hoàng Niệm Tổ.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Chữ “vô lượng”, từ trên tướng mà nói là “vô lượng của hữu lượng”; từ trên tánh mà nói là “vô lượng thật sự”. Hai loại này là một thể, không thể nào phân chia được. Trong cõi Thường Tịch Quang, Phật Đà của quả vị Diệu Giác ứng hóa nơi cõi Thật Báo là cùng một đạo lý này.

Trên hội Lăng Nghiêm, Phật dạy “Tùy chúng sinh tâm ứng sở tri lượng”. Bồ Tát trong cõi Thật Báo có bốn mươi mốt cấp bậc, đây đều là bậc “minh tâm kiến tánh”. Phật mà mỗi người nhìn thấy là tương đương với cấp bậc của bản thân họ. Nếu bản thân họ là  Sơ Trụ Bồ Tát, sẽ thấy Phật cũng là Sơ Trụ. Nếu là Sơ Địa Bồ Tát, sẽ thấy Phật là Sơ Địa Bồ Tát v.v… Nên biết Phật chỉ thị hiện một thân, một tướng, nhưng mỗi người nhìn thấy đều khác nhau, đây là cảnh giới không thể nghĩ bàn! Chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi. Cho nên, căn tánh vẫn là có sai biệt.

Hoàng Niệm lão trong sách chú giải nói: “Nói theo ngôn ngữ hiện đại, “thọ mạng vô lượng” là vô lượng tuyệt đối chớ không phải vô lượng tương đối”. Theo Hòa Thượng Tịnh Không, thật sự mà nói: Cũng không thể nói là tuyệt đối, hay tương đối. Tương đối và tuyệt đối là một không phải hai, đây là diệu dụng!

Tiếp đó, kinh văn bảo thọ mạng của nhân dân trong cõi ấy cũng vô lượng. Ngài Trừng Hiến khen: “ Nhân dân thọ mạng vô lượng là đức tánh bậc nhất của Tịnh Độ”, rồi giải thích như sau: “Tu hành Phật đạo chỉ e sợ Tử Ma vì sự gián đoạn giữa sống và chết chính là căn nguyên tạo duyên thoái thất. Gặp Phật, nghe pháp, gặp gỡ thánh chúng, cúng dường chư Phật, thân cận bạn lành, khoái lạc tự nhiên, chẳng có các khổ, (cõi Cực Lạc) chẳng phải chỉ có một đức tánh ấy…Nếu thọ mạng ngắn ngủi, di hận khó tính nổi, khác nào chén ngọc không đáy. Lời nguyện này thật là tối quan trọng” (Chén ngọc đúng thật là của quí, nhưng thủng đáy thì không thể đựng nước. Đây là điều đáng tiếc nhất trong lục đạo!).

Ngài Vọng Tây cũng bảo: “Căn bản của các sự vui (nơi cõi Cực Lạc) chỉ thuộc nơi nguyện này”. Đây là thật! Căn bản của Cực Lạc phải là thọ mạng. Nếu không có thọ mạng thì tất cả đều kết thúc, đều xong rồi!

Cho nên, thọ mạng quan trọng hơn bất cứ điều gì. Cổ nhân xưng nguyện này là đức thứ nhất của Tịnh tông.

Quốc trung Thanh Văn, thiên, nhân vô số, thọ mạng diệc giai vô lượng” (Trong nước tôi, Thanh Văn,    trời, người vô số, thọ mạng cũng đều vô lượng): Đây là nguyện thứ mười sáu “Thanh Văn vô số”. Tịnh Độ Quần Nghi Luận bảo: “Nhân dân cõi ấy thọ cực dài lâu, dẫu cho là phàm phu vẫn còn thuộc biến dịch sinh tử (ý nói họ đã đoạn hết “ phần đoạn sinh tử”, chỉ còn “biến dịch sinh tử”) nhưng cũng rốt ráo thành Phật”. Theo Hoàng Niệm lão: “Đó là vì khi đã sinh về Cực Lạc, gặp Phật nghe pháp, trong hết thảy thời, hết thảy chỗ đều tăng thượng, chẳng có duyên thoái chuyển, thọ mạng lại vô lượng, nên chẳng luận là căn khí nào, hễ sinh về cõi ấy sẽ nhất định thành Phật. Điều này được xưng là đức tánh bậc nhất của Tịnh Độ kể cũng không ngoa!”.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Thế Tôn trong kinh Đại thừa hay nói đến Phật có ba thân:

Pháp Thân: Vô thỉ vô chung là chân thật vô lượng thọ.

Báo Thân: Hữu thỉ vô chung cũng là vô lượng thọ.

Ứng Hóa Thân: Hữu thỉ hữu chung, thời gian trụ thế dài, ngắn không như nhau.

Ứng Hóa Thân là chúng sinh có cảm, Phật liền có ứng. Thời gian Phật trụ thế dài, ngắn hoàn toàn do cảm ứng nghiệp lực của chúng sinh. Khi hóa duyên hết rồi, cũng chính là nói: Chúng sinh căn tánh chín muồi đã thành tựu; chúng sinh căn tánh chưa chín cũng giúp họ thêm lớn; người không có thiện căn cũng giúp họ trồng thiện căn. Khi làm xong việc thì Phật liền viên tịch.

Thế Tôn năm xưa thị hiện ở thế gian này bảy mươi chín năm, giáo hóa chúng sinh bốn mươi chín năm. Trên Kinh Vô Lượng Thọ, Thế Gian Tự Tại Vương Phật giáo hóa chúng sinh bốn mươi hai kiếp; có thể thấy thời gian trụ thế của ngài rất dài. Thực tế mà nói: Bốn mươi hai kiếp cũng không dài so với tuổi thọ của người trời Vô Sắc giới là tám vạn đại kiếp, thật chẳng tính vào đâu!

Thiết nghĩ, Pháp Tạng Tỳ Kheo, nếu sinh vào thời đại này của chúng ta ắt không thể thành tựu! Vì sao? Vì tuổi thọ quá ngắn! Ngài sinh vào thời đại của Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, tuổi thọ dài, tiếp nhận giáo huấn của thầy là ngàn tuổi, tu hành là năm kiếp. Thời gian dài như vậy mà có thể tiếp nối không ngừng, chúng ta thường nói: “Một môn thâm nhập trường thời huân tu”, ngài đã thành tựu.

Ngài Trừng Hiến bảo: “ A Di Đà Phật có đệ tử vô lượng, đó là một trong ba thứ vô lượng”. Ba thứ vô lượng là: Quang minh vô lượng, thọ mạng vô lượng và quyến thuộc vô lượng. “Quyến thuộc” ở đây chính là đồng học. Lời nguyện chỉ nói đến Thanh Văn, nhưng ngụ ý kể cả Duyên Giác.

Đến đây, cụ Hoàng nêu ra vấn nạn: Nếu có kẻ ngờ vực bảo rằng Kinh Bi Hoa dạy: “Vô hữu Thanh Văn, Bích Chi Phật thừa, sở hữu đại chúng thuần thị Bồ Tát, vô lượng vô biên” (Chẳng có Thanh Văn và Bích Chi Phật thừa. Tất cả đại chúng thuần là Bồ Tát vô lượng vô biên), sao kinh này lại bảo “Thanh Văn vô số”?

Hai câu kinh này dường như mâu thuẫn nhau, nhưng nghĩa lý thật sự không trái ngược nhau. Với ba bậc vãng sinh, kinh này đều bảo: “Phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm” (Theo Ngẫu Ích Đại Sư: Chân tín, thiết nguyện chính là tâm đại Bồ Đề). Ba bậc vãng sinh đều đã phát Bồ Đề tâm thì sở hành của họ phải thuộc Bồ Tát thừa, nên Kinh Bi Hoa bảo “ thuần là Bồ Tát”.

Trong cõi ấy, gọi là Thanh Văn, Duyên Giác là chỉ căn cứ trên mức độ đoạn được “Hoặc Chướng” mà nói: Tuy đã đoạn được Kiến Hoặc, Tư Hoặc, nhưng chưa phá nổi Trần Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc thì gọi là Thanh Văn, chớ đâu phải hạng Nhị Thừa chỉ cầu tự độ. Nếu chỉ cầu tự độ, chẳng nguyện độ người khác, làm sao phát nổi Bồ Đề tâm?! Chẳng phát Bồ Đề Tâm chẳng được vãng sinh. Đây là cách giải thích thứ nhất về “Thanh Văn vô số”. Cách giải thích thứ hai: “Thanh Văn vô số” là chỉ cho thân phận của họ về trước, khi chưa vãng sinh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc.

Chú giải của cụ Hoàng lại nêu ra: Bản Tống dịch (là bản sau nhất trong tất cả các bản dịch) nói rõ ý nghĩa này nhất. Bản Tống dịch ghi: “Ngã đắc Bồ Đề thành Chánh Giác dĩ, sở hữu chúng sinh linh sanh ngã sát. Tuy trụ Thanh Văn, Duyên Giác chi vị, vãng bách thiên câu-chi na-do-tha bảo sát chi nội, biến tác Phật sự, tất giai linh đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”.(Tôi đắc Bồ Đề thành Chánh Giác rồi, khiến cho tất cả chúng sinh sinh trong nước tôi, tuy trụ địa vị Thanh Văn, Duyên Giác, nhưng đi đến trăm ngàn câu-chi na-do-tha cõi báu làm đủ các Phật sự để khiến cho (chúng sinh trong các cõi ấy) đều đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề).

Theo cụ Hoàng Niệm Tổ: “Xét ra, Thanh Văn chẳng nghe tới danh hiệu Phật phương khác, chỉ cầu Tiểu thừa Niết Bàn, chẳng cầu Phật quả. Thế nhưng, nhân dân cõi Cực Lạc tuy gọi là Thanh Văn mà lại đi tới vô số cõi Phật xa xôi, làm vô lượng Phật sự, độ cho vô biên chúng sinh đều thành Phật thì đấy chính là con đường tu hành của bậc Bồ Tát, há có thể bảo họ là Thanh Văn thông thường hay sao? Những người được gọi là Thanh Văn ấy đều đã phát đại tâm Bồ Tát, hành đại hạnh Bồ Tát, hướng đến đại quả vô thượng, họ thật đúng như Kinh Bi Hoa bảo: “Thuần thị Bồ Tát” (thuần là Bồ Tát) vậy”.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Đoạn kinh trên là nói tu hành ở thế giới Cực Lạc. Tuy trình độ họ chưa đạt đến cấp bậc vị trí này, nhưng chúng ta đều biết phàm phu vãng sinh đến thế giới Cực Lạc, một phẩm vô minh phiền não cũng chưa đoạn, chỉ là “đới nghiệp vãng sinh”. Đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, được oai thần bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà gia trì nên trí tuệ, thần thông, đạo lực của họ dường như tương đồng với Pháp Thân Bồ Tát. Nhưng phải biết đó không phải do bản thân họ tu được mà do Phật A Di Đà gia trì nên họ mới có năng lực này.

Mỗi ngày họ đến khắp mười phương thế giới lễ lạy chư Phật, nghe pháp, cúng dường, đây là tu phước và tu tuệ, lại còn có khả năng độ sinh, làm vô lượng Phật sự. Chúng sinh có cảm, họ liền có ứng. Đây là hạnh của Bồ Tát Đại thừa, hàng Thanh Văn thông thường chẳng thể làm được. Họ đã phát đại tâm Bồ Tát (chính là “Vị Bất Thoái”) hành đại hành Bồ Tát (là “Hành Bất Thoái”), hướng đến đại quả Vô Thượng Bồ Đề (là “Niệm Bất Thoái”). Ba câu này chính là “viên chứng Tam Bất Thoái” mà trong giáo pháp Đại thừa thường nói: Phàm là người sinh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc đều đầy đủ tất cả Tam Bất Thoái. Kinh Bi Hoa nói rất hay, không sai! Văn tự tuy có khác nhưng ý nghĩa tương đồng.

Giả linh tam thiên đại thiên thế giới chúng sinh tất thành Duyên Giác, ư bách thiên kiếp, tất cộng kế giảo, nhược năng tri kỳ lượng số giả, bất thủ Chánh Giác” (Giả sử chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới đều thành Duyên Giác trong trăm ngàn kiếp chung nhau tính toán, nếu họ biết được số lượng ấy thì chẳng lấy Chánh Giác). Câu kinh này nêu tổng quát các ý nghĩa sau: Phật thọ vô lượng, nhân dân thọ mạng vô lượng, đệ tử trong nước ấy vô lượng.

Tam thiên đại thiên thế giới” là cảnh giới hóa độ ít nhất của một đức Phật. Theo chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ: Cảnh giới này lấy núi Tu Di làm trung tâm, gộp cả bốn đại châu, mặt trời, mặt trăng, chư thiên, ta có một thế giới; gộp một ngàn thế giới như vậy lại, ta được một tiểu thiên thế giới. Gom một ngàn tiểu thiên thế giới lại, ta được một trung thiên thế giới. Gom một ngàn trung thiên thế giới, ta được một Đại thiên thế giới. Do trước lấy hết một ngàn thế giới tạo thành một tiểu thiên, lại đem nhân tiểu thiên lên một ngàn lần thì được trung thiên, cuối cùng đem trung thiên nhân lên một ngàn lần thì được Đại thiên. Ba lần đem nhân với một ngàn như thế nên Đại thiên thế giới được gọi là “Tam thiên đại thiên thế giới”. Thật sự chỉ là một đại thiên thế giới chứ không phải là ba ngàn cõi đại thiên thế giới. Một tam thiên đại thế giới có một ngàn ức (1.000.000.000) thế giới.

Hiện nay các nhà thiên văn mới tạm thời phát hiện được trong vũ trụ có vô lượng thế giới. Mọi người đều biết mặt trời và chín đại hành tinh hợp thành một Thái Dương Hệ. Địa cầu chỉ là một ngôi sao xoay quanh mặt trời trong Thái Dương Hệ. Mặt trời chẳng những tự xoay mà nó còn đi vòng quanh trung tâm của một “Ngân hà tinh vân”, hiện thời khoa học tạm gọi đó là một hắc đổng (black hole) mất một thời gian ước chừng hai vạn vạn năm. Mặt trời chỉ là một hằng tinh trong dải tinh vân mang tên Ngân Hà. Dải Ngân Hà có chừng một ngàn ức hằng tinh. Trong vũ trụ có vô lượng tinh vân. Bản thân tinh vân cũng đang xoay vần. Ngân Hà cũng chỉ là một thiên thể lớn trong vũ trụ, cứ tính rộng dần dần như thế chẳng biết đâu là cùng tận. Điều phát hiện mang tính cách sơ khởi của Thiên Văn học quả đã chứng thực điều kinh Phật dạy: “Thế giới vô lượng”. Tam thiên đại thiên thế giới chỉ là cảnh hóa độ của một đức Phật, do chư Phật vô lượng nên thế giới cũng vô lượng.

Đại ý của lời nguyện là: Giả sử hết thảy chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới đều thành Duyên Giác, dùng sức thần thông họp lại để tính toán cũng không thể biết nổi thọ lượng của Phật Di Đà, thọ lượng của nhân dân cõi ấy và số lượng người trong nước ấy.

KINH VĂN:

Ngã tác Phật thời, thập phương thế giới, vô lượng sát trung, vô số chư Phật, nhược bất cộng xưng thán ngã danh, thuyết ngã công đức, quốc độ chi thiện giả, bất thủ Chánh Giác.

VIỆT DỊCH:

Lúc tôi thành Phật, vô số chư Phật trong vô lượng cõi nước trong mười phương thế giới nếu chẳng cùng khen ngợi danh hiệu của tôi, thuật sự tốt lành của cõi nước và công đức của tôi thì chẳng lấy Chánh Giác.

GIẢNG:

Đây là nguyện thứ mười bảy “Chư Phật xưng thán”, “xưng” là xưng dương, “thán” là tán thán. Bản Hán dịch ghi: “Ngã tác Phật thời, linh ngã danh văn bát phương thượng hạ, vô số Phật quốc, chư Phật các ư đệ tử chúng trung, thán ngã công đức quốc độ chi thiện. Chư thiên nhân dân nhuyễn động chi loại, văn ngã danh tự, giai tất dũng dược, lai sinh ngã quốc” (Lúc tôi thành Phật, tiếng tăm của tôi vang khắp tám phương, trên, dưới. Trong vô số cõi nước, các đức Phật vị nào cũng ngự giữa chúng đệ tử, khen ngợi công đức và sự tốt lành của cõi nước tôi. Chư thiên, nhân dân, các loài ngọ nguậy, bò trườn nghe được danh hiệu tôi thảy đều hớn hở sinh về cõi tôi). Bản Ngô dịch ghi tương tợ.

Ngài Vọng Tây bảo: “Trong bốn mươi tám nguyện, nguyện này rất thiết yếu” “nếu không có nguyện này, làm sao mười phương (nghe được danh hiệu ngài). Nay chúng ta được gặp gỡ giáo pháp vãng sinh hoàn toàn là nhờ vào nguyện này, khá nên suy nghĩ kỹ”.

Ngài Pháp Tạng sở dĩ cầu nguyện danh hiệu mình vang dội khắp mười phương chỉ nhằm để nhiếp trọn mười phương hết thảy chúng sinh vãng sinh Cực Lạc, rốt ráo thành Phật. Nếu không có lời nguyện này thì nguyện thứ mười tám “mười niệm tất sinh” cũng chỉ là vô ích! Bởi không ai nghe biết được có Phật A Di Đà và thế giới Tây Phương Cực Lạc, lấy gì phát nguyện vãng sinh!

Qua nguyện thứ mười bảy này, Hòa Thượng Tịnh Không giải thích: Chúng ta có thể xem như A Di Đà Phật ở trong pháp giới đã lập một ngôi trường đại học Phật giáo, một thôn Di Đà với quy mô vĩ đại. Thế giới Cực Lạc chính là thôn Di Đà lớn, nhất định phải cần tất cả chư Phật Như Lai, mười phương ba đời đều giúp A Di Đà Phật chiêu sinh. Có thể nói, A Di Đà Phật thật sự thành tựu, quả thật là dựa vào cái nguyện này. Tất cả chư Phật Như Lai đều là hộ pháp của A Di Đà Phật. Tất cả chư Phật Như Lai, không vị nào mà không tán thán A Di Đà Phật là “Phật trung chi vương, quang trung cực tôn”. Do vậy, Đại sư Thiện Đạo nói: “Chư Phật sở dĩ hưng xuất thế, duy thuyết Di Đà bổn nguyện hải” là ý nghĩa này.

Sách Hội Sớ giảng câu “xưng thán ngã danh” (khen ngợi danh hiệu của tôi) như sau:

Câu ‘xưng thán ngã danh’ có ba nghĩa:

  1. Chư Phật xưng dương đức hiệu của đức Phật ấy.
  2. Chư Phật khen ngợi người xưng danh như Tiểu Kinh (Kinh A Di Đà) thật đã nói rõ chư Phật hộ niệm người xưng danh.
  3. Chư Phật vừa khen ngợi lại vừa tự mình xưng niệm danh hiệu A Di Đà Phật”.

Sách còn nói thêm: “Tam thế chư Phật do niệm Di Đà tam- muội mà thành Đẳng Chánh Giác”.

Ý nói: Chư Phật khen ngợi thánh hiệu của Phật A Di Đà, khen ngợi hết thảy người trì danh niệm Phật và bản thân chư Phật cũng xưng niệm thánh hiệu A Di Đà. Chư Phật nhờ Niệm Phật tam- muội mà trọn thành Chánh Giác.

Chúng ta ngày nay có duyên tu học pháp môn này, làm đệ tử của A Di Đà Phật, nên biết có rất nhiều người đố kỵ, biết bao người phá hoại, biết bao người gây phiền phức! Những người đó là ai? Có hai loại người:

Một loại là con cháu của ma: Là ma tử, ma tôn. Đây là trong kinh Thích Ca Mâu Ni Phật nói:

Có lần ma vương đến nói với Phật

– Ta phải nghĩ cách phá hoại Phật pháp! Thế Tôn nghe nói mỉm cười:

– Pháp ta là Chánh pháp, là từ trong tự tánh của tất cả chúng sinh mà lưu xuất ra, ngươi làm sao có thể phá hoại được!

Ma-ba-tuần nói:

– Ta đợi, khi pháp vận của ông đến thời mạt pháp, căn tánh chúng sinh lúc đó vô cùng hạ liệt, không có năng lực biện biệt đúng sai, tà chánh, thiện ác, thật giả… lúc này, ta sai ma con, ma cháu của ta thảy đều xuất gia, khoác áo cà sa như ông để tiêu diệt Phật pháp!

Thích Ca Mâu Ni Phật nghe xong chẳng nói lời nào, chỉ biết rơi lệ! Thái độ này của Phật biểu thị ngài thương xót cho tất cả chúng sinh vô tri thời mạt pháp! Cho nên, kẻ làm chướng ngại pháp môn này là ma con, ma cháu. Chúng ta gặp rồi liền hiểu: Đối với họ chỉ kính mà không gần! Họ làm sao chướng ngại được! Chỉ cần tín tâm ta bất động thì họ cũng bó tay thôi! Họ đến khuyên ta theo pháp môn này, học theo pháp môn nọ; pháp môn này có thần thông, pháp môn kia có cảm ứng, hết thảy đều mặc kệ! Ma không thể lợi dụng được.

Một loại là vô tri, ba phải: Họ thật sự không có thiện căn, loại người này ở thế gian có cũng không ít! Chúng ta nên thương xót họ, cũng không nên quở trách họ. Vì sao? Tôi thường nói: Nếu truy cứu nguyên nhân gốc rễ của nó, đều do bản thân chúng ta làm chưa tốt! Chúng ta chưa làm tròn trách nhiệm của một người đệ tử Phật, mới có những hiện tượng này.

Sở dĩ xã hội đại chúng đối với Phật Giáo có những hiểu lầm rất sâu là do nguyên nhân chúng ta không thường xuyên giảng kinh, thuyết pháp; chưa đem những nội dung chân chánh của Phật Giáo nói ra với mọi người. Nhìn lại bản thân, chúng ta chưa y giáo phụng hành, chưa thật sự làm! Họ đối với chúng ta có biết bao lời lẽ phê bình không tốt. Lời của họ thật cũng không sai! Cho nên, chúng ta sau khi nghe rồi phải soi lại kiểm điểm, phải thật sự nỗ lực sửa chửa lỗi lầm. Người tu Tịnh Độ, đối với người phỉ báng, chúng ta chỉ có tai nghe mà miệng không được nói!

– Chúng ta dùng thái độ gì đối với họ?

– Cung kính họ! Tán thán họ! Dứt khoát không được phỉ báng họ. Biểu hiện được như thế là bạn cao hơn họ. Nhớ kỹ: Hai người cải nhau thì trình độ bằng nhau; một người cao, một người thấp không thể cải được.

– Vì sao? Người cao sẽ nhường người thấp, họ làm sao có thể cải được!

Cho nên, người có trí tuệ nhường người không có trí tuệ. Ngay cả Thánh nhân thế gian cũng dạy chúng ta: Lễ nhường, nhẫn nhường, khiêm nhường. “Nhường” là tánh đức; “Khiêm” là công phu đã thành tựu. Chúng ta hiện nay trong cái đúng đúng, sai sai này mà luyện công phu, cũng chính là luyện “nhẫn nhường”. Không thể “nhẫn” cũng phải “nhẫn”. không thể “nhường” cũng phải “nhường”.

Chân thật có trí tuệ, thông quyền đạt lý, chúng ta mới có thể hộ trì Phật pháp được tốt, mới có thể khiến Chánh pháp trụ lâu ở thế gian này. Ngày nay, có rất nhiều phát minh khoa học kỹ thuật cao, chúng ta nhất định phải hiểu được tính năng của những kỹ thuật này, phải hết sức tận dụng nó. Chúng ta nơi đây mỗi lần diễn giảng đều thông qua mạng “internet” truyền bá đến toàn thế giới, giúp mọi người có cơ hội tiếp xúc được với Phật pháp nhiều hơn.

Ý nghĩa quan trọng nhất của đoạn kinh văn trên, chính là Pháp Tạng Bồ Tát thỉnh cầu chư Phật Như Lai hộ pháp cho ngài. Chúng ta ngày nay phát nguyện học Phật, đặc biệt là phát nguyện suốt đời dấn thân vào công tác giáo dục xã hội, sao có thể không nhờ đến hộ pháp!

– Hộ pháp đến đâu mà tìm?

–  Nhờ người thì có phiền não! Họ không đồng ý thì phiền não của bạn xuất hiện ngay!

Năm xưa, khi tôi mới bắt đầu học Phật, gần gủi Chương Gia Đại sư. Có lần tôi nói với Đại sư:

– Sự thù thắng của Phật pháp, cái hay của Phật pháp con đã hiểu rồi. Con chính mình biết được phải có nghĩa vụ, trách nhiệm đem sự việc này làm thật tốt. Thật sự muốn làm tốt sự việc này, nhất định phải buông bỏ công việc của mình, chuyên tâm vào việc này, đây chính là dấn thân trên con đường xuất gia.

Đại sư gật gù, vô cùng tán thán, nhưng nói với tôi:

– Con không nên đi tìm thầy thế độ!

– Vậy phải làm sao?

– Nếu con tìm thầy thế độ, thầy đó không đồng ý với nguyện vọng của con, con có sinh phiền não không?

– Đương nhiên là sẽ sinh phiền não!

– Đại sư dạy tôi cầu Phật. Cho nên, tôi xuất gia là cầu  Phật.

Phật thay tôi tìm một vị sư phụ.

– Vị sư phụ này như thế nào?

– Đến khuyên tôi xuất gia! Không phải khuyên một lần, khuyên một lần sợ không thành thật! Ông đã phái người đến thư viện Từ Quang, lúc đó tôi đang theo học kinh giáo với thầy Lý. Có lẽ trong vòng nửa tháng, ông đã sai người đến tìm tôi đến chín lần. Tôi thấy tâm ông rất thành khẩn, bèn nhận lời ông.

Lời của Đại sư Chương Gia dạy tôi trước đây đã thành hiện thực. Cho nên, tôi xuất gia là có điều kiện. Vì xuất gia ở chùa chiền đều làm kinh sám, Phật sự. Điều kiện của tôi là dứt khoát không làm kinh sám, Phật sự. Tôi xuất gia là muốn học kinh giáo, muốn giảng kinh, nếu có thể giúp tôi phương diện này, tôi mới có thể nhận lời, bằng không tôi không xuất gia! Cho nên, chúng tôi nói điều kiện với nhau: Tôi xuất gia, túi không một xu, cũng không hỏi người xin tiền; nhưng mỗi tháng tôi phải đến Đài Trung ở một tuần gần gủi thầy Lý, lộ phí đi đường thường trụ phải cho tôi. Tôi đưa ra mấy điều kiện thảy đều được đáp ứng cả. Cho nên, cầu hộ pháp chỉ nên cầu ở Phật, Phật tìm thần hộ pháp đến giúp chúng ta.

Tôi đến đây không hề cầu hộ pháp Lý Mộc Nguyên, là do ông tìm đến tôi. Tôi tìm ông sẽ khó ngay! Tôi tìm ông, nếu ông không đồng ý, bạn nghĩ cái mặt này của tôi để ở đâu?! Ông tìm tôi, tôi còn phải xem thật kỹ, ông có thành tâm hay không? Ông có thật sự như pháp hay không? Việc này chúng ta phải chú ý, có một số người hộ pháp, họ có mục đích đem chúng ta làm cây hái ra tiền, để chúng  ta thay họ kiếm tiền! Thế thì chúng ta chẳng phải đã bị người lợi dụng rồi sao?!

Cho nên, quan sát họ thật kỹ: Nếu họ thật sự không phải vì cái đạo tràng họ, mà vì toàn thế giới, điều này chúng ta nhất định phải đến giúp họ. Nếu họ vì sự thịnh vượng của đạo tràng này, vì cái khu vực Singapore này, tôi đã đi từ sớm rồi! Họ vì chúng sinh trên toàn thế giới, cái này rất khó gặp! Rất hiếm có! Đi khắp hết thế giới này tìm người hộ pháp có tâm lượng chân thành như thế, chúng ta tìm không ra! Con người quí ở tri kỷ. Người thế gian đều nói đạo nghĩa, nói tình nghĩa. Nơi đây, chúng ta là sự kết hợp của đạo nghĩa, đồng tâm, đồng đức vì Phật pháp, vì chúng sinh làm nên sự nghiệp tốt này. Dứt khoát sẽ cùng sống chết, cùng hoạn nạn với nơi này, vậy là tâm mọi người sẽ an, tâm chính mình cũng an ngay.

Tôi hôm nay rời Singapore để đến Úc châu. Tôi đến Úc châu là tham gia đa nguyên văn hóa, giúp họ hòa hợp tôn giáo, hòa hợp chủng tộc. Việc này có ảnh hưởng đến toàn thế giới, hy vọng chủng tộc khác nhau, tôn giáo khác nhau đều có thể tôn kính, tôn trọng lẫn nhau, hợp tác lẫn nhau, cùng tồn tại, cùng phát triễn, không nên có xung đột, không nên có hiểu lầm, không nên có tranh chấp. Tôi đến Úc châu là để làm việc này, nếu không phải làm việc này thì tôi sẽ không đi.

Ở Úc châu, chúng ta có Tịnh Tông Học Hội. Hiện tại bên đó cũng có tổ chức Phật thất niệm Phật nhưng tôi không đi. Vì sao? Tịnh Tông Học Hội Úc châu không phải vì toàn thế giới! Đạo tràng nơi đây là vì toàn thế giới. Cho nên, quan điểm của chúng tôi ngày nay: Phàm vì Chánh pháp trụ thế, vì tất cả chúng sinh toàn thế giới phục vụ thì tôi lập tức đi làm. Nếu vì bản thân, vì một nhóm nhỏ, chúng tôi không có nhiều thời gian, cũng không có nhiều sinh lực như vậy, có thể đi tìm người khác!

– Chúng ta ngày nay sao không niệm Thích Ca Mâu Ni Phật, lại niệm Di Đà?

– Niệm A Di Đà Phật là do đức Thích Ca chỉ dạy, chúng ta vâng lời ngài. Chúng ta niệm A Di Đà Phật, không những Thích Ca Mâu Ni Phật hoan hỉ mà tất cả mười phương chư Phật đều hoan hỉ. Vì sao? Vì tất cả chư Phật đều khuyên mọi người niệm A Di Đà Phật cầu sinh Tịnh Độ.

Hiểu được ý này, sau đó đồng tu phát tâm suốt đời dấn thân trên con đường hoằng pháp lợi sinh, nhất định phải học tập theo Thích Ca Mâu Ni Phật: Danh vọng, ngũ dục lục trần quyết không chạm đến, triệt để buông xả. Hiện nay, xã hội sung túc rồi! Cúng dường nhiều rồi! Cái cúng dường này phải đặc biệt chú ý! Vì sao? Nếu một chút không lưu tâm, cái cúng dường này sẽ đem bạn chôn mất, sẽ đưa bạn đến địa ngục A Tỳ! Cho nên, những thứ này không được chạm đến!

Cư sĩ Lý trên tay không dính tiền bạc. Chúng ta ở đây có số tiền nào quyên góp giao cho ông, ông không nhận giao cho thủ quỷ. Tôi tiếp nhận cúng dường của bạn, tay này chạm đến thì tay kia đã đưa đi rồi, lập tức đưa đi ngay! Phải biết: Tiền không phải là thứ tốt, là thứ hại chết người! Từ xưa đến nay biết bao nhiêu người tu hành chỉ vì cái chuyện này mà bị đào thải sạch hết, đọa lạc hết! Chúng ta phải đề cao cảnh giác!

Danh hại người! Lợi hại người! Nếu không đề cao cảnh giác, chắc chắn đọa ba đường ác, không có thì tốt! Không có, thân này thảnh thơi! Không có tiền, sẽ không dám bệnh! Vì sao? Không có tiền mua thuốc, không có tiền chữa bệnh, cho nên họ sẽ không bệnh. Người nhiều tiền thường hay có bệnh! Tiền họ có là phí chữa bệnh! Họ có thể trả nổi viện phí! Những lời này không phải là lời nói đùa, trong đây có ẩn chứa đạo lý rất sâu!

Lúc tôi mới bắt đầu học Phật, Đại sư Chương Gia dạy tôi: Nếu con thật sự phát tâm thì suốt đời con đều có Phật, Bồ Tát chăm lo; chính mình không cần phải lo lắng chút nào. Tôi nghe xong, rất có thọ dụng! Cái này quá tốt rồi! Phật, Bồ Tát chăm lo là chăm lo thật sự. Người thế gian chăm lo thì không chắc! Tôi suốt đời đều được thọ dụng, được Đại sư Chương Gia chỉ dạy nhiều nhất. Tôi theo Đại sư ba năm, thầy đã ảnh hưởng cả đời tôi. Đây đích thật là đại Thiện tri thức, không phải người bình thường. Nhưng thầy dạy, chính tôi cũng phải thật làm, không thể phụ lòng thầy.

Trong nguyện thứ mười bảy này “Chư Phật xưng thán”, chúng ta thấy Phật còn cầu Phật. Thế gian chỉ có Phật là đáng tin tưởng. Lòng dạ con người qua lại với nhau chỉ là hư tình giả ý! Phải hiểu cho rõ: Hôm nay họ thân thiện, ngày mai có thể đổi mặt rồi, không tin được! Chỉ có Phật, Bồ Tát là dùng chân tâm, vĩnh viễn bất biến.

Nên nhớ kỹ: Mọi thứ chỉ cầu Phật, Bồ Tát. Phật, Bồ Tát là ông chủ của chúng ta. Chúng ta có lòng tin kiên định thì cảm ứng đạo giao. Nếu cầu mà không có cảm ứng là do tâm bạn không thành; đối với Phật, Bồ Tát bạn còn có nghi ngờ, trong tâm bạn có xen tạp, không chuyên tâm. Thuần nhất chân thành thì cảm ứng vô cùng rõ rệt.

Tôi cả đời này học Phật, bốn mươi bảy năm, tin sâu không nghi. Nhà Phật thường nói: “Tam chuyển pháp luân”. Tôi ở nơi đây làm chứng minh, làm chứng chuyển cho bạn. Tâm tôi, đức tin của tôi là do nơi thầy chỉ dạy. Đối với thầy, tôi có lòng tin kiên định, không hoài nghi. Lời thầy dạy, tôi y giáo phụng hành. Từ sự nỗ lực thực tiễn, chứng nghiệm giáo giới của thầy là chân thật, không phải giả dối.

Nên nhớ! Phật pháp từng câu từng chữ không hề tách rời đời sống chúng ta; nếu tách rời đời sống thì không phải Phật pháp. Nếu học Phật mà xem Phật pháp như cái gì đó rất huyền, rất diệu, không thể áp dụng thực tiễn vào trong đời sống là bạn sai rồi! Phật, Bồ Tát là thầy chúng ta, không phải là thần linh. Sự gia trì của các ngài đối với chúng ta chính là lời dạy, giáo huấn trong kinh điển.

–  Làm thế nào để được Phật, Bồ Tát gia trì?

– Đối với giáo huấn của các ngài phải triệt để hiểu rõ, phải triệt để ứng dụng vào trong đời sống, đây là lợi ích thiết thực, cũng chính là Phật, Bồ Tát gia trì cho chúng ta. Cho nên, trong Phật pháp, một mảy mê tín cũng không có.