Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

VI. ĐỨC TUÂN PHỔ HIỀN ĐỆ NHỊ

(Thập Lục Chánh Sĩ)

KINH VĂN:

Hựu Hiền Hộ đẳng thập lục Chánh Sĩ, sở vị: Thiện Tư Duy Bồ Tát, Tuệ Biện Tài Bồ Tát, Quán Vô Trụ Bồ Tát, Thần Thông Hoa Bồ Tát, Quang Anh Bồ Tát, Bảo Tràng Bồ Tát, Trí Thượng Bồ Tát, Tịch Căn Bồ Tát, Tín Tuệ Bồ Tát, Nguyện Tuệ Bồ Tát, Hương Tượng Bồ Tát, Bảo Anh Bồ Tát, Trung Trụ Bồ Tát, Chế Hạnh Bồ Tát, Giải Thoát Bồ Tát, nhi vi Thượng Thủ.

VIỆT DỊCH:

Lại có nhóm Hiền Hộ, mười sáu vị Chánh Sĩ, tức là Thiện Tư Duy Bồ Tát, Tuệ Biện Tài Bồ Tát, Quán Vô Trụ Bồ Tát, Thần Thông Hoa Bồ Tát, Quang Anh Bồ Tát, Bảo Tràng Bồ Tát, Trí Thượng Bồ Tát, Tịch Căn Bồ Tát, Tín Tuệ Bồ Tát, Nguyện Tuệ Bồ Tát, Hương Tượng Bồ Tát, Bảo Anh Bồ Tát, Trung Trụ Bồ Tát, Chế Hạnh Bồ Tát, Giải Thoát Bồ Tát làm Thượng Thủ.

GIẢNG:

Hựu Hiền Hộ đẳng thập lục Chánh Sĩ” (Lại có nhóm Hiền Hộ, mười sáu vị Chánh Sĩ): “Chánh Sĩ”; “Chánh” là chánh đạo, “Sĩ” là cư sĩ, sĩ phu, người có học vấn, có đạo đức. “Chánh Sĩ” chỉ hàng Bồ Tát tại gia, các vị này tuy bề ngoài hiện tướng phàm phu, bên trong thâm đạt Chánh pháp. Ngoài ra, danh xưng đối với Bồ Tát, chúng ta cũng có thể gọi các ngài là “Đại Sĩ” (Quán Âm Đại Sĩ) hoặc “Khai Sĩ”, (“Khai” là khai ngộ), đây chính là bậc đã đại triệt, đại ngộ. Chỗ này, Hòa Thượng Tịnh Không lưu ý chúng ta không được gọi các ngài là Đại Sư. Chữ Đại Sư là tôn xưng đối với Phật. Hiện tại, chúng ta thấy có rất nhiều người xuất gia đều xưng là Đại Sư. Xưng hô như vậy là không tốt! Người xưa gọi là qua mặt!

– Bạn thành Phật rồi chưa?

– Chưa thành Phật không thể tôn xưng là Đại Sư. Đức Phật là Đạo sư của trời, người; Bạn xưng Đại Sư thật là quá đáng! Bồ Tát Quán Âm, Bồ Tát Đại Thế Chí v.v… đều không dám xưng Đại Sư. Văn Thù, Phổ Hiền nhìn thấy Đại Sư phải đảnh lễ ba lạy, đi nhiễu phía hữu ba vòng. Bạn có phước báo như vậy chưa? Bạn có gánh vác nổi hay không? Đây là thường thức phổ thông chúng ta phải nên hiểu.

Chúng ta tôn xưng người là tôn kính đối với họ. Nhưng, nếu vượt quá thì biến thành không tôn kính! Ví như nhìn thấy người, chúng ta gọi là tiên sinh, vậy là rất tôn kính rồi. Nếu nhìn thấy họ mà gọi là tổng thống tiên sinh, trong khi họ không phải là tổng thống, Vậy là quá mức, là mắng họ, miệt thị họ, chứ chẳng phải tôn kính. Danh phận không phù hợp, điều này không nên!

Người hiện tại chưa hiểu Phật pháp cho rằng gọi Đại Sư là tôn kính, kỳ thật không phải vậy. Chúng ta gọi Ấn Quang Đại Sư vì ngài đã viên tịch, chúng ta tôn kính ngài, vinh danh ngài là Đại Sư thì được. Nhưng, khi ngài còn ở đời thì việc này không nên. Lúc ngài còn tại thế, văn bản của ngài đưa ra đều là “Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao”. Sau khi ngài viên tịch, chúng ta mới gọi ngài là “Ấn Quang Đại Sư Văn Sao”.

Thế nhưng, chúng ta nên biết: chỉ có Tổ sư của Tịnh Tông mới có thể xưng là Đại Sư. Đó là trải qua nhiều đời công nhận. Tổ sư của các tông phái khác không thể xưng là Đại Sư. – Vì sao? Vì Tịnh Tông là dạy người một đời bình đẳng thành Phật. Tất cả chư Phật dùng pháp môn này và ngày nay cũng dùng pháp môn này khuyên người niệm Phật, cũng bình đẳng thành Phật, không hề khác biệt với Phật.

Đoạn kinh văn trên giới thiệu mười sáu vị tôn giả đều là Bồ Tát Đẳng Giác tại gia. Trong đó duy nhất chỉ có Hiền Hộ Bồ Tát là thị hiện ở cõi Ta Bà này, ngài sinh trong thành Vương Xá, cùng thời với đức Phật Thích Ca, còn lại những vị khác đều từ thế giới khác đến.

Sách Bình Giải giảng rõ việc này như sau: “Đầu tiên nêu lên nhóm Hiền Hộ mười sáu vị Chánh Sĩ để chỉ rõ pháp này chẳng lấy phát tâm xuất gia làm gốc. Kế đến, nêu ra các vị ấy đến từ phương khác, ngụ ý: Trong cõi Phật mười phương, đều dùng pháp này làm đại sự xuất thế, cùng tinh tấn đến cầu pháp này”.

Lời bàn trên rất phù hợp yếu chỉ của kinh, vì đối với kẻ tại gia tu hành Trì Danh Niệm Phật là thích hợp nhất. Thập phương Đại Sĩ đều đến nghe pháp nhằm biểu thị pháp này thù thắng thật là đại sự nhân duyên vậy. Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Phật nói pháp môn này đã chấn động tận hư không biến pháp giới tất cả cõi nước chư Phật; giảng kinh khác không có sức mạnh này. Cho nên, Bồ Tát khắp mười phương thế giới liền đến phương này để ủng hộ đạo tràng, trang nghiêm đạo tràng. Bồ Tát đến đạo tràng là vô lượng vô biên. Bồ Tát Hiền Hộ là chủ phương Đông. Kỳ thật, chủ phương Đông không phải chỉ có mình ngài, Bồ Tát thế giới Ta Bà cũng rất nhiều, nhưng vì sao chỉ nêu mỗi danh hiệu ngài? Đây là dùng danh hiệu ngài để biểu pháp.

Người tại gia, sứ mệnh thứ nhất là hộ pháp. Người xuất gia, sứ mệnh thứ nhất là Hoằng pháp. Hoằng pháp đương nhiên cũng phải hộ pháp. Hoằng và Hộ, hai trách nhiệm này phải song hành với nhau. Bồ Tát xuất gia lấy hoằng pháp làm chủ, hộ pháp là phụ trợ. Bồ Tát tại gia lấy hộ pháp làm chủ, hoằng pháp là phụ trợ. Hoằng và Hộ đều phải gánh vác. Trong gánh vác có phân ra chủ khách. Bốn chúng đồng tu phải hợp tác mật thiết, không thể phân ra. Được vậy, Phật pháp mới có thể trụ thế gian, lợi ích chúng sinh.

Ngày nay, trong Phật pháp không đoàn kết! Nhân lực, tài lực của chúng ta thảy đều bị phân tán! Đối với chính mình có tổn thất vô cùng to lớn. Đối với tất cả chúng sinh càng không cần phải nói. Nếu như chân thật có nhiệt tâm muốn đem Phật pháp phổ biến cùng khắp thế giới, phổ độ chúng sinh hữu tình thì chúng ta phải đoàn kết. Có vậy mới tập trung được nhân lực, tài lực v.v… thì việc gì mà chẳng thành tựu? Hiện tại, mọi người đều phân tán, khiến sức mạnh bị suy giảm, thật rất đáng tiếc! Làm bất cứ việc gì cũng đều bị hạn chế! Nhân lực, tài lực v.v…không đủ! Tâm có thừa mà sức không đủ. Cho nên, chỗ này nêu Bồ Tát Hiền Hộ để ngài gây vị trí thứ nhất. Chính là nhắc nhở chúng ta sự việc này.

“Hiền” là nói về đức, có trí tuệ, có đức năng. “Hộ” là hộ pháp, hộ trì Chánh pháp. Công đức của hộ pháp và hoằng pháp ngang nhau. Có thể nói công việc của hộ pháp vượt hơn hoằng pháp. Chúng ta thử nghĩ xem: Nhân tài hoằng pháp không phải không có. Tại gia, xuất gia…, bốn chúng đệ tử đều muốn phát tâm hoằng dương Phật pháp, nhưng rất khó! Khó ở chỗ nào? – Khó ở chỗ bạn có được một hộ pháp đắc lực hay không? Nếu có được hộ pháp chân thật mới có thể làm ra một số việc. Nếu được rất nhiều hộ pháp thì việc hoằng pháp của bạn quyết không phải ở chư Phật mà những đại Bồ Tát này thị hiện làm ra những việc đó.

Cho nên, công đức của hộ pháp không thể nghĩ bàn. Đặc biệt, đối với Pháp sư trẻ tuổi, nếu không có hộ pháp đắc lực làm sao họ có thể trưởng thành, có thể trở thành Pháp sư hoằng dương Phật pháp kiệt xuất một đời! Pháp sư giảng kinh, quan trọng nhất là được rèn luyện ở trên bục giảng; phải giúp họ lên bục giảng mỗi ngày. Đó chính là đốc thúc họ, ép họ, phải thành công. Bằng ngược lại, sau ba tháng thì họ quên hết sạch! Sau sáu tháng thì họ không thể lên bục giảng! mới biết được hộ pháp là quan trọng: Hộ pháp thành tựu Pháp sư, hộ pháp có thể khiến cho chính pháp thường trụ dài lâu. Cho nên, các vị pháp sư xuất gia, tương lai nếu có cơ hội làm trụ trì thì phải nên tường tận. Trụ trì phải làm công việc của Hiền Hộ, phải biết lễ thỉnh Pháp sư.

– Mời Pháp sư như thế nào?

– Pháp sư phải tương ứng với bổn tông tu học của đại chúng. Như vậy, đối với đồng tu đại chúng mới có thể được lợi ích chân thật. Nếu sở tu, sở học của Pháp sư này khác với Pháp môn của chúng ta, kinh luận nương theo cũng khác, vậy thì chúng ta không nên mời họ. Người xưa thường nói “Thà làm động nước ngàn sông, không dám động tâm người tu niệm”. Nơi đây đã chọn Pháp môn Niệm Phật, chuyên tu chuyên hoằng, đại chúng đã có thành tựu. Nếu mời họ giảng Thiền, giảng Mật thì khác nào làm loạn tâm, nhiễu loạn công phu, phá hoại tu hành của đại chúng. Như vậy, không những không có công đức mà còn có lỗi với họ. Nhất định không nên làm!

Đây là hộ pháp chánh tri, chánh kiến, biết gìn giữ tâm thanh tịnh của đại chúng. Việc làm này không phải phát xuất từ tâm phân biệt, nên nhớ là như vậy. Cho nên, trụ trì của đạo tràng là con mắt của đại chúng trong đạo tràng đó. Bạn là người dẫn đầu, nếu bạn làm sai, những người theo sau bạn thảy đều sai hết, bạn phải chịu trách nhiệm. Thế nên, con đường của bạn đi, nhất định phải thuần chánh, quyết không sai lầm. Phải phòng hộ cho đạo tràng, phải học tập Bồ Tát Hiền Hộ, phải áp dụng Hiền Hộ trên vai của chính mình.

Chánh Sĩ Hiền Hộ thị hiện sinh trong thành Vương Xá, là vị tại gia Bồ Tát ở địa vị Đẳng Giác , cùng thời với đức Phật Thích Ca. Địa vị của ngài hoàn toàn bình đẳng với Bồ Tát Quán Thế Âm,   Bồ Tát Đại Thế Chí, Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Phổ Hiền v.v… Điểm này chúng ta phải ghi nhớ.

Cũng thế, Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện tướng xuất gia thành Phật. Đồng thời với Phật còn có một vị hiện tướng tại gia thành Phật, đó là Tôn giả Duy Ma Cật. Tôn giả Duy Ma Cật là Phật tại gia. Chúng ta trong kinh Duy Ma Cật xem thấy đệ tử của Phật như ngài Xá Lợi Phất, ngài Mục Kiền Liên v.v…, dường như hầu hết các kinh Đại, Tiểu thừa khi vừa mở đầu đều có tên hai vị này và tôn giả A Nan. Ba vị này là đại đệ tử của Phật, thấy đức Thích Ca Mâu Ni Phật, họ đảnh lễ ba lạy, đi nhiễu phía hữu ba vòng, mới chấp tay cung kính thưa hỏi Phật.

Các lễ phép này, các ngài đến cư sĩ Duy Ma Cật cũng làm như vậy. Cư sĩ Duy Ma thăng tòa giảng kinh, đây là cư sĩ giảng kinh; Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, A Nan v.v… đều là biểu tượng của người xuất gia. A-la-hán xuất gia, nhìn thấy cư sĩ Duy Ma cũng đảnh lễ ba lạy, đi nhiễu phía hữu ba vòng, rồi chấp tay thưa hỏi, không hề khác nhau. Điểm này chúng ta cũng phải ghi nhớ, đặc biệt nhất là người xuất gia. Chỉ sợ khi bạn vừa xuất gia, vừa khoác lên người áo rộng, đầu tròn thì biến thành cống cao ngã mạn!

Cho nên, thời kỳ mạt pháp, cư sĩ Hoàng Niệm Tổ giảng rất hay. Điên đảo rồi! Điên đảo ở chỗ nào? Ngày xưa người tu hành chứng quả, số người thành tựu nhiều nhất, thù thắng nhất là tỳ kheo xuất gia, kế đến tỳ kheo ni, cư sĩ nam tại gia được xếp hàng thứ ba, cư sĩ nữ thì ít nhất. Còn hiện tại, tu hành chứng quả, chính là chân thật vãng sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc: Người nữ tại gia thành tựu có thể nói là thứ nhất, số lượng rất đông; thứ hai là chúng nam tại gia, thứ ba là chúng nữ xuất gia, sau cùng là chúng nam xuất gia. Xem có đáng lo hay không?!

– Vì sao có hiện tượng này?

– Chính là khi mặc bộ đồ tu lên người thì không biết trời cao đất rộng, cống cao ngã mạn, cầu người cung kính. Khi người vừa cung kính cúng dường, có được chút ít phước báo đều đã xài hết! Cho nên, Tổ sư, Đại đức từ xưa đến nay khuyên dạy ta phải khiêm tốn, cung kính. Đặc biệt, trong sám nghi khóa tụng, chúng ta thường hay đọc đến: “Tất cả cung kính, một lòng kính lễ”. Bồ Tát Phổ Hiền dạy ta: “Lễ kính chư Phật”, ý nghĩa này rất sâu, làm sao có thể dám cống cao ngã mạn, làm sao có thể xem thường người khác?!

Bổn kinh này, chúng tỳ kheo xuất gia chỉ nêu ra có năm vị, Bồ Tát xuất gia chỉ nêu ra có ba vị, Bồ Tát tại gia nêu đến mười sáu vị. Ý nghĩa thật quá rõ ràng: Cái pháp môn này, bộ Kinh Vô Lượng Thọ này chính là độ đồng tu tại gia. Đây là Pháp Bảo Vô Thượng, một đời viên mãn thành Phật.

Tôi thường khuyên các đồng tu: Chúng ta ngày nay phải nương theo A-Di-Đà Phật, phải học với A -Di -Đà Phật. Vì sao? Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã dạy chúng ta. Đức Thế Tôn tán thán A Di Đà Phật là “Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương”. Chúng ta học theo A Di Đà Phật là vua trong các Phật. Kinh Vô Lượng Thọ là vua trong các kinh. Ngày nay, chúng ta y theo bộ kinh này là đủ.

Có người nói: – Nếu chỉ y theo bộ kinh này thì quá ít, e rằng không đủ! Xin trả lời: Bộ kinh này, mỗi câu mỗi chữ đều là pháp môn viên mãn, không những hàm chứa tất cả pháp mà Đức Thế Tôn đã nói trong bốn mươi chín năm mà thậm chí đến mười phương ba đời, tất cả chư Phật Như Lai nói ra pháp tạng vô tận cũng không vượt ra ngoài Kinh Vô Lượng Thọ. Chân tướng sự thật này chúng ta phải tường tận, phải thông đạt, sau đó mới có thể hết lòng hết dạ, một môn thâm nhập, chúng ta mới có thành tựu.

Một kinh thông, tất cả kinh đều thông. Ví như chúng ta đào giếng lấy nước: Giếng đào càng sâu, nguồn nước sẽ càng phong phú, nước trong bốn bể lớn chúng ta đều có được. Viên dung tất cả pháp, tùy độ sâu của ta thôi. Mùi vị của giếng cạn sẽ không giống mùi vị của giếng sâu. Phật Phật là đạo đồng, chỉ sợ ta không đủ sâu, nhất định phải hiểu được một môn thâm nhập, huân tu dài lâu, chúng ta mới có thể đạt tới thành tựu chân thật.

Thượng Thủ”: giống như vị thủ tọa trong một đoàn thể. Như trên đã đề cập, đoạn này hiển thị rõ ràng: Kinh này là độ đồng tu tại gia. Đồng tu tại gia đối diện với hoàn cảnh rất phức tạp còn có thể trong một đời viên mãn thành Phật, huống chi là người xuất gia. Người xuất gia chẳng phải là thuận duyên hơn sao? Đây gọi là phổ độ, không chúng sinh nào mà không được độ. Điển tích này thật vô cùng vi diệu, thù thắng đến cùng tột.

Mười sáu vị tại gia nêu ra, chỉ có ngài Hiền Hộ là bản địa, ngoài ra đều là Bồ Tát tha phương đến. Nói rõ hơn, mười phương thế giới chư Phật đều giảng kinh Tịnh Độ nên tất cả Bồ Tát ở mười phương thế giới đều đến tham dự pháp hội này, trang nghiêm đạo tràng. Danh hiệu mười sáu vị Bồ Tát này chính là cương lĩnh của toàn bộ kinh. Chúng ta nên học tập từ các ngài.

Trước nhất, chúng ta nên học với ngài Hiền Hộ. “Hộ”: chính là hộ pháp, hộ pháp phải “Hiền”, phải là một hiền nhân quân tử chân thật mới làm được. Trong Phật pháp gọi “Hiền” là Bồ Tát Tam Hiền Vị. Nên biết: Kinh Vô Lượng Thọ là kinh Đại Thừa ngay trong Đại Thừa, Nhất Thừa trong Nhất Thừa, nên chữ “Hiền” này tiêu chuẩn rất cao. Bồ Tát Tam Hiền Vị của Viên giáo là “Thập Trụ”, “Thập Hạnh”, “Thập Hồi Hướng” trong kinh Hoa Nghiêm. Viên giáo “Sơ Trụ” đã phá được một phẩm vô minh; chứng một phần Pháp Thân là Pháp Thân Đại Sĩ mới có năng lực hộ trì đại pháp Vô Lượng Thọ; cũng chính là hộ trì Pháp môn Tịnh Độ.

Pháp môn này không phải pháp môn bình thường. Pháp môn này khiến tất cả cửu pháp giới chúng sinh bình đẳng thành Phật. Tất cả pháp môn khác đều không thể so sánh được với pháp môn này. Đích thực, đây là pháp môn chí cao vô thượng. cứu cánh viên mãn.

Sách Danh Nghĩa Tập viết: “Bạt Đà Bà La (Bhadrapala) dịch là Hiền Hộ, tự gìn giữ hiền đức, lại hộ trì chúng sinh. Hoặc dịch là Hiền Thủ, do ngài ở địa vị Đẳng Giác là Thượng Thủ của các bậc hiền nhân”. Đủ thấy Chánh sĩ Hiền Hộ thị hiện sinh trong thành Vương Xá, là vị tại gia Bồ Tát ở địa vị Đẳng Giác.

Theo Hoàng Niệm lão: “Trong kinh Bát Châu Tam-muội, Bồ Tát Bạt Đà Hòa (Hiền Hộ) là người phát khởi Niệm Phật tam-muội, đích thân thấy được Phật Di Đà. Xét ra, trong kinh này ngài đến trong pháp hội thù thắng này để giúp Phật hiển bày pháp môn Niệm Phật tam-muội vô thượng”.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Người học Phật, quan trọng nhất là phải khéo bảo hộ, gìn giữ chính mình. Trong thời đại hiện nay, muốn bảo hộ chính mình nhất định mỗi ngày phải đọc tụng kinh điển, tư duy nghĩa kinh, y giáo phụng hành, “thân, khẩu, ý” mới có thể tránh phạm lỗi lầm, không bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển. Nếu thấy người mê hoặc, phải sinh tâm thương xót, không nên tránh họ vì họ là người bình thường không phải người phi thường. Nếu họ chân thật giác ngộ, họ sẽ hồi đầu.

Trong Kinh Lăng Nghiêm nói: “Thời kỳ mạt pháp (là thời kỳ chúng ta) tà sư nói pháp như cát sông Hằng”. Những gì là tà sư? Sáu căn chúng ta tiếp xúc với cảnh giới bên ngoài bị cám dỗ, mê hoặc khiến chúng ta xa rời chánh pháp, đó là tà sư. Ra phố xem những sản phẩm bày bán xinh đẹp v.v… liền khởi tâm động niệm, lòng ham muốn khởi dậy, tâm được mất hiện tiền, đó là tà sư! Không phải chỉ một người nói chuyện mới là tà sư, mà ngay những thứ bày ra trước mắt như: phim ảnh, truyền hình, báo chí, quảng cáo, những bức vẽ thời trang trên áo nam, nữ v.v…khơi dậy sự thèm khát của con người đều là tà sư. Nên biết tà sư lớn nhất, ma vương lớn nhất chính là truyền hình. Trong truyền hình, những tiết mục biểu diễn đều là bạo lực, sắc tình, yêu ma quỉ quái đầu độc con người. Trẻ thơ mỗi ngày xem thấy đều bị ma vương thả một lưới gom gọn! Đó chính là tà sư nói pháp! Không phương cách chi phòng bị!

Học sinh ở Mỹ cũng như nhiều nước tân tiến đã dùng máy tính để làm bài tập. Mỗi học sinh có vi tính. Trong vi tính hàm chứa đủ thứ, bất cứ tiết mục gì đều có thể truy cập được. Cho nên, trong đầu trẻ thơ, những thứ kỳ quái thảy đều có! Xem nhiều, nghe nhiều, tiếp xúc nhiều rồi; cha mẹ, thầy giáo cũng không có cách chi ngăn dạy! Chúng hiểu được còn nhiều hơn so với chúng ta! Cho nên, có thứ gì thì bắt chước ngay thứ đó, đây là tà sư nói pháp!

Tôi thường khuyên các đồng tu: Nếu chân thật muốn bảo hộ mình, tốt nhất là không nên xem báo chí, không xem truyền hình, không nghe phát thanh, không tham dự những nơi không cần thiết… Người xưa thường nói: Biết ít việc, phiền não ít, những gì không cần thiết để biết thì không nên biết, không cần đến nghe. Người biết nhiều nơi, quen biết nhiều người thì thị phi càng lắm!

Ngày xưa hoàn cảnh tu học là ở trong núi sâu, đạo tràng xây dựng ở trong núi lớn. Muốn đến đạo tràng phải đi mấy ngày; nếu không có thành ý, họ sẽ không đi. Cho nên, đạo tràng tu học còn gọi là “Lan Nhã”. Chữ “Lan Nhã” tiếng Ấn Độ gọi là A-lan-nhã; dịch thành ý nghĩa Trung quốc là chốn thanh tịnh.

Thế nhưng, hiện nay giao thông thuận tiện, đạo tràng lớn ở Trung Quốc đều mở lộ để đi, du khách đến tấp nập không ngừng, đạo tràng đó làm sao có thể tu hành! Không cách chi tu hành! Đạo tràng đều biến thành thắng địa tham quan du lịch. Nếu dùng ánh mắt kinh tế hiện đại mà nói thì rất tốt, tôi cũng tán thành: Tốt lắm! Thay quốc gia kiếm ngoại tệ!

Đạo tràng chân thật tu hành phải tìm nơi thanh tịnh, vắng vẻ, không người vãng lai mới tốt. Tôi từ lâu đã đề xuất thôn Di Đà, chính là đạo tràng mô hình mới của thế kỷ hai mươi mốt. Đạo tràng xưa nên để làm nơi tham quan du lịch, làm nơi giáo dục, phổ độ chúng sinh, vậy thì vô lượng công đức. Nên nhớ: Muốn hộ pháp phải có Định, có Tuệ, không có Định Tuệ thì không thể nói đến hộ pháp.

Mỗi ngày chúng ta đọc tụng, trong thời khóa sớm, tối có “Tứ hoằng thệ nguyện”. Trong “Tứ hoằng thệ nguyện” dạy chúng ta phải làm thế nào để bảo vệ chính mình, làm thế nào khế nhập đại đạo Bồ Đề.

* Nguyện thứ nhất: “Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ” dạy chúng ta phát tâm Bồ Đề, phát tâm nguyện rộng lớn, tất cả vì chúng sinh, không vì chính mình. Tôi nghe rất nhiều người nói: – Cả đời này vì ai mà khổ?! – Cả đời này vì ai mà bận rộn?! Lời nói này nghe qua rất bi ai! – Đời bạn rốt cuộc vì ai? Khổ nhọc cả đời, cuối cùng chỉ một mãng “không” cho người khác, không ai có thể mang theo được! Thật cảm khái vô hạn!

Người học Phật chúng ta thì không có vấn đề! Chúng ta xả thân vì Phật pháp, vì chúng sinh, đây là lý tưởng cao thượng trong tinh thần xả kỷ vị tha, quên mình vì mọi người. Vì Phật pháp, vì Chánh pháp trường tồn ở thế gian, chúng ta làm công tác tiếp nối tuệ mạng của Phật, mang niềm vui Phật pháp, lợi lạc đến khắp mọi người. – Nếu vì chính mình thì sao? – Thì sớm vãng sinh là điều tốt nhất! Đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, y chánh trang nghiêm, hà tất phải ở thế gian này chịu khổ?!

Nguyện thứ hai: “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”:

– Đoạn bằng cách nào?

– Danh văn lợi dưỡng thảy đều buông bỏ, năm dục sáu trần là gốc rễ của địa ngục. Phiền não đoạn, trí tuệ mới thêm lớn, sau đó mới học rộng nghe nhiều.

* Nguyện thứ ba: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Tôi thường khuyên các đồng tu: Đời này phải ôm chặt Kinh Vô Lượng Thọ, chưa đến Tây Phương Cực Lạc thì chúng ta chỉ một môn thâm nhập, đến Tây Phương Cực Lạc chúng ta sẽ học rộng nghe nhiều (Pháp môn vô lượng thệ nguyện học). Nếu hiện tại muốn học nhiều môn thì đó chỉ là học tạp, học loạn cả! Hiện tại, chúng ta là phải nắm chắc phần đến được Tây Phương Cực Lạc. Cho nên, hai nguyện đầu của “Tứ hoằng thệ nguyện” bây giờ chúng ta phải nỗ lực làm; hai nguyện sau khi đến Tây Phương Cực Lạc mới hoàn thành (“Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”, đây là nguyện thứ tư).

Hai nguyện đầu là phát đại tâm, đoạn trừ phiền não, đó là khéo giữ mình, khéo bảo hộ mình, chân thật hộ niệm mình. Chân thật hộ niệm mình cũng chính là khéo giữ gìn ba nghiệp: thân, khẩu, ý. Đặc biệt là khẩu nghiệp: Không nói lỗi người, nhất định phải tuân thủ. Người khác nói lỗi của ta, làm nhục, phỉ báng ta, thậm chí đến hãm hại ta, chúng ta dứt khoát không được oán hận, không oán trời cũng không trách người, luôn giữ tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng mới có thể giác ngộ. Nên nghĩ: Đây là do nghiệp của ta phải gánh chịu hậu quả, phải cam tâm tình nguyện chấp nhận, sẽ tiêu tan, bớt đi nghiệp chướng của chính mình. Người hãm hại ta, nhục mạ ta, phỉ báng ta v.v…họ không có tội mà trái lại còn có công đức thành tựu hạnh nhẫn nhục cho ta. Nếu đem tâm oán thù họ thì oan oan tương báo, không bao giờ dứt được. Thật đáng sợ! Vậy thì sai rồi!

Cho nên, tâm giải thoát, tâm luân hồi chỉ cách nhau một niệm. Khi tâm vừa chuyển thì tất cả thế gian này đều là thiện tri thức của mình. Nói cách khác, chúng ta quyết phải lấy đức báo oán, thành tựu đức hạnh của chính mình, thành tựu đạo nghiệp của chính mình, đó là chân thật hộ trì chính mình.

Mặt khác, phải luôn luôn tâm niệm tri ân, báo ân, tán thán đối với người. Người hãm hại ta, làm khổ ta cũng chính là ân nhân đối với ta, vì họ tiêu nghiệp chướng giùm cho ta, ta cảm kích họ còn không hết, báo ân họ còn không kịp, lấy chi ôm lòng thù hận! Việc này chính đức Phật dạy ta. Nếu Phật không dạy làm sao ta biết được! Đây chính là thọ dụng mà ta có được nhờ sự học Phật, cũng chính là công đức, sự lợi ích mà đức Phật đã ban cho chúng ta.

Hiểu biết được rồi mới thấy nghiệp chướng từ vô thỉ kiếp đến nay đều là chướng ngại trong việc vãng sinh của chúng ta. Dứt sạch được phiền não, nghiệp chướng thì an vui, tự tại, cảnh giới trong tâm mỗi năm mỗi tốt hơn, mỗi năm xả được nhẹ nhàng thanh tịnh hơn.

Cho nên, trước đây, mỗi ngày tôi mang về rất nhiều bao thơ cúng dường. Về chùa phải mở từng cái, phải đếm, phải làm việc này, phiền não chết người! Sau đó, tôi quyết không nhận nữa! Tất cả cúng dường đều qui về cho thường trụ, một phân tiền cũng không lấy! Rất tự tại!

“Không tiền” cũng có chỗ rất hay! Bất cứ người nào cũng không thể gạn hỏi tôi: Tiền để xây chùa, tiền để đắp tượng v.v…Bạn xem! Được tự tại dường nào! Vạn duyên buông bỏ, không nhiễm một trần, thật là trải qua một đời sống đại tự tại. Hiểu được hộ pháp, biết được làm thế nào để hộ pháp, tức là bạn đã biết được phương cách hộ trì chính bạn, bạn chính là hiền nhân, bạn đã vào được địa vị Bồ Tát.

Phật pháp sau khi truyền đến Trung Quốc, không những được khai hoa kết trái mà còn vượt qua rất nhiều so với Ấn Độ. Trong Tổ sư, đại đức ở Trung Quốc, có rất nhiều vị là cổ Phật, Bồ Tát tái lai, ứng hóa đến. Gần đây nhất, là Đại Sư Ấn Quang, ngài là Bồ Tát Đại Thế Chí tái sinh. Trong lịch sử ghi chép:

– Đại sư Trí Giả là Thích Ca Mâu Ni Phật tái sinh.

– Vĩnh Minh Diên Thọ là A Di Đà Phật tái sinh.

– Hòa Thượng Bố Đại là Bồ Tát Di Lặc tái sinh v.v…

Đời đời, chư Phật Bồ Tát ứng hóa thị hiện ở Trung Quốc đều có. Phật với Bồ Tát đối với người ở đây đặc biệt ái hộ. Việc ái hộ này cũng có đạo lý. Vì ở đây con người dễ dàng giác ngộ, người giác ngộ lại rất nhiều, nên có cảm ứng tương thông với Phật và Bồ Tát.

Đạo Tràng ở Trung Quốc không giống đạo tràng ở Ấn Độ. Ở Trung Quốc, điện Phật Giáo được xây dựng rất chính qui. Khi bước vào, kiến trúc đầu tiên là điện Thiên Vương. Trong điện này thờ thần hộ pháp.

–  Việc này có ý nghĩa gì?

– Hãy giữ gìn chính bạn!

Phải hiểu rõ đạo lý này. Trong Phật Giáo không có chút gì là mê tín. Giáo dục trong Phật Giáo, mấy ngàn năm trước đã đạt đến nghệ thuật hóa cao độ, đem nghệ thuật cùng giáo học tập họp thành một thể. Trong khi giáo dục thế gian vẫn chưa thể đạt đến cứu cánh thì Phật pháp đã làm được, việc này phải là trí tuệ cao đẳng mới có thể hoàn tất.

– Bằng cách nào chúng ta mới không phụ công lao truyền đạt của các bậc Tổ sư, đại đức?

– Phải lý giải, thâm đạt tường tận ý nghĩa thâm sâu của nền giáo dục này, đem nó khuếch tán rộng khắp thế giới, xác minh   nền giáo học của Phật pháp không nhất thiết phải dùng lời nói. Hãy xem trong điện Thiên Vương thờ năm hình tượng của Phật, Bồ Tát:

– Vừa bước vào cửa chùa liền thấy Bồ Tát Di Lặc. Bồ Tát Di Lặc ở đây không phải là hình tượng người Ấn Độ mà tạc hình Hòa Thượng Bố Đại với cái bụng thật to là biểu trưng dạy mọi người phải có tâm lượng lớn: “Tâm bao thái hư, lượng khắp pháp giới”. Khắp pháp giới, bất cứ thứ gì đều có thể bao dung độ lượng. Người học Phật, trước phải mở rộng tâm lượng, tâm lượng nhỏ thì không có tư cách học Phật. Bồ Tát Di Lặc lúc nào cũng tươi cười, bao dung đón người, đây là biểu thị tấm lòng Từ Bi. Trong Phật pháp lấy: “Từ Bi làm gốc, phương tiện là cửa”. Bồ Tát Di Lặc đặt ngay chính diện là dạy bạn bước vào cửa Phật phải lấy “Từ Bi làm gốc, phương tiện là cửa”, dạy bạn sinh tâm bình đẳng, thành tựu tướng an vui. Không luận đến đâu, một mãng hoan hỉ, hiển lộ lòng đại từ, đại bi.

Sau đó, nhìn sang hai bên là “Tứ Đại Thiên Vương” gồm có:

Đông Phương Trì Quốc Thiên Vương: Danh hiệu này cũng là biểu pháp. “Trì” là gìn giữ”; “Quốc” là quốc gia. Hai chữ “Trì Quốc” hàm nghĩa:

– Làm thế nào bảo trì chính bạn suốt đời thành tựu đạo đức, học vấn mà không bị hư hại?

– Làm thế nào gìn giữ gia đình bạn được hạnh phúc mỹ mãn, không đến nổi khiến gia đình hư hại?

– Làm thế nào gìn giữ sự nghiệp được thành công thuận lợi?

– Làm thế nào gìn giữ xã hội được an định, phồn vinh?

– Làm thế nào gìn giữ quốc gia được giàu mạnh?

– Làm thế nào gìn giữ, thúc đẩy thế giới hòa bình?

Tất cả những vấn nạn trên đều bao hàm trong “Trì Quốc Thiên Vương”. Vừa thấy ngài, ta liền nghĩ ngay đến những sự việc trên. Ngài dạy chúng ta then chốt, nguyên tắc của sự tu hành.

– Biểu thị ở chỗ nào?

– Trên tay ngài cầm cây đàn Tỳ Bà, đó chính là sự biểu thị: Muốn đạt đến những mục tiêu trên, nhất định phải học Trung Đạo. Tỳ Bà biểu thị Trung Đạo: Dây đàn nếu căng quá sẽ bị đứt; giùn quá sẽ không kêu; dây căng vừa phải mới phát ra âm thanh tuyệt diệu, tròn đầy, là ý này. Không phải Trì Quốc Thiên Vương mỗi ngày thích đàn Tỳ Bà, hiểu như vậy là sai rồi, làm gì có việc đó! Ngài dùng phương pháp này để nhắc nhở bạn phải hành Trung Đạo, nhà Nho gọi là Trung Dung. Đối nhân xử thế, tiếp vật nhất định phải làm đến được vừa vặn thích hợp, không nên quá đáng, cũng không được bất cập. Nếu hiểu được ý nghĩa này thì vừa nhìn thấy ngài, chẳng phải đã học qua một bài rồi sao? Vội vàng phải đảnh lễ ngài, cảm tạ ngài đã dạy ta, cần gì phải nói chớ!

Nam Phương Thiên Vương: Cũng là Tăng Trưởng Thiên Vương. “Tăng Trưởng” chính là tiến bộ: Đức hạnh mỗi năm phải tiến bộ, trí tuệ mỗi năm thêm lớn, năng lực, thậm chí phẩm chất đều phải nâng cao mỗi ngày. Phật pháp không lạc hậu! Phật pháp luôn cầu tiến! Cho nên, Nam Phương Thiên Vương là đại biểu cho sự dũng mãnh, tinh tấn. Nhà Nho thường nói: “Một ngày mới, ngày ngày mới, lại ngày mới”. “Ngày ngày mới” là tiến bộ.

Hiện tại, có người nói: “Phật pháp phải đi kịp với thời đại”. Tôi nghe qua rất đau lòng! Tại sao Phật pháp phải theo kịp thời đại?! Phật pháp là lãnh đạo của thời đại, đi theo sau thời đại thì chúng ta sai rồi!! Làm gì có đạo lý này! Phật pháp là trí tuệ cứu cánh, viên mãn, chỉ đạo thế giới này, mãi mãi đứng đầu của thời đại, không phải là ở sau.

Ngày nay Phật pháp hư hại đến thế này, bốn chúng đệ tử chúng ta phải chịu trách nhiệm, phải rất là hổ thẹn! Chúng ta không đem Phật pháp chân chánh nói với mọi người, khiến xã hội đại chúng sinh ra hiểu lầm nghiêm trọng, đó là chúng ta chưa dốc hết tâm lực, bổn phận của một người học trò!

Vì sao mỗi ngày chúng ta phải cực lực đề xướng Phật pháp? Một người dù tuổi tác đã cao cũng không đến nỗi tệ! Tuy sức khoẻ không còn cường tráng như xưa, nhưng cũng nên nỗ lực, tận dụng hết sức mình để vun bồi trí tuệ Phật pháp, cống hiến cho mọi người, nhất là cho giới trẻ, những khả năng Phật pháp của chính mình.

Phật pháp, quan trọng nhất là phải có người tiếp nối. Chúng ta phải toàn tâm, toàn lực bồi dưỡng nhân tài, đem mấy mươi năm kinh nghiệm của chính mình, cung cấp cho các đồng tu làm tham khảo, hi vọng thế hệ sau vượt trội hơn người đi trước, mới có thể dẫn dắt, khiến thế giới này chân thật có thể đạt đến những bình đẳng, an định cùng tồn tại. Phật pháp là môn học vấn chân thật hữu dụng, là giáo dục chí thiện viên mãn không phải mê tín, hoàn toàn không có chút mê tín.

Trên tay của Tăng Trưởng Thiên Vương cầm cây bảo kiếm. “Kiếm” biểu thị Trí tuệ. Trên tay Văn Thù Bồ Tát cũng cầm bảo kiếm, đây là trí tuệ đoạn phiền não. Chúng ta biết chỉ có trí tuệ mỗi ngày thêm lớn mới có thể đảm đang “Trì Quốc”; đem lời dạy của “Trì Quốc Thiên Vương” thiết thực nâng cao. Giáo dục của hai vị Thiên Vương này tương đối viên mãn. Thế nhưng chúng ta phân vân không biết bắt đầu từ đâu? Tây Phương Thiên Vương cùng Bắc Phương Thiên Vương chính là dạy chúng ta phương pháp hạ thủ.

Tây Phương Thiên Vương còn gọi là Quảng Mục Thiên Vương. “Quảng Mục” chính là quan sát, khảo sát. Phải xem nhiều, xem người khác, rút tỉa kinh nghiệm, sở trường của người khác, cải chính khuyết điểm của người khác là bạn tiến bộ rồi. Xã hội hiện nay vô cùng phức tạp! Cho nên, đạo cụ trong tay Quảng Mục Thiên Vương: Một tay cầm con rồng hoặc con rắn, tay kia cầm hạt châu. Rồng, rắn biểu thị nhiều biến hóa, thay đổi phức tạp. Hạt châu là bất biến, hơn nữa còn có năng lực chuyển hóa được rồng. Hàm ý ở đây khuyên chúng ta phải chuyển được cảnh giới, đừng để bị cảnh giới xoay chuyển, vậy là cao minh!