TỨ PHẦN LUẬT HÀNH SỰ SAO TƯ TRÌ KÝ
Đời Đại Tống, Sa-môn Thích Nguyên Chiếu ở Dư hàng soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN THƯỢNG

(PHẦN 4)

THIÊN GIẢI THÍCH THUYẾT GIỚI

Giới tức bổn thọ pháp thể, lượng đồng sa giới. Từ duyên khởi nêu ra những điều thiết yếu, gồm hai trăm năm mươi giới, làm con đường trì phạm khiến cho dễ nhiếp tu. Nhưng sợ chúng tăng biếng nhác không tự sách tấn siêng năng, vì thế mỗi nửa tháng (30 và 1) tập trung một chỗ để tác pháp tuyên bố (thuyết giới), ngõ hầu nhân lời thuyết giới này mà phản tĩnh tự mình, sửa đổi việc làm ngày càng mới. Tuy rộng lược có hai mà tăng riêng ba vị.

I. Nói gồm nhiếp thì không đâu chẳng phải là tịnh hạnh, nên gọi là thuyết giới.

Chánh nghi do ngài Phổ Chiếu, ngài Đạo An và luật mở rộng Đương thời, lập pháp tuy rất nhiều nhưng không có điển cứ. Những điều nói trong thiên này đều nương lời dạy của Đức Phật. Xem kỹ kinh luật, sưu tầm điều đúng bỏ bớt điều sai, tựa đề là chánh nghi, đối chiếu chọn bỏ những chỗ không đúng.

Lại ở trên nói thuyết giới là chỉ cho pháp sở thuyết (pháp đã được nói); dưới nói chánh nghi là gồm duyên năng biện. Cả hai năng sở đều nêu, cả hai duyên pháp đều hiểu.

Văn chú giải nêu trong phần chính giải thích. Tức Tam Thiên oai nghi, nghĩa đầu nay chính dùng, vì thế được nêu trước tiên.

Tịnh trụ có hai nghĩa giải thích:

Một là nghĩa bất thất: Nghe trì không phạm, thể thường còn, vì thế phần sau nói thanh tịnh giới trụ.

Hai là nghĩa y chỉ: Cấm chế ba nghiệp an trụ trong giới. Tức trong Quảng Hoằng Minh Tập chép: Tịnh thân miệng ý như giới mà trụ là ở đây.

Trong phần rộng dẫn nêu ra phần thiết yếu luật nghi những chữ quốc ngữ, kế là dẫn Nê-hoàn. Đầu tiên là dịch tên. Kiều-tát-la, Phương Chí nói thuộc Trung Ấn-độ, chu vi sáu ngàn dặm, các sơn thành khác chu vi hơn bốn ngàn dặm, rất có lòng tin Phật pháp.

Nê-hoàn có hai bổn, nay có sáu quyển, chọn hai quyển: Trưởng dưỡng tức dịch chung, hai nghĩa giải thích riêng: (232) nghĩa dầu đồng như trước, nghĩa kế già luận chứng đắc bạch pháp, v.v… Hoặc trưởng đối với nghĩa kế, dưỡng đối với nghĩa trước. Trong kinh Tạp A-hàm tiếng Phạm tuy đủ, thì biết riêng Bồ-tát mà lại lược.

Phần sau dẫn chánh âm hai nghĩa phân phối. Đoạn nghĩa là dứt ác, đồng giới trụ ở trước, nghĩa sau tương đối rất dễ biết. Quốc ngữ không đồng hai chữ hóa ở trên vì thế không gọi là sau.

Trên là dịch đủ, lại bao gồm các nghĩa khác, có bảy tên gọi:

1. Tập: Trong bài tựa giới nói rằng cùng nhóm họp (tập trung) một chỗ.

2. Biết: Tức là biết phạm, không phạm, v.v… ở dưới nói rằng: Trong khoảng thời gian từ nửa tháng trước đến nửa tháng sau có phạm chăng?

3. Tuyên: Lời sớ trong giới nói là thuyết giới trong hai tháng hắc ngoạt và bạch ngoạt (tức ngày 30 và 1).

4. Đồng: Phàm thánh trong mười phương đều tôn trọng.

5. Cộng trụ: Thanh tịnh ở trong hai bộ tăng, người phạm không được nghe.

6. Chuyển: Chuyển các hoặc nghiệp chứng bạch pháp (chứng pháp thanh tịnh).

7. Thường: Chỗ thường thực hành những việc khác của tăng rất ít nên chỉ nêu tên.

Nay ý đã rõ, dẫn văn y cứ nghĩa lược như giải thích trên.

Trong Tam thiên có ba cách dịch:

Hai cách giống như giải thích ở trên, hòa hợp ba thể tướng không nói không hiển.

Hai cách sau, nghĩa đã hiển ở phần chánh dịch, cho nên phần trước phần nhiều tông quy thành bốn cách. Tịnh trụ đoạn chuyển dứt ác làm tên. Tăng trưởng, nuôi lớn sinh thiện làm tên, tập, cộng trụ, và tôn quý làm tên. Tri tuyên và thường từ chế làm tên. Phần nhiều nêu ra chỉ y theo trước đã nêu.

Chỉ dịch là trụ, hội thông trong luận Câu-xá nói tám giới đều thọ Bồ-tát hộ nên nói là tên. Tên là dùng để gọi. Kế dẫn rõ luận giới hộ, hai phần hội thông Câu-xá. Hai luận nói hộ, danh nghĩa có một ít giống.

Bố-tát là tiếng Hoa Phạm đều nêu, sự đồng mà tên khác.

Sau dẫn luật, trong luật có hai mươi kiền-độ.

II. Kiền-độ thuyết giới: Trong kỳ Ngũ Bách Kiết Tập (năm trăm vị kiết tập), ngài Ca-diếp trình bày, ngài Ưu-ba-ly kiết tập nên gọi là kiền-độ Bố-tát, tức “Tri” đã nêu trong phần thuyết giới ở trước. Sau gọi là Bố-tát, trước xen nhau nêu nên gọi là Tức. Câu này chính là chỉ cho đồng mục lục ở thiên trước.

Hỏi: Bố-tát dịch là thuyết giới phải không?

Vả lại, Bồ-tát dịch là Tịnh trụ.

Giới, tiếng Phạm là Thi-la, đã không phải đối phiên sao luật luận hai tên xen nhau hiển bày.

Hỏi: Vì sao không gọi là Bố-tát chánh nghi?

Suy nghĩ sẽ hiểu (người học phần nhiều mê mờ nên phải phương tiện giải thích). Ý trình bày, trước tiên hiển bày lợi ích cúa giáo. Hai câu trên là nêu sự khen ngợi, hai câu dưới là giải thích thành. Câu trên y cứ thời gian để hiển bày công phu, chánh tượng ngữ lược), lý bao gồm phần sau. Tức ở sau chép: Vì sao biết Phật pháp tồn tại ở đời lâu dài, v.v… câu sau y cứ pháp rõ dụng để cùng vâng theo, thanh tịnh hòa hợp các pháp khác có thể thực hành. Sau nói nhiếp giáo lý căn bản của tăng.

Khoa kế, bốn câu đầu, trước chỉ bày tình kiến (mãn du yễm) ít người thực hành như kiết giới, thọ sám, v.v…

Thường tức nửa tháng thường làm như quở trách. Hai câu đầu bác bỏ khinh mạn, coi thường, bởi sau suy ra lý do. Nhiễm vì thường bị huân tập. Thường nghe: Vì một tháng nói hai lần, do đây sau kết khen ngợi.

Tình tức vọng duyên theo vật mà trôi lăn, ưa đây ghét kia, giàu ít nghèo nhiều, dựa vào một việc này đủ thấy được phàm tình. Vì thế nói rằng có thể biết. Lúc đó còn như vậy huống chi ngày nay. Chùa tăng tuy nhiều nhưng thực hành càng ít, dầu có thực hành nhưng cách xử sự không đạt kết quả. Đâu chẳng phải nhờ túc nghiệp mà sinh vào thời này. Nhớ đến sự truyền bá của đạo mong muốn mọi người phải trân trọng cung kính.

Trong phần ba, đầu tiên là trình bày xưa, sau là hiển nay. Trong phần đầu nêu các bổn.

Tề tức Nam Tề, Tiêu Tử Lương, sinh vào thời vua Phong Cách Lăng, chết vào thời vua Ích Văn Tuyên.

Bồ-tát tại gia: Hoặc năm giới, tám giới hoặc giới Bồ-tát, văn này đã thất lạc không thể tìm được (có chỗ nói tức Tịnh Trụ Tử quyển 20).

Phổ Chiếu: Bộ Chỉ Quy chép: Tìm khắp trong truyện ký, hỏi thăm tên vị này, chưa biết vào thời đại nào.

Đạo An là vị cao tăng đời Tấn, lập ra khuôn phép cho tăng ni, có ba điều lệ:

  1. Hành hương định ra pháp giảng trên tòa trên kinh.
  2. Pháp thường ngày sáu thời hành đạo, ăn uống.
  3. Các pháp bố-tát, sai sử, hối quá, v.v…

Các chùa viện trong nước đều y theo đây mà thực hành. Rộng trình bày đức nghiệp đầy đủ như Lương Truyện. Nhưng sau phê bình, suy xét, được mất, hai câu trên nêu xưa khác nhau, hai câu dưới hiển nay túng đoạt, ý hiểu liền đã biết. Tâm tướng tức xử sự.

Trong phần hiển nay nói ý kinh: Lời nói chung ba tạng đều được tên kinh. Sau dẫn văn các bộ luật, kinh luận Đại thừa, Tiểu thừa (ví dụ như ở sau nói rằng: Văn kệ thanh tịnh trong các kinh tụng xuất xứ từ luật Tăng-kỳ tức gọi luật là kinh), v.v… đã nghe được tương truyền ở đời. Lại cho rằng đối với bổn trước chọn thứ lớp, tiết mục nối văn. Trong phần sinh khởi, trước nêu ý, vì thế trở xuống chỉ trước nêu sau. Gặp bổn làm khuyến khích. Trước dẫn khuyên cố gắng tức nói rằng phàm tình để có vô tướng, v.v… đã nêu ở trước.

Dẫn trong các văn, Luật Thiện Kiến chép: Hai câu trước Tỳ-kheo hỏi Phật, hai câu sau Phật trả lời. Già luận nói dứt ác. Trước nói các điều ác chỉ chung mười nghiệp, sau nói các phiền não không ngoài hai hoặc. Chữ thọ là viết sai, trong luận viết chữ ái, tức chỉ bày hoặc thể, kế nói về sinh thiện.

Bạch pháp (pháp thanh tịnh) chung cho phàm thánh. Phàm thì sư tịnh, Thánh thì lý hiển. Phạm hạnh rốt ráo chỉ hạn cuộc ở bậc Thánh cùng tột. Lại về sau tự mình phản tỉnh, phát lồ sám hối tức là thanh tịnh. Vì thế sau dẫn các luận để hiển bày.

Trong phần khai chương nêu phần tăng biệt hai vị khác nhau. Tăng là bốn người trở lên tác pháp tụng giới. Biệt tức là duyên khai, đối thủ tâm niệm chỉ can ngăn ba lần. Lại bốn môn sau, môn một và hai chung cho tăng biệt. Môn thứ tư chỉ hạn cuộc ở tăng. Môn thứ ba thông cuộc như đánh chuông, chúng nhóm họp đầy đủ. Chế chung một người phát thẻ thông báo chỉ hạn cuộc ở tăng mà thôi.

Trong thời tiết, khoa đầu, nếu kỳ hạn ba ngày thì các bộ chế chung và trước sau khi ăn cũng nêu trong luật Tăng-kỳ. Nay do ba ngày đều nêu ra trong luật Thập Tụng nên gồm nêu. Sau dẫn giải thích các văn. Sau hai ngày chỉ xuất xứ từ bổn tông, vì thế sau đều nêu trong luật Tứ Phần. Trong phần giải thích riêng, văn dẫn Tứ Phần nêu ra đồng, ngày Bố-tát dùng chung cả ba ngày.

Hỏi: Trong ba ngày, tùy ý Bố-tát ngày nào cũng được phải không?

Đáp: Ở đời có nhiều tranh chấp chưa thuận với ý Tổ, nếu cho rằng dùng chung được thì trong Nghiệp Sớ chép: Ngày 1 là ngày thuyết pháp truyền ba quy y, năm giới cấm cho người thế tục. Ngày 16 vì có nạn duyên nên khi khai cho kéo dài, vì thế chưa thể có tiêu chuẩn thường hằng. Nếu chỉ lấy ngày 1, thì trong văn Sớ nói ba ngày đều được, tùy dụng được khai, ắt dùng hai ngày. Xét lại trong bảy pháp Phi, thì pháp Phi nào chung hai đều có ngại. Nhưng trong Sớ văn chỉ sợ người đời thường dùng ngày khác, ý muốn lấy ngày 1 làm tiêu chuẩn nên phân riêng. Còn như có duyên dùng chung thì không gọi là phi pháp. Còn tự tứ tuy chung ba ngày mà trong lời sao thì lấy ngày 16 làm tiêu chuẩn.

Phi nghĩa là ngày khác thì không được, có thể dùng thí dụ.

Luật Ngũ Phần thì nói khác.

Luật Tứ Phần dẫn văn này, muốn lấy ngày 1 làm tiêu chuẩn. Vì thế trong lời Sớ chép: Hai ngày trước (1, 1) nói pháp, trao ba quy y năm giới cấm cho người tại gia, một ngày sau (16) vì chúng tăng tịnh tâm thuyết giới.

Trong tiết thứ hai đều để chia trước sau, vì thế trước sau đều chung. Sở dĩ không chọn ngày đêm vì đã chế sáng, trưa, tối có thể biết. Trong luật sợ minh tướng hiện nên cho lược thuyết giới, thì chung cho tối sáng. Trong thêm bớt, trước dẫn duyên khởi.

Nghiệp sớ chép: ngoài giới đấu tranh không tự tiêu trừ, trở vào trong chúng thanh tịnh trần nhiễm nào nghi. Đức Phật khai cho, trước nói giảm bớt, do để tránh người vào giới, không đợi ngày 1 mà trước đó hai ngày nên nói bớt. Nhưng ngày 1 vốn là ngày chính cũng vì tránh duyên nên nhập vào ngày bớt. Như ngày 16 lùi lại ngày 1 thuyết giới, do đây ngày chánh không gọi là bớt. Nếu nói thêm sau, vì tránh người vào giới không được thuyết giới nên kéo dài qua nửa tháng thứ hai, cho nên nói là thêm.

Lại có bốn tiết. Đầu nói lập tức tạm tránh chưa cần phải thêm, khiến cho người vào tắm, chúng tăng ra khỏi giới khiến không thể biết. Nhược trở xuống là tăng lần thứ nhất.

Bạch tăng là tác pháp đơn bạch. Lại trở xuống tức là thêm lần thứ hai. Sớ chép: hung ác chưa nhẫn, bổn giới chưa hòa, nên đến chỗ khác hướng về đồng chúng thanh tịnh, v.v… cũng phải đơn bạch. Nếu khai cho đồng pháp, tâm vốn không hòa sợ phế bỏ việc chúng, vả lại khiến cho cùng làm nên gượng nói. Đây là bớt hai ngày, thêm cũng quá hai ngày của tháng kế, thêm bớt đều hai, trong văn rất dễ biết.

Trong Xích Cổ: Y cứ vào luật Thiện Kiến và Thập Tụng có một thời gian văn trụ ở đời, chép: Không có tăng đến ba ngày, do quá ba ngày tháng kế không thuyết giới liền diệt. Ở đầu nêu khai chừng hạn của luật, xét lại không có ý khác, chỉ sợ việc làm của tăng bị đình chỉ hay phế bỏ mà thôi. Cũng ngăn sự nói lạm. Luật dẫn văn phá, trước hai văn bổn luật.

Câu-diệm-di, vì Tỳ-kheo đấu tranh nói Phật hiển pháp phi diệt, một nước có thể như vậy nhưng chẳng phải đều diệt. Tỳ-kheo Cao Thắng là môn sư của Trưởng giả, Trưởng giả khi qua đời giao kho báu cho và nói: Đợi hai đứa con ta lớn lên trao cho nó. Một hôm, giao kho báu cho người em, nên người anh oán trách bèn đến báo với A-nan. Anan nghi ngờ, trải qua sáu kỳ bố-tát không cho đồng pháp. Sau A-nan hỏi Tỳ-kheo Cao Thắng, Cao Thắng trình bày đầy đủ ý của thầy. A-nan nói không phạm Đột-cát-la.

Kế dẫn trong luật Tăng-kỳ, tỳ-kheo ở thôn Phất-ca-la ganh tỵ với tỳ-kheo ở Lan-nhã có danh lợi, nên ngày 1 đến nói rằng ngày 1 thuyết giới, nhưng đợi kia đi rồi mới thuyết giới. Ngày hôm sau đến thì nói rằng đã thuyết giới rồi, ông mắc tội không bố-tát, ta không cho ông ăn, như vậy trải qua hai mươi năm. Vì thế nói chê bai oán trách nhau. Nhưng hai văn kia chẳng phải gọi là không thuyết, dùng đây chất vấn văn trước dường như không cùng loại.

Trong phi thời hòa hợp, trước dẫn duyên, tức ở nước Câu-diệm-di đấu tranh phá làm hai bộ, sau phi thời ở Xá-vệ hòa hợp nên Phật khai cho. Lời sớ nói hai chúng tâm thanh tịnh đồng tôn kính giáo pháp thanh tịnh, vì thuyết giới không đợi kỳ hạn. Về sau giải thích lý do. Trước trình bày nghĩa thêm, nay trình bày không hòa. Trở lại hiển cầu phải hòa hiển ý khai thuyết.

Không đồng kiến giới: Nhân tránh pháp tướng là kiến không đồng; phế bỏ việc bố-tát là giới không đồng.

Như giới hòa: Nói thông thọ tùy. Nay thuyết tùy thực hành thuyết giới để luận trong tạp pháp (Hữu bổn hoặc chữ vô giới), môn nầy dẫn rộng sự tướng các pháp tạp hiển. Muốn hiển trở xuống làm khoa hành sự quy tắc ở khoa sau đều có y cứ. Trở xuống là điểm, trong tác tướng có văn chép: Bất thời nghĩa là không đồng thời. Chỉ thiên trước tức là đánh linh, đánh kiền-chùy, v.v… Phát thẻ: Khoa đầu dẫn văn luật Thập Tụng. Trước nói chung duyên khởi của hai chúng, sau nêu rộng chúng đồng lợi dưỡng. Nói không đến: Khi đang Yết-ma không có mặt trong 88 chúng. Luật Tứ Phần trở xuống kế là dẫn chứng. Trước dẫn bổn luật tức Sa-di pháp đồng, sau dẫn Niết-bàn nói Sa-di hình đồng. Khoa kế, trong luật Ngũ Phần trước là nêu khuôn phép.

Ngũ chỉ: Là năm ngón tay của người, đủ năm tấc. Nắm một khuỷu tay: Một thước tám (duỗi tay là hai thước) nhưng không rõ vật thể. Thời nay phần nhiều làm bằng cây tre. Khách đến nói hành pháp hòa hợp, tổng số là bao nhiêu.

Tam-trung là: Tiếng Phạm, y cứ vào thinh luận mà dịch.

Lời sớ chép: Tên Xá-la thảo, dùng làm thẻ tre để tính.

Rải hoa: Trong luật Ngũ Phần trước nói khai cho người thế tục. Tỳ-kheo không được tức nói ngăn người xuất gia (chế đạo). Cầu đầu ngăn tự rải. Trong luật, vì các Tỳ-kheo rải hoa lên các Tỳ-kheo ở trên tòa cao, cư sĩ thấy vậy chê trách rằng Tỳ-kheo giống như vua, quan lớn. Đức Phật do đây mà ngăn cấm. Như cư sĩ ngăn thọ nhận rải hoa, nghĩa là tuy cho thọ nhận nhưng không được để dính áo. Phủi bỏ: Trái tướng đạo. Trải tòa nên thấp cũng không cao quá: Tỳ-kheo ba lần khai tự rải. Trước ngăn cung kính người, ở đây khai cho ở chỗ nghiêm tịnh. Trước là văn dẫn, văn nầy chính dùng.

Trong tịnh thủy vật: Trước dẫn trong luật Tăng-kỳ, gồm ba tiết. Một là nói tịnh thủy (tay sạch), văn giống như sư thuyết giới, nay tức là làm thẻ.

Hương trấp dục (nước tắm thơm): Trước là tịnh thủy (nước sạch), đây tức là hương thang (nước nóng thơm).

Hai gồm tay sạch. Tụng trở xuống nói để thẻ. Đây khai một số giới đồng như trước. Câu văn tạp toái tức giới điều.

Nhiều bộ luận chép: Mười hai năm về trước nói chung một bài kệ, nay nói năm thiên, gọi là tạp toái. Năm trăm giới đối một bộ thì số gấp bội. Bảy trăm giới đối với hai bộ vẫn nhiều hơn một trăm. Đây gọi là đếm số thích nghi, không cần phải hạn định. Như trở xuống là nói cần phải đủ chúng. Ai đáp tức dự sai ba người, hoặc cho thí vật cần người chú nguyện. Trong luật Ngũ Phần thì nói Duy-na làm. Xứ này việc ít nên không làm. Trong Tứ Phần chúng đủ đồng như trên. Chỉ nói tuổi nhỏ lớn phân xử lên tòa để trách nhiệm, tôn ti không lẫn lộn.

Trong phần người pháp, khoa đầu trong luật Tăng-kỳ có bốn:

Đầu nói về pháp sở tụng, luật nêu số mục thực hành tức giới bổn.

Tụng hai bộ: Y cứ trong an cư, tức Luật sư thứ tư.

Hỏi: Tăng thuyết giới cho ni có lợi ích gì?

Đáp: Trong thể bổn thọ gồm phát được. Lại làm chỗ y chỉ cho ni nên phải có giáo thọ.

Nói người có thể tụng. Thượng tọa nói: Người có đức đáng được mọi người tôn kính nên ở pháp tòa nói lời thành thật để răn nhắc dạy dỗ, người nghe nương theo đó mà thực hành.

Đời nay phần nhiều đổi mới, trái với ý của giáo pháp, cao lạp ỷ thế không chịu tụng, đâu biết rằng đây là trách nhiệm quan trọng cho việc mở mang Phật pháp.

Sau là chọn thính chúng. Bộ kia cấm chung năm tên. Luật Tứ Phần nói được nhóm họp, vì trở về sau chúng có phạm kết chung. Đây tụng hai thầy chỉ giáo, không gọi là được nghe giới.

Hỏi: Bài kệ tựa giới bổn lệ tên ba thiên, chúng có được nghe không?

Đáp: Lược nêu tên chung không nói điều mục, vì thế như nói ngăn cung kính.

Hai câu trên răn dạy thính chúng.

Không che giấu: Nên khai cho người bệnh.

Không che vai: Nghi cung kính ở Tây Vực: xứ nầy không giống như vậy, nên chỉ bày làm thẻ, sau chỉ xướng pháp tức như trên đã nói.

Khoa kế, luật Ngũ Phần nói có bảy. Lựa người có đức lạp tụng giới, bỉnh pháp chọn người có khả năng nhận lãnh, vì thế cần có hai người.

Lời sớ: Thượng tọa lớn tuổi (già cả) bỉnh ngự là khó. Y cứ văn răn dè đồng với khi Phật còn tại thế. Nay thì tuổi nhỏ tụng giới, Thượng tọa làm Yết-ma đều trái nhau. Nếu bậc cao tọa đó thông suốt phải trái, y luật sư bỉnh bạch ắt có nghi, cần phải lua chọn người có khả năng kham nhận, không hẳn phải là Thượng tọa.

Thuyết giới ngăn người đã nghe, tướng ngạo mạn rất nhiều, vả lại lệ bảy lớp đều phạm nghiêm hình thế mà còn có người không sợ.

Luật sư Trí Thủ mỗi khi sắp thuyết giới quỳ chắp tay, Pháp sư Ngộ Ấn song tự cảm, đều đến hết.

Tăng truyện chép: Kẻ hạ ngu ngồi chung, cùng nghe còn không khỏi tội, do đâu mà được lợi ích. Xin nói rõ lời răn của Phật, còn không tự phản tĩnh được điều sai, Thượng tọa bỏ quên.

Nếu nói đổi ngày, nghĩa là trong ba ngày.

Nói làm pháp khác, nói nghi thuyết giới, còn nói ba ngày chỗ làm khác nhau. Dưới dẫn luật Tứ Phần để nêu các bộ khác.

Luật chép: Các Tỳ-kheo muốn nói pháp bằng giọng ca vịnh, Đức Phật cho phép, sau có một Tỳ-kheo cao giọng ca để nói pháp, Đức Phật nghe rồi bảo rằng: Ông chớ nói pháp như vậy, cho đến cao giọng ca vịnh nói pháp có năm lỗi:

1/ Tự mình sinh tâm mê đắm âm thanh.

2/ Khiến cho người khác nghe sinh tâm mê đắm âm thanh.

3/ Khiến cho người nghe có thói quen học theo.

4/ Người thế tục sinh tâm kiêu mạn không cung kính.

5/ Chỗ thanh tịnh tư duy nghe giọng ca nầy chỉ duyên âm thanh dễ làm loạn việc ngồi thiền.

Vì thế bổn tông cũng không cho phép. Nay không dám phế bỏ ý chỉ của giáo pháp. Tức nghĩa Luật sư thứ tư trong phần dụng tựa. (Thời nay tụng lồng âm thanh, câu văn không rõ, người không thích nghe, lại sinh tâm khinh thường, chứ đâu phải chỉ có năm lỗi. Y theo văn nầy tự nói là thiện thì không có lỗi sai, tùy dùng cả hai đều được).

Trong phần ba, trước ngăn người biết pháp cúng dường, nói dạy tụng học trước.

Trong đầu ba chánh nói nghi nêu bày chung. Trước nói chung, dùng bộ khác, sau dẫn luật Ngũ Phần, luật Tăng-kỳ và kinh A-hàm, Hoa Nghiêm và nói y cứ bổn xưa, theo đây lẽ ra có nhiều bổn.

Hai thầy lớn nhất làm giềng mối, tức các kệ không nêu kinh luật nầy, nhưng sự còn phức tạp sai sót, chẳng phải hoàn toàn nên nói: Khác thì đồng.

Ba câu trong phần đầu, trước nói nơi chốn, sắp xếp giường tòa. Hai câu đầu là phán định, nói cho phép là y cứ theo Trung quốc, sau nêu bày cõi nước khác nhau.

Trung quốc dùng giường: như giới mở trải v.v… Loại tức lệ, tiếp ở dưới mà đọc.

Cổ: Ở đây là nói thời Tây Tấn, Ngũ phẩm về trước và quan trọng một châu được ngồi. Đại phu là Thượng đại phu, trung hạ đại phu cũng không được.

Đều ngồi dưới đất: Lễ xưa đều như vậy. Đến nay ở Bắc Tấn vẫn còn. Cho đến đời Tấn, Thất-la nổi loạn đến Đông Tấn hạn chế không cho phép nên chung cả thứ dân (dân thường). Nay ba sau bình phẩm không thể được. Hai câu đầu chỉ thời gian dùng, sau cũng cho phép, nhưng rồi hạ đoạt.

Nói không tiện; hoặc do ngồi đứng trái nhau khó biết, hoặc quỳ nhận thẻ, sự cần phải lớn nhỏ. Nay phần nhiều quỳ trên giường. Hoàn toàn không phải là nghi cung kính, thường thấy các ngu tăng nghiêng mình đứng dựa, chống cao một đầu gối nhận thẻ, việc nầy trái với quy tắc, hổ thẹn đến như vậy.

Vì thế, Trong Tỳ-kheo-ni Sao nói vào giảng đường rồi liền khiển trách lễ Phật trên giường, cũng là ý này. Tùy có dặn dò suy tính, nhưng trong phải giải thích tướng.

Chỗ đất thấp, ẩm ướt cho để giường làm lễ nhưng chỉ cao tám tấc, chỗ khác thì không cho. Duyên này không thể nhất định, vì thế cho tùy chỗ.

Trong phần chúng đầy đủ y theo trước: Tức trong luật Tăng-kỳ, Tứ Phần.

Trong phần cáo bạch cho phép lược pháp khiến cho bạch vào thời tiểu thực.

Thượng tọa bạch: Văn luật chánh chế, nay đương thời thực hành khiến cho phép dùng. thời nay Duy-na bạch rồi, Thượng tọa y cứ trong phần lược pháp, văn lại thêm phần khuyến khích, cũng có thể cho phép thực hành. Nhưng lời sách tấn chúng phải tùy cơ kích động thời tình, không cần phải cẩn trọng.

Giềng mối của tăng: Trước nói mỗi sáng nói, khiến cho biết xem xét tăng chúng. Đích thân vị Thượng tọa xem xét việc làm v.v…

Trong phần nhóm tăng, khoa trước nói nhóm hết, không hạn cuộc v.v… tức lớn nhỏ đồng thực hành pháp. Sau y cứ hai chỗ tập trung tức pháp riêng. Cả hai nói tướng kia khiến cho thông hiểu, cũng như nói xem xét.

Khoa kế, trước nói chỗ tập trung: Tức ở ngoài giảng đường đi đứng nên nói bài kệ, tức đại chúng đồng tiếng nói đó. Như chép: người đánh chuông nói đều đã trình bày ở trước, đâu đợi tập trung đến trước giảng đường mới cho nói ư?

Lại trong Nghiệp Sớ chép: Luật cho tịnh nhân cựu trụ đánh: Đây gọi là tăng pháp chế, chẳng phải là cụ đạo làm, ắt không phải hai người, sai tịnh nhân nói lợi ích.

Lại trong văn nói nghe kệ chuông, đâu có thể tánh? (có người cầm. Duyên khởi là A-nan khi đánh tiếng chuông. Nói kệ rằng: Đây là người đánh nói, lại đổi chữ Văn thành chữ Manh).

Phá hạ, từ trong các kệ nương nhau không phải, người tuy tụng nhưng phần nhiều không rõ lý văn, lược soạn khoa giải thích.

Hai kệ nghe chuông, kệ đầu nói sự dùng, kệ sau nói thời gian.

Trong kệ đầu, nửa trước nói công, nửa sau hiển bày dụng.

Bốn ma quá mạnh có thể chướng thiện đạo, vì thế nói có sức. Dục xâm hại nhau nên nói như oán.

Kiết là kiến hoặc tư hoặc trong ba cõi.

Tận vô dư là cực quả vô học. Câu trên nói nhân cầu, câu dưới nói quả chứng.

Trọng kệ sau, nửa trước nói ý sở lập, nửa sau nói nguyện năng lập. Người nghe pháp gồm cả Thánh phàm.

Nhóm họp là dụ như đi đến.

Vào trong giảng đường, trước nêu bày nghi thức, có ba:

1- Lễ kính 2- Nói kệ 3- Ngồi.

Trong kệ, nửa bài trước nói tự thực hành thành tựu, một câu kế nói chúng thực hành không trái, câu cuối nói đủ hai chúng mới thành pháp sự.

Trong tự thực hành, câu trên thọ lễ không thiếu.

Câu tùy hành không phạm (chữ đại chúng có bổn ghi thanh tịnh. Như kế răn dạy sám hối, như trên tức trong phần tạp pháp).

Cực giáo: Nếu lấy chỗ sâu xa của sự ngăn cấm thì chỉ văn luật, nếu y cứ chỗ chung cực của giáo lý thì chỉ cho Niết-bàn.

Luật kia chép: Ta không diệt độ, nửa tháng đến một lần dặn dò. Đây là lời dặn dò dạy bảo của Đức Phật.

Nói căn bổn: Các pháp sự khác đều là những điều phụ. Có người đối với đây vọng lập kệ hoan hỷ như nói biểu tịnh ở bài kệ trước đã đầy đủ, nhọc gì phải nói lại. Hoặc trình bày lỗi có phạm, tự phải phát lồ sám hối, đâu chỉ xin tăng vui mừng mà thôi. Tập tục sâu dầy can ngăn không bỏ, không biết cải thiện, thật chưa thấy có người đó.

Thứ năm và thứ hai ở trước xen nhau do trước y cứ vào dự biện. Nay, chúng tập trung mới dẫn vào giảng đường, hữu đồng trì hiến), mới hợp với khoa kế, thì không trùng lặp. Trong đây không phải như vậy phần nhiều là dự an, nên khó thông hiểu. Sau lại nói rõ để vật ngồi dưới đất, đây là chiếu để chúng ngồi. Trong tăng thiết lập là nói sau an.

Sáu là nói về hành sự: Trong quán lạc, trước nói xuất chúng.

Năm người: Nay thì một người Duy-na làm thẻ xướng cáo, bốn người cùng giúp việc nước nóng, v.v…

Đủ oai nghi, nghĩa là khoan thai kính cẩn, không cần phải thiết lễ (thời nầy xuất chúng đều lễ ba lạy trở lại tòa ngồi rồi đến lấy vật, đều không phải là nghi chính).

Duy-na tay sạch cầm: Thượng tọa rửa tay y theo văn, Duy-na làm đó. Nay phần nhiều tuổi nhõ nghĩa cũng không rõ ràng. Thượng tọa rửa thẻ, đều nói kệ nghĩa là cả chúng đồng âm, nay do Duy-na xướng việc thay đổi.

Trong bài kệ, nửa trước Thánh phàm hòa hợp, nói chỗ tập trung, nửa sau pháp sự lợi sinh chỉ bày việc làm.

Duy-na tự rửa: Trong Tỳ-kheo Ni-sao nói Thời nay phần nhiều Thượng tọa rửa thẻ, ở đây không phải là nghi cung kính. Y cứ theo lý thì tuổi nhỏ thay thế rửa không tội, nay cho phép dùng.

Trong phần hành thủy, khiến nhờ tuổi nhỏ: Nay tìm hai người lo việc nước nóng này, hai người lo việc giặt khăn sạch. Văn kệ, câu trên khen công đức của nước.

  1. Thanh tịnh
  2. Không hôi dơ
  3. Nhẹ
  4. Mát
  5. Mềm mại
  6. Ngon ngọt
  7. Uống vào được điều hòa.
  8. Uống vào không bị bịnh.

Câu kế hiển bày sự dùng. Bên ngoài thì đức của nước dùng để rửa sạch nhơ uế, bên trong thì nước để rửa sạch tầm trần (tâm dơ uế). Câu ba tự mình thực hành, câu cuối giáo hóa người khác đồng như mình. Quán công ngoạn phản, trong phần giặt khăn hai tay là nói thuận tiện và dưới nhân đổ nước nóng vào khăn, đồng với pháp trên.

Trong bài kệ nước nóng: Câu đầu nói sự dụng, đã nhờ sự nêu pháp để lập lời thệ. Hai câu kế nói quả đức lâu xa, câu trên nói pháp thân gồm đủ hai điều lý và sự, một câu hai đức có thể hiểu, câu cuối là nhiếp sinh.

Đồng thể là hai lợi tự, tha. Hội tức chứng.

Pháp giới khác nhau đồng quy về một thể nên gọi là Dung.

Lại giải: Nước sạch (tịnh thủy) tiêu biểu cho dứt ác, lại làm nhân hạnh; nước thơm tiêu biểu cho tu thiện, nêu cầu quả đức, nhân trước quả sau đều gồm lợi sinh.

Chỉ nói kệ: Đời có người làm bậy nên đặc biệt chọn lựa.

Trong phần khiển trách sai: do người xưa khi tụng kinh pháp phải dùng nước nóng thơm súc miệng, đời sau truyền lầm, bèn đến ngày bốtát, có người thường dùng.

Tỳ-kheo-ni Sao nói: Khi lấy nước nóng thơm không được súc miệng nhổ xuống đất, thường thấy nên đánh đấu.

Trong phần xướng pháp tạ thanh chỉ thiên tạp hạnh. Kia nói về thủ phóng đều phải ăn khớp nhau không được trùng âm, v.v…

Trong phần chánh thức nói, đầu tiên là văn hỏi giám hộ: y theo phần bổn tông ở trước, trong văn tuổi nhỏ giải thích đầy đủ, tuy trước đã sai phải bạch chúng, chú thích thiên hộ nói thông trước sau. Thời nay phần nhiều gọi thâu trù là sai, có bộ san bổ ghi rườm rà này.

Lời chú rằng: Văn trên đầy đủ: thông câu thâu hộ.

Thứ hai gọi tập ghi là y theo văn luật xem xét.

Trong phần khiển trách khác, khoa đầu trước nêu xưa, giải thích hạn cuộc, y cứ chỉ bày nầy giải chung, văn nói rằng hiền thánh lại gồm cả phàm phu. Khoa kế trước nêu xưa là sai.

Trước thêm: Nghĩa là trong phần triệu tập ở trước cũng như trước nói Đại đức tăng xin lắng nghe. Bộ Tứ Phần y theo bổn tông mà bỏ bớt. Thuyết giới tự xướng tức vấn hòa chọn chúng. Y cứ bộ khác có thể còn.

Ba luật, Ngũ Phần, Thập Tụng đều đồng, vì thế đã xướng rồi, nên biết trước đã sai khiến.

Khoa sau, trước lựa chọn để nêu bày lý, có hai:

Một nói không hợp với lời xướng trước, hoặc nói rằng không đúng phép tắc. Trước nói y theo văn luật răn dạy. Lấy trong San bổ là các văn này.

Trong phần bạch chúng, trước là hai lần bạch trước, lại xướng chưa đầy đủ: Một là khiến cho biết pháp xưa, hai là gồm giúp tông khác, chính là nêu bày cho đến làm. Không có các nạn là tám nạn duyên khác. Xướng tên rồi: khiến cho chúng biết. Tức trong luật Tăngkỳ chép: Ai nêu hành trù, tăng phải xin thọ thẻ.

Nói đúng pháp: Trước, trong luật Tăng-kỳ khiến cởi giày dép vén y bày vai phải, v.v… Cho nên dặn thọ người tức dữ dục là vì người khác truyền dục, phải nhận thẻ thế, nay người không biết, phần nhiều không làm.

Trong phần Đại tăng trù, khoa đầu có ba:

  1. Đầy đủ oai nghi.
  2. Nói bài kệ.
  3. Nói lên sự cung kính.

[Hàng 20, ô1 trang 23)

Trong bài kệ, nửa trước là khen kia khó được, nửa sau là mừng kia đã được. Câu đầu tức ba đức. Kim cương dụ cho pháp thân vô ngại, tức

Bát-nhã, cũng tức là nương sự để nêu pháp ít có; Câu kế tức hai nạn.

Đắc thân ngộ sơ: Ngộ là không hẳn đều được; đắc là phải do ngộ, nên cả hai đều nói.

Như quả nay là khắc phục làm dụ. Trong Tịnh Tâm Quán chép rằng: Trong muôn loài, thân người là khó được. Như đề nghĩa là kinh nói nay được thân người là khó, như rùa mà gặp bộng cây nổi.

Trong nửa bài kệ kế, câu trên nói đầu đội là thân, vui mừng là ý, miệng nói câu kệ, ba nghiệp đầy đủ, tức tự lợi, câu sau nhiếp sinh. Kệ hoàn thẻ, câu đầu thọ tùy không hủy có thể cầm thẻ, câu kế nạp thẻ vào trở lại chọn thể tịnh. Vững chắc đối thọ tức nêu bày trì giới, hỷ xả đối hoàn tức bố thí.

Lời sớ chép: Không trộm cắp tức bố thí tài, không sát sinh tức bố thí vô úy, hoặc có thể bốn tâm vô lượng lược nêu hai tân. Trong từ bi, nghĩa thấy ở câu sau. Trong không phục tòa đều phải quỳ đến kệ truyền hương rồi mới ngồi nghe giới. Biếng nhác giải đãi bị đọa ắt khó nương. Vả lại, y cứ vào lúc nhận thẻ nhất định phải vâng theo pháp để khích lệ mình thực hành. Trong phần nạp thẻ y cứ văn Thượng tọa thường biết, nay phần nhiều thâu với để báo số, lý cũng chung được. Nay Thượng tọa kiểm số, hoàn toàn không thể nương vào lời khác.

Trong Sa-di trù chung bốn lời xướng trước và phải nói ba lần. Đời nay, một lần xướng rồi sau ba lần xướng tức ba lần nói. Đây chẳng phải là chánh pháp mà xuất xứ từ kẻ ngu tình. Hoặc sợ kéo dài thời gian cho phép các lần xướng sau có thể một lần nói (xướng). Đây là pháp cáo (bạch) chúng không giống như pháp Yết-ma ba lần (bạch tứ Yết-ma) và Yết-ma một lần (bạch nhị Yết-ma) thường định, đơn bạch cũng không hại gì. Vì sợ có đại tăng truyền dục Sa-di nên phải bảo hỏi. Đây nghĩa là giới không đồng loại nên khai đó mà thôi.

Trong phần sáu lấy số, văn đầu rất dễ hiểu, khoa kế xướng pháp y theo bộ Ngũ Phần ở trước. Trước bảo nhân số thượng hạ, kế nói việc làm, Quốc vương, cha mẹ, sư tăng, đàn việt là bốn ân. Tâm nương trong sắc gọi là hàm thức, gồm thâu chúng sinh hiện tượng trong sáu đường. Đều tụng kệ nói lên hạnh thanh tịnh. Trong kinh là tên kinh tuy thông, nay nếu xướng thời nghi thì gọi là trong luật.

Luật Tăng-kỳ, nói nhân Điều-đạt phá tăng tự thuyết giới, Đức Như lai nghe liền nói kệ này, bảo A-nan rằng chúng phi pháp đã bố-tát, nửa bài kệ trước Đức Phật ngăn chế. Câu trên tu thực hành, câu dưới chúng pháp. Nửa bài kệ sau bày hợp số, ứng dụng đúng, hoặc có thể bỏ đi, tiểu chúng riêng hành pháp Sa-di tập trung tự làm thẻ, đã sắp giao 86 trong tăng, đều hợp xướng.

Trong phần bảy thỉnh sư, trước nói Phật dạy, tức văn Ngũ Phần ở trước, khoa kế, phần đầu thứ ba thỉnh Thượng tọa. Trước nói Duy-na thỉnh, sau Thượng tọa đáp, có thể hay không thể hai lần đáp thư trong văn. Xuất xứ từ “Từ lâm cơ tài độ”. Nay phần nhiều tụng là tuổi nhỏ mạnh khỏe cũng xưng già bệnh, thật là không nên. Tức trở xuống lần thứ hai thỉnh thứ tọa, nếu từ chối thì lần thứ ba có thể sai: Trước dự nói lại nghi, đây là thường viết.

Trong phần ba, trước nói đến báo, kế chỉ bày hai tòa, khác thì không cần hỏi. Theo trong Tăng-kỳ, trước nói hoặc Thượng tọa hoặc thứ tọa nên tụng, v.v…

Trong phần bốn, cúi đầu tức là nói cúi đầu sát đất.

Hòa Nam Tây Ngữ nêu ra cốt yếu luật nghi dịch là cung kính.

Trong phần cung kính, văn trước không cao tòa, chỗ giới sư ngồi. Thánh tăng là người truyền lời dạy của Đức Phật, để Thánh phàm đồng bẩm thọ theo, cũng dự như người sứ nhân sắc lệnh của vua, dù trăm quan tuy quý nhưng ai dám khinh? Khoa kế, gồm nêu sự nghi.

Tiểu là cúng dường, vả lại y cứ vào xuất gia nên đây nêu trước. Nếu nói về hành sự như sau sẽ nói rõ. Nếu giải thích riêng tiếng Phạm, trước dẫn chỗ y cứ, nêu danh nghĩa. Hai chữ như thử là chỉ tiếng Phạm, hoặc dư chữ như không rõ chỗ não.

Chữ Bệ cả hai đều dịch tên kia, giải thích riêng nghĩa đoạn, dùng ý để dứt duyên bên ngoài, tức y cứ nội tâm thì có khác nhau. Trong phần ba, trước sái tán thuận sau sái tán nghịch. Khước hình tức quay lại (lùi lại). Sau nêu ra chữ câu hợp ở phần đã nói trước. Đức Phật ở tại điện Phổ Quang Minh giảng kinh đó, kệ khen Bồ-tát, nửa trước chỉ sự dụng, nửa sau nêu bày việc đã làm. Trong phần bốn, trước nêu chánh nghi. Ba là niệm hương cúng dường Tam bảo. Hướng về Thượng tọa là tiêu biểu; sau nói kệ. Trước Duy-na xướng, nay chỉ cho điều nêu ra.

Chỉ quảng: Văn nầy đã mất không thể tìm được, trở xuống dẫn kệ, nửa trên nói người cúng dường (năng cúng), nửa dưới nói người được cúng dường (sở cung). Trong nửa trên, câu trước nương việc dâng hương đó tức nêu pháp cúng dường. Tuệ hương và tri kiến giải thoát gồm thâu, đây là năm phần đầy đủ (hương giới, hương định, hương tuệ, hương giải thoát, hương giải thoát tri kiến).

Thứ bảy nói: Câu không thể vọng thân (do tuệ được giải thoát, do giải thoát có tri kiến, nêu giữa tức gần trước sau).

Trong phần được cúng dường (sở cúng), câu trước nói thượng cầu, câu sau nói hạ hóa. Niết-bàn tức vắng lặng, là quả đức. Duy-na nói phục vị có thể thấy.

Trong phần hỏi duyên, văn trước nói y cứ trên, tức phần tạp pháp ở trước, hoặc khiến cho cung kính hoặc khiến cho nghe thẳng, hoặc không lầm lộn, v.v… (có bổn y cứ thượng hạ thêm chữ Pháp), hoặc có thể chỉ tựa giới bổn ở trước; văn sau chỉ cho pháp khác nhau. Kia nói các pháp lễ tăng quỳ, Thượng tọa răn dạy: đây là nói chọn chúng. Chẳng những Sa-di, hoặc ni, ba chúng tục sĩ chiêm lễ đều phải khiển xuất. Và mười ba việc, ba cử, hai diệt có phạm, v.v… nói về ba căn.

Quý cũng cầu giảng luyện, hoặc khiến người không biết pháp phát lồ sám hối. Chỉ sai Sa-di, cư sĩ tùng thính tạp uế, cùng nghe pháp luật sai trái rất khinh dễ.

Trong phần hai, nếu có nói thì đáp rằng thuyết dục và thanh tịnh. Trong phần ba lời triệu hỏi. Nếu y cứ giới bổn xưa nói rằng chúng Tỳkheo-ni sai người nào đến? (236) Nay y cứ giới bổn xưa của Quang sư mà hỏi. Chữ thùy cũng tức gọi ni chúng. Trong phần lược pháp, khoa đầu pháp nghi có thể hiểu, khoa kế ni chúng quỳ, tăng thay nhau quỳ. Như Tam Thiên oai nghi, kinh Viên Giác, v.v… đều nói quỳ thẳng, há chỉ có ni ư? (Xưa nói quỳ thẳng, tiêu biểu cho ni là lầm).

Nói biệt đức là dạy ni phải có mười tính chất tốt.

  1. Có hạnh trì giới.
  2. Học rộng.
  3. Tụng hai bộ giới bổn lanh lợi.
  4. Quyết đoán vô ngại
  5. Khéo léo nói pháp.
  6. Dòng họ xuất gia.
  7. Dung mạo khôi ngô.
  8. Có thể vì ni chúng nói pháp, khiến ni vui mừng.
  9. Không được đầu Phật xuất gia, đắp ba y mà phạm tội trọng.
  10. Hai mươi hạ hoặc hơn.

(Thứ 8, 10 tuy hạn cuộc dạy ni gọi là đức riêng, còn lại gọi là đức chung).

Trong phần ba, trước lãnh thọ lời dặn dò, lại bạch Thượng tọa chánh nêu ra pháp đáp.

Lời sớ chép: Do thấy người không học thức tuổi cao tòa thủ, không phép tắc, không sai ni, lại không đối đáp [hàng 11, ô1 236] người học thức đều hổ thẹn nên dẫn đó, trước khen ngợi đại chúng.

Hà thí là nói đức có dư, trở xuống khiến truyền lược giáo, trong lời chú giải, đầu là chỉ bày trước, còn lại là chỉ sau. Tức trong thiên của ni lại dẫn văn các bộ Thiện Kiến, Thập Tụng, Tăng-kỳ, v.v… tìm đó sẽ thấy.

Trong phần pháp nói rộng thời gian ít có: Trong thiên của ni nói do đức rộng khó đầy đủ.

Trong sự tông, khoa trước văn chú giải khiển trách Yết-ma xưa. Nói thông dụng là hai tên không khác nên không rõ. Kia, đây là tiếng Hoa tiếng Phạm đều nêu, cho nên trong thiên Yết-ma nói, không được khiển trách sai, trong văn sẽ thấy. Khoa kế, trước là lời văn dạy, chỉ bày khuyên quy y. Luật nghi tức chỉ cho lời răn dạy ở trên nên sau chỉ chứng.

Vân vân: Là quyển 3, do khi bố-tát A-nan không đến, sau đến rồi liền bỏ chúng đi, mọi người đều không biết. Do đó, bạch Đức Phật chế pháp Thượng tọa. Nên biết ngày 1, 1 bố-tát hoặc tối hoặc sáng, hoặc phải biết chỗ, hoặc ở trong thất, giảng đường, rừng. Lại phải biết tụng năm thiên giới cho đến bốn việc và bài kệ, còn những điều khác tăng thường nghe. Nên sai người xướng thời, xứ trước nên sai người quét dọn, ai nêu chú nguyên hành trù (ở đây chế biết thuyết giới). Lại nên biết khi thuyết giới, đàn việt đến thì phải nói pháp cho họ nghe, cùng nhau an ủi thăm hỏi (đây chế biết thuyết giới), cho đến Thượng tọa thứ hai cũng vậy. Rộng ghi trong văn đó.

Mười thuyết đã xong, khoa đầu lại đánh chuông vì không có tiểu chúng, cũng không cần tiểu chúng.

Hoặc nói tiếng Phạm, tức hai câu kệ sau ở cuối bài tựa giới.

Thần tiên có năm thần thông là người làm ra chú thuật (đây là nêu thế gian để dụ). Vì kia hổ thẹn là nhiếp các người không biết hổ thẹn (thiện nhiếp ác).

Như lai lập giới cấm nửa tháng tụng một lần (hợp với dụ trên) đã nói lợi ích của giới. Cúi đầu lễ Chư Phật (là hồi hướng quy kính).

Tỳ-kheo-ni Sao: Nếu không hiểu, cũng được nói lý do, vì việc dừng nghỉ ở trước. Kia trở xuống nhân chỉ bày lời chúc tụng ở trước, tức hai kệ đầu trong bài tựa.

Cúi đầu lễ Chư Phật và pháp, Tỳ-kheo tăng (quy kính Tam bảo).

Nay nói pháp Tỳ-ni, khiến chánh pháp còn mãi (nói rõ bổn ý của câu quy kính trên).

Ưu-ba-ly là Thượng thủ và các thân chứng khác (nêu chúng kiết tập để làm chứng tín).

Nay nói yếu nghĩa giới, các hiền cùng chung nghe (nêu việc răn dạy chúng). Phần nhiều thấy văn tụng sai lầm. Lại không hiểu nghĩa lược làm chú giải. Luật chế không được chúc tụng một nửa. Nay hoặc chỉ tụng Ưu-ba-ly trở xuống một câu, đây chính là trái với pháp luật. Tuy không phải là tai hại lớn nhưng đâu khỏi không biết (nhưng cũng cần phải biết).

Trong phần hai.

Ba câu trên trong phần ba vui thích gặp Tam bảo, câu sau cứu khổ chúng sinh. Phần bốn đều nói khoan khoái tức là vui. Gặp Phật rất khó nên nói bậc nhất. Được nghe chánh pháp, gần thì ngăn được ba đường, xa thì rõ được hai món sinh tử, nên nói an ổn, sự hòa vô tranh: Gồm lý bình đẳng nên nói vắng lặng. Ba câu trên là tự mình vui, một câu dưới là người khác vui, tức là hai lợi. Chữ an vui trong Tỳ-kheo-ni Sao là giải thoát, thêm vào khiến cho lễ tán. Tỳ-kheo-ni Sao lại thêm hổ thẹn, nay phải y theo mà dùng. Từ trên đến đây mười hành sự đều y cử theo chánh văn. Huống chi kinh Phật nghiên cứu rõ ràng, nay các luật tự sửa đổi, chấp sai cho là đúng, đúng cho là sai. Đây là do không tìm xét kỹ càng, lại từ vô minh thức hoặc phần nhiều khinh thường phế bỏ không thực hành. Dầu có thực hành nhưng việc làm đó như thời khóa nhàm chán. Duyên trần đáng bỏ lại không nản mà còn hăm hở, chánh pháp đáng tôn kính thì lại sinh tâm lơ là. Dây nghiệp càng chắc thì biển khổ càng rộng, táng mất tánh linh thiêng, thật đáng thương xót.

Trong tạp tưởng trước nêu hành sự, lại y cứ một đường, việc khởi nắm chắc thời cơ cần gì thuật hết. Lược thì thiếu, thêm vào thì nhiều. Đây là tổng quát các khoa khác nhau ở sau. Ý thuật tắt trong văn sẽ thấy.

Trong phần cáo tịnh chỉ dựa theo ba câu hỏi sau trong tựa văn xuôi để làm phần chừng. Đầu là trước hỏi không đáp, sau là tự hỏi. Trở xuống nói: Hỏi sau phải đáp. Lại trong phần ba, trước ngăn cản thuyết giới, giới sử tự dừng, nghĩa là người biết pháp không cản phải quở trách. Nghĩa là người mê giáo đợi nói cáo tịnh, đợi ngồi, tự ngữ chung trước sau. Y cứ theo nghĩa thì nối tiếp phần trên là tốt, y cứ vào câu thì mốt dưới là thuận tiện rõ ràng.

Một người bảo: Vì sợ trở ngại tăng. Nếu có trở xuống là nói phát lộ.

Theo thứ lớp nói: Tiếp phần chỉ xứ ở trước. Cho phép ở đây không nói hòa lại. Do trình bày tịnh nhân ngồi tòa thân tướng đã bày. Thời nay có thực hành lược hòa, chưa thấy nêu ra. Trong khoa kế phần nhiều giống nhau. Cần nói lại: Chế chủ theo khách, nếu ít thì không cần, hoặc ra ngoài giới nói, hoặc đến chùa khác, Chế khách theo chủ, đây nếu nói rồi thì thôi, chưa thì tùy người đến bảo thanh tịnh rồi cùng nghe, không nhọc gì phải nói giới lại (khoa trước nói khách theo chủ là sai). Như tên khác pháp trị tội Đột-cát-la.

Trong phần ba đối phạm không nói, đây là ngăn giới sử. Hoặc khiến cho phát lộ sám hối hoặc gia trị đuổi đi. Việc làm phải nắm chắc thời cơ. Như có Tỳ-kheo phạm tội trộm cắp, Đức Phật không thuyết giới, song Phật ban đầu tự nói chúng thanh tịnh, quyết không có người che giấu. Nếu có thì sẽ bị năm trăm vị thần Kim cương cầm chày đập vào đầu người đó. Giao đệ tử thì không tịnh uế, cho nên biết phải y cứ ba căn không lạm, có thể đáp, tức đồng với luật luận.

Trong phần bốn gồm các phần đã nêu như nói là: Chùa nào đó, ni chúng ở chùa đó hòa hợp, tăng sai Tỳ-kheo-ni nào đó, sau tổng kết mỗi nửa tháng.

Trong phần năm nói người nầy tức nói người gần tòa cao. bỏ chữ linh, nghĩa là ngôn giáo. Y theo đây, trước phải dặn dò một người, không ngăn lỗi, nay phạm nhiều lỗi nầy, cần phải cẩn thận.

Trong phần sáu, văn trước thuyết giới bỏn chế. Cuối cùng không thể được mới tụng kinh pháp.

Lời sớ chép: Sở dĩ thứ lớp là vì giới chế, phụ tướng thiết yếu dễ trì. Kinh thọ tâm thức nương gá hư không khó nhiếp nên tùy thời mà chế. Khinh trọng không thứ lớp đều đến mục đích kia.

Trong văn ba vị: Trước là tụng kinh pháp, lời thông suốt không trúc trắc, nhưng phải có hạnh môn nền nếp răn dạy những điều thiết yếu, phù hợp với thực dụng ngày nay nên nói rằng những lời răn dạy khác. Nay trong tạng lược lời răn dạy cũng có thể nương lời tụng (xưa nói ba ngàn oai nghi: Văn rườm sự toái, do đâu có thể tụng. Lại nói quyển sau khiến tụng kinh Thắng=man để rõ thường thời thọ trì, chẳng phải khi thuyết giới mới tụng). Như hoàn toàn thứ lớp khiến nói kệ tức lược lời dạy của ngài Ca-diếp.

Lời chú giải chỉ bày giải thích kinh A-hàm, quyển hạ dẫn rằng:

câu trên giới đầy đủ hạnh thanh bạch, câu kế tâm ý thanh tịnh, câu ba trừ tà điên đảo, câu cuối diệt tưởng ngu hoặc. Như phần sau không lược lời răn dạy, đây nói ý luật chưa chắc ngu muội mà đến nỗi như vậy. Muốn rõ bổn nhiếp tăng trụ trì, cốt yếu không phế bỏ nên phương tiện chỉ bày.

Khoa kế, trước hiển bày lợi ích sâu xa. Phật dặn dò tức chế pháp sau khiển trách người đời không thực hành. Trước chỉ bày không nhiễm, sau nêu lỗi thức ô nhiễm là nguồn gốc của sự khinh khi chánh pháp. Do nhiễm đời không nghe chánh pháp, đã mờ tối. Huống chi khởi tâm khinh khi lại vời lấy tội lỗi, muốn cho trở lại bổn tánh có thể được chăng? Đối với chưa từng nếm mùi vị, lại chứa điều ác càng sâu, thì cách đạo càng xa.

Đại pháp là nói chung giáo pháp của Phật.

Xuất gia không có lợi ích: Vì trái với bổn ý.

Miệng trở xuống là quở trách lời nói và việc trái nhau, thầy trò dứt nghĩa, theo ngoại đạo cũng chẳng nên hay sao?

Trong Cao tăng Truyện chép: Đời Tùy, ở Đông Châu, Pháp sư Tăng Vân ở chùa Bảo Minh, vào ngày 1 tháng đến lúc thuyết giới bèn bạch chúng rằng: Giới vốn ngăn ngừa điều ác, mọi người đều tụng được, nhọc gì chúng phải thường nghe, hãy nhờ một vị tăng nói nghĩa qua loa, sau sinh khai ngộ. Đang lúc đó chúng không dám chống lại, đến cuối hạ bỏ việc thuyết giới. Đến rằm tháng 7 lên tòa, bỗng không thấy Pháp sư trong đám đông đó, đại chúng vội chạy đi khắp nơi tìm kiếm, liền thấy Pháp sư ở trong gò mả bên cạnh chùa chứng ba dặm, khắp thân máu chảy như bị dao cắt, hỏi lý do vì sao như vậy, Pháp sư nói rằng: Có một đại trượng phu tay cầm dao dài ba thước, vẻ mặt giận dữ, biến thành làm Bồ-tát, cầm dao chặt thân hình đau đớn không chịu nổi. Do đó trở về chùa dốc lòng sám hối. Trải qua mười năm thuyết giới Bồ-tát, đến lúc qua đời có mùi thơm lạ thoảng xông, thần sắc Pháp sư không thay đổi, vui vẻ mà thị tịch. Đây chính là bậc Thượng trí, vì thế động đến chốn u minh quở trách như vậy. Thời nay kẻ hạ ngu không hiểu được sự linh nghiệm này. Dầu khiến thường bỏ bố-tát mà vẫn tự an nhiên. Thật đời pháp diệt đáng than thở.

Trong phần bảy, trước giảng nói thiên đầu. Tăng trở xuống là chỉ bày chung các tụ giới, nếu y cứ về nghe giới thông tắc thì sáu tụ đều đồng. Nếu luật biệt chúng thành, không thành thì cội gốc, nhánh nhóc hai loại khác nhau.

Như luật hiển bày tức như giới bổn có phạm thì sám hối, không phạm thì yên lặng.

Trong phần tám, hai đầu nói đối thú sám hối. Nói đối chúng nghĩa là đối trước chúng làm pháp sám hối. Trong luật nói: Phải đến trước một Tỳ-kheo thanh tịnh đầy đủ oai nghi nói tên tội mình đã phạm, bạch rằng: Bạch Đại đức nhớ nghĩ! Tôi là Tỳ-kheo… phạm tội… nay hướng về Đại đức phát lộ sám hối. Sau đó đúng như pháp mà sám hối (nói ba lần khi thuyết giới. Nhớ phải dùng pháp gì, lúc khác y như pháp sám hối).

Lại trong luật, Tỳ-kheo đối với tội đã phạm có nghi, lại vì thuyết giới gấp, Đức Phật cho nên phát lồ rồi mới được nghe giới, cũng đối trước một vị Tỳ-kheo nói: Đại đức nhớ nghĩ tôi là Tỳ-kheo…, đối với tội đã phạm sinh nghi, nay đối trước Đại đức phát lộ, sau không còn nghi, đúng như pháp mà sám hối (nói ba lần, y theo lời chú thích trong Yết-ma).

Sợ trở xuống hai là nói tâm niệm. Lại trong phần hai, trước nói biết tội pháp. Trong luật là ở trên tòa nhớ nghĩ bổn tội, nếu hướng về chỗ gần bên sợ làm động chúng, luật cho phép tâm niệm phát lộ nhưng không nêu văn lời sao lập nghĩa. Y theo tựa Yết-ma thuyết giới thêm một câu: Vì sợ làm động chúng, cũng phải nói ba lần. Nhược trở xuống nói pháp nghi tội. Nên nói rằng: Con v.v… đối với tội phạm, v.v…. Sinh nghi, còn những lời khác thì đồng.

Trong phần bốn lược pháp, nêu: Tạp là y cứ theo lược thì thuần, nhưng duyên và pháp đều có phần nhiều khác, nên nói tạp. Trong duyên bổn tông tám muôn và duyên khác nghĩa là nếu y cứ hai tên duyên và nạn không hạn cuộc, thì nay phải lựa chọn để nêu, nặng thì gọi nạn, nhẹ thì gọi duyên. Nạn vua: Trong lời sớ nói rằng hoặc tướng sĩ, binh lính giữ chùa. Người bệnh trở xuống trong duyên xen nhau, tạng khinh nên chia ra, phi nhân tức quỷ thần làm não, trùng độc gọi chung là súc sinh có thể gây ra chết người, nhân nạn dẫn trong luận giải thích, đây y cứ người thường không đồng như giặc. Các duyên khác gồm thâu không hạn cuộc, nên nói duyên khác vả lại tám tướng, đều dùng chữ nhược, hoặc để lựa đó. Bốn tướng trước chung cho ngày đêm, bốn thứ sau chỉ hạn cuộc đêm.

Hạ trở xuống nói chưa xuất là chỉ kết bốn sau. Nên lược nói là kết chung tám thứ trước. Trong bộ khác, khoa đầu có ba. Luật Thập Tụng y cứ duyên đạo hành, sau chế khai một rộng, ba lược. Trong phần lược trên là chúng pháp, khai tâm niệm, trong hành chung lại có duyên, nên chế trước cư sĩ sợ nghe chướng giới, là giúp người khác. Cho đến trở xuống là lợi mình. Nếu nói về tâm niệm, thì nói không rõ ràng không thành tác pháp. Có duyên nên khai không có gì lạ. Bố-tát thuyết giới, là Hoa Phạm đều nêu. Trong luật Ngũ Phần có bảy duyên, trừ cỏ cây, gai góc đất bùn còn khác thì đồng với luật Tứ Phần.

Luật Tăng-kỳ có năm duyên; bị ép ngặt, trời tối, khách từ xa đến ba duyên này không đồng với Tứ Phần.

Trong phần đối thuyết, bộ Thập Tụng nói nạn vua khai thuyết tức duyên khởi từ vua Bình-sa, như trong thiên Yết-ma dẫn. Trong Luật Ngũ Phần nạn sự giống trong luật Tăng-kỳ. Kia vì đột nhập nghe pháp, không vì đó nói sợ thân khổ não, chế khiến cho đổi cách tụng. Trong nghĩa lập hai duyên lạnh nóng không nêu ra các lời dạy. Lý phải khai, nên trước chỉ duyên y cứ, trở xuống bạch chúng vui mừng hướng dẫn. Nói đông lạnh là văn thoát, bổn xưa nói mùa đông lạnh, mùa hạ nóng, nên cả hai tùy thời gian dùng riêng. Tăng trở xuống là dẫn chỉ bày. Trước chỉ bộ Tăng-kỳ nói chế (ngăn) Thượng tọa, kế dẫn luật Ngũ Phần nói ngăn đồ chúng.

Nói Chúc thọ tức dữ dục. Chỗ trống nói tức dữ dục, sợ ở chỗ che kín không có người thấy nghe (có chỗ nói: Ở đây nói thuyết giới khiến Tỳ-kheo khách đến tìm thấy nên văn nói dường như không suốt).

Kế trong phần lược pháp, khoa đầu nói hai món: Đây là nêu hai món thủ và khước. Nêu tên là thủ; trừ tướng và khước. Nói lược là đủ hai nghĩa.

Một trở xuống là giải thích. Trước giải thích nghĩa lược thủ. Thủ tám thiên đề: Như nói rằng bốn pháp Ba-la-di nầy, v.v… kế là giải thích lược khước: Khước là trừ.

Trừ chủng loại tùy thiên: Nghĩa là không tụng trong thiên thuyết giới, chỉ nói rằng tăng thường nghe.

Trên nói tám thiên, dưới nói tùy thiên đều là nêu chung toàn số giới bổn, còn như chánh tụng hoặc nhiều hoặc ít đều không nhất định, (có người nói: chỉ tụng tám đầu đề gọi là lược thủ thuyết giới. Tụng một, hai thiên đầu gọi là lược khước thuyết giới. Khiến đời sau vọng làm, đến nay còn như vậy, như riêng chỗ phá).

Hỏi: Có được lược hết tám thiên hay không?

Đáp: Y mỗi luận nên rộng tụng pháp diệt tránh. Y theo Tỳ-kheoni Sao thì tám thiên đầu đều lược (xưa ghi một ít phần của Đột-cát-la không gọi là lược. Lại có người nói bảy diệt là cốt yếu của dứt tranh cãi nên không thể lược, do Tỳ-kheo-ni Sao đều xuyên tạc mà thôi).

Hỏi: Nay còn bao nhiêu được lược?

Đáp: Nay chỉ nói chung là lược giới, không nói bao nhiêu loại. Nếu nêu tên lược thì gồm hai nghĩa thủ và khước, nếu không nêu tên, như trở xuống cuối bài tựa duyên tức lược, chỉ có nghĩa khước không có nghĩa thủ.

Hỏi: Như tụng một, hai thiên rồi lược các thiên còn lại, giáo lý nầy lược gì?

Đáp: Các thiên đã tụng trước gọi là rộng, văn không nói v.v… là rộng tụng ba mươi pháp Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề, chín mươi pháp Badật-đề. Lại nói, bảy pháp diệt tránh trở xuống như pháp nói rộng, còn 86 những thiên khác không tụng mới gọi là lược.

Hỏi: Như trong Bổn luật tụng rộng một, hai thiên bỗng có nạn duyên xảy ra thì nói còn bao nhiêu giới tăng thường nghe, đây gọi là lược gì?

Đáp: Đã không nêu tên, dừng tụng tức là lược khước.

Hỏi: Như nêu thiên mục lược đến hai, ba thiên bỗng có nạn duyên xảy ra thì nói còn bao nhiêu giới, v.v… đây là lược gì?

Đáp: Trước nêu danh gồm đủ hai nghĩa. Lại nói còn bao nhiêu giới dừng tụng là khước.

Hỏi: Nay có pháp lược là xuất xứ từ đâu?

Đáp: Trong văn nói thời gian thong thả thì tụng rộng ba mươi pháp Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề và chín mươi pháp Ba-dật-đề, đến sau cùng có nạn duyên nói tựa rồi lược đều y bổn tông không nói tựa. Lược y theo chú giải trong Yết-ma, y theo Luật Tăng-kỳ. Chặng giữa mỗi đề kết chung xuất xứ từ một bộ luận, vì thế văn sau nói: Văn bộ Tứ Phần không rõ, v.v… (Xưa ghi ngược lại dẫn trong bổn tông, mười, năm lược phối, càng thêm mê mờ. Chú giải trong Yết-ma cũng ghi: Luật cũng có năm, ba pháp lược, văn không nói rõ, nêu y mỗi luận, nên biết là sai). Do xưa phần nhiều mê mờ, không khỏi phiền phức tỉ mỉ, còn lại thì chưa hết, đầy đủ trong phần giải thích. Trong pháp lược, khoa đầu nói sự tướng hai việc hoãn gấp ở tòa cao. Hoãn thì có thể tiến tới, gấp thì vội vả chăng? Đài y cứ duyên trên nên khiến dạy bảo. (238) Trong văn trước cả hai đều nêu. Hoãn trở xuống là giải thích lại, duyên gấp thì nói chung nhiều món.

Như trở xuống đã nói. Văn đầu trong phần hiển bày riêng, trước chỉ duyên trước tức chín món đầu trong mười duyên. Nói nghi thức cũng đồng phần rộng pháp. Do duyên nhất định, phần nhiều không đến sau nên chỉ trước. Chí trở xuống là chỉ bày pháp lược có ba:

Hỏi: Thanh tịnh chăng rồi tức nói rộng lời tựa trước.

Nên nói trở xuống lược chặng giữa bảy thiên.

Nói mỗi đề là bảy tên nêu riêng.

Kết chung: Đều nói tăng thường nghe.

Bảy pháp diệt tránh trở xuống nói rộng văn sau. Không lược bảy pháp diệt tránh là giới ít, nói lược lại tiếp văn sau vì đây không thể nói. Nếu y theo Tỳ-kheo-ni Sao thì tám đều lược chung, không nhọc gì nói để lầm người mới đến. Cho nên lời sớ nói: Nay có hành lược, phần nhiều không có pháp thức. Duyên hoãn gấp ứng thì đó là cốt yếu. Thường đồ lạnh nóng đã trình bày, có thể nói rộng trước sau (tựa trước và pháp diệt tránh trở xuống) mà trong phần lược đã nói rộng (tức bảy thiên) y theo đây nói căn cứ há là ngu ư!

Luật Tứ Phần trở xuống nêu xuất xứ, trước xét trong bổn luật, không nêu thiên đầu nên nói là không rõ. Nay trở xuống là thủ văn trước tức chỉ cho pháp trên có chỗ y cứ.

Kiền độ thuyết giới của luật nầy, đầu tiên là nói trước rộng sau lược, kế nói đoạn thứ tám. Kia nói khởi niệm này, nay do nạn duyên nên lược thuyết giới. nạn đến còn xa chúng ta được nói rộng, Tỳ-kheoni nên nói rộng, không nói sẽ đúng như pháp trị. Lại nói, tôi bệnh không nói rộng được, có thể nói đến chín mươi pháp Ba-dật-đề. Lại nói: Tôi không nói được đến chín mươi pháp Ba-dật-đề chỉ có thể nói đến ba mươi pháp Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Lại nói: Không nói được đến ba mươi pháp Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề chỉ có thể nói hai pháp bất định. Lại nói: Không nói được đến hai pháp bất định, chỉ nói được mười ba pháp Tăng tàn. Lại không thể nói được đến mười ba pháp Tăng tàn chỉ có thể nói bốn pháp Ba-la-di. Lại nói: Không nói được đến bốn pháp Ba-la-di, chỉ nói được bài tựa giới. Lại nói: Không nói được bài tựa giới liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi mà đi (kế đoạn thứ tám, một trước là nói rộng, bảy sau là lược. Người xưa vọng truyền là bảy lược, một thẳng là sai). Sau nói trước lược sau rộng, ba, năm thuyết giới. Kia nói có năm trường hợp thuyết giới:

  1. Nói bài tựa rồi nên nói tăng thường nghe.
  2. Nói đến bốn pháp Ba-la-di.
  3. Nói đến mười ba pháp Tăng tàn.
  4.  Nói đến hai pháp bất định.
  5. Nói rộng (ba mươi pháp Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề về sau)
  6. Lại có năm trường hợp thuyết giới:
  7. Nói bài tựa và bốn pháp Ba-la-di, còn bao nhiêu thì lược.
  8. Nói đến mười ba pháp tăng tàn.
  9. Nói đến hai pháp Bất định.
  10. Nói đến ba mươi pháp Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.
  11. Nói rộng (chín mươi pháp Ba-dật-đề trở xuống)
  12. Lại có năm trường hợp thuyết giới 1
  13. Nói bài tựa và mười ba pháp tăng tàn.
  14. Nói đến hai pháp bất định.
  15. Nói đến ba mươi pháp Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.
  16. Chín mươi pháp Ba-dật-đề.
  17. Nói rộng (bốn pháp Ba-la-đề Đề-xá-ni về sau).

Luật bổn rất rộng, nay nói rằng không rõ là nói sai chánh dụng, sợ người chưa lược dẫn cho biết.

Trong phần hai y cứ vào nói bài tựa rồi, nêu trước lệ sau, vì thế trong Yết-ma chép: Nên tùy theo chỗ đã nói đến thưa (biết) rằng đã nói đến chỗ… còn bao nhiêu như tăng thường nghe.

Lại sớ giải thích: Tùy theo tụng đến giới nào nạn duyên hết thì sắp xếp lại, không thể chuyển tụng nên biết thông ở sau.

Trong phần ba, đây là nêu trong bộ Tăng-kỳ, cho rằng chưa nói bài tựa không thành pháp lược, phải nói lại. Hoặc đợi nạn duyên hết, hoặc ra ngoài giới, hoặc chúng, hoặc riêng chúng, tùy duyên mà tác pháp.

Trong phần kết đoạn, trước kết khuyên. Nói duyên là chỉ bày nguyên nhân lược pháp. Và kết là trong phần bảy lược trước, hoặc có thể nói rộng hay không nói rộng, cho đến có thể nói bài tựa hay không nói bài tựa.

Đều đúng như pháp trị trở xuống là khiển trách sai. Đầu tiên khiển trách lược pháp trái với nghi. Hoặc trở xuống khiển trách nương duyên không nói. Kế nói trong biệt pháp thuyết giới. Văn đầu luật vì Phật ngăn chúng tăng nói giới, có một Tỳ-kheo không biết làm thế nào, bèn bạch lên Đức Phật, Phật liền chế giới.

Điều độ: Trong luật nói phải trải tòa đầy đủ, bình nước, nước rửa chân, đốt đèn, thẻ, v.v…

Đợi khách đến: Lời sớ nói rằng người xuất gia phiêu bạt không bạn bè thì làm sao có chỗ ở nhất định, gọi là chỗ của ta. Du hóa khắp nơi, thong thả tự tại, tùy chỗ mở mang chánh pháp không hạn cuộc phố xá, chùa viện, hướng đến chùa làm chỗ ở, bốn biển là thức ăn.

Khoa kế trong phần chúng pháp nói biệt pháp mà nêu bốn người là do ở một mình đợi khách bên ngoài đến không có hẹn cho nên nói, không đồng vị đầu thường đồ tăng pháp, đều hành sự lại đồng như trước.

Trong đối thú, văn y cứ ba người, sau chỉ hai người. Trong từ ngữ tác pháp chỉ trừ hai chữ.

Lời sớ hỏi: tăng thuyết giới, một người bỉnh pháp còn bao nhiêu thì ngồi yên. Hạ trở xuống đối thủ đều tiêu biểu cho thanh tịnh.

Đáp: tăng pháp vị mạnh, thành tựu năng lực lớn nên nêu bạch thuyết giới, dùng bốn phương nên khác với người sức yếu kém, tiêu biểu bên trong thanh tịnh ứng với lời dạy trước.

Trong phần tâm niệm thuyết giới, trước nêu pháp. Nhược trở xuống chỉ bày duyên khác. Trên y văn luật, vả lại y cứ Lan-nhã, Sơn hành, xóm làng, không có người nghĩa đồng nên y cứ khai cho.

Văn đầu trong phần phát lồ tội, trước nói tội khinh được sám hối, vì bổn vị đây nói tội trọng không được sám hối nên trình bày dị thuyết khoa kế, đầu chỉ bày văn không. Nay trở xuống nêu pháp. Nói thông giải là thủ nghĩa đầu ở trên. Xét trong phần tự tứ tức cho phép trên tòa phát lộ tức đối nghĩa kế làm hạn cuộc nên nói là thông.

Hỏi: Phát lộ rồi có cần phải ba lần nói bố-tát không? Văn đáp: Không thuyết giới dường như không trình bày lại. Y theo lời chú trong Yết-ma dẫn năm trăm câu hỏi, cứ như trên nói ba lần. Lại y cứ trong lời sớ dẫn luật Tăng-kỳ chép: nếu không có khách thì tác niệm, nếu Tỳkheo thanh tịnh phạm tội thì đúng như pháp mà trừ. Tác niệm rồi phải tâm niệm miệng nói ba lần bố-tát, đây tức hướng đến bốn phương tăng phát lộ sám hối, đại khái như trong tăng, nay nói về Yết-ma và sớ đều tác niệm phát lộ, cầu lời không khác nên y nói ba lần. Đây đã lập pháp tức phải bố tát không nhọc gì trình bày lại. Ngày nay việc đến y lời số thì tốt.

Trong phần ba chép: Hướng về tăng sám hối tức tác niệm phát lộ. Hoặc có thể tội khinh trách tâm liền diệt tội. Ba lần nói nghĩa là tác pháp Bố-tát. Người nói rộng giới là người hiểu biết trì phạm. Nhưng không dạy chế vốn không cần tụng, do soạn ra pháp thì thành thuyết giới, không đồng với tăng pháp bỉnh bạch hòa tăng, không nói thanh tịnh vì tâm niệm đã như vậy.

Trước trong phần đối thú, tội Tăng tàn, tội trọng, Thâu-lan-giá liệt khai phát lộ, như trong phần tự tứ.

[Hàng 13, Ô3 -238)

THIÊN GIẢI THÍCH AN CƯ

Thân tâm đều tịnh gọi là an, thời gian nhất định ở một chỗ gọi là cư (y sớ giải). Tùy thời răn nhắc gọi là sách, ba nghiệp thường thực hành việc lành gọi là tu.

Trên chung cho người và chỗ, dưới hạn cuộc hành nghiệp. Một môn này gồm có bốn:

  1. Y cứ vào pháp có bốn. Đối thú tâm niệm vọng thành và giới.

Lại hai chỗ trong giới, trong vườn, đủ có đôi chiếc thời là bảy.

  1. Thời có ba: Đầu, giữa và sau.
  2. Xứ chung cả hai giới là giới tự nhiên và giới tác pháp.
  3. Người: Gồm năm chúng đều chế chung.

Hỏi: Biệt pháp an cư vì sao là chúng hành?

Đáp: Có ba ý:

  1. Thọ thuyết nguyên nhân thứ lớp an vui tự tứ.
  2. Hạ an cư rồi, tự tứ về sau nhiếp.
  3. Bổn thiên tuy là biệt pháp vì phân phòng thọ nhật đều là chúng pháp.

Trong phần chế ý, khoa đầu tiên có hai. Trước giải thích nghĩa an cư và chỉ bày sách tấn tu hành. Tùy trở xuống là nói nghĩa cư. Số thứ tự nầy thấy trong thiên đề, chữ xứ trở lên huấn chỉ huấn tức. Nhiếp lự chuyên chú là chỗ thanh tịnh. Quán duyên thắng pháp là tư vi (suy nghĩ tinh tế). Chữ vi gần sự và lý. Sự là ghi nhớ vốn đã thọ, tức giới học; lý thì chung vọng mở, chân tức định tuệ, tức tánh không tướng không trong thiên Sa-di; ba quán Duy thức tánh tướng hai không, tức không là lý, Nhất quán Duy thức tức thức là lý, ba món này thực hành gọi là Thánh đạo, không tịnh không tư duy, không tư duy không chứng. Ba thừa (239) tuy khác nhưng nhập đạo đều đồng, vì thế nói là chánh quỹ (phép tắc chân chính). Ước hẹn giới hạn trong mùa hạ không bỏ một tấc bóng thời gian nên nói nương (dựa) vào ngày tính công. Gắng sức răn cấm biếng nhác không bỏ sót một chánh niệm gọi là sách tấn tâm hạnh.

Kế là giải thích nghĩa Cư, câu đầu nói chỗ cần phải làm, tức trở xuống nói trong luận xứ không có năm lỗi. Câu kế nói nêu chí. Tức trở xuống khởi ba tâm an cư, không cho trở xuống nói thủ chế. Tức trở xuống: Ba lỗi, đối chiếu sẽ thấy.

Khoa kế, trước trình bày ý chung, trong luật vì các Tỳ-kheo bất cứ lúc nào cũng đi trong nhân gian đạp chết cỏ tươi, cắt đứt mạng sống chúng sinh, bị người đời chê bai rằng: Côn trùng chim quạ còn có hang ổ, huống chi Tỳ-kheo. Đức Phật do đó chế rằng không được bất cứ, lúc nào cũng dạo đi. Văn trở xuống nói nghiêng lệch.

Ba lỗi: Tự tổn hại mình, làm tổn hại người và tổn mình lẫn người.

Chuốc lấy sự chê bai ở đời: Như duyên khởi ở trên.

Hỏi: Ba thời tình lỗi nhiều ít, trong văn có thể thấy rõ, còn chế có nặng nhẹ làm sao phân biệt được?

Đáp: Mùa Xuân, mùa Đông có duyên sự thì cho phép còn ba tháng hạ có duyên sự hay không duyên sự đều cấm. Lại mùa hạ có pháp kiết, còn mùa đông mùa Xuân thì không có. Lại mùa xuân, mùa đông không kết chỉ phạm một tội Đột-cát-la, còn trong mùa hạ không biết đến an cư mỗi mỗi phạm một tội Đột-cát-la. Lại mùa hạ không hạ an cư thì mất một tuổi. Lại trong hạ chế nương theo luật sư thứ năm còn mùa Xuân, mùa Đông nương bốn vị Pháp sư. Hoặc trong luận trái lại chế ba thời đều phạm Đột-cát-la. Y cứ các duyên trên hoãn gấp đều có thể thấy.

Trong khoa sau, phần ba ở đầu chỉ riêng. Tức trở xuống là dẫn chứng. Cố trở xuống là kết khuyên. Hai câu trên chỉ cho quá khuyên. Ắt trở xuống là y cứ phạm khuyên. Ắt trái v.v… là trái chế trọng. Kết nghiệp triền là trái lý sâu. Trôi lăn trong biển khổ là chịu quả báo lâu dài. Hình phạt thông thường có tên thỉnh trên. Trong luật cho rằng: Điều khoản chỗ đã phạm kia thỉnh riêng bớt tội. Mười điều ác dùng trong luật này là không thỉnh vì nói kia đã nhất định. Nay ngang nhiên trái lời dạy, lỗi đã nêu bày, phải nhập vào khoa phạm nên không đợi thỉnh.

Cực trở xuống là chánh khuyên. Răn nhắc như đây tức luật chế ở trước, khai chương nêu bảy. Đối trở xuống là pháp phụ nên nói ở phần đầu. Còn như năm môn, môn đầu và ba, bốn là nói bổn pháp, môn thứ hai, thứ năm dùng loại tương tùy. Chia phòng ở trước, Ca-đề hạ rồi, kế nêu có thể hiểu.

Trong duyên, khoa đầu chỉ sở y, trước và giữa dẫn luật Tứ Phần. Đầu chọn không phải chỗ. Trong luật chép: vì có Tỳ-kheo đại tiểu tiện dưới gốc cây, thần cây nổi giận, nên Đức Phật chế. Nếu cây trở xuống là nói có thể nương ở dưới gốc cây, là nhà của người tu hạnh đầu-đà, chung cả ồn ào lẫn thanh tịnh, và cử động rất nhỏ, từ ngoài y theo đó mà biết. Trên y cứ vào chỗ tăng ở. Nếu y trở xuống là năm món đều y cứ nhà thế tục. Bốn trên là chỗ ở tạm, một dưới là chỗ ở lâu dài, đều vì có duyên khởi mà Đức Phật cho phép, ở đầu nói có thể nương, sau nói dời đi, nuôi dưỡng.

Xóm làng là gọi chung lớn nhỏ. Cho đến một nhà người nam ở đều gọi là xóm làng. Trong phần dời đi tùy chỗ đến, tùy chỗ đã dời đi của năm hạng người trên. Hoặc có thể người kia dời đi vì thiếu tư cụ, tùy ý của Tỳ-kheo đến đều được. Trong văn không y cứ tịnh ý để quyết đoán được mất tức không rõ, cho nên dẫn năm phần để quyết đoán đó. Văn chia làm hai. Trước nói khai đi. Nói trụ nghĩa là xét kỹ năm nhà kia ở đây, xong hạ mới được nương, nhất định không có ý không thể nương ở. Dời đi sẽ mất hạ. Nếu tại trở xuống là nói không nói nơi chốn. Trên là nêu riêng nạn mạng sống, dưới gồm thâu hai nạn. Kế trong năm pháp: Một là chọn chỗ, hai là tịnh vị; ba là hẹn thời gian; bốn là yếu tâm; năm là nương duyên.

Trong vị luận kia cũng đồng với luật nầy, chỉ có hai vị trước sau, ngày 17 trở đi đều là sau nhiếp. Trong ước hẹn thời gian nói là phá, v.v… nghĩa là đây nói ý sớ đặc biệt lập giới hạn thời gian. Vì ngày 1 còn thuộc về mùa xuân không phải mùa hạ cho nên ngày nay tăng xa phần nhiều phạm lỗi nầy, lầm lộn lẫn nhau, đại khái là do mê mờ giáo pháp. Huống chi chỉ lo các sự cạnh tranh kinh doanh trai cúng. Còn việc kiết pháp không chịu vâng theo, theo tình bỏ thánh, trọng sự khinh pháp, thật đáng thương xót.

Trong phần khởi tâm, sớ nêu ba thứ: 1- Tu trí; 2- Tu phước; 3- gồm cả hai.

Trong năm lại có năm. Y cứ nơi xứ thì chung, y cứ theo tướng thì riêng.

Trong ba thứ, cắn nhai là hại mình, đạp tổn thương là hại vật.

[Hàng 19, Ô2 – 239)

Bốn không thể nương ấy tức Luật sư thứ năm.

Vị trở xuống năm câu tức nêu năm đức: Một y cứ về trao pháp; hai là xem xét hạnh, ba đức còn lại có thể hiểu. Năm là không có thí chủ, nghĩa là thiếu tư duyên, tức lỗi thứ năm, luật Tứ Phần trở xuống chỉ lược, văn tướng đã đồng nên không phiền dẫn lại. Trong ba nạn xứ, trước dẫn trong luật Thập Tụng thường đến lựa phi; kế dẫn luật Ngũ Phần quyết thông được chăng?

Trong phần bạch pháp, trước chỉ rộng, nay nhiếp dẫn.

Luật kia chép: Tỳ-kheo muốn an cư trong mùa hạ ở chỗ nào thì phải đến xem thử có phu cụ chăng? Không có tiếng ồn chăng, không có các nạn như sư tử, cọp sói, trùng độc, v.v… chăng, có thể an cư trọn mùa hạ chăng.

Lại thêm, nên nghĩ an cư chỗ này việc ăn uống được vừa ý chăng, nếu bị bệnh sẽ tùy bệnh uống thuốc được chăng? Lại xem người ở chung có đúng như pháp chăng. Cho đến lúc bệnh có bỏ đi chăng. Lại xem trong đại chúng không có kiện tụng tranh cãi chăng. Không khiến cho ta sinh tâm ác, lời ác chăng. Trong chúng có biết pháp hiểu ba tạng kinh điển chăng. Không khiến cho ta trong mùa hạ có phạm, muốn diệt không được chăng?

Lại nghĩ: Trong chúng đây có vị tăng nào như cha mẹ dạy dỗ con chăng.

Lại nghĩ: Trong chúng không kiện tụng tranh cãi nghĩa là trong mùa hạ không khởi nhân duyên phá tăng chăng.

Trước thọ an cư rồi sau nhận phòng xá, phu cụ, mỗi thứ nên sắm sửa lo liệu đầy đủ, v.v… Nếu có duyên sự vì Tam bảo cho phép được bảy ngày.

Lại vị Thượng tọa trong chúng phải hỏi trong đại giới đã nêu giới mất y, không mất y, chỗ tịnh địa, chỗ bố tát v.v… lại pháp an cư Thượng tọa như trong lời sao dẫn đầy đủ. Cho đến trở xuống là nêu bày pháp. Nay y cứ nghĩa thêm vào giờ tiểu thực, vị Duy-na đánh kiền chùy bạch rằng: Bạch đại chúng! Đã qua một ngày an cư rồi, còn tám mươi chín ngày phải siêng năng tinh tấn, cẩn thận chớ buông lung (ngày khác y theo đây thêm hoặc bớt).

Nhược trở xuống là khuyên nương (y chỉ).

Tăng như cha mẹ nghĩa là đạo nhân tăng mà sinh. nói tăng sư là hạnh từ khuôn phép đó. Văn kia còn rộng nên chú giải, v.v…

Kia tiếp tục rằng: Tỳ-kheo an cư khi tự tứ được làm một việc nghĩa là nói thấy, nghe, nghi có tội. Sau đó làm bốn việc:

  1. Giải giới.
  2. Kiết đại giới, lại có hai nhân duyên phải giải giới: 1/ Nước trôi, hư hoại không thể biết chỗ. 2/ Bị nạn giặc, tăng đều bỏ đi nên phải giải giới (không có duyên sự thì không cầu trở xuống khiển trách xưa cho phép. Trong hạ giải giới là phá hạ. Cũng sợ xưa chấp văn nầy.
  3. Thọ y Ca-hy-na (tức y công đức)… cũng tùy theo khi có, khi không.
  4. Thọ phu cụ.

Thứ hai gồm nói trong ba thời, văn đầu hiển chế tức bổn duyên khởi. Hai câu đầu là nêu lỗi, tức ba nghĩa trên, dưới dẫn văn. Mùa hạ là chế riêng, mùa xuân mùa đông là chế chung. Nếu y cứ hai thời thì ngại đạo. Tuy đồng không tổn hại côn trùng nhiều, chuốc lấy sự chê bai của thế gian cũng ít, vì thế nói là ít lỗi.

Hỏi: An cư là chế mà nói cho phép là sao?

Đáp: Chế cho phép là đối lập, cho phép tức là khai.

Khai cho phép riêng ngang bằng với nghĩa cho phép khai chế chung. Như cho phép xây dựng phòng xá, chứa đồ dư, cho phép kiết giới, cho phép lược thuyết giới, v.v… đây là cho phép tức khai. Như nói là cho phép hỏi mười ba nạn, cho phép y chỉ sư, cho phép bạch thuyết giới, cho phép hành xá-na, cho phép an cư rồi tự tứ, đây là cho phép tức chế. Nay nói là cho phép ba tháng là có đồng chút ít với ý này. Mượn nghĩa để nói cho phép dụ như khiến, nghĩa là khiến cho làm không thể trái. Vì thế, nếu làm thì đây hiểu còn văn khác thì bít lấp.

Hỏi: Trong một thời bốn tháng, y cứ lỗi là đồng, mà không chế hết nên phải hỏi giải thích để nêu ý chỉ lời dạy.

Đáp: Có hai ý.

– Đầu tiên y cứ khai sau đáp, trước an cư thân người là khổ khí, đói khát lạnh nóng tùy thời cần dùng, cho nên gọi là đãi hình. Cho phép chung năm lợi, lại nêu tư tài bên ngoài, đây là ý chánh khai vì thế chỉ nói là y phục.

– Kế y cứ vào khai trước đáp là nhiếp hai vị giữa và sau.

Quá gấp là bắt lấy thời cơ không kịp. Nói nạn thường là cơ hội hoãn không kịp, vì duyên khác hoặc bị ngăn trở không thể hẹn trước.

Kế là nói riêng ba thời. Trong phần nêu, trước kết sau sinh. trước nói một năm ba thời hoãn gấp, sau nói một mùa hạ ba thời trước sau.

Văn đầu trong phần chánh tây, trước nêu ba vị cho nên trở xuống dẫn chứng là thêm ba.

Sớ chép: tăng ba đủ là nói trước, giữa, sau. Y cứ thời gian nhất định chia trước, sau một ngày, trung gian an cư là ngày 29. Khoa kế, trước dẫn văn trong bổn tông tức kiền-độ an cư chép: Phật nói có hai trường hợp an cư là tiền an cư và hậu an cư, tiền an cư là kiết hạ ngày 16 tháng , hậu an cư là kiết hạ ngày 16 tháng .

Tuy trở xuống là nghĩa quyết định, câu đầu xét văn thiếu.

Nhưng trở xuống là hiểu nghĩa đầy đủ. Văn chỉ hai ngày là trước sau (tiền hậu) thì nghĩa phải bao gồm trung gian. Vì thế nói là đối lý tự rõ.

Sớ chép: Trong kiền-độ chỉ nói tiền, hậu an cư đều trong ba tháng thì không có trung gian an cư. Vì thế, Xá-lợi-phất muốn an cư chỗ Phật nhưng ngày 17 mới đến nên Phật chế hậu an cư. Nói theo tướng thì chỉ trước một ngày là tiền an cư, ba mươi ngày còn lại là hậu an cư. Ai cũng hướng về tiền an cư còn lại đều gọi là hậu an cư, nên thiếu trung gian an cư.

Trở xuống là chỉ cho văn kết, vì ba pháp khác nhau.

Khoa kế chép rằng nói chung chung nghĩa là trong đây chính là nói tiền an cư và hậu an cư, nhưng trở xuống ba môn tên đồng mà sự thì khác, do phụ thuộc nhau nên nói là chung chung. Trong phần đầu tiên trở xuống nói rằng được thọ năm lợi dưỡng gọi là thưởng, kết trở xuống nói là hậu. Trên dưới xen nhau trong văn lược bớt.

Trong phần hai, trước nói không kiết có phạm, không phạm. Ngày 16 về sau nói hậu an cư nếu không kiết đều phạm, trừ có nạn sự thì cho khai duyên. Tỳ-kheo-ni đồng khác là chọn chung lạm. Đồng là nghĩa đồng như trước, khác là khác với sau. Do Tỳ-kheo-ni ít du hóa bên ngoài, không dạo đi nên chỉ chú trọng bên Tỳ-kheo tăng.

Trong phần ba, trước nói tiền, cho đến hậu không biết: Tuy chưa

nhàn rỗi gia pháp mà thân đã ở trong giới, vì thế đều thành tiền an cư. Đây gọi là trở xuống nghĩa là nói ngày thì khác mà ngày thọ tuổi thì đồng. Trong một tháng trước tùy ngày có thể kiết nên nói ba mươi ngày an cư.

Hỏi: Nạn sự không dứt đều không kiết, có được hạ không?

Đáp: Sớ chép: Hoặc năm ngày, ba ngày, cho đến một tháng tuy không kiết nhưng không mất tiền an cư, vì có nạn sự không kiết được chứ không phải cố tâm.

Hoặc trở xuống là nói hậu an cư. Người nhập hậu an cư vốn là phải đến ngày 1 tháng 8 mới mãn hạ, nhưng cho phép theo người tiền an cư tự tứ trước. Nay vì nạn duyên ngăn trở, tùy khi nào nạn hết khai làm cho nên chung một tháng, đây tức là ngày kiết hạ thì đồng mà ngày thọ tuổi thì khác.

Hỏi: Tiền và Trung gian hai trường hợp có nạn sự được khai hay không?

Đáp: Theo lý thì lẽ ra là được.

Hỏi: Nếu như vậy trong luật nói có nạn khai tăng tự tứ là sao?

Đáp: Giặc kia là sự đấu tranh ngoài giới, ở đây tức giặc vua, v.v… làm cản trở đều gọi là nạn duyên, tên đồng mà sự khác.

Trong ba phần trên, tiền an cư, hậu an cư, thưởng phạt, trở về trước một ngày là tiền, ba mươi ngày sau là hậu.

Trong ba việc nạn tức y cứ vào an cư, tự tứ xen nhau tiền, hậu.

Trong sớ có sáu trường hợp, ba trường hợp giống như trước. Trường hợp thứ tư y cứ vào tiền hậu, tiền hậu an cư đều là ngày 16, trung gian là ngày 29. Trường hợp thứ năm là nói hành trụ (trụ tức Tỳ-kheo cựu trụ, hành là Tỳ-kheo khách bên ngoài) hai pháp đối thú và tâm niệm Tỳ-kheo cựu trụ và Tỳ-kheo khách đều dùng chung, do Tỳ-kheo khách trước có yêu cầu (lại nói Tỳ-kheo cựu trụ có yêu cầu cũng khai cho). Trường hợp thứ sáu là y cứ pháp khác nhau, tác pháp đối thú, tâm niệm cho phép dự phòng, sợ trái với trước sau, ngay như vậy liền được (y theo sớ sau cũng gia thêm pháp).

Trong hạ nhuần, nêu rằng kéo dài hoặc rút ngắn lại, y theo nhuận là kéo dài, không y theo nhuận là rút ngắn.

Lại trong nhuận có ba trường hợp: Ngày nhiều ít, kéo dài rút ngắn có thể tìm xét. Y theo nhuận có ba trường hợp, đầu chỉ bày văn thiếu, Tỷ trở xuống là hai thủ trường hợp, Tỷ là trường hợp.

Trước dẫn văn trong luận chép: Nếu tháng tư nhuận thì lấy tháng tư trước thọ áo mưa vì đủ một trăm hai mươi ngày, bao gồm tháng nhuần  trong đó.

Kia trở xuống do khai tình huống mà chế, khai hoãn còn y theo, chế gấp nên y theo.

Lại trở xuống ba là giải thích văn nghi, nghi rằng: Tháng nhuận là lúc ngồi không mà thôi, vì không phải tháng chính, trong tháng nhuận ra ngoài giới không phá hạ, vì sao phải an cư tháng nhuận, nên kia chung đó. Nay nói y theo tháng nhuận, tuy trải qua bốn tháng, tháng nhuần không ở trong số ngày chỉ sợ khoảng giữa cách khoảng, ba tháng mới thật hạ nên y theo đó mà thôi.

Kế trong phần không y theo nhuần, trước nêu bày. Ma trở xuống là dẫn chỗ y cứ. An cư rồi mới nhuận nghĩa là lúc mới kiết hạ chưa biết có tháng nhuận, vì thế đếm chung đủ ngày trở xuống nói thọ y. Nói thành thọ là do không y theo tháng nhuần vì số ngày đã đủ, nói không thành nghĩa là hoặc có y theo tháng nhuận nhưng chưa đủ ngày.

Nghĩa là trở xuống: Đối phần giải thích có thể hiểu, trong phần cả hai phán, câu đầu chỉ cho văn trước. Đa luận tuy nói y theo tháng nhuận, già luận văn chung cả hai vì gồm đủ. Câu kế nói dùng cả hai.

Hạ trở xuống là chánh phán, đầu nói phải y nhuần nghĩa là trước biết có nhuần nên theo Đa luận nói, vì không được không y nhuần nên không theo Già luận.

Nếu trở xuống nói thông y và không y theo nhuận.

Nói ngược với trước nghĩa là đầu hạ không biết có nhuần, kiết rồi mới lập hoặc y hoặc không y theo nhuần, tùy người lấy bỏ nên nói chung hai luận. Ở Tây vực tháng nhuận không nhất định, xứ nầy không phải như vậy. Dự biết nêu trong Tây lịch đều là biết trước, nên phải y theo tháng nhuận (xưa cho rằng trước hết có nhuần, y hay không y theo nhuần tùy ý người muốn là sai).

Sớ chép: Tức y theo Già luận, an cư trước đã biết có tháng nhuận, vì vốn biết có nên y theo tháng nhuận, không được thọ y theo tháng nhuần vì vốn không biết có tháng nhuận, đếm ngày thành hạ.

Hỏi: Trong phần hỏi đáp, hai lần hỏi này đều cho rằng do khai có việc nạn mà chế, hai lần đáp không đồng trong văn, có thể thấy.

Nói hai, sáu nghĩa là một tháng năm tháng trung gian nhuận thì tháng hai, tháng sáu. Trong một tháng thì hạn cuộc tháng 7, trong năm tháng gồm gồm các tháng 7, 8, 9, 10 và 11.

Khai phạm được lợi nên nói pháp thái quá.

Hỏi: Áo mưa cũng khai như thế nào để nhiếp hạ?

Đáp: Lúc nóng cần dùng có ích không tổn nên khác nhau.

Trong phần khác nhau nêu là tiến được chăng? Nghĩa là ngày nhiều, ít.

– Đầu tiên nói hai tháng , 6 do trung gian không liên quan đến kiết hạ và giải hạ nên nhất định một vị.

– Kế, tháng nhuần, câu đầu là nêu chung. Tùng trở xuống là giải thích riêng ba vị (tự trở xuống đều y cứ kiết giải để chia đồng và khác, ngõ hầu khiến cho dễ hiểu).

Trong tháng nhập hạ là ngày 16 tháng kiết hạ ngày 16 tháng 7 giải hạ. Cho đến ngày 30 kiết thì ngày cuối của tháng giải hạ. Tháng nhuần ngày mồng một kiết, ngày 1 tháng 8 giải hạ. Nếu nhuận trở xuống nói vị thứ hai. Số ngày nhập hạ nhiều ít không nhất định. Tháng nhuần ngày mồng 2 kiết thì nhập hạ một trăm mười chín ngày, cho đến tháng nhuần ngày 30 kiết thì nhập hạ chín mươi mốt ngày. Vì thế nói chuyển ít (trước cho ngày 29 kiết cũng đến ngày 1 tháng 8 giải). Vượt quá nhuận là giải thích lý do chuyển ít dần ở trên.

Nếu năm trở xuống tức vị thứ ba, đã không liên quan với nhuần trước nên chỉ có ba tháng, ngày mồng 1 tháng kiết, ngày mồng 1 tháng 8 giải hạ, cho đến ngày 16 kiết thì 16 tháng 8 giải (kiết và giải đều ngày 16). Y theo số có ba câu:

– Hoặc có khi an cư cách một tháng (ngày 30 tháng và ngày mồng 2 tháng kiết hạ: đều cách tháng nhuận), tự tứ sụt xuống một ngày (30- kiết, ngày cuối của tháng 7 giải, Mồng 1- kiết đến 1-8 giải, tức sụt một ngày).

– Hoặc có an cư cách một tháng (ngày mồng 1 tháng nhuần và ngày mồng 1- kiết cũng gọi là cách một tháng), tự tứ cùng ngày (đều ngày 1-8 tự tứ).

Như vậy dần dần bớt (nên nói: an cư cách hai mươi chín ngày v.v…) cho đến an cư cách một ngày (30 tháng nhuận và ngày 1- tức là cách một ngày), tự tứ cùng ngày (cũng đồng sáng sớm tháng 8 giải).

* Ba, trong phần tháng 7 nhuần, trước nêu nhuần, trở xuống là giải thích.

Ba tháng đầu trụ, ngày 16-4kiết hạ đến ngày 16-7 giải hạ.

Ngày mồng 1 tháng kiết đến cuối tháng 7 trước bước qua ngày 1 tháng 7 nhuần thì giải hạ. Vì thế nói rằng chưa đến nhuần (kiết giải đều ngày 16). Tháng trở xuống là nói là trường hợp thứ hai.

Ngày mồng 2 tháng kiết đến cuối tháng 7 trước giải hạ thì mới được tám mươi chín ngày, vì thế phải bỏ qua tháng nhuần, lấy ngày 1 tháng 8.

Ngày mồng 1 đủ ngày nghĩa là sáng sớm hôm sau mới ra khỏi giới (tức ngày mồng 2 giải hạ).

Cho đến ngày 16- kiết giải có thể biết.

Sở lập ba câu:

– Hoặc có an cư cách một ngày (mồng 1 và mồng 2 tháng kiết là cách một ngày), tự tứ cách một tháng (mồng 1 tháng kiết hết tháng 7 trước, bước qua sáng sớm đầu tháng 7 nhuần giải; ngày mồng 2 đến cuối ngày đầu tháng 8, bước qua ngày mồng 2 giải hạ, tức cách một tháng). Cho đến an cư cách mười bốn ngày (ngày mồng 2- cho đến ngày 16 kiết), tự tự cách một tháng (mồng 2- kiết đến mồng 2 tháng 8 giải hạ. Ngày mồng 3 về sau kiết thì trước sụt sau thêm, cho đến ngày 16 kiết, đến 16-8 giải, đều cách một tháng).

Còn bao nhiêu trở xuống sẽ chỉ rộng, nay thấy trong nghiệp sớ. Như trên lược dẫn nghĩa sao văn ẩn.

Trong pháp chia phòng, ba thời chia có thay đổi. Nghi thức thường ở Tây Vực là sợ giữ gìn chấp trước, thường không suy nghĩ nhàm lìa thế tục, bạt tình khiển trệ không tôn trọng pháp này. Ở Đông Độ thì không phải như vậy nên không nghe. Hoặc ở chung một nhà như sữa hòa với nước, hoặc ở riêng phòng, chẳng khác gì thế tục. Vả lại, người quân tử thì đời đổi còn kẻ tiểu nhân thì khư khư ôm giữ đất. Huống chi người xuất gia ý chí cao thượng mà ngược lại ôm giữ gốc cây. Than ôi! Đến nỗi khiến cho lời dạy của Đức Phật không còn, hạnh kiểm, lễ nghi thì trụy lạc.

Trong phần chế duyên, trước nói tâm chủ nhỏ hẹp. Lựa khách và cựu trụ nên xảy ra sự chê bai là lý do đầu tiên.

Phật trở xuống là nói chế Tỳ-kheo cựu trụ tự biết, chỉ khiến cho Tỳ-kheo khách nhìn thấy tốt xấu thì dứt sự tranh cãi.

Trong phần hành pháp, văn trước đủ năm pháp gọi là năm đức. Bốn đức trước là y cứ theo tâm gọi là đức chung, vì thông tất cả. Đức thứ năm y cứ về sự gọi là y cứ theo đức riêng, vì tùy theo sự đều hạn cuộc. Thuận theo mình không kết bạn nên không ái; trái với ý mà không ghét nên không nhuế; thông suốt giáo lý không nghi ngờ nên không sợ; biết thời cơ thích hợp hoặc thay đổi nên không si.

Có thể biết phân chia, v.v…: Nếu y cứ về số lượng người thì Đại tăng có thể được còn Tỳ-kheo tội ác và Sa-di thì không thể được. Nếu y cứ về chỗ tức phòng xá có thể, còn các chỗ khác thì không được. Tóm lại, tâm phải thông hiểu pháp phân chia trước sau mới kham lãnh được việc tăng sai.

Yết-ma trở xuống: Dẫn pháp rất dễ hiểu.

Khoa kế, trước xướng cáo năm đức, sau chúng tăng tập trung đồ vật: Tùy những đồ vật mình có đều đem nhập chúng, chỉ trừ giường nằm, tọa cụ, v.v…

Trong phần ba, trước đếm biết phòng xá.

Chủ kinh doanh: Hoặc xây dựng, hoặc sửa chữa lại, tùy ý chọn lựa để thưởng công lao.

Trong thiên bình bát, đồ dùng chép: Tỳ-kheo làm việc kinh doanh xây dựng khi phòng xá hoàn thành rồi chỉ ở chín mươi ngày rồi dời đi, những thứ khác cũng như vậy.

Sau trở xuống hai là y theo thứ lớp phân định.

Nếu có trở xuống nói số người ít, phòng nhiều phải chia hai, ba lần. Vì thế trở xuống nói chia không dùng nên phải để lại.

Hỏi: Đã tùy theo chỗ ưa thích có thể nhận, vậy Tỳ-kheo ở trụ xứ đó thì sao?

Đáp: Trước phải để cho Tỳ-kheo cựu trụ rồi mới phân chia, về lý thì lẽ ra không có lỗi, ý của bổn giáo sợ mê đắm chỗ ở. Nay thay đổi thời tiết thì xứng pháp ở người làm đó.

Nếu ác trở xuống ba là nói chọn người.

Thời trở xuống bốn là chỉ bày nghiêm chế.

Trong phần hỏi đáp, đầu tiên là nạn: Luật chế việc ăn uống không được phân chia thiên vị dành nhiều cho Thượng tọa, không giống như pháp phân chia phòng xá nên dùng ngang nhau.

Trong phần đáp, hai câu trên nói thức ăn đều chung, sau nói phòng xá hạn cuộc nhất định, hai nghĩa trái nhau. Trước nói tốt xấu đã nhất định, ngược với bình đẳng ở trên, tốt xấu rất dễ biết.

Tốt xấu không đồng, nghĩa là chọn tốt.

Hạn trở xuống hai là nói thời gian dài, ngược với trên nói là ngắn.

Kế trong phần hỏi, do vật của hiện tiền tăng tốt xấu cũng nhất định là thuộc riêng, về lý phải lựa chọn mà chế tham thử, vì thế xen vào là nạn.

Xưa nói: Trước do thí vật tốt xấu xen lẫn nhau nhưng sau ghi tên người hiện tiền trên thẻ, khiến cho không thấy vật rồi ném thẻ tới.

Trong phần đáp: Người hiện tiền phải rõ hai món. Như trong giới trộm cắp nói chia đồng nghĩa là chia bình đẳng, câu nầy trái với chia phòng không bình đẳng.

Thông có một phần: Do chưa phân chia chưa thành thuộc của câu nầy ngược với câu phòng xá có chung.

Đầu sách là cách nói khác của từ quăng thẻ mà thôi.

Trong phần tướng khác, luật Tăng-kỳ nói có ba tiết.

Đầu nói có thể được không?

Nếu phòng trở xuống là nói phân lại. Nếu mùa Xuân trở xuống là nói ba thời hoãn gấp. Mùa hạ, phòng xá vì sự nên cho, mùa Xuân, mùa Đông lại thọ dụng chung mà cho, vì thế nói là chung đủ thọ cả hai.

Trong phần bốn cũng như phần ba, trước nói khách đến không dời, giống như trên rất dễ thấy.

Nếu phân chia trở xuống là chọn chẳng phải chỗ.

Nếu có trở xuống là dự định. Trong luật vì có Tỳ-kheo thấy Aluyện-nhã hang cốc tốt liền khởi niệm rằng ta sẽ an cư ở đây. Sau đó, các Tỳ-kheo khác thấy vậy cũng khởi niệm rằng đến ngày 16 cùng đến trụ xứ chật hẹp nầy. Đức Phật cho phép trước phải tác tướng mà trụ, tức ghi rằng Tỳ-kheo… muốn an cư ở đây, nói ở đây dường như không chia phòng. Như hang động, am xá trong núi, chỗ lập riêng đó có thể tự nêu giới nhất định, tăng phòng tự thực hành pháp phân chia. Theo lý thì không có dự định chiếm nên gọi là diệt. Bỏ thì ngại người sau nên diệt tức là trừ.

Ba nói về tác pháp. Trong phần lập giáo có nêu bốn duyên Đối thú, trong bổn chế thực hành bình thường, ba duyên còn khai tâm niệm khai không người. Vọng thành khai phi tâm, cập giới khai chạy đến. Trong phần đối thú, trước đã nêu trong phần an cư, chung cho các giới nghĩa là tác pháp trong giới tự nhiên hoặc xóm làng, lan-nhã hoặc tăng phòng, Tục xá đều an cư chung, nay trở xuống là nêu pháp nay lập. Trong phần xuất pháp, đầy đủ nghi thức, hai là nêu bày pháp, y theo số chia làm tám. Câu đầu là nói sở y, chứng tỏ không có tưởng khác.

Con… là chẳng phải người khác. Y chỗ… là quyết định chỗ đã nêu. Trước đã chọn chẳng phải sau. Trong ba tháng: chung một tháng khác là khai chế. Hạ là trừ mùa Xuân, mùa Đông. An cư là chọn không phải dạo đi. Phòng xá, v.v… là sắp xếp duyên trợ giúp. Nói ba lần là tiêu biểu không lầm lộn. Trên nêu bổn luật, kế dẫn luật Ngũ Phần tiếp tục thành đối đáp. Người kia tức người được được đáp, không buông lung là lời răn nhắc.

Đáp: Thọ trì là nói phải suy nghĩ kỹ, sau dùng nghĩa thân vào.

Trở xuống là dẫn luật Ngũ Phần, bổn tông gồm chế nương người. Y theo điệp từ ý khiến phải chuyên vâng hành. Nay phần nhiều chỉ tụng ba lời không theo từ khác. Theo lý thì nên y cứ theo văn là tốt.

Trong phần chuyển đổi, văn trước y cứ một tướng để rõ. Chỗ đã nhiều, khác nên phải tùy đó mà thay đổi. Nói sắp xếp là chỉ hạn cuộc về tăng phòng không chung những chỗ khác. Bất trở xuống là khiển trách sai. Kia nói rằng nương chung một nước, một thành thì chỗ rộng dễ bảo vệ. Nhưng hạn chế nhiếp tu thì chật hẹp càng tốt. Như trên đã dẫn luật, há không ngại đầu chỗ ngồi dung được đầu gối, đâu có sợ mất mà chung một nước ư? Vì sợ không biết bắt chước nên phải chỉ phá.

Trong phần hỏi đáp, ban đầu có ba, trước chỉ chung chế ý. Trước người trở xuống là nêu riêng ba đời. Nếu trở xuống trở lại nêu bày sai trái. Nếu y cứ theo mùa an cư nhiếp tịnh tu đạo mà lại khiến làm việc kinh doanh là trái với bổn giáo, bậc hậu hiền có trí phải cầu ý chỉ này.

Kế, trong phần hỏi đáp về năm thứ trì luật. Vả lại, y cứ về văn tụng nhiều ít thứ lớp. Nhưng bốn món trước phải giải nghĩa để hiểu rõ về trì phạm mới y theo đó thực hành. Trong phần suy cứu câu đầu là răn bảo. Năm phần trở xuống là giải thích. Trước dẫn chế pháp của Ngũ Phần. Có Tỳ-kheo tức là nói duyên khởi.

Nãi trở xuống là lập chế, đến chỗ kia là nói gần gũi. Nếu phòng trở xuống là nói ở xa hướng về y chỉ.

Nhược dĩ trở xuống chép: Đi đi lại lại.

Gặp duyên sự tùy đó kết thành; thỉnh pháp nhân duyên chớ không phải tâm khinh mạn. Y cứ trở xuống: Vẫn thành tiền an cư.

Kế dẫn chế phạm của Tứ Phần. Tướng tội theo thứ lớp giảm xuống, trong văn có thể hiểu.

Trung an cư, trước là nêu. Luật trở xuống là giải thích có năm tiết. Câu đầu chỉ cho luật, có danh tức thêm ba: Tiền, trung, hậu. Không pháp tức trong kiền-độ chỉ nêu hai vị tiền và hậu. Thế trở xuống chỉ cho xưa. Song trở xuống là nghĩa lập. Hai câu đầu y cứ tên thêm ba, nghĩa là do có ba thời cho nên nêu ba tên, dùng tên để hiển bày thời nên nói là phân biệt. Ba câu kế quyết đoán nghĩa kiền-độ đầy đủ. Vì thế có thể nêu lập chú thích dẫn lượng của bình bát, văn trong luật chỉ nêu hai phẩm thượng, hạ cùng với nay có giống nhau chút ít. Ưng trở xuống nêu pháp đã y cứ về vách núi (hang núi) nên trừ việc tu sửa. Ắt trở xuống là tuy là xưa, những lời chú thích trong Yết-ma y cứ theo luật chỉ nêu hai pháp tiền và hậu. Trong lời sớ, cái gọi là chẳng ai không hướng về tiền an cư vì đều gọi là hậu.

Trong hậu an cư trước nêu sau giải thích. Câu đầu là định ngày. Đồng trở xuống là chỉ pháp giống và khác. Trong tâm niệm là chú thích chỉ bày khai duyên. Đương trở xuống là nói về nghi thức. Trụ trở xuống khiến sửa đổi vọng thành: Trước giải thích danh tướng, thân đã ở trong giới không chỉ có việc kiết thêm. Phật khai thành hạ nên nói vong thành. Luật trở xuống là dẫn bày.

Bốn pháp trong luật thứ lớp thuận nhau, cho nên chỉ cho tâm niệm là vọng, phải quên đối thú, lệ cũng đồng khai. Vì thế biết trở xuống y cứ quyết định. Đầu nêu văn hạn cuộc, vì luật duyên khai bên ngoài đến. Ắt trở xuống hiển nghĩa thông, chỉ y cứ về yêu cầu tâm không hạn cuộc trong ngoài. Trước nói Tỳ-kheo cựu trụ có yêu cầu cũng chung, sau nói Tỳ-kheo khách không yêu cầu lại không chung. Nói vì sự là riêng có công vụ chẳng phải vì yêu cầu.

Trong cập giới, sớ chép: Giới là nhiếp nhập vào giới của tăng, viên là vườn của tăng-già-lam (lam là tiếng Phạm, viên là tiếng Hoa tức là cái sân), ở đây phải lựa chọn.

Nếu tăng-già-lam hẹp, giới rộng và tăng-già-lam bằng giới gồm y cứ về giới mà nói. Nếu tăng-già-lam rộng, giới hẹp hoặc không có giới thì y cứ về vườn mà nói.

Luật y cứ tăng phòng, y cứ nhà thông tục, ở đây gồm thâu bốn thứ.

Sớ chép: Vườn và giới cả hai có đôi và chiếc (nghĩa là vườn và giới đều có đôi và chiếc (hai và một) viên thành bốn).

Hỏi: Chiếc (1) đã đủ thành thì cần gì phải đối mới đủ?

Đáp: Trong luật vì duyên khởi tùy thời cơ hoãn gấp trước hai sau một thứ lớp khai đó. Đã y cứ một cũng thành hai thì vô dụng, do đó trong văn chỉ nói một chân.

Sau chỉ rộng, sớ chép: Sở dĩ một chân vào giới minh tướng xuất hiện thì thành: Do cấp thiết không rảnh để khai không kết thành.

Lại hỏi: Hai chân vào giới thành bại đối nhau, chưa biết một chân vào giới có được xếp vào tiền an cư hay không? (bại là phá hạ).

Đáp: Cốt yếu phải hai chân ra khỏi giới phá do tiện lợi hơn nên nếu một chân ra khỏi thì phá, một chân vào không thành, đều có hại có người tu hành, không gọi là khai chế thì rất có lý.

Kế nói phần chứng, tức bốn pháp trước y cứ vào bốn vị thời, xứ, nhân, pháp gồm thâu vì khiến cho chẳng thông lạm. Đầu tiên y cứ về thời, nghĩa là bốn pháp trên thông tiền, trung và hậu an cư, một thời có bốn thành mười hai. Kế y cứ về xứ thì có giới tự nhiên và giới tác pháp đều thông an cư thành hai mươi bốn. Lại y cứ về người thì có năm chúng, mỗi chúng có hai mươi bốn thành một trăm hai mươi bốn thứ an cư (trong sớ lại chia cập giới là bốn thành bảy pháp, trải qua ba vị thành hai trăm mười món, mô phỏng theo trên sẽ biết). Trong phần y cứ pháp, văn trên bốn pháp đã chung ba thời, không lặp lại ở đây. Nhưng đối với pháp khác nói chung, hạn cuộc khác nhau, nên phải chọn lựa. Trước nói đối thú tâm niệm chung có ba, có thể biết sau nói vong thành cập giới dẫn lời giải khác. Trước giải hạn cuộc khai tiền hậu, trong lời chú Yếtma cũng nêu nghĩa này. Lại trở xuống, kế giải thích hạn cuộc khai hậu an cư. Gồm trở xuống là kết đoạn. Nay y cứ theo ý của Tổ đều chung ba thời. Tùy theo ngày kiết hạ, tùy ngày mãn hạ mà thọ tuổi. Nghĩa là không bị bít lấp nên xem hai lời giải thích, theo gấp thì tốt. Nhưng trong bổn luật chỉ nói bốn pháp không chọn lựa tiền hậu, vì thế nói là đều sai.

Hỏi: Hai pháp vong thành và cập giới là gia pháp phải chăng?

Đáp: Y theo lời sớ cũng phải trình bày, nhưng hạ thành ở trước, gia pháp ở sau, không dùng gia pháp kiết trước.

Lời sớ chép: Vọng thành, cập giới chẳng được sau dùng gia pháp làm gì?

Đáp: Chế khai nghĩa lập thế nào mà không có được (thẳng được là khai, gia pháp là y chế).

Khoa thứ hai trong phần gặp duyên, theo luận thì thọ nhật phải ở trong pháp phụ, nhưng ra khỏi giới gặp nạn, lỗi khác nhau nên ở đây nói mà thôi. Trước dẫn luật khai tức khai hai nạn. Trước gồm nêu nạn phạm hạnh trở xuống là giải thích riêng. Đầu tiên giải thích nạn phạm hạnh: Lược nêu dâm dục và trộm cắp, còn các giới khác y theo đó có thể biết. Đất có phục tùng dung chứa sinh vật trộm lấy thì phạm.

Hai trở xuống giải thích nạn mạng sống. Phật trở xuống chỉ bày khai. Kế là trong phần nói về quyết định, cầu đầu khoa đầu lập trước. Tùng trở xuống chánh chia làm hai. Trước nói cầu xứ y cứ về tâm để nói thành phá. Nếu được suy xét hai là nói được xứ; y cứ về duyên để phân biệt chung và không chung. Pháp tùy theo thân, nghĩa là xứ có trước sau, pháp vẫn nối tiếp. Ra khỏi giới liền phá nghĩa là y cứ vượt qua đêm. Kết thành sau giải nghĩa là pháp đã tùy thân không cần phải tác pháp, chỉ hướng đến chỗ đó tâm dừng trụ gọi là kiết mà thôi.

Duyên và pháp: Duyên tức nạn việc, pháp là thọ nhật. Trái lại, không duyên pháp thì phá hạ. Trong phần lập nghĩa chứng, khoa đầu văn dẫn có năm. Năm chia thức ăn không đủ vì đạo duyên thiếu. Thân ưa thích khổ vui nghĩa là khổ thì sinh buồn phiền, vui thì sinh đắm nhiễm, cả hai đều có ngại cho đạo.

Luật Thập Tụng trở xuống chỉ cho ba văn, luật Tứ Phần cũng vậy, nghĩa là tức như trên người, trâu, v.v… năm chỗ theo đó giải thích. Trong phần nói về luận, trước nêu chung tám nạn đồng nói trong giới. Sớ trở xuống giải thích riêng hai nạn. Không trở xuống hai câu là kết chung các văn. Kế, là trong phần nói quyết định, trước dẫn văn quyết định. Ma-di tức Mẫu luận, chính là nói Ma-đát-lý-ca, Hán dịch là Bổn mẫu, vì thế lời chú trong Yết-ma chép: Tỳ-ni Mẫu cho rằng: Dời hạ không phá an cư, các bộ khác không có văn khai như vậy. Tứ Phần trở xuống là y cứ nghĩa quyết định.

Ba, trong luật dời hạ, đã được thọ y thì thành hạ. Trong Tạp Biện, khoa đầu vọng thành không thọ nhật nghĩa là vì trong phần năm trăm lời hỏi có khai văn nầy.

Hỏi: Dùng lời dẫn đó.

Trong lời đáp, trước nói khai nghĩa là đây thật mê tâm, cho nên khai nhớ nghĩ hối hận, nếu có thủ cầu thì không phải ý của lời dạy.

Nhất tọa trở xuống là chỉ bày chế, do dạy quá hoãn nên phải có giới hạn. Quá ba lần sám hối dầu thật cũng phá tướng chỉ bày nhớ nghĩ hối hận.

Tức phản giới nghĩa là mau thở ra vào bổn xứ, thọ nhật.

Trong phần gặp nạn, sớ chép: Ngay ngày ra giới gặp nạn trải qua một đêm, ắt có duyên này, không có văn khai. Đây nghĩa là có việc, không có văn nên phải quyết định.

Cao Tề tức Cao Dương ở Bắc Tề kia không phải là Tiêu Thị ở Nam Tề. Lúc bấy giờ, Phật giáo rất hưng thịnh, Chiêu Huyền Ty lập luật đức mười vị đề thống lãnh tăng ni trong nước, gọi là Chiêu Huyền Thật Thống.

Hỏi: Đã có chánh lượng đâu được tính theo người?

Đáp: Các sư đã bình chuẩn các văn ở trước: dời hạ và thọ nhật gặp duyên không đến thì không mất, phải chuyên thủ hộ mà chẳng phải lỗi của tâm, xét về tình thì đáng xót thương nên cho phép khai.

Sớ chép: Cao Tề Thập Thống, có lòng thương xót từ bi cứu giúp chung, may mắn, do đó ung dung phạm thì mất hạ, đâu có nghi ngờ gì.

Trong phần nói lợi trở xuống, là sợ cho rằng an cư thân phải ở trong giới, không khai nói hội nên phải hỏi để giải quyết.

Đáp: Dẫn hội y lệ đồng với hội hạ. Luật kia nói y giới không lập thế phần nên thân vào trong giới mới thành.

Trong phần già-lam và giới rộng hẹp, trước nói y giới có hai: Một là minh tướng hiện phá hạ là nói riêng y thành mất. Hai là vượt thủ văn nếu căn bổn trở xuống: Nói thông y không mất, do khi kiết không biết giới khác nên chung kia đây.

Nếu y trở xuống là hai nói y tăng-già-lam cũng có hai:

1- Nói già-lam rộng, giới hẹp hoặc già lam và giới bằng nhau, nói không mất do đã có giới, trước đây y theo giới, nay y theo già-lam nên phải chú thích để rõ. Nếu y giới nội trở xuống hai là nói già -lam hẹp giới rộng hoặc sân riêng, phòng riêng.

Tiểu giới cũng như vậy: Nếu kiết riêng một phòng y, phòng an cư, mà ra ngoài cửa thì liền phá an cư.

Đều nghĩa là trở xuống là tổng kết.

Nói hai mất là y giới, y già-lam đều có một mất, một không mất, tức y cứ về bổn tâm có trái, không trái nhưng chẳng phải nói văn nên nghĩa rộng, giới phần nhiều rộng nên hoãn, phòng hẹp nên gấp, ắt có người dừng nghỉ trong đại giới. Tự ý y phòng bỏ hoãn, theo gấp càng phù hợp với ý chỉ lời dạy. Trong phần gặp duyên bỏ đi có hai nạn tức nạn mạng sống, nạn phạm hạnh là duyên của mình, phá hòa tăng tức duyên theo người. Trong luật nói bổn xứ vì ta ở cho nên phá, giới khác vì ta đến cho nên hòa, vì có hại đến việc quan trọng nên đều khai đó cho. (tranh kiến tranh hoại) ở Tây Vực thì có nhiều còn xứ nầy ít có, nên nói là ít. Thọ nhật gặp duyên, dẫn trong văn, trước là duyên gần. Nếu trở xuống tức là nạn mạng sống. Văn trong luật Phật chế đều nói được tuổi, đồng như thân lưu ở trên nên nói đồng như trước.

Trong phần nghĩa quyết định văn rất hoảng sợ xảy ra vọng thành nên phải y cứ gấp. Đầu là chánh quyết định; hai là dẫn chứng có thể biết.

Trong phần năm, Ca-đề chia làm ba: trước nói thời gian có hạn, ở đây cho là không có y công đức thường khai cho một tháng. Hai là giải thích danh nghĩa, dẫn luật dịch tên, văn chú thích giải nghĩa. Ba là chỉ rộng.

Hỏi: Thiên sau đã nói rộng, vì sao ở đây phải chỉ bày lại?

Đáp: Như nói về thọ lợi, tuy sau tự tứ được lợi nhưng hoàn toàn do công phu tu hành trong mùa an cư.

Lại nêu hạ bốn tháng chế khai phần chừng. Lại ở đây nói không được y công đức, sau y cứ có y công đức. Nếu như vậy có y thọ pháp, ở đây vì sao không nói?

Đáp: Vì hành sự thứ lớp hợp ở sau tự tứ.

Trong phần giải giới, chương nầy có y là phá chấp xưa để dứt nghi ngờ sau. Vì không liên quan đến chừng hạn hạ nên nói rằng nhân đó nói. Vì trong kiền-độ y Ca-hy-na nói rằng: An cư rồi có bốn việc phải làm:

– Nên tự tứ.

– Nên giải giới.

– Nên kiết giới.

– Nên thọ y công đức.

Trước dẫn trong Mẫu luận cũng nói như vậy, cổ sư y cứ theo đây nên có vọng giải thích. Trong phần dẫn xưa, trước nêu chấp kia. Sớ chép: Có người nói rằng do nương vào giới nên thành an cư, nếu giải bổn giới liền phá hạ. Do mất chỗ nương ngay trong ngày đó tuy kết cũng không thành tựu, vì thế văn nói an cư xong phải giải giới, chưa xong mà giải nên biết là sai. Đây trở xuống nạn phá có bốn:

– (1) Khiển trách quên, luật trở xuống

– (2) Hiển chánh, trước lặp lại văn luật, vì trở xuống là nêu bày ý. Nhưng văn không nói rõ đến nỗi khiến cho hiểu lầm. Nên y theo luật Thập Tụng, văn nói về y công đức mới quyết nghi. Rộng trở xuống là chỉ khai. Tam thập ngũ chép: An cư rồi chúng đông, tăng phòng cùng kiết một giới thọ y công đức có được không?

Đáp: Tất cả đều được thọ. Lại trở xuống.

– (3) Dẫn chứng. Cựu ký chép: luật sư Chỉ thủ không phải hạ bèn hiển có chỗ làm riêng, văn không chỉ nghĩa giống ở trên, cổ trở xuống.

– (4) Dẫn nạn: người xưa nói: Đã bị các bậc cổ đức đời trước nạn phá, nay lại dẫn dùng. Trong sớ chép: có người nói là đây. Trước dẫn luật rằng an cư rồi phải giải giới, phải tự tứ, hai văn chẳng khác nên dẫn chung như vậy. Luật chung ba ngày, tự tứ chưa hết ngày 1, 1 đều thành, và trung gian cùng hậu an cư tùy theo tiền an cư cũng tự tứ nhưng phải ở cho đủ ngày, dùng đây chung nên biết, giải kiết không phá hạ, văn gồm, v.v… là không giải kiết hết. Nếu nói rằng không phá hết, thì tự tứ lẽ ra cũng phá, tự tứ đã không phá thì tại sao giải kiết lại phá? Câu trên chỉ bày văn đồng, câu dưới nói nghĩa hợp phá thì đều phá, thành thì đều thành, không thể chỉ có một phá hoặc thành. Vì thế sớ lại nạn rằng: Như trong giới nhiếp y vì giữ y nên giải lẽ ra cũng mất chỗ nương, liền ngày nói lìa, nhưng chưa trải qua đêm không nói lìa y. Hạ cũng đồng như vậy đâu được phá (trước nói giải giới liền ngày phá hạ không trải qua đêm, nên có câu hỏi nầy. Nay trong giải, hai câu đầu phán định. Nhưng trở xuống nói trước sau rộng hẹp. Trước sinh khởi, nhược trở xuống là nêu tướng, có hai. Đầu tiên là nói y giới trước hẹp sau rộng.

Tăng-kỳ nói giới tránh nạn rộng mỗi bề ba do-tuần.

Hỏi: Trước rộng sau hẹp là nương chỗ nào?

Đáp: Y theo giới tự nhiên cũng nên nương theo từ hẹp dần dần rộng thêm.

Nhược trở xuống hai là nói y theo già-lam.

Lại có sư nói rằng trong giới tự nhiên an cư rồi kiết giới thọ nhật, mất giới tự nhiên cũng phá hạ.

Nạn rằng: Vốn y theo giới tự nhiên kiết hạ còn thành, nay kiết giới tác pháp ở giới cũ, đâu được nói rằng phá hạ. Do không lìa giới nên đây không nêu lời xưa, bày thẳng ý nầy. Trước nói sau hẹp, nếu trở xuống là nói sau rộng, hai duyên thì có nạn không nan (xưa nói: Lời chú văn trước thuận với xưa, y theo đây biết sai). Trong phần thọ nhật nêu ý, trước nêu khai ắt trở xuống nói chế, vọng trở xuống hiển bày lợi ích. Ở Tây Vực chia vật nhiều là tùy theo số tuổi hạ, ở đây cũng vậy, nên nhiều hơn đây. Khả trở xuống là sinh khởi.

Trong phần nêu phân chia, trước là so sánh ba pháp, sau chia ba khoa, chung với ba ở thiên trên. Khai riêng hợp chung hoặc bảy ngày, nửa tháng, một tháng thì hợp riêng lìa chung.

Trong đối người dẫn hai lời hỏi. Trong luật Thập Tụng chép: Chỗ yxứ và chỗ đối người, chế hành thọ nhật không lìa giới, phải theo năm chúng đều hạn cuộc lời nói. Tỳ-kheo thì chung chúng tăng còn các chúng khác thì chỉ hạn cuộc riêng, vì không thực hành, khoa kế dễ thấy. Trong ba xưa chấp ba món thứ lớp thọ không được trước sau, nay thì trái lại. Các sư xưa chấp pháp nên không cho là sai, sư nay nghĩa duyên tùy duyên liền được cho nên khác nhau.

Trong giải thích nghi tức xưa đã chấp. Sớ chép người xưa nói trước thọ bảy ngày sau mười lăm ngày, do văn nói rằng pháp thọ quá bảy ngày. Trong phần đáp nói rằng miệng nói lời hợp với thế tục khiến người dễ hiểu. Ba pháp là nửa gấp bội nửa; tháng gấp bội bảy ngày và một tháng gấp bội nửa tháng, cho nên biết văn có lỗi lặp gấp bội.

Trong tướng nhiếp do pháp chúng là mạnh, pháp riêng là yếu, mạnh phải nhiếp yếu. Pháp dung ẩn hiện nên có môn nầy.

Khoa đầu, trước nêu dụng xong rồi hiển, không phải chỗ luận. Bảy ngày trở xuống chánh chỉ bày tướng nhiếp. Đầu lập nghĩa. Do trở xuống giải thích lý do. Luật trở xuống dẫn chỗ y cứ của văn. Khoa kế, trước chánh thức nêu bày. Tỷ trở xuống là khiển trách sai. Trên theo xưa, không hiểu ý nay. Trong sớ có nêu người nói nay chánh giải thích rằng: Nay giải thích không đâu chẳng phải lý nầy. Chỉ là một duyên không được có hai pháp tốt xấu, có thể như trước chế (trước y cứ duyên khác nay không chấp). Nay trước sau duyên khác nhau đều y theo thọ nhật. Pháp trước giúp sự, sự chưa dứt làm sao mất pháp được? Nếu bị bịnh hoạn thì phải uống sữa, dầu.

Đối duyên có tám môn:

1. Nói duyên chung khác, chia làm hai: Trước nói đúng pháp; nếu trở xuống là nêu phi pháp.

Nói vọng số nghĩa là chẳng phải duyên thọ nhật trái pháp phá hạ vì không thành tuổi nên dẫn chứng có thể hiểu. Nhưng chỉ mất lợi, nếu bậc thượng trung hạ thì không thể loạn. Pháp truyền rằng: Hễ người phá hạ chỉ không được hưởng lợi dưỡng chứ đâu phải khi xưa thì được cung kính nay lại khinh thường, vì thói quen thành tục vốn không có bằng cớ. Tuy văn không nói mà đối với lý thì đủ.

Tự duyên cũng có hai: Ở đầu nói đúng; nếu trở xuống nói sai. Ở đầu nói nhiều thứ ác cầu; Túng trở xuống là nói việc buôn bán tốt. Tuy vì Tam bảo mà tìm lợi, mua bán cũng thành phi pháp, chỉ rộng như ở sau. Tức trở xuống trong phần năm duyên đầu hoặc giới mua bán ở quyển trung. Trong duyên Tam bảo có hai: Trước dẫn văn chỉ bày; y theo đây trở xuống dùng nghĩa quyết định. Trước nói đúng pháp cho nên khai, chùa lớn là chọn lựa chẳng phải tự mình.

Các chỗ: Chung cho Tam bảo. Nếu từ trở xuống là ví dụ, nêu ra phi pháp có bốn điều khác nhau. Chịu làm thuê mướn; cập trở xuống là vì mình; hoặc trở xuống là vì thế tục; tướng trở xuống là vì tăng, gồm kết chung bốn món.

(2) Trong duyên thứ hai, trước phán định đúng sai; tổng trở xuống là nhiều tướng không nêu ba thứ nầy: Trong bệnh gồm thâu gặp nạn; thọ giới, bố-tát, làm phước, cúng dường, hỏi nghi thỉnh pháp đều là sinh thiện; sám hối tức diệt ác. Luật Tứ Phần trở xuống dẫn duyên tướng, Tứ Phần lại nêu ba món, như ở sau sẽ dẫn đầy đủ. Trong bộ Thập Tụng có tám món. Làm phước là đào giếng, làm cầu, rộng cứu giúp chúng sinh. Nhược tức có thể thỉnh riêng. Phần bốn người có lòng tin cho phép đến. Sau nói: Trong bộ Thập Tụng nói rộng trong phần bốn tức là văn nầy. Nhược trung trở xuống là nói thời lượng đã thỉnh.

Trong phần ba, trước dẫn luật; trở xuống là nghĩa quyết định. Ân trọng của cha mẹ, thế lực của Đại thần, vì thế tuy không có lòng tin cũng cho phép đến. Còn người khác trái với đây cho nên chọn người có lòng tin.

Sinh phước là việc, tin ưa tức là tâm. Có năng lực sinh lòng tin nghĩa là người khác có đạo hạnh thì có thể. Trước tuy không có lòng tin, nhưng sẽ cứu giúp nên khai cho đến (xưa giải thích người kia có năng

lực là sai).

Trong phần bốn, trước như pháp lại có hai: Thọ pháp và đi ngay. Nay trở xuống là khiển trách vọng hành (luống thực hành), trước nêu lỗi, tuy vì y và thuốc mà tìm cầu bên ngoài, nên nói là vọng. Chuẩn trở xuống là nêu đoạn, trước đoạn lỗi xin y, giới biết đủ thứ ba mươi, giới thứ bảy thật vì y bị đoạt mất, hiện thiếu ba y, không cho hoàn toàn thọ nên nói là huống. Nay trở xuống là bày lỗi. Xả chế nghĩa là thiếu pháp phục. Thủ chính là chứa tài vật dư. Ắt trở xuống nói cho phép chung. Xin y tức là giới thứ sáu.

Kế đoạn xin thuốc, tự mình thiều hoặc chỗ xa cần hai duyên này mới nhập vào khoản khai cho.

Trong phần năm, đầu tiên dẫn văn. Do ta đấu nên sinh ra sự tranh. Phải là ta hòa nghĩa là diệt sự tranh cãi. Nhưng trở xuống so sánh nghĩa riêng hiển sau hòa khiến cho y đó thọ nhật. Câu đầu là phát ra, câu sau là thâu hẹp lại, nghĩa là duyên trước không cho phép để nương theo. Việc đi ngay có kỳ hạn nào ngại gì phải đến. Luật khiến đi không đi thọ nhật không được, vì thế nói rằng chánh đoạn. Trong phần kết khiển trách trước là dẫn văn khác chứng chung như pháp. Văn trong luật, câu đầu nói chế, trừ trở xuống chỉ bày khai cho, y bát, v.v… là giải thích các nhân duyên khác ở trước. Nay trở xuống là ngăn vọng, đầu tiên là khiển trách việc cầu xin, trên nói việc làm luống dối trái pháp. Túng trở xuống là chỉ bày sự thật cũng sai. Trong giới xin y, nếu bị cướp đoạt mất thì được xin y. nếu xin ngũ cốc đều kết tội Đột-cát-la, vì thế nói là luật kết chính, như hiện tượng chỗ đã nói. Hoặc trở xuống khiển trách mời thỉnh. Như các việc phúng điếu, chúc mừng, nuôi bệnh, hỏi thăm (thư sớ vãng lai ý linh triệu mạng chủ loại thị giả). Luật trở xuống chứng sai, đồng với Thập Tụng: Như tám duyên trước, từ trước đến nay năm duyên là tổng kết văn trong luật, các duyên đều như vậy, chỉ có trước sau không thứ lớp. Nay tùy theo thứ lớp để dẫn như sau:

1. Trong luật, nhân vua Ba-tư-nặc bị nước lận cận làm phản, vua ra lệnh đem quân đánh dẹp. Những thứ nhà vua đã cúng dường cho Phật và chúng tăng như y phục, thức ăn; các đại thần không tin pháp liền tước đoạt hết. Các Tỳ-kheo muốn đến tâu lên nhà vua nhưng đường sá xa xôi Đức Phật khai cho thọ nhật (việc của Phật, tăng).

2. Có Tỳ-kheo tụng sáu mươi bộ kinh, vì tìm người đồng tụng nên Đức Phật khai cho thọ nhật (việc của pháp).

3. Vua Ba-tư-nặc đến dẹp giặc ở nước lân cận, các Đại thần không tin Phật pháp bèn đào kênh (rạch, sông) cách tinh xá Kỳ-hoàn (nghĩa là từ Tinh xá Kỳ-hoàn đến chỗ vua phải qua kênh (sông) này. Tỳ-kheo muốn đến tâu lên vua, Đức Phật cũng khai cho (việc tăng thuộc duyên Tam bảo ở khoa trước).

4. Có đàn việt muốn thỉnh Tỳ-kheo đến cúng dường, tỳ-kheo tự nghĩ rằng nhà đàn việt này ở quá xa không thể trong ngày trở về được, Đức Phật chưa cho pháp có nhân duyên như vậy mà được đi, nên các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật dạy cho phép được đi bảy ngày (về sau, các duyên đều đồng như ở đây nên không dẫn lại) nhưng không nên vì việc ăn uống, chỉ trừ các duyên khác.

5. Tỳ-kheo ở nơi khác thỉnh đến sám hối tội Tăng tàn.

6. Tỳ-kheo-ni thỉnh đến sám hối tội Tăng tàn.

7. Thức-xoa thỉnh sám hối, thọ giới (thọ sáu pháp) hoặc thọ Đại giới.

8. Sa-di thỉnh thọ giới, Sa-di-ni thỉnh thọ sáu pháp (trong sáu pháp ni thọ lẽ ra thỉnh tăng chỉ giáo mà thôi, tức duyên thứ hai ở trên).

9. Đại thần không có tín tâm muốn gặp, hoặc có ích, hoặc không có ích, Phật cho phép đi (hai việc).

10. Đại thần có tín tâm muốn gặp, hoặc bị bệnh, hoặc buồn phiền, hoặc vì lợi ích (ba việc).

11. Cha mẹ không tin ưa Phật pháp muốn gặp, hoặc không tin khiến cho tin, hoặc phá giới giúp cho giữ giới, hoặc xan tham khiến cho bố thí, hoặc không hiểu giáo lý khiến cho hiểu (bốn việc).

12. Cha mẹ tin ưa nên thỉnh để gặp, hoặc bị bịnh, hoặc buồn phiền, hoặc có lợi ích (trên là cha mẹ cùng thỉnh, dưới là thỉnh riêng).

13. Có mẹ thỉnh để gặp.

14. Cha thỉnh để gặp, anh em (cùng thỉnh, thỉnh riêng có ba), chị em, hoặc bà con bạn bè cũng như vậy.

Lại nói, nếu vì y bát, tọa cụ, ống đựng kim, thuốc men thì đến ngày thứ bảy phải trở về.

Lúc bấy giờ, có Tỳ-kheo ở trụ xứ thấy có:

1. Tỳ-kheo muốn phá tăng, nghĩ rằng vì ta mà phá tăng ư? Bạch Phật cho phép đi.

2. Thấy Tỳ-kheo-ni cũng vậy.

3. Nghe Tỳ-kheo.

4. Nghe Tỳ-kheo-ni cũng như vậy.

5. Có Tỳ-kheo ở trụ xứ an cư, nghe Tỳ-kheo kia muốn phá tăng tự nghĩ nếu ta đến can ngăn, dùng lời nói khiến cho họ không phá tăng. Lại nghĩ, nếu tự mình đến hoặc không dùng lời nói của ta nhưng ta có người thân ở đó có thể khiến họ dừng việc đó, ta sẽ nói khiến cho họ dừng lại không phá tăng nữa, Đức Phật cho phép vì việc nầy mà đi.

6. Nghe Tỳ-kheo-ni cũng như vậy (sáu duyên này, trong luật cho phép đi ngay. Lời sao có định kỳ hạn khiến thọ nhật, vì thế xếp vào năm duyên).

Lại trong năm việc trên, thứ tư là vì mình, hai và ba là vì người, một và sáu chung cho mình và người.

Trong phần ly hợp có ba:

– Một ngày trở lên là duyên bảy ngày.

– Tám ngày trở lên là duyên nửa tháng.

– Mười sáu ngày trở lên là duyên một tháng.

Bảy ngày hợp: Sớ chép: nếu đều ba ngày hoặc xen nhau giảm thì có thể đồng bảy ngày kia đây gồm dùng. Như một là tám ngày, một là hai, ba ngày có thể hợp thọ nửa tháng. Sớ chép: hoặc họ Trương, họ Vương mỗi vị đều là bảy ngày không thể hợp dùng Yết-ma nửa tháng, do việc khác với người đã làm chỉ được trước sau thọ bảy ngày. Một là mười sáu ngày, một là hai, năm, cho đến mười ngày được hợp thọ một tháng. Như trở xuống dẫn hai trường hợp bao gồm. Ưng trở xuống ba nêu lời câu, tăng chung tăng riêng hai pháp dùng đó. Huyền thọ nghĩa là việc trước đúng như pháp kỳ hạn đã định, nhưng thời gian chưa đến dự đoán trước được thọ quá ngày mới dùng. Đều chỉ đúng pháp, cái gọi là duyên hiện chẳng phải mượn cớ.

Ắt trở xuống ngăn sự lạm quá. Đầu nêu lỗi, do trở xuống nêu ý, việc sai sự thật Thánh giáo cũng giúp đỡ, cho nên nói rằng không truyền nhau.

Sớ nêu bốn lỗi:

  1. Không thể cậy nhờ.
  2. Vốn không có duyên thật.
  3. Không thể kỳ hạn.
  4. Vọng nhận sự may mắn.

Trong phần xen dùng chánh minh, khoa đầu tiên y theo sớ. Bậc cổ sư không chia hai duyên vốn khác, được dùng lẫn nhau, ý nầy không phải như vậy. Như trong văn đã nói, trước nói duyên khác không hợp; ắt trở xuống nói bổn duyên khai được.

Trong luật nghi chép: Nhân có Tỳ-kheo thọ nhật đến trong xóm làng, chưa hết bảy đêm, việc làm cũng chưa xong mà trở về bạch Phật, nhân đó Phật cho phép thọ hết những đêm còn lại. Bạch rằng: Con thọ bảy đêm đã qua hai đêm, còn lại bao nhiêu đêm đến chỗ kia, được ra khỏi giới. Vốn chỉ có một duyên nên nói rằng chẳng gọi là việc khác.

Khoa kế, hướng về Tam bảo thì không, đối với các duyên khác với Tam bảo là bít (khác thông). Như trước làm tượng Thích-ca, sau làm tượng khác, tuy đồng Phật sự nhưng không phải thời gian trước; Pháp, tăng so sánh như đây, trong văn có thể thấy.

Sau, trong một nhà, trước nói bít; nhược trở xuống là hiển bày thông. Như chỉ thọ kia thỉnh không nhất định, duyên khác nêu chung các việc, tùy theo đó mà làm, nên nói là y cứ theo tâm, v.v…

Trong phần giải thích ngại, sợ nghi ngoài giới không khai nên có lời hỏi đầu. Hoặc cho rằng thỉnh tăng thứ lớp sai nên có lời hỏi kế. Hoặc nghi xả thỉnh chẳng phải duyên của ta nên có lời hỏi sau.

Hai trường hợp thỉnh tức theo thứ lớp tăng mà thỉnh. Sau nói tăng thứ lớp được nghĩa là do thí chủ tâm buông lung cho nên nguyên tức là bổn.

Trong phần thọ lại, xưa giải theo sớ rằng: Có người nói an cư lập hạnh tu đạo làm tông chỉ, có duyên gấp được khai ba. Do khi có việc cứu giúp nào được thọ lại, không có lý nầy. Vì thế, trong Thập Tụng vì việc phá tăng cho phép thọ một lần bảy đêm, không được hai lần bảy đêm, cho đến ba mươi chín đêm là phá hạ, nói ở văn nầy (trở xuống chỉ cho hòa tăng tức ở đây. Kia chỉ có hai pháp bảy đêm và ba mươi chín đêm không đồng với luật Tứ Phần).

Khai ba pháp là:

  1. Không cho thọ lại.
  2. Sai không thành: Không cho trước sau loạn.
  3. Kia cho rằng: Trước cần thọ bảy ngày, kế thọ nửa tháng, dầu duyên bảy ngày cũng xin nửa tháng, một tháng cũng như vậy. Ba pháp dùng đủ.

Hoặc có duyên gấp phá an cư mà đi, thì không khai. Đây do không hiểu thọ nhật tùy theo duyên tác pháp ý cứ theo thật, vì thế có chia ra ở đây.

Trong phần nay giải thích, câu đầu trong khoa đầu là phán định, hai câu kế là chỉ rộng.

Sớ dẫn xưa nạn rằng: Tu đạo là việc gấp đâu được chế trụ, có duyên đến tùy ý được khai.

Nay lại nạn rằng: Như trước đàn việt thỉnh thọ bảy ngày, về sau có việc vì Tam bảo cần buôn bán vì sao không khai được? Nói biết cũng được.

Đản trở xuống là chánh lập.

Lại ba, trước nêu lý. Do pháp thọ nhật vốn vì duyên mà khai, duyên đến pháp ứng đâu có chừng hạn là ba, không có trước sau. Vì thế biết người xưa đều không hiểu ý của lời dạy.

Cố trở xuống hai là chỉ chứng. Hơn hai mươi: Như đã dẫn ở trước. Vả trở xuống là nêu văn cũng như trước.

Trong phần dẫn chứng, trong luật Ngũ Phần nói tất cả đâu hạn cuộc một lần. Trong luật Thập Tụng, đầu là phá chấp không cho thọ hai lần bảy ngày. Đầu dẫn văn.

Nhiều duyên: Như tám việc như làm phước,v.v… nêu ở trước. Tự mình như y, thuốc v.v…; vì người khác như thọ sám, v.v…

Vị trở xuống là giải thích chung. Các Sư xưa chấp cho đây là y cứ nên phải phá. Hai lần lặp là duyên khác thân hai lần bảy đêm, đây là phi pháp.

Sớ chép: Pháp thọ nhật kia chỉ có hai vị, đối thú bảy đêm sao lại gia thêm, vì thế không được hai lần bảy đêm. Không ngại trước sau đi cũng được. Nếu trở xuống phá chấp hòa tăng, như trên đã dẫn. Trước nói chấp kia nên nói dường như mà thôi, do dường như nên đến nỗi khiến cho hiểu lầm. Song trở xuống là đoạt, không thỉnh nghĩa là kia không sai sử, cũng khai được đến đồng như trong luật Ngũ Phần ở trước. Trong luật Tứ Phần mỗi việc sai thỉnh riêng tức là gấp. Trong đây lại y cứ hoãn gấp đều dùng nêu không hạn cuộc.

Sớ chép: Hòa tăng dùng hai pháp đã phá an cư, đi là thọ pháp y theo giới hạn. Hai trường hợp trước có kỳ hạn nên khai cho tùy theo đó mà thọ. Đã dùng pháp hòa, diệt nạn về kỳ hạn thì biết dùng pháp gì đến kia hòa, vì lý phải phá hạ đây là chỗ khai cho.

Trùng trở xuống là khiển trách chỗ y cứ khiến phải y theo lý. Trong Ngũ Bách Vấn, văn lý rất rõ.

Sớ chép: Ty-ma-la-xoa khẩu quyết, người ấy dịch luật Thập Tụng đã có thông đây, nghĩa không nghi ngờ (luật Thập Tụng trước do Cưuma-la-thập dịch, sau Tỳ-ma-la-xoa dịch).

Luận Minh Liễu được thọ nghĩa là được khai lại.

Trong sớ giải, nghiệp sớ chép: Tuy thỉnh bảy ngày việc xong không trở về phá an cư phạm tội nhỏ. Nếu việc chưa xong được sáu đêm, ngày thứ bảy trở về, đến ngày thứ tám lại thỉnh bảy ngày, nếu sau không xong lại thỉnh bảy ngày nữa.

Ở đây trở xuống là nêu người làm chứng. Chân Đế người ở Ưuthiền Tây Ấn-độ, trong hai triều đại nhà Lương và nhà Trần đến đây dịch kinh.

Ninh trở xuống là trách kia câu chấp.

Một góc nghĩa là không thông biến, là bít lấp. Phật hóa vốn đích thân nghe đời Đường, ngài Huyền Trang từ Tây Vực về, Na-đề cùng đến, sắc chiếu cho Tổ sư đồng đến dự phiên dịch, do đó được nghe đầy đủ pháp của Trung quốc đủ làm chứng cớ, vì thế dẫn văn chỉ bày.

Văn sau chỉ rộng, như trước lược dẫn, còn bao nhiêu như kia. Trong dài ngắn ba trường hợp: Cực hạn là dài, một ngày, tám ngày, mười sáu ngày là ngắn, trung gian dài và ngắn có thể biết. Trong văn tuy nói duyên ngắn bảy ngày duyên dài dễ biết, vì thế nửa tháng, một tháng y cứ theo đồng đó.

Luật trở xuống là dẫn văn chỉ bày. Lập trở xuống là nêu lý do. Nhược trở xuống là giải thích sự nghi ngờ. Nhưng y cứ vào duyên dài biết tất phải đường xa.

Trong tăng ni, văn trước pháp của tăng có thể biết, trong ni cũng đồng, vì thế phải phân biệt. Trong luật Tứ Phần và Tăng-kỳ văn có thể rõ.

Không nói nhiều nghĩa là không nói hơn hai.

Khoa kế, trước nêu lạm hành. Luật Tứ Phần trở xuống phán là phi pháp. Trong phần ba, văn trình bày hai nghĩa. Biệt duyên nghĩa là khác với duyên nhiều, vì thế phải có duyên sự lâu dài phải đến trước, hoặc cho trở về giới thọ lại bảy ngày khác, hoặc so sánh nạn duyên nghĩa chung đi liền. Trong việc xong, sớ dẫn xưa chấp rằng: Việc không về hạ cũng không mất. Cho pháp nên nay sư không đồng. Như văn chỉ bày, trước chỉ bày lý do. Thí giống như dùng.

Hỏi: Việc xong liền trở về giới, vì đường xa phải trải qua đêm, không có pháp tùy thân lẽ ra phải mất hạ?

Đáp: Pháp nương duyên mà sinh, duyên pháp mất, đúng kỳ hẹn trở về nhưng chưa về đến bổn xứ, việc còn chưa dứt nên không mất hạ.

Hỏi: Việc xong pháp xong hoặc duyên chưa hết, kỳ hẹn đã mãn, vì sao nói mất hạ?

Đáp: Luật Tứ Phần, Thập Tụng nói ngày đêm hai trường hợp sai khác nhau như ở sau tự rõ.

Luận Minh Liễu trở xuống là dẫn chứng.

Luật Thập Tụng không cho phép: Như trước nói: Giữa đường nghe có người chết phản giới tám nạn xảy ra thì không nên đi.

Luật Tăng-kỳ đồng nghĩa là trước nói trung tiền hòa liễu, trung hậu trở về, v.v…

Trong phần chánh gia, văn đầu phần tâm niệm vốn là đối thú, do không có chỗ đối thú nên khai cho tâm niệm. Trước nói khai duyên. Ở một mình, v.v… nghĩa là lan-nhã, viễn hành (tức là ở giữa đường an cư), khi bệnh hoạn, đói khát, nương bà con. Năm duyên đều không có bạn, nếu có thì không khai.

Nhược trở xuống là chánh chỉ bày cách bạch cáo.

Thập trở xuống là ngăn sự quá lạm.

Có người chấp văn bầy cho là thông, xen nhau đối đáp, v.v… Nhưng lại ở đây y cứ trường hợp bảy ngày mà nói. Pháp Yết-ma một tháng không thông bốn trường hợp kia. Văn trước chỉ lựa Ni chúng, y theo lý thì Sa-di cũng giống như vậy. Trong phần nêu bày Sa-di trở xuống cũng không nêu ra, mà lại nêu bày đồng với tăng.

Trong phần đối thú, thọ pháp chia làm năm:

  1. Cầu người khác xem xét.
  2. Nói lại tâm tư của mình.
  3. Nêu hẹn không lạm quá.
  4. Trình bày việc không luống dối.
  5. Hẹn trở lại vâng chế.

Trong phần chọn lựa phân biệt khoa đầu nói rằng: Y cứ trong Yếtma bạch: Tức lời văn duyên khởi thuộc câu thứ ba, không đâu không thêm bớt, đối chiếu đó sẽ thấy. Khoa kế, trong phần chánh minh, trước lập lý, bất trở xuống là phân biệt khác. Ở đời, hễ khi nói về bệnh thường là bảy ngày chuyển, thuốc không làm cho bệnh tăng thêm, cho nên giới hạn bảy ngày.

Kế là khoa nghi, rằng: Bệnh chuyển có thể được, nếu không chuyển quá ngày, pháp lẽ ra phải tùy đó.

Trụ còn như vậy.

Đáp như trong luận: Tức phần nhiều đã thành, như bốn thứ thuốc đã dẫn. Trong lời hỏi đáp đều do đời xưa luống thực hành, vì thế đặc biệt phân biệt chỉ bày.

Trong lời đáp, câu đầu là nghĩa quyết định.

Đây chỉ y cứ về đêm thứ bảy mà nói, chẳng phải cho rằng gồm sáu đêm trước.

Dĩ trở xuống là giải thích lý do. Văn nói bảy ngày, hai trường hợp khác y cứ đồng. Hựu trở xuống chỉ cho sai. Lại phần hai, trước chánh khiển trách vọng thay đổi. Diệc trở xuống do đó bác bỏ lạm dụng.

Đàm-đế Yết-ma sau tùy đó đưa ra pháp sự, việc xong, có người không hiểu lời dạy liền dùng đó.

Hỏi: Hai tôn mất thọ đồng khác nhau như thế nào?

Đáp: Mất pháp thì khác, phá hạ thì đồng.

Luật Tứ Phần nói thọ nhật, ngày hết thì mất.

Luật Thập Tụng nói thọ đêm, đêm hết mới xong.

Và luận về phá hạ đều y cứ ngày thứ tám khi minh tướng xuất hiện.

Sớ chép: Đêm thứ bảy minh tướng chưa hiện thì thuộc về đêm trước, khi minh tướng xuất hiện thì thuộc về ngày thứ tám. Chế bảy ngày đêm phải về trong giới.

Lại chép: Luật Thập Tụng cũng nói đêm thứ bảy phải trở về, trở lại đồng như luật Tứ Phần nào có khác gì.

Hỏi: Các bộ luật lập pháp khác nhau như thế nào?

Đáp: Luật Ngũ Phần có ba phẩm thì đồng với luật Tứ Phần. Luật Thập Tụng có hai: Một là pháp bảy ngày, hai là pháp Yết-ma ba mươi chín đêm. Bộ Tăng-kỳ cũng có hai: Một là bảy ngày, hai là việc Yết-ma xong, đây là pháp khác nhau giảm đồng, các pháp thì khác. Văn chỉ ở thiên sau, tìm xem đó có thể hiểu.

Trong phần các pháp nêu bày duyên, trước nêu ra ý nay lại có hai: Trước chỉ bày duyên đồng tức Tam bảo, v.v… năm trường hợp ở trước. Vì thế, trong luật nói về pháp thọ bảy ngày đã nêu đầy đủ. Nửa tháng, một tháng đều chỉ như trên. Đản trở xuống nói về giới hạn sự khác nhau. Đây là nói duyên riêng chúng và đồng ngày giới hạn dài ngắn là khác. Không đồng trở xuống thứ lớp khiển trách lỡi xưa. Kia do duyên ngắn mà gia pháp dài. Sớ chép: người xưa dùng bảy ngày, về sau có duyên ngắn, thọ một tháng là sai, khiến cho phá hạ, cho nên biết có hai cách giải xưa. Thử trở xuống hai câu là chính khiển trách. Câu trên nghĩa là kết nghiệp, câu dưới tức trái với lời dạy. Dư trở xuống là chỉ pháp thọ lại ở trước.

Trong phần lập pháp nêu chung bốn nhà. Đây cùng các văn khác nhau vì thế phải khéo léo nêu ra.

Lời tựa sớ chép:

1. Hoặc dịch riêng ra (Khải Sư); hoặc y văn luật (tức nay một nhà nương bổn mà tụng); hoặc y cứ theo nghĩa dùng (Quang Sư); hoặc dẫn theo chỗ y cứ duyên khởi (Nguyện Sư). Trong thọ nhật nói rằng trước sư gia đích thân xin (Khải Sư).

2. Cho phép che giấu (Quang Sư).

3. Cho phép sáu đêm (Nguyện Sư).

4. Các sư cận đại không thêm lời xin (tức trong lời tựa thứ hai ở trước).

Dùng hai văn nầy đối chiếu lại khác nhau.

Như trở xuống là tự thấy. Chỉ hai nhà nghĩa là hai bổn của Khải Sư và Nguyện sư (xưa chỉ Khải, Đế Sư).

Ban đầu, bổn của Khải Sư trước tiên nêu lời xin rằng: Đại đức tăng xin lắng nghe! Tôi là Tỳ-kheo… thọ quá pháp bảy ngày, mười lăm ngày hoặc một tháng để ra ngoài giới vì duyên sự… vì thế nay trở lại trong giới nầy an cư (nói ba lần) bạch và yết-ma đồng lời sao nầy.

Sớ chép: Đầu, người gia thêm lời xin Yết-ma không ghi ra sợ thành pháp của tăng. Đây là Yết-ma xưa. Kế là bổn của ngài Nguyện Sư văn nầy đã bị mất.

Sớ rằng: Thứ ba, người chỉ cho pháp sáu đêm xin pháp nêu duyên, tụng sự đều xong (trong sáu đêm bạch pháp, trước nêu chỗ phạm, kế xin hành pháp che giấu, sau xin sáu đêm, đã ghi rất rõ).

Ý rõ pháp xin đồng trở xuống là bổn của ngài Quang Sư.

Bạch và yết-ma chỉ trong câu thứ tư thêm rằng: nay tăng cho Tỳkheo… thọ pháp bảy ngày, mười lăm ngày hoặc một tháng ra ngoài giới vì duyên sự nay trở về trong giới an cư. Vì thế nói rằng tụng sự đều xong (Tổ Sư nói: Bổn của Nguyện Sư không có lời thêm bớt, nghĩa là y công đức lập sáu duyên mà thôi, không phải thiếu pháp Yết-ma). Trong phần Sư thứ ba, ba câu đầu nêu chỗ đã lập kia. Lời sớ: Người thứ hai tuy chép lời xin, cho phép che giấu hai thiên (nghĩa là trong lời bạch thêm lần thứ hai nên nói là hai thiên). Phải thời đến trước tăng thêm lời xin, bằng lòng rồi sau có lược nêu việc, tác pháp Yết-ma cũng vậy. Đây hoàn toàn y theo bổn của ngài Đàm Đế, nay lược dẫn đó. Xin rằng:

Đại Đức tăng xin lắng nghe! Tôi là Tỳ-kheo… ở chỗ nầy an cư xin thọ pháp bảy ngày, mười lăm ngày, hoặc một tháng ra ngoài giới vì duyên sự… xong việc sẽ trở lại trong giới nầy an cư. Nay theo tăng xin Yết-ma thọ pháp bảy ngày, mười lăm ngày, một tháng, xin tăng cho tôi là Tỳ-kheo… thọ pháp bảy ngày, mười lăm ngày, một tháng, xin thương xót tác pháp Yết-ma cho tôi (nói ba lần).

Trong phần chánh gia thêm, bạch rằng:

Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe! Tôi là Tỳ-kheo… ở trụ xứ nầy nhập hạ an cư xin thọ pháp bảy ngày, mười bốn ngày, một tháng ra ngoài giới vì duyên sự…, xong việc xin trở về trong giới an cư. Nay theo tăng xin Yết-ma thọ pháp bảy ngày, mười lăm ngày hoặc một tháng (đây là thêm lời xin). Nếu tăng phải thời đến, tăng bằng lòng, cho tăng nay Yết-ma cho Tỳ-kheo… thọ pháp bảy ngay, mười lăm ngày, hoặc một tháng (không thưa rằng vì duyên sự… cho nên nói lược sự).

Trong Yết-ma, câu thứ hai trong duyên ghi lời xin trở xuống thêm rằng: nay tăng Yết-ma cho Tỳ-kheo… thọ pháp bảy ngày, mười lăm ngày hoặc một tháng.

Cử trở xuống là chỉ lỗi. Đầu sinh khởi hai trước ít thấy nên không bàn ở đây. Đây đã thạnh hành phải biết là lỗi lầm. Nay trở xuống là chánh chỉ bày có bốn:

– Trước là trình bày ý nay đề nêu lỗi xưa.

Nội giống như nhập.

– Luật rằng trở về sau là y cứ theo văn mà khiển trách.

– Hữu trở xuống là nêu ra.

– Khiển trách khiến cho dừng trở xuống là khuyên phải nương pháp ở sau.

Câu: Hỏi có được không là phá lời giải xưa.

Sớ chép: Có người định phán nương thọ hạ phá hạ.

Câu: Đáp rằng không mất, sớ chép: Xin tăng xin giảm đều có bằng cớ.

(Ý rõ: Không đâu không phạm tội phi pháp).

Sư thứ tư, sớ chép: Các Sư cận đại không thêm lời xin chỉ y theo bổn mà tụng.

Xưa chỉ bổn của Nguyện Sư: ngài Nguyện Sư sống vào thời Bắc Tề thì không phải cận đại.

Hỏi: Trong bốn phần trước, sao không nêu bổn của ngài Đàm Đế?

Đáp: Vì bổn của ngài Đàm Đế đồng với ngài Quang Sư nên không nêu ra.

Hỏi: Đã trừ lời xin, thì trong Yết-ma lẽ ra phải không trình bày bổn ý?

Đáp: Lời sớ nói người xưa lập duyên thêm bớt, nghĩa là thọ nhật không xin, thiếu duyên thứ tám.

Tổ sư nạn rằng: Thọ nhật mà không xin đâu không phải bảo rằng y cứ theo đây.

Nay khi hành sự thọ phải đầy đủ nghi thức, đến trong tăng bạch rằng: tôi là Tỳ-kheo… muốn thọ pháp mười lăm ngày (hoặc một tháng) ra ngoài giới vì duyên sự…, xong việc sẽ trở về trong giới an cư. Bạch như vậy rồi mới thêm pháp.

Trong pháp một tháng không được hai lần tụng, nghĩa là do trong bổn luật không nêu pháp.

Dưới mười lăm ngày viết tiếp một tháng là dịch lược văn, ý khiến cho tùy trường hợp mà đổi. Thường thường người ngu y theo văn mà đọc, cho nên ở đây ngăn.

Sớ chép: Mười bốn, mười lăm.

Sớ lại hỏi: Sao nói là thọ một tháng mà không nói là quá nửa tháng?

Giải thích rằng: Thọ pháp bảy ngày là riêng một người còn các pháp khác đều thuộc chúng pháp nên chỉ nói bảy ngày. Biết rõ hai pháp kia đều bạch nhị Yết-ma.

Lại nói: Hoặc thọ nửa tháng số ngày đã đủ do gia pháp rằng mười lăm ngày. Hoặc thọ một tháng thì tùy tháng đủ hoặc tháng thiếu mà tính như thế nào, y theo tháng thiếu nên muốn chín ngày, vì thọ một tháng.

Trong ba lựa chọn nói chung nghĩa thọ nhật an cư khác nhau, vì thế nói là Tạp.

Khoa đầu nói mùa hạ nóng là duyên khác, ở đây lược nêu trường hợp khác để khai.

Phải đồng duyên: Vì việc thuận tiện nên duyên khác không được.

Sau chỉ chỗ nêu ra, song cùng với nghi thọ giới trong bộ Tứ Phần có chút ít giống nhau, cũng có thể nêu ra để làm tiêu chuẩn.

Trong phần y xứ, y giới có thể hiểu.

Trong phần y già-lam, văn đầu tức ở trước nói kiết hạ trước, kiết giới sau, cho nên trước nói không.

Hai giới tức Đại giới và Giới tràng.

Nói lìa y: Ở đây nói theo tác pháp nhiếp y, giới tự nhiên cũng không mất.

Khoa kế nói là giới cũ nghĩa là nói trước đây đã có giới.

Nói Phật chế: Tỳ-kheo ở trụ xứ Phật chế trước phải kiết giới, chế phải y theo cương giới đó.

Già-lam có duyên chưa kịp kiết giới, hoặc y thôn, nhà, v.v… xứ có thể y theo giới tự nhiên, hoặc tăng phòng có giới thì nhất định phải y theo giới. Nay người hành pháp có giới, xứ khiến y theo già-lam mà kiết, thì giới tràng tiểu giới tới lui không ngại. Ý cho rằng: Y theo giàlam hoặc y theo giới tùy sở thích của mỗi người. Lại cho rằng văn nầy thuận với xưa (từ trước đến nay nêu ra ba xứ, nghĩa nầy đều là chỉ xưa, rất sai lầm). Kẻ hậu học đều theo thầy mù dẫn đường làm sao cứu được.

Nói thu hẹp lại nghĩa là xả giới già-lam rộng theo giới hẹp được đúng ý lời dạy. Vì thế, trở xuống chỉ rộng: Lời sớ nói trước vốn không có giới y già-lam mà kiết. Sau nói rằng lập tâm hạnh: Hành hộ theo ý. nếu sau tác pháp cách xa giới tự nhiên thì chỉ y theo chừng hạn của giới tự nhiên. Đã không có nạn duyên thì không thể khai.

Nếu kiết hẹp, bổn có nói y theo giới mới do an cư tùy theo giới tự nhiên trước để định, vì có tác pháp giới trước rồi. Ý trong Yết-ma an cư tùy ý, không cần kiết thêm.

Trong phần kiểt chỉ, ở trên đã phán, người giảng vì các lời ký vọng cho rằng thuận với xưa, bèn nói đây là khiển trách xưa. Trên vọng lại thêm vọng, vọng nầy làm sao cùng tận. Vả lại văn trong lời sao, trước sau nghĩa bình nghĩa chuẩn, lời nói kia chẳng phải một há không phải văn đều không chấp.

THIÊN GIẢI THÍCH TỰ TỨ

Giải thích tên nêu bày ý, văn rất rõ ràng. Hành pháp thông bít phải lược chỉ bày. Nghĩa là: Người gồm năm chúng, pháp có ba bậc khác thời thì hạn cuộc xong hạ. Xứ thì chung hai giới, những điều khác thì ở trong văn.

Nói tông yếu: Nếu luận chúng đồng trước nhiếp tăng đại giáo, đây là đồng thuyết giới, ngay nơi pháp [Hàng 10, Ô1 – 27] là tông yếu.

Nếu trị ác, khuất phục tâm kiêu mạn, tâm thanh tịnh càng tăng, các hạnh là hơn hết, ngay nơi hạnh là tông yếu.

Như luật luận rộng lớn các thuyết phiền lụy, ghi chép những điều toát yếu làm thành một thiên thì ngay nơi văn là tông yếu. Ba ý đã giải thích đều thông. Sau, nghĩa thiện càng thiện.

Trong ý tự tứ, hai câu trên ở khoa đầu là nối tiếp phần sinh khởi ở trước. Trong phong tục dùng mười ngày là một tuần. Nhân trở xuống chính nêu bày ý. Hai, là trước nêu ý. Vọng tình rong ruổi bên ngoài, tập quán từ vô thỉ không tự phản chiếu, thế nên phần nhiều mê muội.

Kỷ túng trở xuống là nêu danh, hai câu trên nêu.

Nội trở xuống là giải thích. Hai câu đầu giải thích sự buông lung trên nên mình phải phạm tội. Tức nói từ nghĩa mà thành tâm phát lộ tội lỗi, cho nên nói rằng bên trong nêu bày; thân ngồi dưới đất phát ra lời nói cầu xin sám hối, cho nên nói bên ngoài hiển bày, tức là ba nghiệp. Hột ngọc có vết gọi là hà, người bệnh nói là tỳ, đều để dụ cho người phạm tội. Thân trở xuống một câu là giải thích sự buông lung ở trước, tăng nêu tội, tức nêu bày nghĩa buông lung biếng nhác. Cho nên trở xuống là kết danh.

Nói không cô độc là ba nghiệp nương vào người khác, vì không tự có. Hết lời là lời lẽ đã trình bày, do tự mình thuật lại tội lỗi của mình cho chúng nghe. Trước tức nói chế nương nhau, còn lại là sạch được tội.

Hai, là y cứ có phạm, bốn tức không phạm. Ba là chung cho có không. Lại một là trước sau sinh thiện, hai trung là diệt [hàng 2, Ô1 – 27] ác. Trong phần chế cuối hạ, câu đầu khoa đều là chứng cớ. Nhược trở xuống là giải thích, có hai: Một là trình bày không có ý trước, trên nói tâm đến nhóm họp là chí thành. Cốt yếu là chế, nếu nghịch trở xuống nêu bày lỗi đã nói nêu trước. Nghịch nghĩa là chưa xong nhưng nêu trước, Hai: Cố trở xuống nói phải nêu ý sau. Câu đầu lặp lại chứng cớ trước. Dĩ trở xuống là giải thích. Đầu nêu bày đem rải. Phương nghệ nghĩa là chỗ đã đến. Ắt trở xuống là nói lập pháp. Không riêng mình giảng nói nghĩa là vì mình quá mê muội, chướng đạo, v.v… nghĩa là phải sám hối. Cố trở xuống là kết ý.

Khoa kế, luật luận đều nói rằng xong, chứng trên càng hiển. Trong luận nói trì giới luật, nghĩa là vâng theo giáo luật đã chế. Và các việc lành; Tức y theo hóa giáo. Hóa chế không trái vì thế nói là đều không hủy, v.v…

Trong ngăn quá lạm, hai câu đầu tiên là chính danh.

Khi trở xuống là bỏ đi sự lầm lộn. Xưa, người dùng thưởng công cao năm lợi, khai phá năm giới. Đây là mặc tình hủy phạm để lập tên kia.

Ở đây trở xuống là nêu ý.

Trong phần khai chương nêu lệ nói duyên tập nghĩa là định thời gian lựa người đều phải hợp giáo mới thành pháp.

Nói tạp minh nghĩa là lựa chọn giải thích nghi ngờ không phải một tướng.

Trong phần thời tiết hợp nhuận, trước nói tháng , , 6, nhuần. Ngày 1-7 y cứ vào người tiền an cư, người trung gian và hậu an cư phần nhiều tùy theo người tiền an cư, vì thí không nêu riêng.

Không y theo nghĩa là kiết trước nhuần sau, đầy đủ như thiên trước, đây tức tùy theo xong hạ tự tứ không hạn cuộc thời tiết. Nhược trở xuống nói tháng 7 nhuần, không tính trước hạ.

Mãn: Đây y cứ theo trung gian và hậu thì nhiều, tiền an cư nhiều, hậu an cư ít cũng tùy theo tiền, tác trụ đợi đủ ngày mà thôi.

Trong thêm bớt: Bớt hai ngày trước, tăng hai nửa tháng sau, dụ cho không đi: Gượng khai hòa hợp đồng thuyết giới, vì thế chỉ như trước.

Trong phần kéo dài ngày: luật nhân có các tỳ-kheo trong mùa an cư tinh tấn hành đạo được quả tăng thượng, sợ đi đến chỗ khác không được an vui, vì thế bạch Phật, Phật do đó cho phép tác bạch tăng ích tự tứ, bạch rằng:

Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe! Nếu tăng phải thời mà đến, tăng bằng lòng cho tăng nay không tự tứ. đủ bốn tháng sẽ tự tứ, tác bạch như vậy.

Trong phần nói rõ quyết định: trước định không nạn, nếu trở xuống là nói có nạn.

Trong phần đầu có hai:

Ở đầu dẫn văn để định. Trước nói trongluật: Tức kiền-độ Tự tứ chép rằng: Các Tỳ-kheo muốn ngày 1, 1 tự tứ, Phật nói: cho phép, kế dẫn thí gấp: Câu đầu chỉ chung một giới, câu kế chỉ riêng trong giới, giải thích y thời (y đúng thời) được chứa. Văn kia chép: Nếu trước tự tứ mười ngày (ngày mồng 6 tháng 7) được y thí gấp. Tự tứ xong rồi được chứa một tháng (không được y công đức) năm tháng (có y công đức, đây tức là trước khai mười ngày sau không thêm). Cho đến ngày mai tự tứ, hôm nay được thọ (1 thọ y, ngày 16 tự tứ, nên nói là ngày mai). Ngoài một tháng, năm tháng, lại thêm chín ngày (nghĩa là đầu tháng 7 được y, trước bớt một ngày, sau thêm một ngày, cho đến ngày 1 trước giảm chín ngày sau thêm chín ngày, vì thế nói rằng thứ lớp tăng). Đây nói ngày 16 tự tứ hợp với kiền-độ ba ngày nói trên. Dẫn trong tăng ba, luật chép: Có ba trường hợp tự tứ: 1, 1 và 16 (ngày 16 là ngày đầu tháng hắc ngoạt).

Luật chép trở xuống là chánh quyết định, đây cũng là văn trong kiền-độ, tuy chung ba ngày, hai ngày trước không xong, không phù hợp với ý văn, vì thế lấy ngày 16. Luật trở xuống hai là giải thích ngại. Đầu dẫn văn, đây xuất xứ từ kiền-độ ni sợ người cố chấp nên phải giải thích cho thông. Văn nầy y theo chỗ xa mà nói, chuẩn theo lý phải biết rằng: tăng ngày 1, ni ngày 16, lại nếu ni ở chỗ gần thì không nhọc gì phải cách ngày. Như trở xuống, trong văn đều nêu hai pháp.

Thử trở xuống là chánh giải thích. Hai câu đầu giải thích chung. Nói nương nhau, lời nói giải rằng: Tăng cầu phải trước lúc tự tứ, bạch chúng trị và nêu tội đã phạm, thanh tịnh mới được thọ ni.

Vì thế trở xuống chỉ bày thông, hạn cuộc, đã thông ba. Nay lấy ngày 16 cũng không phải đặc biệt, nên nói là nhất kỳ.

Chữ khắc cũng như chữ ước.

Sợ người không biết trước tự tứ đã ra ngoài giới phá hạ, đời nay phần nhiều bị lỗi nầy. Từ lâu ôm trong lòng mùi vị giáo pháp, nghe đó nhưng không thực hành, thật đáng thương xót.

Trong phần người đúng sai gồm có ba hạng.

– Đầu tiên trước kết sau phá.

– Hai là hướng về không phá.

– Ba kết có trung gian và hậu an cư.

Sợ nghi hai trường hợp trên không đồng pháp nên ở đây phân biệt để chung thành ứng với lời dạy.

Trong văn, trước nói hai trường hợp đầu. Luật Tứ phần trở xuống chỉ bày một trường hợp sau. Chỉ nói hậu tức là nghĩa gồm trung gian, cũng y cứ phải hướng đến tiền an cư gọi là hậu mà thôi.

Trong phương pháp nêu ba người: Đối pháp tức là chúng pháp, đối thú và tâm niệm.

Trong thêm có hai: Hai phần năm và sáu.

Trong phần đầu, bốn môn đối trở xuống là năm người. Chỉ có môn thứ hai là sai người năm đức. Pháp đơn kép có sai. Ba môn còn lại đều đồng.

Trong duyên khởi, khoa đầu có hai: Trước là chỉ phần chứng của người và pháp; Đương trở xuống là chánh nói về duyên tướng, có bốn: Một là tác tướng; Kế từ các trở xuống là nói về trải tòa, còn lại là pháp sự, giường chiếu cả hai chung. Riêng tự tứ, ở đây chỉ nói ngồi dưới đất. Ba từ luật trở xuống là trải cỏ. Hai câu trên là ngăn lỗi, cậu sau là chỉ bày pháp. Không ở tòa nghĩa là đã có chỗ ngồi. Không ở dưới đất nghĩa là giữ gìn thân và y phải dùng cỏ để nương. Nêu lìa tòa nghĩa là bỏ chiếu đến chỗ cỏ (xưa nói quỳ thẳng là sai). Nhưng không cho ở dưới đất, nghĩa là phải ở trên cỏ mà trong văn không nói, vì thế dẫn luật Ngũ Phần để quyết định. Bốn: từ tinh trở xuống là tu kính.

Khoa kế chỉ đồng như trước tức lời các bài kệ và xướng cáo. Khiến nói chỗ bố-tát đều phải thay đổi, nhưng khi hành sự phải biết thứ lớp. Đến chỗ nói bài kệ thanh tịnh, rồi thì phải dùng Phạm âm. Rải hoa rải nước cũng phải cúng dường (có chỗ nói: Thuyết giới cần pháp cúng dường còn tự tứ không cần là sai. Đây là cúng dường Tam bảo đâu chỉ dùng trong thuyết giới. Lại, pháp tự tứ [Hàng 27, Ô3 -27] chẳng lẽ không cầu cúng dường hay sao?). Phạm âm đã xong, nói kệ truyền hương rồi lên tòa, liền trình bày sự việc bạch chúng. Chọn người có đức sau đó bỉnh bạch pháp sai.

Phương tiếp trở xuống là khoa hành sự. Trong tiểu chúng hai pháp đồng, khác. Đồng pháp nghĩa là khi đã xướng rồi, tiểu chúng ra ngoài đến khi tăng tự tứ rồi đánh chuông kêu vào, y theo thứ lớp ngồi trên cỏ đối trước vị năm đức mà tự tứ. Biệt pháp nghĩa là đưa thẻ nhập tăng, sai Sa-di làm năm đức, còn các việc khác đồng với tăng.

Trong năm đức, chia làm hai: Năm đức kia nhân pháp vượt qua chỉ phần lược pháp là sau và muốn nêu pháp sai là khác.

Trong phần chọn người, hai câu trên ở khoa đầu là đều nêu. Vị trở xuống là giải thích riêng. Trong năm đức, bốn đức trước là đức chung, như trong phần chia phòng ở thiên trước đã nói, một đức sau là đức riêng.

Trước y cứ theo về người mà giải thích: Phá hạ, là không kiết tiền hạ v.v… người đều phải tự tứ. Ba lần nêu hai lần diệt, giữ lỗi không chịu phát lộ, v.v… không gọi là tự tứ.

Kế y cứ vào thời mà giải thích: Ba ngày là đúng thời, còn lại là phi thời, thêm bớt việc nạn đều phải hiểu.

Ba là y cứ vào pháp: Một pháp rộng, sáu pháp lược, xem duyên hoãn hoặc gấp, đều thích hợp vì thế sớ chép: Các tạp, thị phi, nhiễm tịnh đồng trụ không thích nghi luống lạm, ô nhiễm thêm huân (nghĩa là biết người), biết thời biết pháp (cộng trên thành ba). Không phải người thì không hiển cho nên cần phải có.

Luật trở xuống là nói thứ tự năm đức. Trước nêu năm tướng. Trong mỗi tướng không đối nhau.

Nói biết thời: Cùng với trên đâu có khác, trên là thời tiết, dưới là thời nghị. Nghĩa là so lường tăng hòa hợp, tranh cãi đáng nêu ra (cử tội) thì nêu ngay.

Sớ chép: Cử (nêu) tội dứt sự tranh cãi, không đâu không hòa thuận.

Ý trở xuống là tùy giải thích.

Câu đầu giải thích đức thứ nhất. Câu kế giải thích đức thứ hai. Dục trở xuống ba câu là giải thích đức thứ ba. Cố trở xuống hai câu là giải thích đức thứ tư. Mẫn trở xuống hai câu là giải thích đức thứ năm.

Trong năm đức, hai đức đầu là trí vì có thể quán sát, suy lường. Hai đức tiếp theo là bi vì thường hay cứu khổ. Một đức sau cùng là từ vì có công năng ban vui. Lại đức thứ tư thuộc về miệng, bốn đức còn lại thuộc về tâm. Đây là người có hai thứ năm đức (có người hành sự sai một người có năm đức tự tứ, có người làm năm đức nêu tội).

Hỏi: Đã đủ hai lần năm đức vì sao không gọi là mười đức?

Đáp: Vì tội và việc khác nhau, vì thông và cuộc khác nhau.

Nếu như vậy, ngày nay năm đức từ đâu mà có tên?

Đáp: Dùng phân chia thông, cuộc. Nghĩa gồm chính, y cứ về sự thì

cuộc, theo chánh là tên.

Khoa kế, đầu là bằng chứng, hai là giải thích có ba:

– Đầu là xét bổn tôn, chỉ khiến sai người và trong Yết-ma chỉ ghi một tên, cho nên nói là không rõ.

– Kế là chỉ bày ba luật, đều sai hai người. Chú thích nhiều người nghĩa là đối trước hai người, ba người mà làm pháp sai rồi tùy đó mà đối khởi, lại thay thế nhau trước sau hai người không phải cũng làm.

– Sau dẫn ba ngàn, chính nói lý do.

Tăng tự tứ rồi tức đồng luật Thập Tụng không dùng. Trong đây chỉ lấy ý sai hai người. Trong phần ba, trước khiển trách chuyên chấp trước, nghĩa là theo người sai. Vì thấy bổn tông sai pháp đơn bạch gọi tên. chưa thông các bộ: tức như đã dẫn ở trước.

Hựu trở xuống là khiển trách sự tùy tiện, nay đều như vậy. Huống chi kẻ ngu si luống không thực hành, vọng xen vào hàng tăng, xưng là người có năm đức, danh thì có mà thật ra không có, thực chất không đáng thương xót!

Thập trở xuống là dẫn chứng kẻ hạ tòa hướng về, nghĩa là bậc lạp cao đức trọng không thể làm việc.

Trong pháp sai, khoa đầu trước nói lựa chọn đức, khiến bậc Thượng tọa sai khiến lựa chọn hoặc có thể theo đó mà làm pháp Yết-ma cũng được.

Bất trở xuống là định chỗ, do thế gian lạm hành nên phải chỉ phá. Trong khoa kế, trước nói các pháp Yết-ma còn lại thông truyền dục tịnh, riêng đây có khác nên phải nêu riêng.

Thử trở xuống là nêu bộ khác.

Luật Tăng-kỳ, v.v… đều không khai nên trong phần hỏi hòa, y cứ về chung để đáp sau hiển bày riêng để đáp.

Chỉ như trên: Tức trong thiên Yết-ma.

Trong năm đức hành sự hòa tăng, văn đầu chỉ bày oai nghi. Thời nay, phần nhiều ở trước tăng, lễ rồi hòa bạch không ứng trở xuống là ngăn quấy. Khoa kế, trước chỉ bày đáp riêng. Nhược trở xuống là chỉ đáp chung.

Trong phần hành thảo, khoa đầu có bốn:

  1. Chỉ bày chỗ nêu ra như trước đã nói.
  2. Đương trở xuống là khiến dự vào giải thích.

Người riêng một việc nghĩa là ý khiến cho đều trải, sợ vải liên tiếp nên phải dùng một nắm tay. Dài hai thước cho phép cắt rồi xếp lại, khiến trải rộng có thể dung chứa một chỗ ngồi để làm tiêu chuẩn.

1. Chí trở xuống: Nói thứ lớp thực hành. Thượng tọa quỳ trao còn những người khác thì không cần.

2. Các trở xuống: Nói trải vải, trước toà là chỗ ngồi dưới đất. Văn chú thích chép: Lại dặn dò tìm kiếm hoặc nói nhất định dự tìm cần gì phải dặn lại. Nay cho rằng văn nầy chú thích phần trải cỏ ở trên. Nghĩa là người năm đức xướng rồi, mới trải sự dung thương tốt, chúng lại đảnh lễ, vì thế khiến cho lãnh thọ trải tòa trước, đợi xướng rồi mới ngồi, có không y theo đây, đặc biệt chú thích chỉ bày. Biện nghĩa là trải cỏ chuẩn bị chỗ ngồi.

Trong phần xướng cáo đến tòa cỏ nghĩa là bảo khiến cho rời chỗ ngồi ngay.

Thiên đãn, v.v…: là dặn dò sau khi tự tứ đầy đủ oai nghi cung kính. Chú giải khiến cho theo đó, chẳng phải cho rằng hợp chúng đều xen nhau quỳ.

Sau nói rằng thấy người năm đức đến mới đứng dậy khỏi chỗ ngồi, vì thế phải biết trước đó ngồi trên cỏ, phần nhiều hiểu lầm khiến cho chúng mỏi mệt, cũng vì không hiểu được văn.

Hỏi: Vì sao phải ngồi trên cỏ?

Đáp: Chỉ có pháp tự tứ này là khác với các pháp sự khác. Vì đến cầu người khác chỉ dạy nên phải biểu hiện sự từ tốn khiêm nhường. Phải trải chiếu, tọa cụ không dùng vải lót, hạ mình như tội phạm. Vì sợ tổn thân y nên trải cỏ.

Sớ chép: Nói rời tòa là bỏ tánh kiêu mạn, trải cỏ là sợ tổn hại, đây là chứng minh, đâu lại nghi ngờ chăng! (Xưa chép: Khi Phật thành đạo, Đồng [Hàng 2, Ô3 – 28] tử Cát Tường đem cỏ đến cúng dường, nay bắt chước theo Đức Phật, do đó lại vọng hiểu bài kệ nhận cỏ, thật rất xuyên tạc, xin dùng lời sớ để chứng nghiệm, phải sớm bỏ đó). Nhưng ngày nay hành sự phần nhiều quen theo tập quán đó cũng dùng một ít cỏ. Dùng tấm lụa năm màu sặc sỡ giống như trẻ con chơi giỡn, lại nhờ tăng quản lý hoặc tịnh nhân phân chia, cho đến xướng cáo tay cầm đội lên đầu, y theo xưa truyền lầm tụng kệ cát tường. Song sau giơ cao tọa cụ rồi ném xuống, thân không rời tòa lại không trải cỏ, trái với chánh pháp, luống nhậm vọng tình, tự khoe khoang mình có thể giảng nói. Còn như hành sự lại theo sự sai lầm, đến chỗ văn nầy thì lòng tin đồng với biển mộng. Huống chi băng tình cố chấp thấy việc tốt không thay đổi, tron đời phải chịu sự vô tri, khi quả báo đến lại thêm sự ngu muội. Biết sai trái sửa lỗi, chỉ có người trí mà thôi.

Trong phần đối thuyết, trước dẫn oai nghi của bậc Thánh, răn dạy khiến bắt chước theo. Bậc Thánh còn như vậy, kẻ hạ phàm có thể không bẩm thọ được hay sao?

Lời sớ có dẫn rằng: Đức Phật ngồi trên tòa cỏ bảo các Tỳ-kheo rằng: Các thầy đều ngồi trên tòa cỏ. Im lặng giây lâu lại bảo các Tỳkheo: Ta muốn thọ tuổi, ta có lỗi với mọi người chăng? Lại không phạm thân miệng ý chăng? Nói như vậy ba lần.

Xá-lợi-phất bạch rằng: Ba nghiệp không có lỗi sở dĩ như vậy là vì không ai có thể vượt hơn Đức Phật làm một vị y vương nhãn mục, cả thế giới Đại thiên đều tôn quý thì làm sao có lỗi được.

Kinh Chỉ Tân Tuế chép: Lúc bấy giờ, Tam Thiên đại thiên thế giới rung chuyển sáu cánh. Một vạn Tỳ-kheo được dấu đạo. Tám ngàn Tỳ-kheo chứng quả A-la-hán. Trên hư không tám muôn bốn ngàn vị trời đều phát tâm Vô Thượng chánh chân đạo ý, v.v…

Trong phần đầu của khoa thứ tư, hai vị năm đức đến, một vị quỳ một vị đứng: Ý nói không phải hai vị nói cùng một lúc. Nay phần nhiều quỳ, thật trái với luật, dầu nói trước sau, nghi xen lẫn nhau, không thể hiển bày riêng khác cũng là phi pháp.

Khoa kế, trong pháp Thượng tọa, trước nói tu kính nghĩa là trong luật do nhóm Tỳ-kheo sáu vị lật ngược y, y quấn cổ, trùm đầu, đắp y trùm kín hai vai, mang giày dép trên đất, ngồi trên giường mà tự tứ, Đức Phật do đó chế phải đầy đủ oai nghi. Luật nêu bốn lễ, văn lược phần cởi giày dép, một pháp thiên đãn ở xứ nầy không thích hợp.

Tăng phải tùy theo bậc Thượng tọa: Trong luật vì vị Thượng tọa đầy đủ oai nghi tự tứ, còn những vị khác vẫn ở ngay tòa. Phật lại chế, đây cũng y cứ khi vị năm đức đến, không phải cho rằng đại chúng đều quỳ.

Trong luật Thập Tụng nói xoa chân nghĩa là gieo mình sát đất duỗi tay xoa chân biểu hiện sự cung kính cùng tột.

Kia lại chép: Nếu hạ tọa thì không được xoa chân, vì trái với nghi thức.

(29) Trong lời trình bày y theo sớ chia làm năm:

– Câu đầu: Chính bạch với người năm đức, cầu được phép nói.

– Câu kế: Văn khi tăng tự tứ.

– Ba: Tôi pháp danh… trở xuống là ứng với pháp trên, trình bày lỗi lầm nhờ tăng nêu tội.

– Bốn: Hoặc thấy, v.v… con có ba căn: Thương xót chỉ bày.

Sớ chép: Giải hạnh đầy đủ nên gọi là Đại đức, niên lạp cao nên gọi là Trưởng lão.

Lại nói rằng: Trước đơn điệp là chỉ bạch với người năm đức, sau song điệp khuyên nhắc chúng tăng (nghĩa là dặn dò tăng). Luật Tăngkỳ nói rằng Trưởng lão và tăng nói tự tứ nên thông cáo đó.

– Năm: Nếu ta trở xuống là sửa đổi tội lỗi để trở thành người thanh tịnh.

Nói ba lần: KÍnh mong khuyên răn dặn dò không phải là dối trá.

Trở lại bổn tòa nghĩa là trở về chỗ ngồi. Trong luật do vị Thượng tọa quỳ đợi mỏi mệt, bạch Phật, Phật cho phép trở về chỗ ngồi.

Trong phần thứ tọa là lời trình bày sự tu kính giống như Thượng tọa, vì thế chỉ đó.

Trong phần tổng kết, trước dùng hai tòa làm pháp, còn bao nhiêu giống như vậy, vì thế nói là như vậy.

Câu sở dĩ lần lượt đối từng người nói, nghĩa là do cầu người khác chỉ lỗi, khiến cho đại chúng biết tên tội quán sát quy lường có hay không. Nếu khiến nói chung với nhau thì làm sao phân biệt được, cho nên trong luật nếu nói một lần, nói hai lần, nói lén, nói nhanh đều gọi là phi pháp đều là ý nầy.

Trong phần khai nói tùy thân an nghĩa là cũng phải ngồi dưới cỏ, nhưng không đầy đủ oai nghi mà thôi. vì thế, luận chép: Lúc bấy giờ, có Tỳ-kheo bệnh vén y, cởi giày dép, quỳ thẳng chắp tay trong thời gian lâu, bệnh nặng thêm, bạch Phật, Phật do đó khai cho.

Trong lời chú nói rằng xin tự tứ nghĩa là trình bày ba lần là xong, không phải cả chúng đều xin. Ở trước nói rằng tùy xin trở lại tòa, đâu không rõ ư?

Trong phần chỗ của vị năm đức là y cứ theo văn trong luật Tăngkỳ.

Phải y theo vị nghĩa là không sai thứ lớp.

Phá Thập Tụng: Kia thủ tăng, vì đồng ba ngàn oai nghi ở trên.

Trong phần xướng cáo, thời nay hành sự vị năm đức về chỗ mình rồi, chú nguyện hồi hướng, nhưng sau dùng tiếng Phạm nói kệ tự vui mừng (phần nhiều không nói kệ là sai).

Trong phần cử tội, y theo thiên trị, y cứ về tâm trái thuận, thông thâu, sám phạt.

Khoa đầu chia làm hai: Đầu nói vị năm đức do chúng tăng cử, quyết không thiên vị phải y theo pháp mà gia trị.

Hai từ nhược trở xuống là nói người khác cử, sợ tổn giảm phải nghiên cứu đâu là hư, đâu là thật. Trước nói sự căn đều thật, y theo pháp ngăn: Tác cử nhớ nghĩ. Nhược trở xuống là nói sự là thật, mà căn thì sai lầm.

Phản trị:

Chú giải ở thiên trước, tìm đó sẽ thấy.

Trong phần phản trị, trước chọn vị năm đức không trị có hai nghĩa, vì thế một là chúng sai, hai là vị đầy đủ đức.

Nói suy thắng nghĩa là nghiệm xét gia hình. Kế từ không đồng trở xuống nói người khác phải trị. Ngược với hai nghĩa trước, trong văn đã hiển bày như vậy.

Trong phần tăng đủ thiều, trước là nêu vị tăng lớn nhất giải thích pháp đầy đủ; sau từ nhược trở xuống nói vị tăng, kế đó vì việc không đủ.

Chỉ có pháp sau là khiến cho phát lộ.

Ni đến thỉnh nói, trước trong phần không có ni là vì khi thuyết giới, ni thỉnh răn dạy nên thân không hiện tiền. Có không đều hỏi, tự tứ không phải như vậy tuy có mà không hỏi.

Trong pháp bạch nhật, khoa đầu chia làm ba:

– Đầu là an cư, ni lập chỗ.

– Hai: Từ chúng trở xuống là tăng tự tứ.

– Ba; Từ đương trở xuống là ni trình bày.

Pháp chỉ biệt: Sau đều nói: Tỳ-kheo-ni tăng an cư rồi, Tỳ-kheo tăng an cư rồi. Tỳ-kheo-ni tăng nói ba việc tự tứ thấy, nghe và nghi. Đại đức thương xót chỉ dạy cho con, nếu con thấy có tội sẽ đúng như pháp mà sám hối (nói ba lần).

Khoa kế, trước là báo cáo, sau là răn bảo. Lời xưa dùng chung, nay chỉ có vua mới xưng.

Dư trở xuống là chỉ sau.

Kia nói: Khi ni tự tứ, truyền tăng báo cáo, các ni đảnh lễ xin xong, sau đó mới tự tứ.

Trong pháp cách ngày: vì trong đêm tác pháp ni đến không kịp nên chế cho nhóm họp lại, chỉ điều nầy là khác, còn bao nhiêu giống như trước.

Trong phần hỏi dùng dục để ứng đối Yết-ma, nay đã không làm mà chế truyền dục, vì thế phải hỏi để giải thích.

Trong phần đáp, trước nêu bày lý.

Trong tám kính pháp của ni có điều nói phải nương theo tăng mà tự tứ. Chúng không hòa tập vì không y theo tăng, vì thế phần sau luật dẫn chứng. Trước dẫn văn khai lược, xứ trở xuống là phản ánh pháp rộng. Tăng-kỳ trở xuống là y cứ nêu ra. Đầu là nêu văn. Kia nói rằng:

Ni thỉnh răn dạy rồi trở về chùa báo cáo lại. Cũng chế ni tăng nhóm họp hết không thuyết dục.

Do trở xuống là hợp nêu. Trong phần ni đến nói tội trọng: Giới tăng đàn phân vọng trở xuống là nói thân đã có tội không thể tự tứ. Thời nay pháp của ni chế không thực hành, xin cho nghe cũng lại không thấy.

Trong phần lược thuyết nêu rằng tạp hạnh là hai món duyên pháp đều có khác nhau.

Trong phần chỉ duyên khiến lượng thời là việc của vị năm đức, các pháp chọn nêu, kẻ ngu muội chẳng thể kham được, có thể không cẩn thận ư?

Trong phần năm đức đối lược, văn đầu có hai: Trước là nêu khi lược duyên, chỗ có là nêu bốn món. Sau: Từ đương trở xuống chỉ bày lược pháp: Một là trước nói rộng, hai là nói thứ lớp lược. Văn lược nói hai lần.

Sớ chép: Đối năm đức có hai lược, hai lần nói, một lần nói (có người nói không nói lại là sai).

Thọ hai người: Dầu thọ ba người lý cũng không sai, chỉ không được thọ đến bốn người mà thôi.

Trong phần khiển trách sai, trước chỉ ra sai. Hai đầu là hai vị năm đức đều quỳ. Một lúc là hai tòa đều nói. Luật trở xuống là dẫn chứng. Trước dẫn bổn luật do không phải là đặc biệt chế. Kế dẫn luật Thập Tụng. Câu đầu chỉ bày pháp, bất trở xuống là ngăn lỗi có bốn.

Nghịch tác, từ hạ đến thượng (từ thấp đến cao).

Hành hành, là phân chia đều thú.

Siêu vượt, là khoảng cách giữa thứ lớp ngồi.

Xướng chung là hợp chúng đồng nghe.

Trong phần tăng đối lược, trước nêu nạn duyên, ngũ trở xuống là vị năm đức cáo bạch.

Tiện trở xuống là chúng tăng đối thuyết

Sớ chép: Không đối vị năm đức có ba cách lược.

Như một trăm người là năm mươi đối thuyết, lúc kia đây nói ba lần, nói hai lần, nói một lần.

Ba lần nói hướng về pháp, đây là rộng đối với người mà lược. Trở xuống hai thứ nhân pháp đều lược. Trong pháp đơn bạch chỉ đổi hai một là khác. Trong phần nói tác bạch, trước nói phải bạch, bất trở xuống là chọn trước không cần.

Trong phần đi thẳng, câu đầu gồm nêu năm món như trên; sau nêu

riêng món thứ sáu (quảng lược hợp luận khứ có bảy pháp).

Trực (phải đi thẳng) nhĩ khứ là do nạn đến không cho đối thuyết, đây là căn cứ sau khi vị năm đức hòa bạch rồi. Nếu chưa bạch mà nạn đến thì đợi thanh tịnh tự tứ, tức Ngũ Bách Vấn chung một tháng.

Nạn sự ở tiểu giới như trong phần kiết giới đã nói. Nạn nói chung thì cùng khắp, lược để chỉ bày: Thọ thuyết an cư, tự tứ đều dùng nạn vua, nạn nước, nạn lửa, v.v… tám nạn duyên khác đều gọi là nạn. Tăng giảm thuyết tự tứ tức do giới khác có sự đấu tranh, đến đây là nạn.

Tiểu khai: Đều dùng ngay trong giới, không hòa là nạn, tướng duyên đều khác không thể xen lẫn (phần nhiều dùng sai lầm nên ở đây chỉ bày).

Trong pháp năm người, khoa đầu sợ lạm hành là thường có người, vì đồng như trên đều sai hai vị năm đức. Kế là văn chia làm hai:

1. Trước nói pháp sai: Đầu tiên vấn hòa, kế đó bỉnh pháp, trước sau xen nhau làm năng sở, bất trở xuống là ngăn lạm hành.

2. Sau từ thủ trở xuống là chánh đối thú tự tứ.

Trong pháp bốn người, văn trước là nêu duyên, tác pháp có thể hiểu. Bốn người, hai người lớn đồng nhỏ khác. Khoa kế, trong phần có thể sám hối tự nói, tức là tự mình cầu người nêu tội của mình. Trong phần không thể sám, khoa đầu là ba phẩm Thâu-lan-giá. Phẩm thượng là ở trong giới đối trước đại chúng sám hối, vì năng sở (người phạm tội và đại chúng) đủ sáu người mới được thực hành.

Trong phần bát thuyết là biểu hiện ý người nầy đã nhập vào nhóm tội.

Giao tức huấn câu. Tăng số không đủ thì không phù hợp với việc trước. Vì thế nói là đều không.

Trong phát lộ, trước y cứ luật Thập Tụng vì đáng hối chưa hối. Vả lại, bạch xong thì đồng như phát lộ. Phạm tức đã phát lộ, các giới khác đã rõ ràng, nghĩa phải tự tứ, vì thế nói là không ngại.

Tứ Phần trở xuống là y cứ nêu, vì không có văn. Trước nêu việc tức trên tòa phát lộ khai cho nghe thuyết giới. Ký trở xuống là nêu đồng, thuyết giới tự tứ, chúng pháp nghĩa không khác. Vì thế trong văn có ba:

Một là tịnh hạnh đồng, vì đều hộ lễ.

Hai là chúng pháp đồng, vì đều nhiếp tăng bổn.

Ba là nhiếp trị đồng, vì có phạm đều phải sám hối. Phát lộ.

Lý trở xuống là sửa lời nói, lẽ ra phải đầy đủ rằng: Các Đại đức nhất tâm niệm! Ngày nay chúng tăng tự tứ, tôi Tỳ-kheo… phạm hữu lậu, tội Tăng tàn, tức trong văn tiếp theo do chúng nói, biết đây tức là tự tứ. Do thân còn mang theo tội phạm nên không thể nói thanh tịnh, phải điệp nhập pháp.

Trước nói: Năm người sắp lên được nêu tội, chỉ bốn người: Cho phép bạch rồi y như thường mà tự tứ, không cần phải sửa văn, vì trong pháp tăng tự tứ không trình bày thanh tịnh.

Trong phần vọng trình bày Phạm-ba-đề: vì nói ba lần, đối với mỗi người đều kệt ba tội (xưa nói hướng về ba vị Tỳ-kheo đều được một lần nêu ra là sai, vì trước đối với một hoặc hai vị, không cần phải nhất định).

Bất trở xuống là chọn khác, kia không nói phạm vì duyên thiếu.

Trong pháp một người, văn trước thứ nhất nói đầy đủ: Do bổn chúng pháp không có người bèn khai, vì thế phân biệt chỗ phải dự định đồng đại chúng; thứ hai từ nhược trở xuống tác pháp có thể hiểu. Khoa kế y cứ vào người giúp việc không thể có hai tướng. Sám hối tội đã phạm, phát lộ lỗi lầm đối với người không thể làm, vì thế cũng cho phép trên tòa phát lộ, ghi vào phạm tự tứ, nên nói rằng y theo trước (lời y theo trước đã làm).

Lại trong thiên thuyết giới, y cứ Ngũ Bách Vấn hướng về bốn phương tăng, sám rồi thuyết giới cũng có thể dùng.

Trong tạp tướng, trước nói duyên pháp, hiển thẳng hành sự. Tướng sai khác, đúng sai của giáo nghĩa đó được nêu ở phần sau, vì thế nói là đại minh.

Trong phần hỏi đáp thứ nhất nói tăng trị đủ nghĩa là trên được thông dưới, vì thế một người đến đối luận. Nếu y cứ hết thì cần phải có hai mươi vị, chẳng phải cho rằng đại chúng được tác pháp đối niệm, chỉ hướng về người phần nhiều có thể thực hành.

Người khác chưa hết: Dưới không nhiếp trên, vì thế bảy nhóm phải chia làm ba vị:

1. Chỉ có tăng trị gồm có ba: Ba-la-di, Tăng tàn và Thâu-lan-giá nặng.

2. Chỉ có biệt trị gồm có sáu: Trung Thâu-lan-giá, Hạ Thâu-langiá, Đơn-đề, Đề-xá-ni, Đột-cát-la nặng, Đột-cát-la nhẹ.

3. Chung tăng riêng: Sám hối tội xả đọa.

Tự tứ nhiếp tăng phải giữ tịnh hạnh, bên trong nêu bày trong ẩn giấu, miệng thuật lại dấu vết, vì thế nói rằng cử tâm ứng với tăng. Nhưng hai pháp đối thú và tâm niệm ngôn tướng tuy khác nhau nhưng đều phải thanh tịnh mới trình bày được.

Trong câu hỏi thứ hai, vì chỗ nêu ra không đồng sợ thành nghiêng chấp, vì thế trong phần đáp đều nêu ra pháp chính, tùy người áp dụng.

Luật Tứ Phần chép: Các Tỳ-kheo tự tứ rồi thuyết giới, ngồi lâu mỏi mệt, vì thế bạch Phật, Phật do đó khai cho, văn dẫn lời Phật nói.

Trong phần hỏi thứ ba, luật do nhóm Tỳ-kheo-ni sáu vị đến ngăn Tỳ-kheo chớ vì sáu vị ấy tác pháp Yết-ma và ngăn tự tứ, cho đến sai Thức-xoa, Sa-di-ni, cư sĩ đến ngăn. Phật đều cấm không được đối trước những người này tự tứ. Lại do vua Ba-tư-nặc sai binh lính ủng hộ tăng. Các Tỳ-kheo muốn tự tứ, Phật khiến tránh đi, các văn như trong lời đáp dẫn. Trước nói sai người tránh đi, nhược trở xuống tức tự mình tránh đi. Thời nay không biết phần nhiều cho cư sĩ nữ đến ủng hộ, ồn ào, thật trái với pháp chế, phải đuổi đi.

Trong phần khách đến, trước gồm chỉ bày tăng biệt, theo trong luật tăng tự tứ chưa xong, khách đến hoặc ít, hoặc bằng (khách và chủ số người bằng nhau), hoặc nhiều (khách nhiều hơn chủ) đều tùy theo vị thượng tọa, hạ tọa theo thứ lớp mà tự tứ (văn nầy không dẫn vì dễ biết). Nếu tự tứ rồi và chúng chưa đứng dậy, hoặc đứng dậy rồi có khách đến ít hơn chúng tại bổn xứ nên cho thanh tịnh, nếu không cho thì đúng như pháp mà trị.

Nếu khách bằng hoặc nhiều hơn nên tự tứ lại, không tự tứ lại, thì đúng như pháp mà trị.

Nhược trở xuống là chỉ bày riêng người khác.

Tăng pháp tức năm người đối thú như bốn người, vì thế đều chỉ như trước.

Trong phần hỏi đáp thứ năm về phá hạ rất dễ hiểu.

Nói lìa y: Do chưa nhập y Ca-đề. Trong pháp thọ nhật ở đây cho là ngày mồng 9 tháng 7 thọ, sau dẫn văn để chứng minh.

Sớ chép: Như trong luật đã chế, đến bảy ngày trở lại, nay hạn chế minh tướng xuất hiện, chính ở ngoài giới bặt phần chứng này, vì thế nói là phá hạ.

Lại nói: Ngày mồng 10 tháng 7 thọ bảy ngày, đến ngày thứ bảy là mãn hạ, không đến không phạm.

Trong phần hỏi đáp thứ sáu, luật Tứ Phần nói thọ nhật đến chỗ khác tự tứ và khách đến nhiều ít có nạn, ra ngoài giới đều không phải đương xứ (chỗ đương ở), mà luật Tăng-kỳ kết tội: Chính là chế không duyên liền đến mà thôi.

Trong phần hỏi thứ bảy cho rằng: tăng đúng thời được hiện tiền đúng thời, hai món này thưởng công lao trong mùa hạ, phi thời hai món thí không phải là điều bàn luận.

Nếu trong hai y đúng thời hiện tiền thí thì hạn cuộc người tiền an cư, trung gian và hậu an cư thì không có phần, như ở sau sẽ nói.

Trong phần đáp, trước dẫn văn nói cho phép, vì tuy là trung gian và hậu an cư nhưng công đức cũng bằng tiền an cư, phá hạ không kiết nhất định không dự phần.

Nhược trở xuống dẫn phòng xá làm lệ. Trong luật nói chia phòng rồi mà còn nhiều thì khai cho khách trụ xứ, trung gian và hậu an cư được thọ phòng xá, hạ rồi phân chia vật có thể dùng đó để lệ chứng.

Trong phần hỏi thứ tám, có duyên khai lược, không có nạn như thế nào, sợ đến nỗi lạm hành nên phải hỏi để quyết nghi. Trong phần đáp, luật nói nhóm tỳ-kheo sáu vị sợ Tỳ-kheo làm pháp yết-ma, nên ngăn tự tứ mới xảy ra các lỗi. Văn nêu bảy trường hợp, năm trường hợp là phi pháp, hai trường hợp là riêng chúng. Do nói một lần, nói hai lần, Phật liền chế, từ nay trở đi nói ba lần tự tứ.

Nói lén là âm thanh nhỏ, Phật dạy tự tứ phải nói rõ ràng để người khác nghe.

Nói mau là nói gấp, Phật dạy tự tứ nên nói từ từ.

Trong phần dạy bảo, trước dạy người tuổi nhỏ. Thứ nhất là hai thầy dự dạy; thứ hai từ dụ trở xuống là vị năm đức coi xét việc dạy.

Mỗi câu nghĩa là tùy theo lời dạy, phải nói theo từng câu, sau dạy tuổi già. Thứ nhất theo phần hỏi đáp ở trước, đầu tiên là đáp đồng; Cố trở xuống là dẫn nêu ra.

Trong phần hỏi đáp thứ chín, trong luật vì người tiền an cư và hậu an cư ở chung, không biết phải theo ai mà tự tứ, liền bạch Phật, trước tiên Phật dạy tùy theo vị Thượng tọa, nhưng trong các vị Thượng tọa có hậu an cư và tiền an cư (chủ khách đều có Thượng tọa). Kế dạy tùy theo cựu trụ, lại cựu trụ cũng có tiền an cư và hậu an cư. Dạy tùy theo số người đông, như văn đã dẫn.

Trong phần hỏi đáp thứ mười, trước dẫn chế giáo định phạm. Bộ Tứ Phần văn thông, sau dẫn bộ Mẫu luận. Đã nói là ra ngoài giới, tức là tăng trụ, không có duyên kết phạm mắc tội Đột-cát-la nhẹ.

Trong văn nói duyên: Hoặc vì Tam bảo, hoặc y cứ vào việc nạn, tùy có trở ngại không thể đi. Luật Ngũ Phần thọ thỉnh chính là y cứ tục xá, vì có phiền não thỉnh chủ nên kết tội Ba-dật-đề nặng.

Không phải chỗ thỉnh tức là tăng xá. Trái với trên thì được đến, y theo trước phạm Đột-cát-la.

Kế y cứ về hóa giáo hiển lỗi có năm. Một, hai rất dễ thấy; hoặc trở xuống ba câu là ba món. Hai ba xen lẫn nhau. Dùng nghĩa để phân thì trên là keo kiệt dưới là tham cầu. Hoặc có thể, trên thì y cứ vào ruộng nhà vườn rừng, dưới là tiền bạc của báu, ngũ cốc, vải vóc, năm món này không đâu chẳng phải là xan tham. Nhiều sự nghiệp chẳng phải là sự nghiệp của người xuất gia, xa lìa những món này sẽ thành thì có thể biết.

Y Ca-hy-na: Trong luật nói lúc bấy giờ, Đức Phật ngự tại nước Xávệ, Tỳ-kheo ở nước Câu-tát-la hạ an cư rồi đến ra mắt Đức Phật, đi giữa đường thì trời mưa y bị ướt hết, trong đó y Tăng-già-lê nặng nên mang theo rất cực nhọc. Lại ở nước nọ thời tiết lạnh Tỳ-kheo dùng y phẩn tảo cũng đến ra mắt Đức Phật, gặp trời mưa, mang theo cũng rất cực nhọc, nhân đó Đức Phật cho phép thọ y công đức, khai cho được năm điều lợi, trong chú thích dịch tên, luận Minh Liễu nói bốn tên. Thứ hai từ thí chủ, ba thứ còn lại công năng. Hai tên trở xuống là tự giải thích.

Nói không bại hoại nghĩa là bổ khuyết cũ, sửa đổi mới (có chỗ nói chứa y dư quá hạn không phạm tội xả đọa là sai).

Vững chắc nghĩa là hai khiến cho năm giới không thiếu sót.

Ấn chú nghĩa là khiến cho chúng được năm điều lợi.

Kế, xưa đổi hai tên có thể hiểu. Năm điều lợi như ở sau sẽ nói, khai cho đều được ích nên đồng gọi là lợi.

Trong phần phân chia chương và tạp xuất: Tức ở sau nói năm lợi, đúng thời, phi thời, v.v…

Khoa đầu trong bổn tông, trước là định chừng hạn thời gian. Đầu tiên dẫn văn ban đầu chỉ bày khai thọ, sau dẫn văn phần sau chứng chế xả. Khoảng giữa là y theo biết năm tháng.

Ứng thọ tức Phật cho phép.

Tiền an cư là từ trung gian và hậu an cư.

Mùa Đông bốn tháng: Tiếp mùa Hạ một tháng cộng chung thành năm tháng. (trang 21).

Như trở xuống là nói ngày khác được thọ. Cố trở xuống là dẫn chứng. Nghĩa (vị) trở xuống là chuyển giải thích.

Chỉ nói rằng liên ngày cho nên biết không hạn cuộc, sở dĩ không cho để qua đêm là vì có hai ý:

1/ Sợ để kéo dài lâu quá thì mất thọ.

2/ Khai quá đáng, quyết phải chế ước.

Luật Thập Tụng chứng ở trước chung một tháng là nói trong văn. Bộ Tứ Phần và Thập Tụng thì nói thọ một tháng, xả chỉ có một ngày. Trở xuống là dẫn trong Mẫu luận cũng như vậy. Trong luật Ngũ Phần thì phạp thọ giống các bộ, chỉ có pháp xả là khác. Kia y cứ rằng ngày được y đủ số bốn tháng. Sự đồng an cư, trước bớt sau thêm đều chung một tháng. Vì sao cho là khác ư?

Đáp: Y cứ rõ các bộ đều khai bốn tháng, nhưng tông nầy tính đều thấy khác nhau.

Luật Ngũ Phần thì lấy thọ y làm đầu tiên. Luật Tứ Phần dùng Yca-đề thường khai không ở trong số nầy. Nếu y cứ ngày rằm tháng 8 thọ không ngại luật Tứ Phần lại thành bốn tháng. Luật Ngũ Phần lại được năm tháng, suy nghĩ đó sẽ biết. Trong Mẫu luận, trước nói thọ xả, sau nói bảy tháng trở xuống tính số ngày. Có sự duyên không kịp nghĩa là y chưa xong, hoặc là do duyên ngại cũng khai cho cách ngày (trong các văn trên lại y cứ vào tác pháp xả, còn lại xả thì không nhất định).

Theo luật Thập Tụng thì không được nhiếp tháng nhuần, vì đây là pháp quá đáng.

Trong y thể có bốn: Một là chỉ bày thể, nếu được y mới tức đúng thời phi thời thí, vốn chẳng phải y công đức; Hai là Đàn việt thì chính là làm y công đức, thí chung cho bảy chúng. Y phẩn tảo trở xuống y theo luật mà có, hoặc là y mới, hoặc là y cũ, vì thế hai câu y đều giải thích y phẩn tảo ở trước mà thôi.

Vật mới gấp tịnh tức y mới ở trước do gấp cũ. Hoán nạp tịnh: Nói y cũ ở trước, không nhọc gì phải gấp lại.

Bất dĩ trở xuống, kế nói cầu xin lìa lỗi, kế lệ có sáu. Năm trường hợp trên chẳng phải như hai y đã giải thích, trở xuống một là hiển như nghĩa là chúng thí thuyết tịnh tài vật (luật Tăng-kỳ cũng nói tịnh tài được làm. Ba, ở trên nói rằng: Tiền ngày đến và ứng pháp, đây đều nói thọ pháp.

Nói ứng pháp: Tức ở sau chọn người bỉnh pháp đều phải hợp giáo.

Bốn: Tứ chu trở xuống là nói tác y pháp (cách may y) lại có ba, trước chỉ bày đê điều. Nói nếu quá đây nghĩa là đại y bảy điều. Nên nói rằng bảy điều hai mươi mốt bức cũng thuộc tăng dần lên.

Ưng tự trở xuống là nói cắt rọc, vả lại chỉ bày hạ y, còn lại có thể nêu ra làm tiêu chuẩn.

Hựu trở xuống là nói sắc tướng. Trong luật do nhóm Tỳ-kheo sáu vị dùng y nhuộm mầu chính, y bằng gấm lụa y mầu trắng, Đức Phật do đó chế giới.

Luật chép: Vì sao tăng không thành y công đức, nghĩa là không giặt, không cuốn, không sửa, không may viền, không cắt bức, không làm đường biên, không may, không có dây buộc, không làm lá, không may móc, như vậy là tà mạng, xiểm khúc, kích phát. Lìa y qua đêm, y xả đọa không tác tịnh, không đến ngay ngày đó, không đúng pháp thọ y (trái với đây thì đúng pháp có thể hiểu), không may viền bốn biên, không thọ ở trước tăng, hoặc có nạn, hoặc ở ngoài giới, tất cả những trường hợp như vậy đều không thành y công đức, trái với những điều nêu trên thì thành y công đức.

Trong luật Thập Tụng, trước chọn may. Nhược cố trở xuống là chọn lựa thể. Đến gò mả lấy là giải thích y đắp thây chết ở trên. Trong chú thích hòa hợp với văn trước nên biết. Luật Tứ Phần thường dùng y phẩn tảo, cũng không có chỗ lựa chọn.

Nhược điệp trở xuống là chỉ bày đúng như pháp.

Trong Già luận nói y thí gấy và y bố thí đúng thời vốn chẳng phải là y công đức, trải qua đêm cùng thành thọ.

Luật Tăng-kỳ nói chưa dùng tức y mới nói ở trước luật Ngũ Phần nói chẳng phải có bảy. Đều dùng chữ nhược để nêu. Bốn thứ trên là phân biệt y, tức may, thể, mầu sắc lượng đều phi pháp. Thứ năm là lựa thời. Sáu, bảy đều chọn người thọ. Vì thế, xả năm việc: y cứ trên có dùng hai chữ nếu muốn. Năm việc tức năm giới chứa y dư, v.v… Trước nói tham lợi, sau tức khinh thường giới (có chỗ cho rằng năm việc là năm tướng, văn kia không phải như vậy).

Ba, là nói chọn người. Trước trong phần chọn thọ luật Tứ Phần có bốn thứ. Nói có nạn nghĩa là các nạn như nạn vua, v.v… đều không được thọ, tức chọn người thọ. Lời sớ trong giới chép: luật nói: Có nạn không mất y, nay đã bị nạn giặc vì thế không được thọ, không có nạn thì nên thọ (thấy trong giới chốn lan-nhã lìa y, nói là mười ba nạn là lầm).

Không có Tăng-già-lê: chẳng phải ý vốn khai, như trong phần duyên trước.

Câu Nhĩ Vô trở xuống hai y có thành thọ chăng? Trong văn đáp không lựa chọn, suy nghĩ rất dễ biết.

Ở ngoài giới: Vì thân tuy hiện tiền, nhưng tướng không đủ số.

Luật Thiện Kiến, trước lựa chung đúng sai.

Trong văn bao gồm an cư và không an cư.

Nhược trở xuống là chỉ bày ngoài giới, trước không đủ sau đủ.

Năm không giải thích.

Trong phần đầu lựa chọn giới khác, không được nói tăng và Sadi. Tăng là thọ rồi thành giới cụ túc được lợi, và giới hiển đương thành thọ.

Luật Thập Tụng, trước nói phương tiện khai.

Khác giới đồng kiết: Kia nói rằng an cư rồi có bốn bên phòng tăng hoặc tám, hoặc chín, hoặc mười người hoặc nhiều hơn cùng kiết một giới thọ y Ca-hy-na. Tất cả Tỳ-kheo đều được gọi là Thọ. Sau kiết riêng: Nghĩa là tác pháp thọ rồi liền giải, liền kiết, không phải đủ năm tháng.

Kia hỏi rằng như trên nói tăng phòng cùng kiết, thọ rồi xả đại giới nầy, như vậy các Tỳ-kheo có được gọi là thọ y chăng?

Đáp: Đều gọi là thọ.

Xả là đồng: Như có một chỗ chúng không ưa thích, không có lợi thì không đợi thời gian đủ, hoặc tác pháp xả, hoặc gặp duyên mất, vì không có hại chỗ khác.

Kia hỏi rằng chúng nhiều tăng phòng cùng kiết thọ rồi xả giới nầy, y Ca-hy-na đã xả, như vậy tất cả Tỳ-kheo có gọi là xả không?

Đáp: Xả thì xả, không xả thì không xả. Nay dẫn lời đáp nhưng đổi lời mà thôi.

Hai: Lựa chọn phạm lỗi. Đuổi người tức diệt tẫn, văn kia chỉ nêu bốn hạng người, nay thêm chữ đẳng, lại thâu nêu tẫn và ba lần nêu người để bỏ ra ngoài chúng vì không đồng pháp (các văn không chọn bốn người Yết-ma. Nghĩa rõ dường như được).

Người trì: luật Thập Tụng nói người có năm đức. Bốn đức trước rất dễ hiểu, vị trở xuống là giải thích đức thứ năm.

Được và không được phải y cứ ba trường hợp: Thời, y và người để giải thích.

Luật Thiện Kiến, trước nói dùng y nhiều ít.

Vật quan trọng: Như tiền, của báu, v.v…

Nhược Yết-ma trở xuống, đây là nói đối với năm đức lại chọn thiếu. Do y thuộc kia có thể cứu giúp. Khoa nầy chính là nói chọn vị năm đức trì y.

Lại trong luận chép: Ba y tùy thí chủ nói đều cho người thọ y (tức là vị năm đức), chúng tăng không được thọ y Ca-hy-na (xưa cho rằng đủ năm tháng rồi trả lại, do y nầy cùng với y hoại trong chúng giống nhau, là lầm).

Sớ chép: Hạ trước tiên bạch: Nghĩa là khiến cho tăng quán sát, lâu ngày rất dễ biết, chỗ quán sát có năm:

  1. Người không có nhiều công việc vì chuyên giữ y.
  2. Không ưa những sự lỗi lầm, vì là chỗ nương của chúng.
  3. Người không tham tài, vì chẳng phải vì y nầy.
  4. Người có lòng từ bi vì thương xót chúng sinh.
  5. Ưa tuệ thí vì giúp cho người khác được lợi ích.

Hỏi: Người giữ y tự mình có được lợi không?

Đáp: Chỉ giữ không thọ nên không được lợi ích.

Hỏi: Ba y đã đầy đủ rồi, lúc thọ phải thế nào?

Đáp: luật Thiện Kiến chép: Đêm y Tỳ-kheo xả rồi, y Tăng-già-lê đã thọ, cầm y Ca-hy-na đến bạch vị Thượng tọa rằng: Tôi dùng pháp trì y Tăng-già-lê làm y Ca-hy-na (theo đây, y trước xả rồi thuyết tịnh. y Ca-hy-na làm pháp thọ trì).

Bốn: Trong phần tác pháp thọ y, khoa đầu luật dạy sai người cũng không nêu pháp.

Luật Tăng-kỳ chép:

Đại Đức tăng xin lắng nghe! Nay tăng được y tài này, nếu tăng phải thời mà đến, tăng cùng Tỳ-kheo… và các vị khác lấy y Tăng-già-lê làm y Ca-hy-na, tác bạch như vậy.

Đại Đức tăng xin lắng nghe! Các Đại đức bằng lòng cho Tỳ-kheo mỗ giáp… thì yên lặng, nếu vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng Tỳ-kheo mỗ giáp… nên yên lặng, việc này cứ thực hành như vậy.

Khoa kế, trước nói khai chế, không được nói đạo đức: ngăn lời kia nói làm lưu nạn.

Nếu không cùng may, đề cho cách đêm thì không thành thọ.

Sở dĩ trở xuống là chỉ bày ý.

Chư Phật khen ngợi: khiến cho được lợi ích an vui tu đạo. Vì thế luận chép: Xưa có Đức Phật hiệu là Liên Hoa, có một vị đệ tử tên là Tu-xà-đa, may y Ca-hy-na chưa xong, vì thế cùng may với các Tỳ-kheo. Khoa sau chỉ rộng nhưng trình bày ý tóm lược, nay không nêu phần y thể ở trước nhưng văn cũng rõ.

Lại dẫn luật Tăng-kỳ để chỉ bày.

Luật kia chép: Nếu có người cúng thí y công đức không được làm thinh mà thọ, phải nói rằng: nay ta thọ y Ca-hy-na (y công đức). Thọ rồi đến trong, tăng bạch hai lần, báo chúng tăng rằng:

Đại Đức tăng xin lắng nghe! Nay tăng được y công đức đúng thời này (thời y tài), nếu tăng đến đúng thời, tăng nhận y Ca-hy-na nầy, tác bạch như vậy.

Kế sai người có khả năng may y, hoặc một người hoặc hai, ba người, bạch nhị Yết-ma mà sai. Sai rồi một người làm chủ thọ y công đức. Đúng thời thì nói như vầy: Thọ y Ca-hy-na này tăng đáng thọ (nói ba lần) nên nói rằng: “Y Ca-hy-na tăng đáng thọ như vậy”.

Khi cắt, khi may, khi nhuộm, khi điểm tịnh, hễ chỗ nào làm đều nói ba lần như trên, không nói mà làm cũng thành nhưng mắc tội Việt Tỳ-ni.

Trong phần chánh thọ, khoa đầu:

Điệp rộng: Theo lượng dài, tức là xếp hai đầu, may khíu hai đầu, giữa khíu ba đường, năm đường tức là bốn điệp.

Trong phần bỉnh pháp, trước lựa chọn chúng, gồm các bộ trước, cộng chung có mười một hạng người.

1- Người dữ dục (tức không hiện tiền) 2- Người có nạn (ở đây chung một chúng) 3- Người không có đại y. 4- Giới khác.

– Trung gian và hậu an cư.

  1. Phá hạ.
  2. Không kiết hạ.
  3. Phạm tội Tăng tàn.
  4. Ở riêng.
  5. Học hối.
  6. Người bị diệt tẫn.

Khiến ngồi riêng: Do người được thọ phải ngồi liên tiếp nhau, để hành sự cho tiện nên không theo thứ lớp.

Tuy trở xuống là ngăn tình.

Sợ cho rằng hai phần trái khác nên trong phần hỏi đáp y cứ đáp chung, chung cho ba pháp sau. Nếu hành riêng thì tùy theo đáp.

Trong cách bạch hỏi: Ở đây khác với pháp tự tứ, bạch trước sau như thế nào?

Đáp: Có người nói y công đức cho phép dạy chung tác bạch, không tác bạch. Trước tòa bạch chúng cho phép tác bạch rồi mới sai. Tự tứ nghiêm chế không suy xét, không hành, trước sai sau mới hòa chúng.

Hoặc có thể: Y công đức ba pháp đều là vị Thượng tọa làm. Tự tứ bạch, hòa phải do người năm đức bỉnh bạch, vì thế khác nhau.

Lại nói, Chế pháp không đồng không cần so sánh.

Trong phần sai người, chú thích nêu lên nghi thức.

Cùng với một Tỳ-kheo: Nghĩa là đối diện nhau hỏi đáp, văn giống như đối với riêng người khác, y cứ theo luật tức vị có năm đức.

Trong phần cho y, văn đầu tiên chỉ bày vị năm đức đầy đủ oai nghi.

Đương trở xuống trong duyên vị Thượng tọa làm pháp Yết-ma. Có thể chia y tức gọi là vật khinh, đây là điệp duyên.

Tăng trở xuống là điệp bổn.

Hai câu trên nêu ra tăng chúng giao y.

Tỳ-kheo nầy trở xuống là nói người năm đức thọ y.

Trong phần thọ y, khoa kế là Thượng tọa quỳ: y cứ trở xuống đều như vậy.

Khước hành tức thân lui về.

Cho nên tự tứ đối trước hai người, ba người, nay đối trước bốn người, suy nghĩ sẽ hiểu.

Trong lời nêu bày có ba:

1- Vị năm đức tác pháp chưa thọ khiến thọ, gọi là Đương, chánh thọ nay kết, gọi là dĩ.

2-Trong lời tăng thọ nói kia thọ tức chỉ chung chúng tăng, khéo thọ thì không phạm lỗi phi pháp.

Nói trong đây là chỉ chỗ thọ y. Y tên là công đức, tên phải có thật, công đã thuộc về ta, sẽ được năm điều lợi, mỗi mỗi nói không phải là hợp tụng.

3- Vị có năm đức đối đáp.

Bốn người nói rồi đều dùng một lần đáp (luật Tứ Phần tuy có tăng pháp. Bộ Tăng-kỳ khai đối thú, tâm niệm thọ là đúng, bộ nầy thì khác nên không dẫn).

Trong pháp xả: Trong luật do Có nhóm Tỳ-kheo sáu vị không chịu xả y công đức vì muốn kéo dài năm việc lợi. Vì thế Phật do đó mà chế xả. Nếu không xả quá chừng hạn của y công đức phạm tội Đột-cát-la.

Trong bổn bộ, hai phần trước của khoa đầu rất dễ hiểu. Hựu trở xuống: Luật nói có tám nhân duyên xả y công đức.

1. Ra đi (may rồi không trở lại, ý muốn ra đi thì liền mất, vì khi thọ có tâm muốn, sau trái đó nên mất).

2. Y may thành (ra ngoài giới may y, may xong rồi dần mất).

3. Y may chưa thành (ra ngoài giới khởi ý niệm không may y cũng không trả y lại, may chưa thành tức xả).

4. Mất y (ra ngoài giới may y rồi mất y, cũng mất y công đức).

5. Mất hy vọng (ra ngoài giới hy vọng may y đến (vọng xứ), không hy vọng liền mất).

6. Nghe xả (ra ngoài giới may y rồi, nghe tăng xả y công đức, liền mất).

7. Ra ngoài giới (ra ngoài giới may y rồi, ở ngoài giới chúng tăng xả y công đức liền mất).

8. Đồng xả (ở ngoài giới may y, hoặc rồi hoặc chưa rồi, trở lại trụ xứ hòa hợp xả y công đức ).

Năm trường hợp trước trái với tâm bổn yếu cho nên mất, ba trường hợp sau lại nhân Yết-ma mà xả.

Hỏi: Ba trường hợp sau có gì khác với ở trước tăng hòa hợp mà xả?

Đáp: Trước là thời gian đủ, ba trường hợp sau không nhất định, nên khác nhau.

Trong phần hiển bày riêng, trước nói hỏi hòa: Trong luật chỉ có pháp Yết-ma nầy và tựa giới bổn trước đã nêu đầy đủ, còn bao nhiêu đều nêu dùng vì thế phải chỉ bày rõ cho biết chỗ nêu ra.

Trong văn sáu duyên, lại y cứ lời hỏi phải đủ mười, như trong thiên trước. Bộ khác và luật Tăng [hàng 21, Ô2 – 22] -kỳ có mười trường hợp xả y:

1- Y may xong thành xả (thọ rồi nghĩ rằng y may thành rồi sẽ xả, khi may xong rồi liền xả).

2-Khi thọ xả (nghĩ rằng khi thọ y xả, khi thọ liền xả).

3- Thời gian đủ rồi xả (nghĩ rằng đúng thời gian đó xả, đến kỳ hạn đủ liền xả).

4- Nghe xả (nghĩ rằng nghe Hòa-thượng xả, lúc đó sẽ xả, khi nghe liền xả).

5. Đưa cho xả (nghĩ y này cho người khác mình sẽ xả, khi đưa cho người khác liền xả).

6. Hoại xả (thọ rồi, trung gian tự nói nay ta xả, khi nói lời này liền xả).

7. Mất xả (nghĩ rằng y nầy trung gian (khoảng thời gian sau khi thọ) hư hoại hoặc mất không còn sẽ xả. Khi hư hoại hoặc mất liền xả).

8. Ra đi xả (nghĩ rằng khi đi sẽ xả, khi đi liền xả).

9. Quá thời xả (như lời sao đã nói, kia nói mắc tội việt Tỳ-ni).

10. Rốt ráo xả (đến ngày rằm tháng chạp ở trong tăng một người xướng rằng: Bạch Đại đức tăng! Ngày nay tăng xả y Ca-hy-na, (nói ba lần như vậy).

Chỉ các bộ khác là luật Ngũ Phần có tám trường hợp mất y:

1- Thời xong (tức bộ Tăng-kỳ nói quá thời).

2. Mất y.

3. Nghe mất.

4. Đi xa.

5. Mất hy vọng.

6. Y đem ra ngoài giới (đem y công đức ra ngoài giới qua đêm).

7. Người ra ngoài giới (Đồng với luật Tứ Phần người ra ngoài giới qua đêm).

8. Bạch nhị xả (Tứ Phần thì đơn bạch).

Liễu luận có tám:

  1. Xong.
  2. Thành tựu.
  3. Xuất ly (đồng với đi xa ở trước).
  4. Mất.
  5. Nghe.
  6. Quá vị.
  7. Mất hy vọng.
  8. Cùng dứt trừ (tác pháp trừ).

Mười thứ như luật Tăng-kỳ ở trên.

Đều tùy trở xuống, chỉ bày ý chung của các văn.

Trái bổn tâm: y cứ nhiều phần, trong đó không chỗ nào không làm pháp quá thời.

Trong năm điều lợi nêu rằng thông bít: Thông tức năm tháng, được lợi, bít tức ngoài thời không khai (trong đây chỉ nói có y năm tháng, kia một tháng thường khai. Như thiên an cư không đồng xen lạm nhau).

Trong thông bít, trước nêu chung năm tướng.

Gồm khai tám tội chứa y dư nhiếp ba. Lìa y gồm hai, giải thích tướng nói đủ, đều chỉ như sau.

Sở dĩ khai: Hạ xong rồi, người quản y ra ngoài có nhiều việc. Nếu không khai thông, thì chung thành cứu giúp.

Theo luật Thập Tụng được chín việc:

  1. Mười đêm.
  2. Sáu đêm.
  3. Một đêm.
  4. Năm duyên giữ y Tăng-già-lê (1/ Sợ hãi; 2/ Mưa gió; 3/ Giữ đại y; 4/ Giặt nhuộm; 5/ Đem cất).
  5. Năm duyên giữ áo mưa.
  6. Thường ăn.
  7. Ăn riêng chúng.

8 và 9 hai thời không bạch mà vào xóm làng (luật Tứ Phần không khai phi thời, bộ khác không đồng).

Kỳ trở xuống riêng chọn chứa y dư. Trước nói về giới hạn, trong

một năm, năm tháng là đúng thời, bảy tháng là phi thời. Dũ trở xuống là giữ tướng nhiếp thời, mười ngày khai thọ cấp thí, tức phi thời nhiếp đúng thời.

Câu tự tứ xong rồi không vì an cư mà thí: Thời nhiếp phi thời. Trong phần răn dè tâm bình đẳng, sợ đối với lợi dưỡng được mất mà động lòng. Vì thế dẫn kinh chỉ bày khiến tâm bình đẳng. Trước nêu bốn pháp, tức tám gió thổi, bốn trái bốn thuận. Văn trước nêu trái vì thế nói là bốn, sau mới hợp lại giải thích thì nói rằng tám pháp. Không sợ là tâm bình đẳng. Trước là riêng giải thích thứ nhất đây là y cứ ý. Ba còn lại là nhân dẫn, cho nên không nói.

Tám pháp: Lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ và lạc. Bốn trái đối với trên, bốn thuận trái nhau có thể biết. Trên là tu cho mình, vi trở xuống là chỉ người khác. Được mất, vinh nhục đều là bổn nghiệp duyên, gió trái thuận đến không ưa thích.

Tứ Phần Luật Hành Sự Sao Tư Trì Ký- Quyển thượng Phần xong