Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

V. PHÁP HỘI THÁNH CHÚNG ĐỆ NHẤT

Phần này giới thiệu địa điểm, thời gian đại chúng tham gia trong Pháp hội.

KINH VĂN:

Như thị ngã văn, nhất thời Phật tại Vương Xá thành, Kỳ Xà Quật sơn trung, dữ đại tỳ kheo chúng vạn nhị thiên nhân câu. Nhất thiết đại thánh, thần thông dĩ đạt. Kỳ danh viết: Tôn giả Kiều Trần Như, tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Đại Mục Kiền Liên, tôn giả Ca Diếp, tôn giả A Nan đẳng, nhi vi thượng thủ. Hựu hữu Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, cập Hiền Kiếp trung nhất thiết Bồ Tát, giai lai tập hội.

VIỆT DỊCH:

Tôi nghe như thế này: Một thời đức Phật ở tại thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, với các đại tỳ kheo chúng một vạn hai ngàn người câu hội. Hết thảy các vị đại thánh đã đạt thần thông, tên các ngài là: Tôn giả Kiều Trần Như, tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Đại Mục Kiền Liên, tôn giả Ca Diếp, tôn giả A Nan v.v… làm thượng thủ. Lại có Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát và hết thảy Bồ Tát trong Hiền Kiếp đều đến nhóm hội.

GIẢNG:

Như thị ngã văn” (Tôi nghe như vầy). Tất cả kinh Phật đều mở đầu bằng câu này, là do di giáo của đức Thế Tôn , ngụ ý pháp môn này do chính A Nan, tôi được nghe từ đấng Thích Tôn.

Có người nghi rằng: Phật thành đạo đã hai mươi năm, sau đó A Nan mới xuất gia; lại đến mười năm sau đó, A Nan mới vâng mạng làm thị giả. Như vậy, những kinh Phật dạy trong ba mươi năm trước đó làm sao A Nan có thể nghe mà bảo rằng “tôi nghe”? Có ba cách giải thích: Triển chuyển văn, Phật trùng thuyết, A Nan tự thông.

Triển chuyển văn: Trong Kinh Báo Ân nói những kinh nào A Nan không được nghe trước đó thì nghe từ các tỳ kheo khác, hoặc nghe chư thiên nói.

–  Phật trùng thuyết: Kinh Báo Ân nói A Nan tuân lệnh Phật làm thị giả, bèn xin ba điều. Điều thứ ba là: những kinh chưa được nghe xin Phật giảng lại, Phật chấp nhận.

–  A Nan tự thông: Kinh Kim Cang Hoa nói A Nan đắc Pháp Tánh Giác Tự Tại tam-muội nên với những kinh chưa nghe, ngài tự có thể ức trì.

Do đây có thể biết, câu: “như thị ngã văn” vô cùng quan trọng. Bốn chữ này cũng hàm nghĩa: Đức Phật suốt bốn mươi chín năm thuyết pháp, nếu đem tổng kết lại thì Phật chỉ nói có hai chữ “như thị”. Có nghĩa là xưa nay những gì Phật dạy chẳng bao giờ biến đổi nên gọi là “như”; những gì Phật dạy, lúc nào cũng đúng như lý mà nói nên bảo là “thị”. Cách nói này thật là tuyệt diệu!

Ngẫu Ích Đại Sư trong Di Đà Yếu Giải bảo: “ Nương theo lý Thật Tướng niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ quyết định chẳng sai nên bảo là Thị”.

“Như Thị” là “Tín Thành Tựu”, là điều đầu tiên trong sáu thứ thành tựu. Chữ “ngã” (tôi) để chỉ cho người kết tập, tức tôn giả A Nan. Chúng ta đều biết: Thế Tôn năm xưa lúc còn tại thế, giảng kinh nói pháp hoàn toàn dùng khẩu ngữ, không có văn tự ghi chép. Mãi sau khi đức Phật diệt độ, chúng đệ tử cảm thấy một đời thầy mình đối với đại chúng biết bao nhiêu điều dạy dỗ quí báu, cần phải lưu truyền cho đời sau. Nếu nhờ vào khẩu truyền thì rất khó, hơn nữa dễ phát khởi sai lầm. Phương pháp tốt nhất là dùng văn tự ghi chép lại. Việc ghi chép phải vô cùng chính xác và cẩn trọng. Đồng thời, sự kết tập phải do đoàn thể quyết định.

Phương pháp kết tập là thỉnh A Nan tôn giả đem những kinh mà Thế Tôn đã giảng trong quá khứ giảng lại một lần. A Nan tôn giả nổi tiếng là đa văn đệ nhất trong hàng đại đệ tử của đức Phật. Sức ký ức của A Nan vô cùng tuyệt diệu, chẳng khác chi máy ghi âm, sau khi nghe qua một lần là vĩnh viễn không quên, có thể giảng y như Phật. Vì thế, ngài được đại chúng thỉnh đăng tòa giảng kinh, bên cạnh có người ghi chép lại. Phần thính chúng gồm năm trăm vị A-la -hán, đều là học trò của đức Phật, cũng đã từng nghe Phật giảng kinh, thỉnh họ đến để chứng minh. Đồng thời, khi A Nan thuyết giảng, nếu có vị nào không đồng ý điểm nào thì đoạn thuyết giảng đó phải xóa bỏ không được ghi chép. Sự nghiêm cẩn trong việc kết tập kinh điển là vậy, đòi hỏi phải tất cả năm trăm vị thánh chúng đều công nhận đó chính là lời Phật dạy mới được ghi nhận. Bốn chữ “như thị ngã văn” xác quyết chắc thật lời A Nan nói là đúng sự thật, đó là “Tín thành tựu”, khiến người sau có thể tin được.

Chữ “ngã văn” là “Văn Thành Tựu”. “Văn” là nghe; “ngã” là tự ngã. Có người hỏi:

– Thánh nhân “vô ngã”, sao A Nan lại tự xưng là “Ngã”?

–  Vì chẳng hoại giả danh vậy! Thật tướng vô tướng nên chẳng giống như phàm phu có “Ngã”. Thật tướng chẳng phải bất tướng, nên chẳng giống “vô ngã” của Tiểu Thừa. A Nan thuận theo thế gian, giả gọi là “Ngã”, nên chẳng trái nghịch “Đệ Nhất Nghĩa Đế”. Lại nữa, như Quán Kinh Sớ nói: “Không Ngã thì không ai nghe; không ai nghe thì sự giáo hóa tuyệt. Vì để truyền dạy, hóa độ chẳng tuyệt, giả danh nói Ngã”.

Nhất thời” (một thời) là “Thời Thành Tựu”. Trong kinh chẳng nói là năm đó, tháng đó, chỉ căn cứ lúc thầy trò căn cơ tương ứng hòa hợp, nói, nghe hoàn tất thì gọi là “nhất thời”. Hơn nữa, lịch pháp mỗi nơi chẳng giống nhau, cách phân chia thời gian trên thế giới khác nhau: Một ngày đêm trên trời Tứ Thiên Vương bằng năm mươi năm dưới trần. Khoa học hiện nay đã chứng minh thời gian mặt trời đi trọn một vòng quanh trung tâm Hệ Ngân Hà (tức là một năm thái dương) tương đương với thời gian hai vạn vạn năm trên địa cầu. Tốc độ chuyển động của vật thể càng gần với vận tốc ánh sáng thì thời gian cũng tùy theo vận tốc chuyển động của vật thể mà biến đổi, chẳng có số lượng nhất định. Vì thế, trong kinh chỉ nói “nhất thời” là hết sức thực tế.

Phật” là “Chủ Thành Tựu”. Phật là tông chủ của hết thảy chúng sinh nên gọi là chủ. Hơn nữa, trong sáu thành tựu, “Chủ thành tựu” đóng vai trò trọng yếu nhất. “Phật” tiếng Phạn là “Phật Đà”, dịch sang tiếng Hán là Giác giả (bậc giác ngộ). Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.

Tự giác khác với phàm phu bất giác.

Giác tha khác với Nhị Thừa chỉ giác ngộ cho riêng mình.

Giác hạnh viên mãn khác với Bồ Tát còn đang tu nhân.

Ba “giác” cùng viên mãn là bậc tôn quí nhất trong thánh chúng, nên xưng là Phật.

Tại Vương Xá thành, Kỳ Xà Quật sơn trung” (Tại Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật) là “Xứ Thành Tựu”. Sách Đại Bảo Tích Kinh Luận ghi:

Hỏi: Vì sao pháp này chỉ nói ở thành Vương Xá mà không nói ở thành quách khác?

“Đáp: Do bởi pháp này là trụ xứ của đấng Pháp Vương. Ví như thành Vương Xá là chỗ cư ngụ của vua nên gọi là Vương Xá. Pháp môn này cũng giống như thế, là chỗ cư ngụ của đấng Pháp Vương. Để biểu thị nghĩa này nên nói là trụ ở thành Vương Xá”.

Núi Kỳ Xà Quật (Griddhkuta) là một trong năm hòn núi ngoài thành Vương Xá. Tịnh Ảnh Sớ viết: “Núi Kỳ Xà, Hán dịch là núi Linh Thứu. Núi này có nhiều bậc linh tiên cư trụ nên gọi là Linh. Cũng do có chim Thứu sống trong núi này nên gọi là Thứu và “Đảnh núi này hình giống đầu chim Thứu nên cũng gọi là Thứu Đầu sơn”.

Sách Tây Vực Ký nói về núi này như sau: “Mặt Nam của phía Bắc núi đột nhiên cao vót lên như chim Thứu đậu, cũng giống như cái đài cao. Sắc núi biếc in lên không trung đậm nhạt rõ nét, Như Lai ngự trong đời năm mươi năm thường ở núi này thuyết nhiều diệu pháp”.

Trí Độ Luận giảng: “Núi Kỳ Xà Quật hơn hết trong năm ngọn núi vì:

Tinh Xá trong núi này gần thành, nhưng khó lên được. Vì gần thành nên đi khất thực không vất vả, do khó lên được nên người tạp nhạp chẳng tới. Vì vậy, phần nhiều ngự ở núi này chẳng trụ nơi khác.

Núi Kỳ Xà Quật này là chốn phước đức xa xưa, là chỗ thánh nhân thích ở. Phật là chúa các thánh nên hay ngự ở đây.

Núi Kỳ Xà Quật là trụ xứ của tam thế chư Phật.

Trong núi này thanh tịnh, là nơi có phước đức, vắng vẻ, thanh tịnh, là hành xứ của hết thảy chư Phật, là nơi được thập phương Bồ Tát cung kính, khen ngợi, tám bộ đại lực chúng thần thủ hộ cung kính, cúng dường. Các Kinh Đại Thừa phần nhiều được nói tại núi này”.

– Trong núi, mười phương đại lực Bồ Tát vô lượng trí tuệ, phước đức thường đến gặp Thích Ca Mâu Ni Phật, lễ bái, cung kính nghe pháp. Các Kinh Đại Thừa phần nhiều giảng tại núi này.

Dữ đại tỳ kheo chúng vạn nhị thiên nhân câu” (Với các đại tỳ kheo chúng một vạn hai ngàn người câu hội). Cuối phẩm thứ ba có câu: “Hựu hữu tỳ kheo ni ngũ bách nhân, thanh tín sĩ thất thiên nhân, thanh tín nữ ngũ bách nhân. Dục giới thiên, Sắc giới thiên, chư thiên Phạm chúng, tất cộng đại hội” (Lại có tỳ kheo ni năm trăm người, thanh tín sĩ bảy ngàn người, thanh tín nữ năm trăm người. Dục giới thiên, sắc giới thiên, chư thiên Phạm chúng cùng nhóm trong đại hội).

Cuối kinh cũng chép: ‘Chư Bồ Tát, Thanh Văn, thiên long bát bộ, nhất thiết đại chúng, văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỉ, tín thọ phụng hành” (Chư Bồ Tát, Thanh Văn, thiên long bát bộ, hết thảy đại chúng, nghe lời Phật dạy đều hoan hỉ lớn, tin nhận, vâng làm) cho thấy lúc Phật thuyết kinh, trong hội có các đại Bồ Tát, Thanh Văn, tỳ kheo, tỳ kheo ni, thanh tín sĩ, thanh tín nữ, cho đến chư thiên phạm chúng, thiên long bát bộ đều đến nghe pháp. Đây chính là “Chúng Thành Tựu” trong sáu thứ thành tựu.

Tỳ kheo” (Bhiksu) là tiếng Phạn, có ba nghĩa: Khất Sĩ, Phá Ác, và Bố Ma.

– Khất Sĩ: Là khất thực, khất pháp. “Khất thực” là khi đã xuất gia rồi thì xin ăn để nuôi thân, không làm ăn, không tích chứa, bỏ hết vạn duyên, một dạ thanh tu. “Khất pháp” là tìm thầy hỏi đạo, nằm sương dãi gió, tìm cầu diệu pháp mong thành thánh quả nên bảo: Khất pháp để dưỡng tâm.

– Phá Ác: Chánh tuệ, quán sát phá phiền não ác, trừ hết “kiến tư hoặc”, siêu xuất tam giới.

– Bố Ma: (làm ma sợ hãi) như Kinh Niết Bàn nói: “Ma tánh cấu tệ, kỵ tha thắng kỷ, kiến bỉ thắng kỷ, cố hoài khủng bố. Hựu cụ kỳ nhân đa hóa chúng sinh đồng xuất sinh tử, không kỳ cảnh giới, cố sinh khủng bố” (Tánh ma cấu tệ, theo Trung Hoa Đại tự điển, chữ cấu có tám nghĩa, một nghĩa trong ấy là Ác), kỵ người hơn mình, thấy ai hơn mình lòng sinh kinh hải. Lại sợ người ấy giáo hóa nhiều chúng sinh cũng thoát khỏi sinh tử, khiến cho cảnh giới ma trống rỗng nên sinh lòng sợ hãi).

Đại”: Tiếng Phạn là Ma-ha, có ba nghĩa là đại, đa, thắng: “Đại” là như A Di Đà Sớ Sao giảng: “Thiên Vương, đại nhân cùng kính ngưỡng, do đức chẳng nhỏ nên gọi là Đại”. Ngài Gia Tường bảo: “ Đại có ba nghĩa: Một là sinh sự hiểu biết lớn lao, hai là phá ác lớn, ba là chứng đại quả”. “Đa” là nội điển (chỉ kinh sách trong Phật môn), ngoại tịch (chỉ những sách vở thế gian) đều thông suốt nên gọi là Đa. “Thắng” là vượt hơn những kẻ học khác, vượt lên trên cả chín mươi sáu thứ ngoại đạo.

Vạn nhị thiên nhân câu (Một vạn hai ngàn người câu hội) là nói về số lượng các tỳ kheo.

Bộ Hội Sớ của Nhật viết: “Các kinh thường nêu một ngàn hai trăm năm mươi người. Kinh này và Kinh Pháp Hoa lại nói một vạn hai ngàn người. Đó là bổn hoài xuất thế, là Pháp hội thù thắng cả một đời, nên thập phương đại đức đều như mây nhóm đến”. Chữ “câu” có nghĩa là cùng nhóm đến.

Nhất thiết đại thánh, thần thông dĩ đạt” (Hết thảy đại thánh, thần thông đã đạt). Câu này vốn là câu khen ngợi đức hạnh của Bồ Tát. Nhưng, trong kinh này dùng lời khen ngợi Bồ Tát để ca tụng Thanh Văn là ngụ ý các vị thánh chúng thường theo hầu Phật vốn là Pháp Thân Đại Sĩ, “ẩn Bổn thùy Tích” (Bổn là Quả địa thật sự, Tích là những hạnh, những quả vị biến hiện. Chẳng hạn, Quán Thế Âm Bồ Tát là cổ Phật (Chánh Pháp Minh Như Lai, đây là Bổn), nhưng thị hiện thân Bồ Tát (đây là Tích) nhằm giúp A Di Đà Phật và Thích Ca Mâu Ni Phật giáo hóa chúng sinh, hoặc là thánh chúng phương khác giúp Phật hoằng hóa, đóng vai trò những người gây ảnh hưởng.

Câu “nhất thiết đại thánh” (hết thảy đại thánh) chỉ Bổn Địa của họ vốn là bậc Bồ Đề rốt ráo. “Thần thông dĩ đạt” là Quyền Tích (thị hiện phương tiện quyền biến), dùng du hí thần thông đến cõi này. Do vậy, biết được các hàng Thanh Văn nêu tên sau đó đều là các bậc đại quyền thị hiện hỗ trợ đức Thế Tôn khai hiển pháp môn Tịnh Độ.

Hội Sớ viết: “Từ Sơ Quả trở lên đều gọi là Thánh. Đã cùng tột quả Đại A-la-hán thì gọi là Đại Thánh. Cũng có thể hiểu là ngoài hiện làm Thanh Văn, trong ẩn dấu hạnh Bồ Tát nên gọi là Đại Thánh”.

Chữ “Thần” là thần dị, chẳng lường được, chữ “thông” là vô ngại, không bị úng trệ, chữ “đạt” có nghĩa là chứng, chính là chứng “Tam Minh, Lục Thông” (ba minh, sáu thông).

Đương thời, ngài A Nan tuy chưa đắc Lậu Tận Thông, nhưng do ngài là đương cơ nên cũng kể trong số các vị này.

Ngài Tịnh Ảnh giải thích: “A Nan lợi căn tăng thượng, tuy còn ở địa vị Hữu Học (chưa đạt được quả vị Vô Học) mà thành được vô thượng công đức thắng diệu nên gọi là Đại Thánh. Đã hiểu  biết trọn vẹn thần thông nên cũng gọi là đã đạt”. Do vậy, ngài A Nan cũng được nêu tên trong số “nhất thiết đại thánh thần thông dĩ đạt”.

Kỳ danh viết: Tôn giả Kiều Trần Như” (Tên các ngài là: Tôn giả Kiều Trần Như). “Tôn giả” là bậc trí đức đầy đủ, đáng tôn trọng, cũng là tiếng tôn xưng bậc A-la-hán. “Kiều Trần Như” gọi đủ trong tiếng Phạn là A Nhã Kiều Trần Như. “A Nhã” là tên, “Kiều Trần Như” là họ; dịch sang tiếng Hán là “Liễu Bổn Tế”, “Tri Bổn Tế” hoặc là “Dĩ Tri” (đã biết), “Vô Tri” (“Vô Tri” không có nghĩa là chẳng biết gì, mà có nghĩa là biết được cái “Không”). Ngài Tịnh Ảnh bảo: “A là không, Nhã là trí. Chứng Vô Thành Trí nên gọi là Vô Trí. “Vô” là bản tánh của hết thảy các pháp nên gọi là Bổn Tế. Hiểu biết rõ ràng Bổn Tế ấy nên gọi là Liễu Bổn Tế”. Lúc Thế Tôn “chuyển pháp luân” lần thứ nhất độ năm tỳ kheo, ngài Kiều Trần Như ngộ đạo đầu tiên.

Sách Pháp Hoa Văn Cú chép: “Ngài là đệ tử thứ nhất trong giáo pháp của Phật Thích Ca”. Trong “phẩm Đệ Tử” của Kinh Tăng Nhất A Hàm, Phật gọi ngài là: “Ngã Thanh Văn trung đệ nhất tỳ kheo, khoan, nhân, bác thức, thiện năng khuyến hóa, tương dưỡng thánh chúng, bất thất oai nghi” (Tỳ kheo bậc nhất trong hàng Thanh Văn của ta: khoan dung, nhân từ, hiểu rộng, có khả năng khuyến hóa khéo léo, dạy dỗ thánh chúng; chẳng mất oai nghi).

Theo cụ Hoàng Niệm Tổ: Kinh này trước hết nêu tôn danh ngài Kiều Trần Như nhằm biểu thị: Người có thể nghe nhận kinh pháp này đều là đệ tử bậc nhất. Phẩm “Phi Thị Tiểu Thừa” (Chẳng phải là Tiểu Thừa) của kinh này chép: “Đắc văn A Di Đà Phật danh hiệu, năng sinh nhất niệm hỉ ái chi tâm, qui y, chiêm lễ, như thuyết tu hành… đương tri thử nhân, phi thị Tiểu Thừa, ư ngã pháp trung, đắc danh đệ nhất đệ tử” (Được nghe danh hiệu A Di Đà Phật rồi có thể trong một niệm sinh lòng hoan hỉ, yêu thích, qui y, chiêm lễ, đúng lời dạy tu hành… nên biết người ấy chẳng phải là Tiểu Thừa, đáng gọi là đệ tử bậc nhất trong pháp của ta).

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Kiều Trần Như là người đầu tiên chứng quả, sắp tên ngài đầu tiên ở đây ngụ ý: Bộ kinh này là bộ kinh đệ nhất để thành Phật. Ngày nay, chúng ta y theo bộ kinh này tu tập, đây là đệ nhất được độ, đệ nhất thành Phật, bởi vãng sinh Tây Phương Cực Lạc thế giới thì viên chứng “Tam Bất Thoái”, trong đời này nhất định sẽ thành tựu Phật quả viên mãn.

Tôn giả Xá Lợi Phất: Chữ “Xá Lợi” (Sāri) trong tiếng Phạn gọi là chim Thu Lộ, “Phất” (Putra) là con. Do vậy, tên ngài dịch là Thu Tử. Tên ngài đặt theo mẹ, mẹ ngài thân hình đoan chánh, mắt trong như mắt chim Thu Lộ, nên đặt tên ngài là Thu Tử, nghĩa là con của bà Thu Lộ. Ngài còn có tên là Châu Tử, cũng do mắt mẹ ngài trong như ngọc. Ngài còn được gọi là Thân Tử vì mẹ ngài thân hình đoan chánh. Xá Lợi Phất là bậc Trí tuệ đệ nhất trong hàng Thanh Văn đệ tử Phật. Lúc còn trong thai, ngài đã khiến cho mẹ nói năng hùng hồn hơn cả ông cậu Câu-Hy-La (Kosthila: Vị này về sau cũng chứng A-la-hán). Ngài tám tuổi đã lên tòa giảng, mười sáu tuổi đi các nước nghị luận vô song, trong vòng bảy ngày hiểu trọn Phật pháp. Kinh này nói đến pháp hết thảy thế gian khó tin được, chỉ có bậc Đại Trí mới có thể tin tưởng sâu xa, chẳng nghi ngờ. Vì vậy, tên ngài được kể ở đầu kinh, ngay sau ngài Kiều Trần Như.

Tôn giả Mục Kiền Liên: Chính là ngài Ma Ha Mục Kiền Liên trong Kinh A Di Đà. “Ma Ha” nghĩa là lớn, Mục Kiền Liên là họ. Tên ngài là Câu Luật Đà (Kolita). Cha ngài làm Tướng Quốc, cầu con từ thần cây Câu Luật Đà, sanh được ngài nên đặt tên ngài như thế. Trong các đệ tử Phật, ngài là thần thông đệ nhất.

Trí Độ Luận viết: “Như Xá Lợi Phất là bậc trí tuệ đệ nhất, Mục Kiền Liên thần túc đệ nhất”. “Xá Lợi Phất là đệ tử bên phải Phật, Mục Kiền Liên là đệ tử bên trái”. Tôn giả thần thông rất rộng, chẳng hạn như đem toàn bộ người trong dòng họ Thích trong một thành bay lên trời Phạm Thiên; ngoại đạo dời núi, ngài chế ngự khiến núi chẳng lay động; hàng phục rồng độc v.v… Những sự như vậy khó lòng thuật đủ.

Tôn giả Ca Diếp: “Ca Diếp” là họ. Ngài tên Tất Ba La cũng là tên một loài cây. Do cha mẹ cầu đảo nơi thần cây ấy sinh ra ngài nên lấy tên cây đặt tên cho ngài. Tôn giả là con nhà Trưởng giả đại phú, bỏ cả gia tài lớn lao, tu đại hạnh đầu đà, được mọi người biết đến nên gọi là Đại Ca Diếp, để phân biệt với ba vị Ca Diếp đồng thời là: Thập Lực Ca Diếp, Đồng Tử Ca Diếp, Đồng Nữ Ca Diếp.

Ca Diếp, Hán dịch là Quy. Sách Pháp Hoa Văn Cú viết: “Đời xưa học đạo, rùa thiêng đội bản đồ của tiên ứng hiện. Tên dòng họ được đặt theo đức nên gọi là họ Quy”.

Ca Diếp còn dịch là Âm Quang vì thời Tỳ Bà Thi Phật, ngài làm thợ luyện kim cùng một cô gái nghèo dùng vàng ròng trang hoàng tượng Phật. Từ đấy trở đi, trong chín mươi mốt kiếp, thân như vàng ròng, quang sắc chói lòa che lấp các sắc khác nên gọi là Âm Quang (Âm nghĩa là nuốt mất, ánh sáng của ngài “nuốt” mất các sắc khác).

Ca Diếp tuổi già chẳng bỏ hạnh đầu đà (là mười hai hạnh: ở chốn A-lan-nhã (chốn vắng lặng), thường hành khất thực, khất thực theo thứ tự, ngày chỉ ăn một bữa, ăn có chừng mực, sau giờ ngọ chẳng uống các thứ tương (tức các thứ nước được chế biến từ thực phẩm như nước ép trái cây, súp…), mặc y phấn tảo, chỉ có ba y, ngồi nơi mồ mã, ngủ dưới gốc cây, ngồi nơi đất trống, chỉ ngồi không nằm. Dùng các khổ hạnh này để tảo trừ trần lụy, lắng trong thân tâm). Đức Phật thương ngài suy yếu, khuyên hãy thôi nghỉ, Ca Diếp vẫn giữ hạnh đầu đà như cũ. Phật khen ngợi nồng nhiệt rằng: “Hữu đầu   đà hạnh, ngã pháp cửu tồn” (Có hạnh đầu đà, pháp của ta tồn tại lâu dài). Do vậy bảo ngài hành đầu đà bậc nhất.

Nói sơ lược về Đại Ca Diếp là sơ tổ truyền tâm ấn Phật của Thiền Tông. Quyển thứ ba Kinh Đại Phạm Thiên Vương Vấn Phật Quyết Nghi chép: “Phạm Vương chí Linh Sơn, dĩ kim sắc Bát La hoa hiến Phật, xả thân vi tòa, thỉnh Phật vị chúng sinh thuyết pháp. Thế Tôn đăng tòa, niêm hoa thị chúng, nhân thiên bách vạn, tất giai võng thố. Độc hữu Kim Sắc Đầu Đà phá nhan vi tiếu. Thế Tôn vân: – Ngô hữu chánh pháp nhãn tàng, Niết Bàn diệu tâm, Thật Tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, phó chúc Ma Ha Ca Diếp” (Phạm Vương đến Linh Sơn đem hoa Kim Sắc Ưu Bát La cúng Phật, dâng thân làm tòa, thỉnh Phật vì chúng sinh thuyết pháp. Thế Tôn lên tòa, giơ cành hoa cho chúng xem. Trăm vạn trời người thảy đều ngơ ngẩn, chỉ có Kim sắc Đầu Đà hé miệng mỉm cười. Thế Tôn nói: Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, Thật tướng vô tướng, vi diệu pháp môn. Phó chúc Ma Ha Ca Diếp). Đây chính là công án “Thế Tôn niêm hoa” được truyền tụng trong cõi đời.

Theo Hoàng Niệm lão: Đức Thế Tôn truyền tâm ấn cho Ca Diếp làm sơ tổ Thiền Tông. Ca Diếp lại truyền cho A Nan làm Nhị Tổ. Nay nêu tên ngài Đại Ca Diếp ở đầu kinh chính là để biểu thị thâm ý Thiền, Tịnh bất nhị.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Ca Diếp tôn giả đại biểu cho Tông môn, cho Thiền Tông. A Nan tôn giả đại biểu cho giáo hạ. Ngoại trừ thiền tông, chín tông phái còn lại đều gọi là giáo hạ. Lấy hai vị này làm đại biểu cho toàn bộ Phật pháp không rời khỏi Tịnh Độ.

Tôn giả A Nan đẳng”: Bản Đường, Tống dịch là A Nan Đà (Ananda), gọi tắt là A Nan; Hán dịch là Khánh Hỷ, Hoan Hỉ, còn dịch là Vô Nhiễm. Ngài là con của Bạch Phạn Vương  (Suklodana), em họ của Phật, sanh trong ngày Phật thành đạo. Tịnh Phạn Vương (Sudhodana) nghe tin thái tử thành Phật, lại nghe trong cung sinh con trai càng thêm hoan hỉ, bèn phán: “Hôm nay đại cát, là ngày hoan hỉ”, bảo với sứ giả: Đứa trẻ ấy nên đặt tên là A Nan”.

Hơn nữa, tôn giả đoan chánh thanh tịnh như tấm gương trong vắt. Trông thấy hình dạng ngài, nghe tiếng ngài, xem uy nghi của ngài, không ai chẳng hoan hỉ, nên đặt tên như vậy.

Ngoài ra, tôn giả theo Phật vào long cung, thiên cung, tâm không ham đắm. Phật đã năm mươi lăm tuổi, A Nan mới xuất gia, hầu Phật hai mươi lăm năm, pháp Phật tuyên thuyết ngài đều nhớ giữ, chẳng quên một chữ. Kinh Niết Bàn gọi A Nan là bậc Đa Văn. Ngài Ca Diếp cũng khen rằng: “Phật pháp đại hải thủy, lưu nhập A Nan tâm”: (Nước biển cả Phật pháp chảy vào tâm A Nan) nên gọi ngài là đa văn đệ nhất. chữ “đẳngcó nghĩa là vân vân… để chỉ chung các vị còn lại.

Nhi vi thượng thủ” (Đều làm thượng thủ)

Theo chú giải của Hoàng Niệm lão: Xét chung, năm vị Thánh nói trên:

Liễu Bổn Tế biết rõ Bổn Tế lâu xa nên được nêu tên đầu tiên.

Thân Tử trí tuệ bậc nhất biểu thị Phật Trí, trí chẳng nghĩ bàn, trí chẳng thể nói, trí Đại Thừa rộng lớn, trí không gì bằng, không chi sánh, tối thượng thắng trí, sâu rộng không bờ bến của Phật Di Đà.

Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất, hiển thị thệ nguyện du hí thần thông.

Đại Âm Quang hiển thị quang minh thù thắng của Phật Di Đà không gì chẳng chiếu tỏ, là tôn quí nhất trong các quang minh, là vua của các đức Phật.

Khánh Hỷ biểu thị nghe tên hoan hỉ đều được độ thoát.

Hơn nữa, Ca Diếp là Sơ Tổ của Tông môn (thiền tông), A Nan là Nhị Tổ, A Nhã Kiều Trần Như biểu thị bổn tế của đương nhân. Xá Lợi Phất biểu thị trí tuệ vốn sẵn có của chúng sinh; Mục Kiền Liên chính là thần thông chúng sinh sẵn có; Âm Quang là linh quang độc diệu, thoát khỏi căn trần; Hoan Hỉ biểu thị sự vui sướng bình sinh, tâm tâm tiếp nối.

Vì vậy, một bộ Đại kinh đúng là phó pháp truyền tâm; một câu danh hiệu phơi bày trực tiếp Như Lai diện mục. Lãnh hội điều này mới đáng xưng là “hổ mọc thêm sừng”. Chỉ cần hăm hở mà niệm sẽ là vô thượng thâm thiền. Chẳng nệ định trì hay tán niệm (định trì là trì niệm với định tâm, niệm đến đâu chú tâm đến đó không xen tạp, tán loạn. Tán niệm là niệm Phật mà tâm tán loạn, chưa thể định được), quyết định chẳng phí uổng công lao.

Hựu hữu Phổ Hiền Bồ Tát” (Lại có Phổ Hiền Bồ Tát): Bồ Tát là chữ Phạn nói tắt, nói đủ là “Ma-ha Bồ-đề Chất-đế Tát-đỏa” (Maha Boddhisattva) Ma-ha dịch là Đại, “Bồ-Đề” là Đạo, “Chất-đế” là Tâm, “Tát-đỏa” dịch là chúng sinh hoặc hữu tình, ghép lại là “đại đạo tâm chúng sinh”, nói gọn là Bồ-Đề Tát-Đỏa, nghĩa là Giác Hữu Tình.

Chứng ngộ giống như Phật gọi là Giác. Chưa hết vô minh nên gọi là Hữu Tình. Giác lại có nghĩa là Phật đạo mình đang mong cầu. Hữu tình là chúng sinh mình đang hóa độ. Việc lợi sanh gấp rút, rộng độ chúng sinh cùng chứng Đại Giác nên gọi là Giác Hữu Tình. Hai chữ Bồ Tát là cách nói giản lược nhất.

Vì sao là Đại Đạo Tâm Chúng sinh? Vì đủ cả bốn điều lớn lao. Tịnh Ảnh Sớ giảng bốn điều lớn lao là: “Một là nguyện đại, vì cầu đại Bồ Đề. Hai là hạnh đại, vì thành tựu hai lợi (lợi mình, lợi người). Ba là thời đại, vì trải qua ba vô số kiếp. Bốn là đức đại, vì đầy đủ các công đức nhất thừa”.

Bồ Tát cũng bao gồm lục đại của kinh Pháp Hoa: Tín đại pháp, giải đại nghĩa, phát đại tâm, hướng đại quả, tu đại hạnh, chứng đại đạo. Do đầy đủ các thứ “đại” nói trên nên gọi là Đại Đạo Tâm Chúng Sinh.

Phổ Hiền” (Samantabhadra) còn gọi là Biến Cát. Thanh Lương Sớ nói: Phổ Hiền có ba loại: Một là Vị Tiền (phát tâm Phổ Hiền), hai là Vị Trung (Đẳng Giác Bồ Tát), ba là Vị Hậu Phổ Hiền (đắc quả nhưng chẳng xả nhân hạnh, tức là đã thành Phật nhưng chẳng bỏ hạnh khi còn tu nhân).

Quyển một của Đại Nhật Kinh Sớ ghi: “Phổ Hiền Bồ Tát: Phổ là khắp hết thảy các chỗ, Hiền nghĩa là sự lành mầu nhiệm nhất; tức là nguyện hạnh do tâm Bồ Đề khởi lên và thân, miệng, ý thảy đều bình đẳng, trọn khắp hết thảy các chỗ đều thuần nhất diệu thiện, đầy đủ các đức. Vì vậy lấy đó làm tên”. Phổ Hiền, Văn Thù là hai vị Hiếp Sĩ (Hiếp sĩ: Hiếp tức là cái hông; hiểu theo nghĩa hẹp, “hiếp sĩ” chỉ cho vị Bồ Tát đứng hầu hai bên Phật, như Quán Âm, Thế Chí là hiếp sĩ của Phật Di Đà. Hiểu theo nghĩa rộng Hiếp sĩ là trưởng tử, đệ tử thân cận, trợ thủ đắc lực nhất của một vị Phật), hầu hai bên Phật Thích Ca, là Thượng thủ trong hội của đức Thích Ca.

Trong hội Hoa Nghiêm, họ cũng là Thượng Thủ. Phổ Hiền Bồ Tát còn là trưởng tử của hết thảy chư Phật. Tứ thập Hoa Nghiêm Tứ Thập Tụng (bài kệ tụng trong quyển bốn mươi của bộ Hoa Nghiêm bản dịch bốn mươi quyển đời Đường) ghi: “Nhất Thiết Như Lai hữu trưởng tử, bỉ danh hiệu viết Phổ Hiền Tôn” (Hết thảy Như Lai có trưởng tử, danh hiệu của ngài là Phổ Hiền) cho thấy Phổ Hiền chính là từ Pháp Thân của Như Lai xuất hiện hóa thành vị Đẳng Giác Đại sĩ khen ngợi Thích Tôn, xướng diễn thánh giáo.

Trong Mật Giáo, Phổ Hiền chính là Kim Cang Tát Đoả (Vajrasattva), Sơ Tổ của Mật giáo. Kim Cang Tát Đỏa chính là Kim Cang Thủ Bồ Đề Ma Ha Tát (Vajrapāni). Nay trong kinh này, Phổ Hiền Đại Sĩ được kể tên là bậc Thượng Thủ cao nhất, chính là để hiển thị: Mật, Tịnh bất nhị. Vì vậy, tiên sư là Hạ Lão cư sĩ nói: “Tịnh Độ chính là hiển thuyết của Mật Giáo” (Tổ sư Liên Hoa Sanh Đại Sĩ (Padmasambhava) của Hồng Giáo Mật Tông Tây Tạng chính là hóa thân của A Di Đà Phật. Vì vậy, Hồng Giáo tôn sùng A Di Đà Phật, sốt sắng khuyên sanh về Cực Lạc hơn các tông phái khác).

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: Cũng gọi là Mạn Thù Thất Lợi, Hán dịch là Diệu Thủ, cũng dịch là Diệu Cát Tường, còn dịch là Diệu Đức, là thầy của chư Phật.

Kinh Tâm Địa Quán nói: “Tam thế giác mẫu Diệu Cát Tường” (Mẹ giác ngộ của ba đời là Diệu Cát Tường).

Sách Pháp Hoa Sớ của ngài Gia Tường giảng chữ Diệu Đức như sau: “Văn Thù, cõi này dịch là Diệu Đức, do thấy rõ ràng Phật Tánh, đức không gì chẳng viên mãn, quả không gì chẳng cùng tột, nên xưng là Diệu Đức”.

Theo chú giải của Hoàng Niệm lão: Trong chúng Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát là bậc trí tuệ bậc nhất. Ngài vốn là Long Chủng Tôn Vương Như Lai, hiện tại ngài ở cõi Thường Hỉ phương Bắc thành Phật, hiệu là Bảo Tích Như Lai. Đời vị lai, ngài sẽ thành Phật hiệu là Phổ Kiến Như Lai. Do vậy, Đại sĩ Văn Thù thành Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Nay ngài thị hiện trong hội này làm bậc đại trí độc tôn, biểu thị pháp môn này chỉ có người đại trí mới có thể tín nhập nổi.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: có thể nói pháp hội này thật vô cùng thù thắng. Phổ Hiền và Văn Thù là hai vị Đại Bồ Tát trong hội Hoa Nghiêm. Trong Hoa Nghiêm Tam Thánh: Phật là Tỳ Lô Giá Na, Bồ Tát tức Văn Thù, Phổ Hiền. Ý này nói rõ bổn kinh cùng với Kinh Hoa Nghiêm là bình đẳng. Cổ nhân xưng Kinh Vô Lượng Thọ là trung bản Hoa Nghiêm; Kinh A Di Đà là tiểu bản Hoa Nghiêm. Sự quan hệ của Tịnh Tông với Hoa Nghiêm vô cùng mật thiết, thật sự là nơi qui hướng của Hoa Nghiêm.

Phía trước nói Pháp hội này có đến mười hai ngàn thiên nhân câu hội. Thực tế mà nói: Bộ kinh này cùng kinh Pháp Hoa không khác. Cho nên, Ngẫu Ích Đại sư nói: “Trong Tịnh Độ, kinh Vô Lượng Thọ và Kinh A Di Đà là áo tạng của Hoa Nghiêm, là bí tủy của Pháp Hoa”. Từ điểm này ta có thể tìm được sự minh chứng lời của Ngẫu Ích Đại sư đích thực là có căn cứ, chẳng phải tùy tiện mà nói.

Bộ kinh điển này, trên địa vị toàn bộ Phật pháp mà nói là “đăng phong tạo cực” đạt đến đỉnh tối cao, quả thật là đệ nhất kinh. Đồng thời, Phổ Hiền Bồ Tát là Sơ Tổ của Mật Tông, đại biểu cho Mật Tông, nói lên rằng Kinh Vô Lượng Thọ hàm chứa cả Thiền lẫn Mật. Phật nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn đều ở bộ kinh này lưu xuất ra. Nói cách khác, tất cả các pháp môn, đến sau cùng đều trở về Kinh Vô Lượng Thọ.

Trong phẩm “Phổ Hiền Hạnh Nguyện”, Phổ Hiền Bồ Tát ở trong rừng Thệ Đa phát mười đại nguyện vương.

Sau đó, ngài nói kệ rằng: “Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời, tận trừ nhất thiết chư chướng ngại, diện kiến bỉ Phật A Di Đà, tức đắc vãng sinh An Lạc sát. Ngã ký vãng sinh bỉ quốc dĩ, hiện tiền thành tựu thử đại nguyện, nhất thiết viên mãn tận vô dư, lợi lạc nhất thiết chúng sinh giới” (Nguyện tôi vào lúc mạng sắp dứt, trừ sạch hết thảy các chướng ngại. Tận mắt thấy Phật A Di Đà, liền được vãng sinh cõi An Lạc. Tôi đã vãng sinh cõi ấy rồi, hiện tiền thành tựu đại nguyện này viên mãn hết thảy chẳng còn sót, lợi lạc hết thảy chúng sinh giới).

Lại nữa, trong kinh “Văn Thù Phát Nguyện” có câu: “Nguyện ngã mạng chung thời, diệt trừ chư chướng ngại, diện kiến A Di Đà, vãng sinh An Lạc Sát, sanh bỉ Phật quốc dĩ, thành mãn chư đại nguyện. A Di Đà Như Lai, hiện tiền thọ ngã ký” (Nguyện tôi lúc mạng chung, diệt trừ các chướng ngại, gặp mặt A Di Đà, vãng sinh cõi An Lạc. Sinh cõi Phật ấy rồi, thành mãn các đại nguyện, A Di Đà Như Lai hiện tiền thọ ký cho). Hai vị Đại sĩ đều phát nguyện cầu sinh Cực Lạc, nhằm khuyến nhủ hết thảy Bồ Tát hãy đều tin kính đại trí của Văn Thù, nhập đại hạnh của Phổ Hiền, dẫn dắt khắp các chúng sinh cùng về Cực Lạc. Vì vậy, kinh này nêu các ngài làm Thượng Thủ.

Di Lặc Bồ Tát, cập Hiền Kiếp trung, nhất thiết Bồ Tát giai lai tập hội”. (Di Lặc Bồ Tát và hết thảy Bồ Tát trong Hiền kiếp đều đến nhóm hội): Di Lặc (Maitreya), Hán dịch là Từ Thị, là họ của Bồ Tát, tên ngài là A Dật Đa (Ajita), Hán dịch Vô Năng Thắng; nói đầy đủ là Từ Vô Năng Thắng.

Sách Di Đà Sớ Sao giảng: “Do khi ngài còn trong thai, mẹ liền có tâm từ, nên lấy đó làm họ. Lại trong đời quá khứ, gặp Đại Từ Như Lai, nguyện cùng mang hiệu này liền đắc Từ Tâm tam-muội. Lại nữa, xưa kia ngài làm Bà-la-môn, hiệu là Nhất Thiết Trí, trong tám ngàn năm tu tập hạnh Từ…

Bồ Tát Di Lặc là đương lai hạ sinh Tôn Phật, hiện ở cõi trời Đâu Suất, là vị Phật Bổ Xứ. Thế gian này không ít người hâm mộ, mơ ước Di Lặc Bồ Tát, vì biết ngài sẽ đến thế gian này để thành Phật. Có rất nhiều người muốn sinh về Nội Viện của Đâu Suất, tương lai Bồ Tát xuống đây thành Phật, họ sẽ theo làm đệ tử. Tâm nguyện này rất tốt, tuy nhiên đến Nội Viện của Đâu Suất thiên đâu phải là chuyện dễ. Tu học pháp môn này thường gọi là Di Lặc Tịnh Độ. Tu Di Lặc Tịnh Độ so với Di Đà Tịnh Độ còn khó hơn.

Hãy xem trong Kinh Di Đà nói: “Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thuyết A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu. Nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược tam nhật, nhược tứ nhật, nhược ngũ nhật, nhược lục nhật, nhược thất nhật, nhất tâm bất loạn, kỳ nhơn lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật dữ chư thánh chúng hiện tại kỳ tiền, thị nhơn chung thời tâm bất điên đảo tức đắc vãng sinh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ”. (Nếu có kẻ thiện nam, người thiện nữ nào nghe được hồng danh của Phật A Di Đà rồi chấp trì danh hiệu ấy, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, nhất tâm không tán loạn, người ấy lúc lâm chung được Phật A Di Đà và các Thánh chúng hiện đến trước mặt, tự tâm người ấy lâm chung không có điên đảo liền được vãng sinh về quốc độ Cực Lạc của Phật A Di Đà).

Di Lặc Tịnh Độ không thể trong bảy ngày mà được vãng sinh, không dễ dàng như vậy. Di Lặc Bồ Tát là Tổ sư của Pháp Tướng Duy Thức, là chuyên gia của Pháp Tướng Duy Thức. Nếu trong Pháp Tướng Duy Thức không thể xây dựng một cơ sở thật tốt, e rằng ngài không nhận bạn. Điều này thật khó! Vã lại, Pháp Tướng Duy Thức đích thật không phải dễ học! Ngày nay, các Pháp sư, đại đức có nghiên cứu Pháp Tướng Duy Thức đích thật là rất ít.

Tuy nhiên, muốn gặp Di Lặc Bồ Tát, bí quyết thù thắng của Hòa Thượng Tịnh Không nêu ra là cầu sinh Tây Phương Tịnh Độ. Đến được Tây Phương Cực Lạc thế giới làm học trò của A Di Đà Phật; Di Lặc cũng là học trò của A Di Đà Phật, chúng ta đến Nội Viện đi dạo một vòng sẽ nhìn thấy lão học trưởng. Đây là phương cách bí quyết tìm Di Lặc Bồ Tát dễ dàng nhất. Huống chi phần sau của bộ kinh này, từ phẩm ba mươi hai trở đi, ngài Di Lặc là đương cơ (những phẩm phía trước là tôn giả A Nan đương cơ).

Trong phẩm thứ bốn mươi sáu, đức Phật phó chúc Đại Sĩ Di Lặc như sau: “Ngã kim như lý tuyên thuyết như thị quảng đại vi diệu pháp môn, nhất thiết chư Phật chi sở xưng tán, phó chúc nhữ đẳng tác đại thủ hộ…đương linh thị pháp, cửu trụ bất diệt”. (Ta nay theo đúng lý tuyên thuyết Pháp môn rộng lớn vi diệu được hết thảy chư Phật khen ngợi như thế này, giao phó các ông thực hiện sự thủ hộ rộng lớn…để pháp này được tồn tại lâu dài chẳng diệt). Ngài Di Lặc tuân lãnh lời Phật phó chúc, hoằng trì kinh này. Vì vậy, Đại Sĩ tương lai chẳng những trong hội Long Hoa quyết nói kinh này mà suốt tột cùng đời vị lai cũng sẽ thường nói kinh này chẳng dứt. Có người hỏi:

– Di Lặc Bồ Tát bao giờ đến thế gian này?

Đức Thích Ca Mâu Ni Phật trong “Di Lặc Hạ Sinh Kinh” có nói: Phải tới năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm sau Di Lặc Bồ Tát mới đến. (Sách chú giải của cụ Hoàng trang 126 nói là năm mươi sáu ức sáu trăm vạn năm ở địa cầu). Thời gian này quả là con số thiên văn, quá dài! Đây là sự thật. Nên biết: Di Lặc Bồ Tát hiện ở cõi trời Đâu Suất. Một ngày ở cõi này là bốn trăm năm của cõi nhân gian chúng ta. Một năm cũng ba trăm sáu mươi lăm ngày, thọ mạng của ngài là bốn ngàn tuổi, thử tính xem hơn năm mươi sáu ức ngàn ngày nữa, Di Lặc Bồ Tát mới đạt được Báo Thân, sau mới hạ sinh đến thế giới này thành Phật.

Hiện nay có số người dùng lời yêu mị, mê hoặc quần chúng bảo rằng Di Lặc đã hạ sinh rồi, điều này chẳng có căn cứ. Chúng ta phải “y pháp bất y nhơn”, nên cẩn trọng chớ vội tin lời đồn nhãm!

Hiền Kiếp trung nhất thiết Bồ Tát” (Hết thảy Bồ Tát trong Hiền Kiếp): Trụ kiếp hiện tại tên là Hiền Kiếp. Trong đại kiếp này có một ngàn đức Phật xuất thế. Theo sách Phật Tổ Thống Ký, trong kiếp này, đức Phật thứ nhất tên Câu Lưu Tôn Phật; kế đến là Câu Na Hàm Mâu Ni Phật; vị thứ ba là Ca Diếp Phật; vị thứ tư là đức Thích Ca Mâu Ni Phật hiện tại. Sau đó có Di Lặc Phật v.v… chín trăm chín mươi sáu vị Phật nối tiếp nhau xuất thế. Nay trong hội này, Di Lặc Bồ Tát và chín trăm chín mươi lăm vị Đại sĩ khác sẽ thành Phật trong Hiền Kiếp đều đến nhóm hội, nghe Phật thuyết pháp. Vì vậy, ta biết rằng hết thảy các đức Phật vị lai trong Hiền Kiếp đều sẽ tuyên thuyết kinh này.