Phật nói Kinh Di Lặc Thành Phật
(Phật thuyết Di Lặc Thành Phật Kinh)
Hán dịch: Diêu Tần Quy Tư Quốc Tam Tạng Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Phật Tử Bùi Đức Huề dịch năm 2008-2013

 

Phật nói Kinh Quan sát Di Lặc Bồ Tát sinh lên Trời Đâu Suất.

Phật nói Kinh Di Lặc Thành Phật

Tôi nghe như thế. Thời đó Phật ở núi Du Ba Sa (cũng là núi Cô Tuyệt) Nước Ma Già Đà, nơi các Phật Quá khứ thường hàng phục Ma. Trong mùa hạ ở yên cùng với Xá Lợi Phất tới đỉnh núi, mà đọc bài kệ nói rằng :

Nhất tâm dễ tu Tuệ. Tam muội lớn Quang sáng. Người công Đức không sánh. Chính họ đang ở đời. Người đó nói Pháp hay. Đều cùng được tràn đầy. Như khát uống Cam lộ. Nhanh tới Đạo Giải thoát.

Thời bốn Bộ Chúng, vảy nước quét sạch nơi đất bằng phẳng đốt hương, đều cùng tới tập hợp. Dâng các đồ cúng, cúng dưỡng Như Lai và các Tì Kheo Tăng. Quan sát kỹ Như Lai. Ví như con hiếu nhìn Cha nhân Từ, như khát nghĩ uống nước. Yêu nhớ Cha Pháp, cũng lại như thế. Từng người đồng tâm muốn mời Vua Pháp chuyển vầng Pháp đúng. Các Căn không động, tâm tâm lần lần chuyển hướng tới Phật.

Khi đó nam Tì Kheo, nữ Tì Kheo, nam Phật Tử, nữ Phật Tử. Trời Rồng Quỷ Thần, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người không phải người. Đều từ nơi ngồi đứng lên, vòng theo phía phải quanh Thế Tôn, phục đất đỉnh lễ, hướng về Thế Tôn rơi lệ.

Khi đó Xá Lợi Phất Trí tuệ lớn, chỉnh tề y phục, vai phải áo lệch. Hiểu được tâm Vua Pháp, dễ hay thuận theo học Phật, Vua Pháp chuyển vầng Pháp đúng. Phụ thần của Phật, Đại tướng giữ Pháp, do thương xót chúng sinh, muốn giúp cho Giải thoát ràng buộc khổ. Báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Như Lai hướng về đó ở trên đỉnh núi nói bài kệ. Ca ngợi người Trí tuệ bậc nhất. Trong Kinh trước sau chưa được nói. Tâm của các Đại chúng này đều khát ngưỡng rơi lệ như mưa. Muốn nghe Như Lai nói về Phật Tương lai mở ra Đạo Cam lộ. Tên hiệu, công Đức, Thần lực, Đất nước trang nghiêm của Di Lặc. Dùng Căn thiện gì, giữ Giới gì, Bố thí gì, Định nào, Trí tuệ nào, lực Trí tuệ nào, được thấy Di Lặc. Ở trong tâm nào tu tám Đạo đúng.

Khi Xá Lợi Phất hỏi vấn đề này. Trăm nghìn Con Trời, vô số Vua Phạm, chắp tay cung kính. Khác người cùng âm thanh, cùng phát ra vấn đề đó, báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Nguyện làm cho chúng con ở đời Tương lai được thấy quả báo lớn nhất trong số người, Quang sáng, mắt mũi của Ba Cõi. Rộng vì chúng sinh nói Đại Từ Đại Bi. Tất cả tám bộ Chúng, cũng đều như thế. Cung kính bắt chéo ngón tay khuyên mời Như Lai. Khi đó Vua Phạm và các chúng Phạm, khác người cùng âm thanh, chắp tay ca ngợi mà đọc bài ca tụng nói rằng :

Nam mô Trăng Rằm. Đầy đủ mười lực. Tướng Tinh tiến lớn. Dũng mãnh không sợ. Người Tất cả Trí. Vượt hơn ba Có. Được ba Trí sạch. Hàng phục bốn Ma. Thân là khí Pháp. Tâm như khoảng không. Tĩnh lặng không động. Với có có sai. Với không không sai. Hiểu suốt Pháp Rỗng. Được Thế gian khen. Chúng con đồng tâm. Cùng lúc về theo. Nguyện chuyển vầng Pháp.

Khi đó Thế Tôn bảo Xá Lợi Phất. Đang vì các Ngài rộng phân biệt nói. Các Ngài nay nghe Tuệ, tư duy Tuệ, tu Tuệ. Các Ngài ngày nay dùng tâm hay thiện, muốn hỏi Trí tuệ lớn Nghiệp Đạo Bình đẳng của Như Lai. Như Lai thấy sáng tỏ như quan sát quả Soài trong lòng bàn tay. Bảo Xá Lợi Phất. Nếu ở nơi ở của bảy Phật thời Quá khứ, được nghe tên hiệu Phật, lễ bái cúng dưỡng. Do Nhân duyên đó trừ sạch chướng Nghiệp. Lại nghe gốc rễ Đại Từ của Di Lặc, được tâm Thanh tịnh. Các Ngài nay cần nhất tâm, chắp tay trở về nương theo người Đại Từ Bi của thời Tương lai. Ta đang vì Ngài rộng phân biệt nói.

Nước của Phật Di Lặc từ mệnh Thanh tịnh, không có nịnh gian trá. Bố thí tới Niết Bàn, giữ Giới tới Niết Bàn, Trí tuệ tới Niết Bàn. Được không nhận lấy không nương nhờ. Dùng mười nguyện vi diệu trang nghiêm lớn. Được tất cả chúng sinh phát ra tâm mềm mại. Được thấy Đại Từ Di Lặc hút lấy. Sinh Đất nước đó điều phục các Căn. Thuận theo Phật cảm hóa. Xá Lợi Phất ! Mặt nước của bốn biển lớn, đều giảm xuống sáu mươi nghìn cây số. Thời đất của Diêm Phù Đề, dài rộng ước khoảng hai trăm nghìn cây số. Đất đó bằng phẳng sạch như kính pha lê. Hoa Thích ý lớn, Hoa Duyệt khả ý, hoa hương rất lớn. Hoa Ưu đàm bát, hoa lá vàng lớn, hoa lá bảy báu, Hoa lá bạc trắng. Tua hoa mềm mại giống như lụa trên Trời. Sinh ra quả ngon lành, hương vị đầy đủ, mềm như tơ Trời. Cây quả rừng rậm, quả ngọt tuyệt đẹp, lớn nhất tốt tươi. Hơn cả vườn Hoan Hỉ của Ngọc Hoàng  Đế Thích. Cây đó cao vòi vọi, cao khoảng mười lăm cây số. Thành ấp liền nhau gà bay qua lại được. Đều do Phật ngày nay, trồng Căn thiện lớn. Báo ứng thực hành tâm Từ, đều sinh Nước đó. Trí tuệ uy Đức, năm Tham muốn đầy đủ, vui sướng yên ổn. Cũng không có nóng lạnh, chiến tranh dịch bệnh, không có chín khổ não. Thọ mệnh đầy đủ tám vạn bốn nghìn năm, không có yểu mệnh. Thân người đều dài năm mươi ba mét.

Hàng ngày thường nhận lấy yên vui tuyệt diệu nhất, tới nhập sâu vào Thiền định do được khí vui. Chỉ có ba bệnh : Một là ăn uống, hai là tiện lợi, ba là già yếu. Người nữ năm trăm tuổi, họ mới lấy chồng.

Có một thành lớn, tên là Sí Đầu Mạt, dài khoảng hai mươi bốn nghìn cây số. Rộng một trăm bốn mươi cây số, bảy báu trang nghiêm. Tự nhiên hóa sinh lầu gác bảy báu. Đoan nghiêm tuyệt diệu trang trí Thanh tịnh. Ở trong cửa sổ bày các cô gái bảy báu. Trong tay đều cầm châu quý, lưới võng trang trí các loại vật báu dùng để che lên trên. Linh báu treo dày đặc tiếng kêu như nhạc Trời. Suối nước chảy giữa các hàng cây bảy báu, đều do bảy báu tạo thành. Màu sắc của nước khác nhau ánh lên giao nhau không gặp trở ngại. Hai bên bờ suối toàn là cát bằng vàng, đường xá đạo lộ rộng khoảng sáu cây số.

Đều cùng Thanh tịnh giống như vườn Trời, dọn rửa Thanh tịnh.

Có Vua Rồng lớn tên là Đa La Thi Khí, đều đầy đủ Phúc Đức uy lực. Đầm của ông ta gần thành, cung điện Vua Rồng như là lầu bảy báu, hiện rõ ra bên ngoài. Nửa đêm thường hóa thành thân người, dùng bình cát tường chứa đầy nước hương sắc, tưới thấm đẫm đất. Đất đó thấm nhuận như bôi dầu, người qua lại không có dính bụi.

Thời đó do Phúc Đức của người Thế gian, mà ngõ ngách mọi nơi có cột Minh châu cao sáu cây số, ánh quang ví như ánh mặt Trời, chiếu sáng bốn phương xa tới một nghìn sáu trăm cây số. Thuần nhất sắc vàng ròng, quang của nó chiếu sáng ngày đêm giống như ánh sáng đèn nến không khác. Do còn tụ bóng tối, khi gió hương thổi tới cột Minh châu rơi xuống các chuỗi ngọc quý. Mọi người đều dùng nó làm trang phục, tự nhiên như là vui Thiền bậc ba. Mọi nơi đều có vàng bạc châu báu, các châu ngọc Như ý chất thành núi. Núi báu phóng quang chiếu sáng khắp nội thành. Nhân dân gặp nhau tất cả đều vui mừng, phát tâm Bồ Đề.

Có Thần Dạ Xoa lớn tên là Bạt Đà Bà La Xa Tắc Ca (tiếng Tần gọi là Thiện Giáo), ngày đêm ủng hộ thành Sí Đầu Mạt. Cùng với các người dân tưới quét dọn Thanh tịnh. Nếu đại tiểu tiện, đất tách ra nhận lấy và nhận lấy xong liền khép lại. Sinh ra hoa Sen đỏ dùng để tẩy khí hôi. Nhân dân thời đó nếu tuổi cao già yếu, tự nhiên đi tới dưới cây trong rừng núi. Yên vui chỉ chuyên niệm Phật tới khi chết. Phần nhiều sinh lên Trời Phạm lớn (Cõi Sắc) và trước các Phật. Đất đó yên ổn, không có nạn oán tặc trộm cướp. Thành ấp làng xóm không cần đóng cửa, cũng không  có suy bại khổ não, đói khát, dịch bệnh, đao binh và các nạn đói rách đầu độc giết hại. Người thường tâm Từ cung kính hòa thuận, điều phục các Căn. Như con yêu kính Cha, như Mẹ yêu quý con. Lời nói khiêm tốn, đều do Di Lặc tâm Từ, giáo huấn dẫn dắt, do giữ không phạm Giới sát hại, không ăn thịt. Do Nhân duyên đó sinh ở Nước Phật. Các Căn tĩnh lặng, diện mạo đoan chính. Uy tướng đầy đủ như Cậu bé trên Trời.

Lại có tám vạn bốn nghìn các báu vật, thành nhỏ dùng làm quyến thuộc, thành Sí Đầu Mạt nơi cao nhất trong số đó. Nam nữ lớn nhỏ dù xa hoặc gần. Do Thần lực của Phật hai bên gặp nhau đều không có trở ngại. Dạ quang của hoa Ma ni Như ý châu đầy khắp Thế giới, rắc xuống hoa bảy báu. Hoa Bát đầu ma, hoa Sen xanh, hoa Sen vàng, hoa Sen trắng, hoa Sen trắng nhỏ, hoa Sen trắng lớn, hoa Sen đỏ nhỏ, hoa Sen trắng lớn, phủ đầy trên đất. Hoặc lại gió thổi tới chuyển vòng trong không.

Thời đó thành ấp làng xóm, vườn rừng ao đầm, giếng sông suối của Cõi Nước đó, tự nhiên có nước ao tám công Đức. Chim tự hót ngỗng vịt uyên ương, khổng tước anh vũ, chim trả cò trắng, tiếng kêu của chim gáy chim cắt. Người già thầy Tăng già, thích thấy các loại chim phát ra âm thanh vi diệu. Lại có tiếng chim vi diệu khác, không thể kể hết, tập hợp trong rừng đầm. Hoa Quang sáng Thanh tịnh không bẩn sắc vàng, hoa Quang sáng tuệ mặt Trời Thanh tịnh không buồn, hoa hương bảy ngày tươi sáng, hoa Chiêm bặc sáu sắc hương. Trăm nghìn vạn loại hoa sinh ra trên nước đất. Màu xanh quang sắc xanh, màu vàng quang sắc vàng, mầu đỏ quang sắc đỏ, màu trắng quang sắc trắng, hương thanh khiết khó so bì. Ngày đêm thường sinh, cuối cùng không tàn, thời có quả cây Như ý, hương thơm không sánh, tràn khắp cõi Nước. Cây Kim quang sinh giữa núi báu ở khắp cõi Nước, sinh hương theo ý thích, lan tỏa ra khắp nơi.

Thời đó ở Diêm Phù Đề đều có hương quý, ví như núi hương nước chảy ra, vị ngọt rất đẹp, trừ hoạn nạn tưới ân huệ. Mưa thuận theo thời. Vườn Trời tạo thành các loại hương lúa thơm, do Thần lực của Trời, một lần trồng thu hoạch bảy lần. Dùng rất ít công thu hoạch được nhiều. Lúa cấy tươi tốt, không có cỏ hôi. Quả báo theo Phúc Đức của chúng sinh là chính, vào miệng tiêu hóa. Đầy đủ trăm vị hương thơm không sánh, khí lực đầy đủ.

Thời đó Nước kia có Vua Thánh Chuyển Luân, tên là Tương Khư. Có bốn loại binh, không dùng vũ lực, quản lý bốn Thiên hạ. Đầy đủ ba mươi hai tướng tốt của người lớn. Vua có một nghìn con trai, dũng mãnh đoan chính, tự điều phục oán địch. Vua có bảy vật báu : Một là báu vật vòng vàng, nghìn vành nam hoa may ơ, đều cùng đầy đủ. Hai là Voi trắng báu, trắng như núi Tuyết, bảy chân bám đất, trang nghiêm hiện rõ có thể quan sát, giống như núi lớn nhất. Ba là Ngựa báu tía, lông đuôi màu đỏ, dưới chân sinh hoa, móng bằng bảy báu. Bốn là Thần châu báu, sáng rõ có thể quan sát, dài chừng sáu mươi sáu mi ly mét, Quang sáng rơi xuống báu vật, theo nguyện của chúng sinh. Năm là Ngọc nữ báu nhan sắc tuyệt đẹp, mềm mại không có xương. Sáu là thần chủ kho tàng, trong miệng nhả ra báu vật, dưới chân rơi xuống báu vật, hai tay sinh ra vật báu. Bảy là thần chủ binh báu, lúc thân cử động, bốn loại binh như đám mây từ không trung và hiện ra một nghìn con. Nhân dân của cõi Nước bảy báu, tất cả cùng nhìn thấy, không nghĩ tới ý ác, như Mẹ yêu quý con.

Thời nghìn con trai của Vua, đều cầm lấy châu báu, ở trước điện chính, xây đài bảy báu. Có ba mươi tầng, cao hai mươi sáu cây số, nghìn đầu nghìn bánh xe, đi lại Tự do. Có bốn kho báu lớn. Mỗi một kho lớn, đều có bốn trăm triệu kho nhỏ bao quanh. Kho lớn Y bát đa ở Nước Kiền Đà La. Kho lớn Ban trục ca ở Nước Di Đề La. Kho lớn Tân già la ở Nước Tu La Tra. Kho lớn Tương Khư ở Nước Ba La Nại, nơi núi Cổ tiên. Bốn kho lớn này tự nhiên mở ra, hiện rõ Quang sáng lớn, dài rộng chừng hai mươi nghìn cây số. Châu báu la liệt trong kho, đều có bốn trăm triệu kho phụ nhỏ. Có bốn Rồng lớn đều tự giúp bảo vệ bốn kho lớn đó và các kho nhỏ. Tự nhiên hiện ra các hình như hoa Sen, rất nhiều số người, đều cùng tới xem.

Thời đó các loại báu vật không cần người bảo vệ, mọi người thấy và tâm không có tham nương nhờ.

Bỏ ở trên đất coi như là gạch đá cỏ gỗ cục đất. Thời người thấy chúng, tâm sinh chán ghét rời xa. Từng người cùng bảo nhau, mà làm lời nói như thế. Như được Phật nói, trước đây chúng sinh vì vật báu này, cho nên cùng tàn hại lẫn nhau. Lại thêm cả trộm cướp dối trá ngông cuồng. Làm cho kéo dài luân chuyển duyên khổ sinh chết, đọa xuống Địa ngục lớn. Các báu vật lưới võng bày la liệt khắp thành Sí Đầu Mạt, trên đó linh báu trang nghiêm, gió nhẹ thổi lay động. Âm đó hòa nhã như gõ chuông khánh, diễn thuyết Trở về nương theo Phật, Trở về nương theo Pháp, Trở về nương theo Tăng.

Thời trong thành có chủ Bà La Môn lớn, tên là Tu Phạm Ma. Nữ Bà La Môn tên là Phạm Ma Bạt Đề, tâm tính ôn hòa trẻ đẹp. Di Lặc thác sinh vì làm Cha mẹ. Tuy ở trong bào thai giống như đi lại cung điện Trời. Phóng Quang sáng lớn, Phiền não không chướng ngại. Thân màu vàng tía, đầy đủ ba mươi hai tướng của người lớn. Ngồi trên hoa Sen báu. Chúng sinh xem, đủ không có chán. Quang sáng rực sáng không thể thấy tốt hơn. Các Trời người đời chưa từng trông thấy. Lực thân vô lượng. Mỗi một loại lực, đều hơn tất cả lực lớn của Rồng Voi. Quang sáng của lỗ chân lông không thể nghĩ bàn, chiếu sáng vô lượng không có chướng ngại. Ánh mặt Trời, mặt Trăng, Sao đêm, châu nước lửa, đều cùng không hiện ra giống như bụi trần.

Thích Ca Mâu Ni Phật thân cao một trăm linh bảy mét, ngực rộng ba mươi ba mét. Mặt dài mười bảy mét. Mũi cao ngay thẳng đối xứng với khuôn mặt. Thân tướng đầy đủ đoan chính, thành công tướng đẹp không sánh. Mỗi tướng có tám vạn bốn nghìn vẻ đẹp. Dùng tự trang nghiêm, giống như tượng vàng đúc. Trong mỗi một vẻ đẹp phát ra Quang sáng chiếu sáng hai mươi nghìn cây số. Mắt thịt trong suốt thanh bạch phân minh. Quang sáng bao quanh thân thường rộng hai nghìn cây số. Mặt Trời, mặt Trăng, Sao đêm, Châu quý, Ma ni, hàng cây bảy báu, đều cùng sáng tỏ hiện ra trong ánh quang của Phật, các ánh quang khác không có tác dụng. Thân Phật cao rõ như núi vàng mười. Người thấy, tự nhiên thoát ba Đạo ác.

Thời đó Di Lặc quan sát kĩ tội cũ hoạn nạn năm Tham muốn của Thế gian. Chúng sinh nhận lấy khổ, chìm nổi lưu chuyển lâu dài trong sinh chết, rất là xót thương. Tự do nghĩ nhớ đúng, quan sát Khổ Rỗng, Biến đổi như thế, không muốn ở nhà, áp lực bức bách của gia đình giống như ngục tù.

Thời Vua Tương Khư cùng với đại thần nhân dân Đất nước, giữ lấy đài bảy báu, có nghìn trướng báu và nghìn xe báu, nghìn trăm triệu linh báu, nghìn trăm triệu phướn báu, khí cụ báu nghìn cái, bình báu nghìn cái dâng lên Di Lặc. Di Lặc nhận xong ban cho các Bà La Môn. Bà La Môn nhận xong tức thời huỷ bỏ, cùng phân chia ra. Các Bà La Môn xem thấy Di Lặc hay làm Bố thí lớn sinh tâm rất đặc biệt. Di Lặc Bồ Tát thấy đài báu đó giây phút Biến đổi. Biết Pháp Có làm, đều cùng mất dần. Tu hành tưởng nhớ Biến đổi. Bài kệ ca ngợi Biến đổi Cam lộ sạch mát của Phật Quá khứ.

Các việc Biến đổi. Pháp sinh mất đó. Sinh mất mất xong. Rỗng lặng được vui.

Nói xong bài kệ đó, rời nhà học Đạo. Ngồi trong Đạo tràng Kim cương trang nghiêm dưới cây Bồ Đề Long Hoa. Cành như Rồng báu, tuôn ra trăm hoa báu. Mỗi một cánh hoa, tạo thành bảy sắc báu. Từng sắc quả khác nhau, theo ý thích của chúng sinh. Trên Trời người Thế gian được cây hiếm có, cây cao một nghìn cây số, cành lá bốn bề, phóng Quang sáng lớn.

Khi đó Di Lặc và tám vạn bốn nghìn Bà La Môn đều tới Đạo tràng. Di Lặc tức thời tự cắt tóc Xuất gia học Đạo. Sáng sớm mới Xuất gia, tức thời ngay trước nửa đêm hôm đó, hàng phục bốn Ma (Một là Ma Phiền não : Tham muốn, thù hận, ngu si. kiêu mạn, Tham là gốc. Hai là Ma năm Uẩn : Sắc thân, nhận lấy, tưởng nhớ, thực hành, nhận thức. Ba là Ma chết : Chết là sợ hãi nhất. Bốn là Ma Trời : Dứt bỏ làm Vua Ma chúa tể của Tham muốn). Thành Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Tức thời đọc bài kệ nói rằng :

Xưa nhớ khổ chúng sinh. Muốn rút không tự thoát. Ngày nay chứng Bồ Đề. Bỗng nhiên không trở ngại. Cũng hiểu chúng sinh Rỗng. Tính Tướng vốn như thực. Vĩnh càng không lo khổ. Từ Bi cũng vô duyên. Vốn vì cứu các Ngài. Nước thành và đầu mắt. Vợ con và tay chân. Cho người không có hạn. Xưa nay được Giải thoát. Bình Đẳng Rỗng lặng lớn. Đang vì các Ngài nói. Rộng mở Đạo Giới sạch. Quả báo lớn như thế. Đều từ Thí Giới Tuệ. Sáu loại Nhẫn sinh lớn. Cũng từ Đại Từ Bi. Được công Đức không nhiễm.

Nói xong bài kệ này im lặng mà dừng. Thời  các Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Vua không hiện ra thân của họ, mà rơi xuống hoa Trời cúng dưỡng Phật. Ba nghìn Đại thiên Thế giới sáu loại chấn động khắp. Thân Phật phát ra quang chiếu sáng vô lượng. Người có thể được độ đều được thấy Phật.

Khi đó Ngọc Hoàng Đế Thích, Vua Trời giúp Thế gian. Vua Trời Phạm lớn, vô số Con Trời. Ở vườn Hoa Lâm, đỉnh lễ chân Phật, chắp tay khuyên mời chuyển vầng Pháp. Thời Phật Di Lặc im lặng nhận lời. Bảo Vua Phạm nói rằng : Ta ở lâu dài trong tối nhận khổ não lớn, tu hành sáu Pháp tới Niết Bàn. Từ xưa tới nay đầy đủ biển Pháp. Xây cờ Pháp, gõ trống Pháp, thổi loa Pháp, tưới mưa Pháp. Chính vì thế đang vì các Ngài nói Pháp. Ở nơi ở của Phật chuyển vầng Pháp, tám Đạo Thánh. Các Trời người Thế gian không thể chuyển nó. Nghĩa Pháp bình đẳng, thẳng tới Bình Đẳng Rỗng lặng Không làm. Vì các chúng sinh cắt đứt khổ đêm dài. Pháp này rất sâu khó được, khó nhập vào, khó tin, khó hiểu. Tất cả Thế gian không thể biết nó, không thể thấy nó, tẩy trừ tâm cáu bẩn được vạn hạnh Phạm. Khi nói lời đó, lại có vô số trăm nghìn vạn trăm triệu Con Trời, Con gái Trời của các phương khác. Vua Trời Phạm lớn ngồi cung điện Trời, cầm giữ hương hoa Trời dâng hiến Như Lai. Vây quanh trăm nghìn vòng, phục đất đỉnh lễ chắp tay khuyên mời. Các âm nhạc Trời không đánh tự kêu. Thời các Vua Phạm khác người cùng âm thanh, mà đọc bài kệ nói rằng :

Vô lượng vô số năm. Qua Rỗng không có Phật. Chúng sinh đọa Đạo ác. Mắt Thế gian mất thấy. Ba Đạo ác tăng rộng. Vĩnh đứt đường lên Trời. Ngày nay Phật ra đời. Diệt hết ba Đạo ác. Chúng người Trời tăng lớn. Nguyện mở môn Giới sạch. Giúp các tâm không nhờ. Nhanh chóng được Niết Bàn. Chúng con các Vua Phạm. Nghe Phật sinh Thế gian. Nay được gặp ngay Phật. Vua Pháp lớn Bình Đẳng. Cung điện Phạm phát triển. Quang Thân cũng sáng tỏ. Vì chúng sinh mười phương. Khuyên mời Thầy dẫn lớn. Chỉ nguyện mở Giới sạch. Chuyển vầng Pháp Bình Đẳng.

Nói xong bài kệ này, phục đất đỉnh lễ, lại chắp tay ân cần mời ba lần. Chỉ nguyện Thế Tôn chuyển vầng Pháp rất sâu vi diệu. Vì rút bỏ khổ não Căn tội của chúng sinh, xa rời ba Độc (Tham muốn thù hận ngu si), phá hỏng bốn Đạo ác (Địa ngục, Quỷ đói, Súc sinh, A Tu La), Nghiệp không thiện. Khi đó Thế Tôn vì các Vua Phạm, tức thời mỉm cười phát ra quang năm sắc im lặng nhận lời. Thời các Con Trời, vô số Đại chúng, nghe Phật hứa nhận, vui mừng vô lượng, toàn thân dũng mãnh. Ví như con hiếu mới an táng Cha nhân Từ, đột nhiên sống lại. Đại chúng vui mừng cũng lại như thế. Thời các người Trời vòng quanh Thế Tôn, nhiều vòng qua phía phải, kính yêu không chán, lùi dừng ở một bên.

Khi đó Đại chúng đều làm nghĩ nhớ đó. Tuy lại nghìn trăm triệu năm, vui nhận lấy năm Tham muốn, không thể được miễn thoát khổ của ba Đạo ác. Không thể cứu được vợ con tài sản. Thế gian Biến đổi mệnh khó bảo toàn lâu dài. Chúng ta ngày nay ở trong Pháp Phật, Thanh tịnh tu hạnh Phạm. Làm nghĩ nhớ như thế xong, lại thêm nghĩ nhớ nói rằng : Nếu nhận năm Tham muốn qua vô số Kiếp, như Trời Không có tưởng nhớ, thọ vô lượng trăm triệu năm. Với các cung nữ cùng vui đùa, nhận lấy cảm xúc không thực, nhỏ bằng hạt bụi. Hết Phúc trở về Nhân gian, bị đọa xuống ba Đạo ác, nhận vô lượng khổ. Vui thú không được bao nhiêu, giống như giấc mộng, nói sao hết được. Lúc vào Địa ngục, lửa to nung đốt trăm trăm triệu vạn Kiếp, nhận lấy vô lượng khổ, cầu thoát sao được. Khó rút bỏ tai ách khổ ải đêm dài như thế. Ngày nay gặp Phật, nên siêng Tinh tiến. Khi Vua Tương Khư cao giọng ca lên nói rằng :

Nếu lại sinh vui Trời. Hết Phúc về Nhân gian. Không lâu đọa Địa ngục. Như đám lửa cháy mạnh. Chúng ta cần nhanh chóng. Xuất gia học Đạo Phật.

Nói xong lời đó. Thời Vua Tương Khư và tám vạn bốn nghìn đại thần cung kính vây quanh, cùng với bốn Vua Trời, tiễn Vua Chuyển Luân tới vườn Hoa Lâm dưới cây Long Hoa. Tới nơi Di Lặc Phật xin được Xuất gia, vì Phật đỉnh lễ, giây phút chưa kịp ngước đầu, râu tóc tự nhiên biến mất mặc áo Già sa, liền thành Sa Môn. Thời Di Lặc Phật cùng Vua Tương Khư và tám vạn bốn nghìn các đại thần và Tì Kheo Tăng cung kính vây quanh, tất cả vô số Trời Rồng tám Bộ, nhập vào thành Sí Đầu Mạt qua các cổng thành. Sa Bà Thế giới sáu loại chấn động, đất Diêm Phù Đề hóa thành màu vàng. Đất Kim cương đó ở chính giữa thành lớn Sí Đầu Mạt, có các Phật Quá khứ ngồi ở tòa báu Kim cương, tự nhiên xuất hiện các hàng cây báu. Trời ở trong không trung rơi xuống các hoa báu lớn. Vua Rồng làm các âm nhạc, ở trong miệng nhả ra hoa, lỗ chân lông rơi xuống hoa, dùng cúng dưỡng Phật. Phật ngồi trên tòa này chuyển vầng Pháp đúng. Gọi là Khổ, Chân lý bậc Thánh của Khổ. Gọi là tập hợp, Chân lý bậc Thánh của tập hợp Khổ. Gọi là diệt mất, Chân lý bậc Thánh diệt mất Khổ. Gọi là Đạo, Chân lý bậc Thánh của Đạo diệt mất Khổ. Đều vì diễn thuyết ba mươi bảy Pháp phẩm trợ Bồ Đề. Cũng vì đọc nói mười hai Nhân duyên : Ngu tối tiến tới Hành động, Hành động tiến tới Nhận thức, Nhận thức tiến tới Danh Sắc, Danh Sắc tiến tới sáu Nhập (Sắc thanh hương vị xúc pháp), sáu Nhập tiến tới Xúc cảm, Xúc cảm tiến tới Nhận lấy, Nhận lấy tiến tới Yêu thích, Yêu thích tiến tới Giữ lấy, Giữ lấy tiến tới Có, Có tiến tới Sinh, Sinh tiến tới Già Chết Lo âu Bi thương Khổ ải Phiền não.

Khi đó Thế giới sáu loại chấn động. Như âm thanh này nghe ở Ba nghìn Đại thiên Thế giới. Lại vượt qua số vô lượng vô biên đó. Xuống tới Địa ngục A Tì, lên tới Trời Hữu Đỉnh (đỉnh Trời). Thời bốn Vua Trời, từng các tướng lĩnh, Quỷ Thần cao giọng ca lên nói rằng : Khi Phật xuất hiện giáng Pháp, rơi xuống sương mù. Ngày nay mắt Pháp Thế gian mới mở ra. Giúp cho khắp Thế gian, tất cả tám Bộ có duyên với Phật, đều được nghe hiểu. Trời Đao Lợi, Trời Dạ Ma, Trời Đâu Suất Đà, Trời Hóa Lạc, Trời Tha Hóa Tự Tại, thậm chí Trời Phạm lớn. Từng loại với tự mình được nơi thống lĩnh, cao giọng đọc nói rằng : Nay Phật sinh ở Thế gian, giáng mưa Cam lộ. Nay mắt Thế gian mới mở, người có duyên, đều cùng nghe hiểu. Thời các Vua Rồng tám Bộ, Thần núi, Thần cây, Thần cỏ thuốc, Thần nước, Thần gió, Thần lửa, Thần đất, Thần thành đầm, Thần nhà cửa. Vui mừng dũng mãnh, cao giọng đọc nói rằng :

Lại có tám vạn bốn nghìn Bà La Môn thông minh Trí lớn ở trong Pháp Phật, cùng theo Vua lớn Xuất gia học Đạo. Lại có Trưởng giả tên là Tu Đạt Na. Nay là Trưởng giả Tu Đạt cũng cùng với tám vạn bốn nghìn người, đều cùng Xuất gia. Lại có anh em Lê Sư Đạt Đa, Phú Lan Na, cũng cùng với tám vạn bốn nghìn người, đều cùng Xuất gia. Cũng có hai đại thần, một là Phạm Đàn Mạt Lợi, hai là Tu Man Na. Được Vua yêu mến kính trọng, cũng cùng với tám vạn bốn nghìn người đi theo. Ở trong Pháp Phật Xuất gia học Đạo. Con gái quý của Vua Chuyển Luân tên là Xá Di Bà Đế, nay là Mẹ của Tì Xá Khư, cũng cùng với tám vạn bốn nghìn cung nữ, đều cùng Xuất gia. Thái Tử của Vua Tương Khư là Thiên Kim Sắc, nay là con trai của Trưởng giả Đề Bà Bà Na, cũng cùng với tám vạn bốn nghìn người, đều cùng Xuất gia. Con trai của Bà La Môn là Tu Ma Đề thuộc giòng tộc của Di Lặc Phật, lợi Căn Trí tuệ, nay là con trai của nữ Tì Kheo Uất Đa La Thiện Hiền. Cũng cùng với sáu vạn người, ở trong Pháp Phật, đều cùng Xuất gia. Nghìn con trai của Vua Tương Khư, chỉ giữ lại một người kế tục ngôi vị Vua. Còn chín trăm chín mươi chín người khác cũng cùng với tám vạn bốn nghìn người, ở trong Pháp Phật, đều cùng Xuất gia. Như thế cùng với vô lượng trăm triệu chúng sinh, thấy khổ não của Thế gian, năm Uẩn cháy mạnh, đều trong Pháp của Phật Di Lặc, đều cùng Xuất gia.

Khi đó Phật Di Lặc dùng tâm Đại Từ, bảo các Đại chúng nói rằng : Các Ngài ngày nay do không sinh lên Trời hưởng lạc. Cũng lại do không vì hưởng thú vui ở đời, nay tới nơi ở của Ta, chỉ vì Nhân duyên Niết Bàn thường vui. Các loại người như thế đều ở trong Pháp Phật trồng các Căn thiện. Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trong đời năm Đục ác. Đủ loại trách móc vì Ngài nói Pháp, dạy các Ngài không mệt mỏi, trồng Nhân duyên Tương lai, nay được thấy Ta. Ta nay hút nhận lấy các loại người đó. Hoặc do đọc ca tụng phân biệt quyết định Kinh Tì Ni A Tì Đàm. Vì người diễn thuyết, ca ngợi vị nghĩa, không sinh đố kỵ, dạy người khác, giúp cho họ nhận giữ, tu các công Đức, tới sinh nơi ở của Ta. Hoặc dùng quần áo thực phẩm Bố thí, người giữ Giới Trí tuệ, tu công Đức này, tới sinh nơi ở của Ta. Hoặc dùng âm nhạc, phướn lọng hoa hương đốt đèn, cúng dưỡng Phật, tu công Đức này, tới sinh nơi ở của Ta. Hoặc do thường Bố thí Tăng thức ăn, xây dựng phòng ở của Tăng, bốn Việc cúng dưỡng, giữ tám trai Giới, tu luyện tâm Từ, thực hành các công Đức này, tới sinh nơi ở của Ta. Hoặc vì chúng sinh khổ não, sinh Từ Bi thâm sâu, dùng bản thân nhận thay giúp họ được vui, tu công Đức này, tới sinh nơi ở của Ta. Hoặc do giữ Giới Nhẫn nhịn, tu tâm Từ Thanh tịnh, dùng công Đức này, tới sinh nơi ở của Ta. Hoặc tạo lập hội giảng trai Giới, không quản ngại cúng dưỡng cơm canh Tăng bốn phương, tu công Đức này tới sinh nơi ở của Ta. Hoặc do giữ Giới nghe nhiều, tu hành Thiền Định, Trí tuệ hết Phiền não, dùng công Đức này, tới sinh nơi ở của Ta. Hoặc có xây dựng Tháp cúng dưỡng Xá Lợi, nhớ Thân Pháp Phật (tu tướng Rỗng lặng), dùng công Đức này, tới sinh nơi ở của Ta. Hoặc bị khốn ách, bần cùng cô độc, lệ thuộc người khác. Lại bị gia thêm Pháp luật, sắp đang tử hình. Làm Nghiệp tám nạn, nhận khổ não lớn, cứu giúp họ cùng với giúp cho được Giải thoát, tu công Đức này, tới sinh nơi ở của Ta. Hoặc có ân ái ly biệt, băng đảng đấu tố, rất là khổ não, dùng lực Phương tiện, giúp được hòa hợp, tới sinh nơi ở của Ta. Nói xong lời đó. Đọc tên ca ngợi Thích Ca Mâu Ni Phật. Thiện thay, thiện thay ! Hay ở đời năm Đục ác. Giáo hóa như thế cùng với trăm nghìn vạn trăm triệu các chúng sinh ác, giúp cho tu gốc thiện, tới sinh nơi ở của Ta. Khi Di Lặc Phật ba lần nói ca ngợi Thích Ca Mâu Ni Phật, mà đọc bài kệ nói rằng :

Nhẫn nhịn dũng mãnh Thầy dẫn lớn. Hay ở đời năm Đục không thiện. Giáo hóa thành thục chúng sinh ác. Giúp họ tu hành được thấy Phật. Gánh vác nhận khổ lớn chúng sinh. Nay vào nơi thường vui Không làm. Dạy Đệ tử đó tới chỗ Ta. Ta nay vì Ngài nói bốn Đế. Cũng nói ba mươi bảy Bồ Đề. Trang nghiêm Niết Bàn, mười hai Duyên. Các Ngài nên cần xem Không làm. Vào nơi Rỗng lặng vốn không nơi.

Nói xong bài kệ này, lại càng tăng thêm ca ngợi chúng sinh thời đó, trong đời khổ ác hay làm việc khó. Trong số người tham muốn, thù giận, ngu si, mê hoặc, đoản mệnh, hay tu giữ Giới, làm các công Đức, rất là hiếm có. Chúng sinh thời đó không biết Cha mẹ, Sa Môn, Bà La Môn, không biết Đạo Pháp. Não hại lẫn nhau, cận kề Kiếp đao binh, nương nhờ sâu năm Tham muốn, ghen ghét xiểm nịnh.

Quanh co dối trá, không có tâm xót thương, tăng thêm tàn sát lẫn nhau, ăn thịt uống máu. Không kính Sư trưởng, không biết bạn hiền, không biết báo ân. Sinh đời năm Đục, không biết xấu hổ, ngày đêm sáu thời khắc liên tục làm ác, không biết đủ chán ghét. Toàn làm việc ác tích tụ năm ác nghịch Đạo, nhấm ngậm vây cá, cầu không biết chán. Thân tộc chín đời không hay tương trợ cứu giúp. Thiện thay, thiện thay ! Thích Ca Mâu Ni Phật, dùng Phương tiện lớn, Từ Bi sâu dày, hay ở trong chúng sinh khổ não. Thân đẹp vui cười, Trí tuệ thiện khéo, lời nói thành thực, nói rõ Ta sắp tới độ thoát các Ngài. Thầy dẫn Trí tuệ sáng sắc như thế. Thế gian hiếm có, rất là khó gặp, tâm thâm sâu thương xót chúng sinh trong đời ác. Vì rút bỏ khổ não, giúp cho được yên ổn, nhập vào tính Pháp thâm sâu Không hình tướng. Thích Ca Mâu Ni ba A tăng kì Kiếp, cố vì các Ngài tu hành hạnh khó, hạnh khổ, dùng đầu Bố thí. Cắt tai mũi chân tay thân thể nhận các khổ não. Được tám Đạo đúng Bình đẳng Giải thoát, lợi ích các Ngài.

Thời Di Lặc Phật mở Đạo như thế, an ủi vô lượng các loại chúng sinh. Giúp cho họ vui mừng. Chúng sinh thời đó thân toàn là Pháp, tâm toàn là Pháp, miệng thường nói Pháp. Người Phúc Đức Trí tuệ tràn đầy trong đó. Người Trời cung kính tin nhận khát ngưỡng. Thời Thầy dẫn lớn đều muốn giúp cho họ, nghe được việc khổ não trước kia. Lại làm nghĩ nhớ như thế. Năm Tham muốn không sạch, gốc của các khổ, lại hay trừ bỏ lo buồn sầu hận. Biết các vui khổ đều là Biến đổi, vì nói Sắc Thụ tưởng Hành Thức, Khổ Rỗng, Biến đổi, không có bản thân. Khi nói lời đó chín mươi sáu trăm triệu người, không nhận lấy các Pháp. Hết phiền hiểu ý được A La Hán, ba Sáng, sáu Thông suốt, đủ tám Giải thoát. Ba mươi sáu vạn Con Trời, hai mươi vạn Con gái Trời, phát tâm Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Trong Trời Rồng tám Bộ có người được quả Tu Đà Hoàn. Người trồng Nhân duyên Đạo Bích Chi Phật, người phát tâm Đạo Bình Đẳng, số lượng rất nhiều không thể tính đếm.

Khi đó Phật Di Lặc và chín mươi sáu trăm triệu chúng Tì Kheo lớn. Tất cả tám vạn bốn nghìn đại thần Tì Kheo quyến thuộc của Vua Tương Khư vây quanh. Như Nguyệt Thiên Tử các Tinh tú đi bộ, ra ngoài thành Sí Đầu Mạt. Trở lại vườn Hoa Lâm, giảng đường lầu các trùng điệp. Thời Diêm Phù Đề thành ấp làng mạc, Vua nhỏ Trưởng Giả. Cùng bốn họ tộc, đều cùng tới tập hợp dưới cây Long Hoa trong vườn Hoa Lâm.

Khi đó Thế Tôn nói lại bốn Chân lý Khổ, mười hai Nhân duyên, chín mươi tư trăm triệu người được A La Hán. Các Trời phương khác cùng chúng sinh tám Bộ, sáu mươi tư trăm triệu Hằng hà sa người, phát tâm  Bình Đẳng Chính Đẳng Giác, dừng ở Không chuyển lui. Ở hội lớn lần thứ ba, có chín mươi hai trăm triệu người được A La Hán. Ba mươi tư trăm triệu Trời Rồng tám Bộ phát tâm Phật Bồ Đề, Duyên Giác Bồ Đề, Thanh Văn Bồ Đề. Thời Phật Di Lặc nói Pháp bốn Chân lý bậc Thánh thâm sâu vi diệu, độ thoát người Trời xong. Cùng với các Thanh Văn Đệ tử, Trời Rồng tám Bộ, tất cả Đại chúng vào thành xin cơm. Vô lượng chúng Trời Tịnh Cư cung kính theo Phật, nhập vào thành Sí Đầu Mạt, lúc đang vào thành.

Phật hiện đủ mười tám loại Thần biến, thân dưới phun nước như châu Như ý. Hóa thành đài quang, chiếu sáng Thế giới mười phương, thân trên phun lửa như núi Tu Di, luồng quang màu tía, hiện tràn đầy khoảng không, hóa thành lưu ly. To lại hiện nhỏ như hạt cải, tự nhiên không hiện, bay ra ở mười phương, biến mất ở mười phương. Giúp cho tất cả các người đều như thân Phật, đủ loại Thần lực vô lượng biến hiện. Giúp cho người có Duyên, đều được Giải thoát. Ba mươi hai phụ thần của Ngọc Hoàng Đế Thích và các Trời Cõi Tham muốn, Vua Trời Phạm và các Trời Cõi có hình, tất cả Con Trời Con gái Trời khác. Tháo chuỗi ngọc trên Trời cùng với áo Trời và rắc lên Phật. Thời các áo Trời hóa thành vành hoa, các âm nhạc Trời không đánh tự kêu. Ca ngợi Đức Phật, rơi xuống dầy đặc hoa Trời, Chiên đàn hương hỗn tạp cúng dưỡng với Phật. Phố ngõ đường mương ngang dọc các cờ phướn, đốt các hương quý, khói hương như mây. Khi Thế Tôn vào thành, Vua Trời Phạm lớn, Ngọc Hoàng Đế Thích, chắp tay cung kính dùng bài kệ ca ngợi Phật.

Chính Biến Tri Phúc Đức Trí tuệ. Người Trời Thế gian không bằng được. Thế Tôn mười lực rất hiếm có. Bình Đẳng ruộng Phúc lành tốt nhất. Người cúng dưỡng Phật sinh lên Trời. Tương lai Giải thoát ở Niết Bàn. Phục lễ Bình Đẳng Tinh tiến lớn. Phục lễ tâm Từ Thầy dẫn lớn.

Phương Đông Vua Trời Đề Đầu Lại Tra, phương  Nam Vua Trời Tì Lâu Lặc Xoa, phương Tây Vua Trời Tì Lưu Bác Xoa, Phương Bắc Vua Trời Tì Sa Môn, Vua và quyến thuộc của họ cung kính chắp tay, dùng tâm Thanh tịnh ca ngợi Thế Tôn.

Ba Cõi không ai bằng. Đại Bi tự trang nghiêm. Hiểu rõ nghĩa Không tướng. Không thấy tính chúng sinh. Cùng với các tướng Pháp. Cùng vào tính Rỗng lặng. Dễ ở tất cả không. Tuy làm Tinh tiến lớn. Không làm không dấu chân. Con nay phục đỉnh lễ. Thầy dẫn lớn tâm Từ. Chúng sinh không thấy Phật. Đêm dài nhận sinh chết. Rơi xuống ba Đạo ác. Cùng làm thân người nữ. Ngày nay Phật ra đời.

Rút khổ cho yên vui. Ba Đạo ác đã giảm. Người nữ không lừa dối. Đều đang được dừng nghỉ. Đầy đủ Niết Bàn lớn. Đại Bi cứu thoát khổ. Cho vui nên ra đời. Thời trước làm Bồ Tát. Thường cho mọi niềm vui. Không giết không buồn khác. Tâm Nhịn như đất lớn. Con nay phục đỉnh lễ. Thầy dẫn lớn Nhẫn nhịn. Con nay phục đỉnh lễ. Người nam lớn Từ Bi. Tự thoát khổ sinh chết. Hay rút ách chúng sinh. Như lửa sinh hoa Sen. Thế gian không có sánh.

Khi đó Vua Ma ở đầu đêm cuối đêm, giác ngộ nhân dân người Trời mà nói rằng : Các Ngài đã được thân người, gặp được thời tốt, không nên ngủ suốt đêm tâm bị che phủ. Các Ngài khi ngồi khi đứng nên siêng Tinh tiến, quan sát nghĩ nhớ đúng năm Uẩn, Biến đổi, Khổ Rỗng, không có bản thân. Các Ngài không được phóng túng, không thực hành giáo lý của Phật. Nếu phát ra Nghiệp ác, sau ắt đem tới hối hận. Thời nam nữ khắp nơi, đều cố gắng noi theo câu nói này nói rằng : Các Ngài chớ phóng túng, không thực hành giáo lý của Phật. Nếu phát ra Nghiệp ác, sau ắt có hối hận, nên siêng Phương tiện Tinh tiến cầu Đạo, không mất lợi Pháp, mà theo sinh theo chết. Thầy lớn rút bỏ khổ não như thế, rất là khó gặp, kiên cố Tinh tiến đang được Niết Bàn thường vui.

Khi đó Thế Tôn tiếp tục xin cơm. Cùng với các Tì Kheo trở về nơi ở của mình, nhập sâu vào Thiền định. Bảy ngày bảy đêm lặng yên không động. Đệ tử của Di Lặc Phật, Sắc thân như Sắc thân trên Trời. Đều cùng đoan chính chán sinh già bệnh chết. Nghe nhiều học rộng, giúp bảo vệ tạng Pháp, thực hành với Thiền định, rời xa các tham muốn, như chim rời vỏ trứng. Khi đó Ngọc Hoàng Đế Thích và các Con Trời Cõi Tham muốn, vui mừng phấn chấn, lại đọc bài kệ nói rằng :

Thế gian về theo Thầy dẫn lớn. Mắt Tuệ sáng sạch thấy mười phương. Lực Trí công Đức hơn các Trời. Chúng sinh danh nghĩa đầy đủ Phúc. Nguyện vì chúng con các chúng sinh. Cùng các Đệ tử tới núi đó. Cúng dưỡng Thầy Thích Ca hết Phiền. Đầu đà Đệ tử lớn bậc nhất. Chúng con muốn được thấy Phật trước. Mặc áo Già sa nghe di chúc. Sám hối trước thân Kiếp năm Đục. Nghiệp ác không thiện được Thanh tịnh.

Khi đó Di Lặc Phật và chúng sinh cương cường thân trước kia ở Sa Bà Thế giới, cùng với các Đệ tử lớn, cùng đi tới núi Kỳ Đô Quật, tới núi hạ xuống xong. Khoan thai leo lên núi Lang Tích, lên tới đỉnh núi, dùng ngón chân cái ấn xuống chân núi. Lúc đó Thế giới mười tám loại chấn động, đã lên tới đỉnh núi. Di Lặc dùng hai tay hướng về bẻ tách núi, như Vua Chuyển Luân mở cửa thành lớn.

Khi đó Vua Phạm giữ lấy dầu thơm trên Trời, tưới lên đỉnh đầu Ma Ha Ca Diệp. Tưới dầu lên thân xong, đánh vào chùy lớn, thổi loa Pháp lớn. Ma Ha Ca Diệp liền từ Định diệt hết thức dậy, tề chỉnh quần áo vai phải áo lệch. Đầu gối phải chạm đất, quỳ lâu chắp tay. Cầm áo Già sa của Thích Ca Mâu Ni Phật, đưa cho Di Lặc mà làm nói như thế. Thầy lớn Thích Ca Mâu Ni Như Lai Bình Đẳng Chính Đẳng Chính Giác, lúc sắp nhập Niết Bàn dùng  áo Pháp này giao phó cho Con, giúp cho dâng lên Thế Tôn. Lúc đó các Đại chúng đều báo cáo Phật nói rằng : Vì sao ngày nay trên đỉnh núi này có người đầu sâu lùn nhỏ xấu xí mặc áo Sa Môn, mà hay lễ bái cung kính Thế Tôn. Thời Phật Di Lặc trách cứ các Đệ tử lớn, không được coi thường người này, mà đọc bài kệ nói rằng :

Khổng tước có sắc đẹp. Chim ưng ăn bồ câu. Lực Voi trắng vô lượng. Con Sư tử tuy nhỏ. Chất thịt bằng đống đất. Thân Rồng lớn vô lượng. Bị chim Kim Sí bắt. Thân người tuy to dài. Béo trắng đoan chính đẹp. Bình bảy báu đầy phân. Ô uế không chịu được. Người đó tuy lùn nhỏ. Trí tuệ như vàng luyện. Thói Phiền hết từ lâu. Khổ sinh chết không còn. Vì giúp Pháp ở đây. Thường làm việc Đầu đà. Cao nhất trong người Trời. Hạnh khổ không sánh bằng. Phúc Đức Trí Mâu Ni. Cử tới nơi của Ta. Các Ngài cần nhất tâm. Chắp tay cung kính lễ.

Nói xong bài kệ đó, bảo các Tì Kheo. Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn ở trong đời năm Đục ác giáo hóa  chúng sinh. Trong một nghìn hai trăm năm mươi Đệ tử Đầu đà bậc nhất. Thân thể sắc vàng, bỏ vợ sắc vàng, Xuất gia học Đạo. Ngày đêm Tinh tiến như cứu lửa cháy đầu, tâm Từ thương xót chúng sinh bần khổ đê tiện. Mong muốn độ Phúc vì Pháp sống ở đời. Ma Ha Ca Diệp đây, người này cũng như thế.  Nói xong lời nói này, tất cả Đại chúng đều vì làm lễ.

Lúc đó Di Lặc cầm lấy áo Già sa của Thích Ca Mâu Ni Phật. Phủ lên tay phải không rải khắp chỉ che lấp hai ngón tay, lại phủ lên tay trái cũng che lấp hai ngón tay. Mọi người kinh ngạc than thở, Phật trước đây bé nhỏ, đều do chúng sinh tham đục kiêu mạn mà đem tới như thế. Bảo Ma Ha Ca Diệp nói rằng : Ngài có thể hiện đủ Thần lực, đều nói toàn bộ Kinh Pháp của Phật Quá khứ.

Khi đó Ma Ha Ca Diệp thân bay lên hư không, hiện ra mười tám biến hóa. Hoặc hiện thân lớn tràn đầy không trung. Lớn lại hiện nhỏ như hạt rau đay, nhỏ lại hiện lớn. Thân trên phun nước, thân dưới phun lửa. Vào đất như trong nước, vào nước như trong đất, ngồi nằm trong không, thân không bị rơi xuống.

Biến mất ở phương Tây xuất hiện ở phương Đông và ngược lại, biến mất ở phương Bắc xuất hiện ở phương Nam và ngược lại. Biến mất ở giữa xuất hiện ở bên cạnh và ngược lại, biến mất ở phía dưới xuất hiện ở phía trên và ngược lại. Ở trong hư không hóa thành động lưu ly. Dựa vào Thần lực Phật dùng tiếng Phạn nói mười hai bộ Kinh của Thích Ca Mâu Ni Phật. Đại chúng nghe xong kỳ lạ chưa từng có, tám mươi trăm triệu người rời xa Phiền não, ở trong các Pháp, chưa nhận lấy các Pháp được A La Hán, vô số người Trời phát tâm Bồ Đề. Vòng quanh Phật ba lượt, từ trên không trung hạ xuống, vì Phật làm lễ Phật, nói Pháp Có làm, đều cùng Biến đổi. Từ biệt Phật mà trở về núi Kỳ Đô Quật, nơi dừng ở của mình. Trên Thân xuất hiện lửa nhập vào Niết Bàn, thu nhặt Xá Lợi của thân, xây dựng Tháp trên đỉnh núi.

Di Lặc Phật khen ngợi nói rằng : Tì Kheo Ca Diệp lớn được Thích Ca Mâu Ni Phật ở trong Đại chúng.

Thường được ngợi khen là người làm việc Đầu đà bậc nhất. Thông tỏ Thiền định Giải thoát Tam  muội (Định đúng, Nhận lấy đúng, Hiểu đúng). Người đó tuy có Thần lực lớn, mà tâm không cao ngạo.

Hay giúp chúng sinh được vui mừng lớn, thường thương xót chúng sinh bần khổ đê tiện. Phật Di Lặc khen ngợi cốt thân của Ca Diệp lớn nói rằng : Thiện thay ! Ca Diệp lớn Đệ tử lớn của Thần Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, ở trong đời ác đó hay tu tâm này. Khi đó thân cốt của Ma Ha Ca Diệp tức thời đọc bài kệ nói rằng :

Đầu đà là tạng báu. Giữ Giới là Cam lộ. Hay làm việc Đầu đà. Ắt tới đất không chết. Giữ Giới sinh lên Trời. Cùng với vui Niết Bàn.

Nói xong bài kệ này giống như nước lưu ly nhập trở lại trong Tháp. Khi đó nơi nói Pháp rộng khoảng một nghìn sáu trăm cây số, dài khoảng hai nghìn cây số. Mọi người ở đó, hoặc ngồi hoặc đứng, hoặc gần hoặc xa. Đều thấy Phật ở ngay trước mặt họ, chỉ vì một người nói Pháp. Phật Di Lặc sống ở đời sáu vạn trăm triệu năm, do xót thương chúng sinh, giúp cho được mắt Pháp. Sau Phật tạ thế các Trời Người đời hỏa thiêu thân Phật. Thời Vua Chuyển Luân thu lấy Xá Lợi. Ở bốn Thiên hạ đều xây dựng tám vạn bốn nghìn Tháp. Pháp đúng ở đời sáu vạn năm. Hình Pháp sáu vạn năm. Các Ngài tùy ý nên siêng Tinh tiến, phát tâm Thanh tịnh, nổi lên các Nghiệp thiện. Được thấy thân Phật Di Lặc đèn sáng Thế gian, ắt không có nghi hoặc vậy.

Phật nói lời xong, Tôn giả Xá Lợi Phất, Tôn giả A Nan. Tức thời từ chỗ ngồi đứng dậy, vì Phật làm lễ, quỳ chắp tay báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Kinh này đang tên là gì ? Kính giữ như thế nào ? Phật bảo A Nan. Ngài cần giữ nhớ hết, vì khắp người Trời phân biệt diễn thuyết, không làm cho cuối cùng cắt đứt Pháp loài người vậy. Tên chính của Pháp này là : Tất cả chúng sinh cắt đứt năm loại nghịch Đạo, Thanh tịnh trừ bỏ Nghiệp chướng, báo chướng, Phiền não chướng, tu luyện tâm Từ với Di Lặc cùng làm, nhận giữ như thế. Cũng tên là : Kinh Tất cả chúng sinh được nghe tên hiệu Phật Di Lặc, ắt miễn thoát đời năm Đục, không đọa xuống Đạo ác, nhận giữ như thế. Cũng tên là : Kinh Phá Nghiệp miệng ác, tâm như hoa Sen, định thấy Phật Di Lặc, nhận giữ như thế. Cũng tên là : Kinh Tâm Từ không sát sinh, không ăn thịt, nhận giữ như thế. Cũng tên là : Kinh Thích Ca Mâu Ni Phật dùng áo làm tin, nhận giữ như thế. Cũng tên là : Kinh Nếu có nghe tên hiệu Phật, quyết định được miễn thoát tám nạn, nhận giữ như thế. Cũng tên là : Kinh Di Lặc thành Phật, nhận giữ như thế.

Phật bảo Xá Lợi Phất. Sau Phật tạ thế, nam Tì Kheo nữ Tì Kheo, nam Phật Tử, nữ Phật Tử, Trời Rồng tám Bộ các Quỷ Thần. Được nghe Kinh này nhận giữ đọc ca tụng lễ bái cúng dưỡng, cung kính Thầy Pháp. Phá tất cả Nghiệp chướng, báo chướng, Phiền não chướng. Được thấy Di Lặc cùng với một nghìn Phật Kiếp Hiền. Ba loại Bồ Đề, theo nguyện thành công. Không nhận thân người nữ, thấy đúng Xuất gia, được Giải thoát lớn.

Nói xong lời đó, thời các Đại chúng nghe được Phật nói, đều rất vui mừng lễ Phật và ra đi.

Phật nói Kinh Di Lặc Thành Phật.