Phật nói Kinh Quan Sát Di Lặc xuống sinh
(Phật thuyết Quan Di Lặc Hạ Sinh Kinh)
Hán dịch: Tây Tấn Nguyệt Thị Tam Tạng Trúc Pháp Hộ
Việt dịch: Phật Tử Bùi Đức Huề dịch năm  2008-2013

 

Phật nói Kinh Quan Sát Di Lặc xuống sinh

Nghe như thế. Thời đó Phật ở tại vườn Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Nước Xá Vệ. Cùng với chúng Tì Kheo lớn năm trăm người đi theo. Lúc đó A Nan vai phải để lộ, đầu gối phải chạm đất, báo cáo Phật nói rằng : Như Lai không có việc huyền diệu nào mà không biết rõ. Quá khứ Hiện tại Tương lai Ba Đời, đều cùng sáng tỏ. Tên họ danh hiệu, Đệ tử Bồ Tát phụ tá của các Phật Quá khứ bao nhiêu, đều cùng biết cả. Một Kiếp trăm Kiếp, hoặc vô số Kiếp, đều cùng quan sát. Lại cũng biết Tên Họ của Quốc vương, đại thần Nhân dân, chắc là hay phân biệt. Như ngày nay, Đất nước Thế giới hiện tại bao nhiêu, cũng lại sáng tỏ. Tương lai còn xa Di Lặc xuất hiện thành Đẳng Chính Giác chân thực. Muốn được nghe Đệ tử biến hóa đó phụ tá theo Phật, cảnh giới đẹp vui, thời cơ được Kinh.

Phật bảo A Nan : Ngài trở về ngồi xuống lắng nghe Ta nói. Di Lặc xuất hiện, Đất nước đẹp vui, Đệ tử bao nhiêu. Tư duy Tuệ Tu Tuệ và giữ lấy, nhớ ở trong tâm. Lúc đó A Nan nghe lời Phật dạy, liền trở lại chỗ ngồi.

Khi đó Thế Tôn bảo A Nan nói rằng : Tương lai còn xa ở Đất nước Thế giới này, đang có một thành tên là Sí Đầu. Từ Đông sang Tây hai trăm bốn mươi cây số, từ Bắc xuống Nam một trăm bốn mươi cây số. Đất đai màu mỡ, Nhân dân đông đúc, phố xá ngăn lắp thành hàng. Khi đó trong thành có Vua Rồng, tên là Thuỷ Quang. Đêm rải mưa thơm, ngày liền dịu mát. Thời đó trong thành Sí Đầu có Quỷ La Sát, tên là Diệp Hoa. Thích làm thuận theo Pháp, không ngược lại dạy đúng. Sau khi mỗi người dân trong giấc ngủ nằm mộng. Trừ bỏ được bẩn ác và không Thanh Tịnh. Thường dùng nước hoa phun lên đất rất là thơm mát. A Nan ! Thời gian đó đất Diêm Phù Đề (Sa Bà). Đông Tây Nam Bắc hai triệu cây số. Sông núi hang động đều tự tiêu diệt. Nước bốn biển lớn chiếm cứ mỗi phương. Thời đó đất Diêm Phù rất là bằng phẳng như tấm gương trong. Cây lương thực mọc dễ dàng trên đất Diêm Phù. Nhân dân đông đúc, nhiều loại châu báu. Làng xóm liền nhau cùng nhau nghe tiếng gà gáy. Khi đó cây có hoa quả xấu, khô kiệt bẩn độc cũng tự tiêu diệt. Cây quả ngon ngọt, mùi hương tuyệt hảo khác, đều sinh trên đất. Thời đó khí hậu thuận hòa bốn mùa. Trong thân người không có một trăm linh tám hoạn nạn. Tham muốn thù giận ngu si mê muội không điều độ niềm nở. Tâm người như nhau đều cùng một ý. Gặp nhau vui vẻ, dễ nói cùng một chí hướng, cùng một lời nói không có khác biệt. Như người Uất Đan Việt đó mà không có khác. Thời đó bên trong đất Diêm Phù, Nhân dân lớn bé đều cùng chí hướng, cũng không có nhiều sự khác biệt. Thời đó loại nam nữ ý muốn đại tiểu tiện, đất liền tự nhiên mở ra. Sau khi xong việc, đất liền lại khép lại.

Thời đó trên đất tự nhiên sinh lúa gạo lốc, không có vỏ cực kỳ thơm ngon, không có hoạn nạn khổ đau. Coi như các loại vàng bạc châu báu, xa cừ mã não trân châu hổ phách, rải trên đất không có người lấy. Khi đó Nhân dân tay cầm lấy vật quý, tự coi là người thời trước. Chính do vật quý đó càng thêm thương hại. Liên hệ tới việc bị giam ở trong Ngục, nhận vô số khổ não. Như thể ngày nay vật quý đó và gạch đá cùng như nhau, không có người coi giữ.

Thời đó xuất hiện Vua Pháp, tên là Tương Khư. Pháp đúng cảm hóa quản lý, thành công bảy báu. Bảy vật báu đó gọi là : Vầng tròn báu, Voi báu, Ngựa báu, Châu báu, Ngọc nữ báu, báu vật giữ quân binh, báu vật coi kho. Cho là bảy báu vật đó trấn giữ bên trong đất Diêm Phù. Không dùng đao gậy tự nhiên tất cả quy phục. A Nan như hiện nay bốn kho châu báu. Nước Kiền Đà Việt, kho báu Y La Bát. Nhiều các châu báu vật kỳ dị. không thể kể đếm. Nước thứ hai Di Thế La, kho lớn Trù La cũng nhiều châu báu. Nước thứ ba Tu Lại Tra Đại, có kho tàng lớn cũng nhiều châu báu. Nước thứ tư Ba La Nại, Tương Khư có kho tàng lớn, nhiều châu báu không thể đọc đếm. Bốn kho tàng lớn này tự nhiên hiện ra. Những người giữ kho báu, đều báo cáo Vua. Chỉ nguyện Vua lớn, dùng vật của kho báu này, ân huệ Bố thí cho người nghèo khổ. Thời đó Vua lớn Tương Khư được kho báu này xong, cũng không có ý cất giữ tiền báu vật, tưởng nhớ không có tiền báu vật.

Thời đó ở đất Diêm Phù trên cây tự nhiên sinh quần áo cực mềm mỏng đẹp, người cầm lấy mặc. Giống như ngày nay, người Uất Đan Việt trên cây tự nhiên sinh quần áo mà không có sai khác. Khi đó Vua có một đại thần, tên là Tu Phạm Ma. Vua đó cùng với một số Vua nhỏ thân thiết quý trọng nhau.

Cùng với tướng mạo đoan chính, không cao, không thấp, không béo, không gầy, không trắng, không đen, không già, không trẻ.

Khi đó Tu Phạm Ma có vợ tên là Phạm Ma Việt, là người đẹp nhất trong số người đẹp, tựa như cung phi của Ngọc Hoàng Đế Thích. Miệng làm ra hương hoa Sen xanh, thân làm ra hương Chiên đàn. Tám mươi tư hình thái lâu đời của các phụ nữ không quay trở lại, cũng không bệnh tật, tưởng nhớ cuồng loạn. Khi đó Di Lặc Bồ Tát ở Trời Đâu Suất, quan sát Cha Mẹ không già không trẻ liền giáng Thần xuống, sinh ra từ sườn phải. Giống như ngày nay, Ta sinh ra từ sườn phải không có sai khác. Di Lặc Bồ Tát cũng lại như thế. Các Trời Đâu Suất, từng người nói rằng. Di Lặc Bồ Tát đã giáng Thần sinh. Lúc đó Tu Phạm Ma liền ban cho Con đặt tên chữ là Di Lặc.

Di Lặc Bồ Tát có ba mươi hai tướng, tám mươi diện mạo đẹp. Thân hình trang nghiêm, thân sắc vàng mười. Thời đó người thọ cực dài, không có các hoạn nạn, đều sống lâu tám vạn bốn nghìn năm. Phụ nữ sau năm trăm tuổi mới đi lấy chồng.

Khi đó Di Lặc còn ở nhà chưa tới thời, liền rời gia đình học Đạo. Thời đó cách thành Sí Đầu không xa có cây Đạo tên là Long Hoa, cao hai mươi cây số, rộng khoảng một cây số. Khi đó Di Lặc Bồ Tát ngồi dưới cây Đạo thành Đạo quả Bình Đẳng. Đang nửa đêm Di Lặc ra khỏi nhà. Liền trong đêm đó thành Đạo Bình Đẳng. Lúc đó Ba nghìn Đại thiên Thế giới sáu loại chấn động. Thần đất từng người truyền nhau nói rằng : Hiện nay Di Lặc đã thành Phật, chuyển tới cung bốn Vua Trời nghe được. Di Lặc đã thành Đạo Phật. Lần lần chuyển nghe suốt khắp Trời Đao Lợi. Trời Diễm Ma, Trời Đâu Suất, Trời Hóa Tự Tại, Trời Tha Hóa Tự Tại, thậm chí Trời Phạm. Di Lặc đã thành Đạo Phật.

Khi đó Vua Ma tên là Đại Tương dùng Pháp cai quản giáo hóa, nghe được âm thanh truyền tên của Như Lai. Vui mừng phấn khởi không thể tự kiềm chế, bảy ngày bảy đêm không ngủ không mơ. Khi đó Vua Ma cùng với vô số người Trời cõi Tham muốn tới nơi ở của Phật Di Lặc, cung kính lễ bái. Di Lặc Thánh Tôn và các người Trời, lần lượt nói luận về Pháp vi diệu. Gọi là luận về : Luận về Bố thí, luận về giữ Giới, luận về sinh lên Trời. Muốn không Thanh tịnh tưởng nhớ sinh ra mong ước được vi diệu. Lúc đó Di Lặc thấy Nhân dân đã phát tâm vui mừng. Pháp thường được các Phật Thế Tôn nói là Khổ, tập hợp Khổ, diệt mất Khổ, Đạo diệt mất Khổ, vì các người Trời rộng phân biệt nghĩa đó. Khi đó trên tòa tám vạn bốn nghìn Con Trời, các Phiền não hết được mắt Pháp Thanh tịnh.

Thời đó Vua Ma Đại Tương bảo các loài, Nhân dân của Cõi đó nói rằng : Các Ngài nhanh Xuất gia. Dĩ nhiên là ngày nay Di Lặc đã độ thoát tới Niết Bàn. Cũng đang độ thoát các Ngài giúp cho tới Niết Bàn. Lúc đó trong thành Sí Đầu có một Trưởng Giả tên là Thiện Tài, nghe lời dạy của Vua Ma. Lại cũng nghe được truyền âm của Phật, gần tám vạn bốn nghìn chúng tới nơi ở của Phật Di Lặc. Phục đỉnh lễ chân ngồi ở một bên. Khi đó Di Lặc lần lượt với luận vi diệu nói Pháp. Gọi là luận về : Luận về Bố thí, luận về giữ Giới, luận về sinh lên Trời. Muốn không Thanh tịnh tưởng nhớ sinh ra mong ước được vi diệu. Lúc đó Di Lặc thấy các Nhân dân tâm mở hiểu ý. Như Pháp thường được các Phật Thế Tôn nói. Khổ, tập hợp Khổ, diệt mất Khổ, Đạo diệt mất Khổ, rộng phân biệt nghĩa cho các Nhân dân. Thời đó trên tòa tám vạn bốn nghìn người, các Phiền não hết, được mắt Pháp Thanh tịnh.

Khi đó Thiện Tài và tám vạn bốn nghìn các người, liền tiến lên báo cáo Phật. Cầu xin Xuất gia, thiện tu hạnh Phạm. Hết cả thành Đạo A La Hán. Thời đó Di Lặc mở hội đầu tiên tám vạn bốn nghìn người được A La Hán. Lúc đó Vua Tương Khư, nghe Di Lặc đã thành Đạo Phật. Liền tới nơi ở của Phật, muốn được nghe Pháp. Thời Phật Di Lặc vì Vua nói Pháp. Bốn Chân lý, mười hai Nhân duyên, Đạo Bồ Tát, nghĩa lý thâm thúy. Khi đó Vua lớn lại ở thời gian khác, lập Thái tử  làm Vua, ban châu báu cho thợ cắt tóc. Lại dùng vật quý hỗn tạp cho các Phạm Chí. Cùng với gần tám vạn bốn nghìn chúng, đi tới nơi ở của Phật, xin làm Sa Môn. Hết cả thành quả Đạo, được A La Hán.

Lúc đó Tu Phạm Ma Trưởng Giả lớn, nghe Di Lặc đã thành Đạo Phật. Cùng với tám vạn bốn nghìn chúng Phạm Chí, đi tới nơi ở của Phật, xin làm Sa Môn, được A La Hán. Chỉ có Tu Phạm Ma người duy nhất cắt đứt ba kết buộc (ý kiến bản thân, ý kiến do nghi hoặc, nương nhờ ý kiến), trừ hết tất cả cảnh khổ. Khi đó Mẹ Phật là Phạm Ma Việt. Lại cùng với tám vạn bốn nghìn chúng cung nữ, đi tới nơi ở của Phật xin làm Sa Môn. Khi đó các cung nữ hết cả đều được A La Hán. Duy chỉ có Phạm Ma Việt, người duy nhất cắt đứt ba kết buộc thành Tu Đà Hoàn.

Thời đó vợ các Sát Lợi nghe tin Di Lặc Như Lai xuất hiện Thế gian, thành Chính Đẳng Giác. Hàng nghìn vạn chúng đi tới nơi ở của Phật, phục đỉnh lễ chân, ngồi sang một bên. Từng người sinh tâm xin làm Sa Môn, Xuất gia học Đạo. Hoặc có người vượt bậc chứng Đạo, hoặc chưa chứng Đạo.

A Nan khi đó nếu không vượt qua lần lượt chứng nghiệm, hết cả người kính Pháp đó. Chán tất cả mọi hoạn nạn của Thế gian, không thể sinh ý tưởng vui vẻ. Thời đó Di Lặc đang nói giáo lý ba Bậc cũng như Ta hiện nay. Trong số Đệ tử Đại Ca Diệp đó, thực hành mười hai việc Phật hàng đầu. Thiện tu hạnh Phạm của các Phật Quá khứ. Người đó đang là trợ thủ của Phật Di Lặc khuyên cảm hóa Nhân dân. Ca Diệp thời đó tới chỗ Như Lai không xa, ngồi xếp bằng Kết già. Ở phía trước thân ngay thẳng, ý đúng nghĩ nhớ liên hệ.

Lúc đó Thế Tôn bảo Ca Diệp nói rằng : Ta năm nay hơn tám mươi tuổi, đương nhiên sức khoẻ suy hao. Tuy nhiên nay Như Lai có bốn Thanh Văn lớn. Chịu nhận đi lại cảm hóa, Trí tuệ vô tận, các Đức đầy đủ. Thế nào là Bốn ? Gọi là : Đại Ca Diệp Tì Kheo, Đồ Bát Thán Tì Kheo, Tân Đầu Lư Tì Kheo, La Vân Tì Kheo. Các Ngài bốn Thanh Văn lớn, mong ước không nhập Niết Bàn. Chờ Pháp của Ta mất hết, đương nhiên sau mới cần nhập Niết Bàn. Đại Ca Diệp cũng không muốn nhập Niết Bàn, mong ước chờ đợi Di Lặc xuất hiện ở Thế gian.

Sở dĩ thế nào ? Các Đệ tử được Di Lặc cảm hóa, hết cả là Đệ tử của Thích Ca Văn Phật. Do Ta cảm hóa để lại được hết Phiền não. Biên giới Nước Ma Kiệt trong thôn Tì Đề. Đại Ca Diệp ở trong núi đó. Mới lại Di Lặc Như Lai cùng với vô số nghìn chúng sinh. Vây quanh trước sau đi tới ở trong núi đó, thoả mãn được ân Phật. Các Quỷ Thần đang ở bên mở cửa, giúp cho thấy động thiền của Ca Diệp. Lúc đó Di Lặc duỗi thẳng tay phải chỉ vào Ca Diệp, bảo các người dân. Đệ tử của Thích Ca Văn Phật thời Quá khứ xa xưa tên là Ca Diệp. Ngày nay còn đang sống hạnh khổ Đầu Đà là tối cao nhất. Khi đó mọi người thấy việc đó xong, khen chưa từng có. Vô số trăm nghìn chúng sinh các Phiền não hết, được mắt Pháp Thanh tịnh. Hoặc lại có chúng sinh thấy thân Ca Diệp xong. Tên này là hội đầu tiên. Chín mươi sáu trăm triệu người, đều được A La Hán. Những người đó đều là Đệ tử của Ta.

Sở dĩ thế nào ? Đều do nhận dạy bảo của Ta và được chuyển tới vậy. Cũng là do bốn Việc, Nhân duyên, Bố thí ân huệ, nhân ái, lợi người cùng lợi. A Nan khi đó, Di Lặc Như Lai đang cầm lấy chiếc áo Già sa Ca Diệp khoác. Khi đó thân thể của Ca Diệp hốt nhiên tản ra những đốm sao sáng. Lúc đó Di Lặc cũng lại dùng đủ loại hương hoa cúng dưỡng Ca Diệp.

Sở dĩ như thế. Các Phật Thế Tôn do có tâm kính với Pháp đúng. Di Lặc cũng do Ta cảm hóa nhận lấy Pháp đúng. Được thành Đạo chân chính Bình Đẳng. A Nan. Nên biết khi mở hội lần hai của Phật Di Lặc. Có chín mươi tư trăm triệu người đều là A La Hán. Lại cũng là Đệ tử gửi tặng của Ta, thực hành bốn Việc cúng dưỡng và được chuyển tới vậy. Hội thứ ba của Di Lặc có chín mươi hai trăm triệu người, đều là A La Hán. Cũng lại là Đệ tử gửi tặng của Ta. Thời đó tên họ của Tì Kheo, đều tên là Đệ tử của Từ Thị. Giống như Ta ngày nay, tên họ của các Thanh Văn, đều gọi Đệ tử của Thích Ca.

Khi đó Phật Di Lặc cùng các Đệ tử nói Pháp. Ngài cùng các Tì Kheo ! Cần suy nghĩ tưởng nhớ Biến đổi. Tưởng nhớ vui có khổ. Tưởng nhớ tính kế bản thân không có bản thân. Tưởng nhớ thực có Rỗng.

Tưởng nhớ Sắc thân biến đổi. Tưởng nhớ xanh xao bầm tím. Tưởng nhớ bụng trướng. Tưởng nhớ ăn không tiêu, Tưởng nhớ mụn nhọt máu mủ. Tưởng nhớ không thể vui của tất cả Thế gian. Sở dĩ như thế.

Tì Kheo cần biết mười loại tưởng nhớ này, đều là Quá khứ Thích Ca Văn Phật vì các Ngài nói. Làm cho tâm hết Phiền não được Giải thoát. Nếu trong chúng này Đệ tử của Thích Ca Văn Phật, thời Quá khứ tu hạnh Phạm, sẽ tới nơi ở của Ta. Hoặc do ở nơi ở của Thích Ca Văn Phật, vâng giữ Pháp này, sẽ tới nơi ở của Ta. Hoặc lại do ở nơi Thích Ca Văn Phật được cúng dưỡng Tam Bảo, sẽ tới nơi ở của Ta. Hoặc do ở nơi ở của Thích Ca Văn Phật, thời gian giây phút tu được gốc thiện, sẽ tới nơi này. Hoặc do ở nơi ở của Thích Ca Văn Phật, thực hành Từ Bi Hỉ Xả, sẽ tới nơi này. Hoặc do ở nơi ở của Thích Ca Văn Phật, nhận giữ năm Giới, Pháp ba tự trở về nương theo, sẽ tới nơi ở của Ta. Hoặc do ở nơi ở của Thích Ca Văn Phật, xây dựng Chùa Tháp Miếu, sẽ tới nơi ở của Ta. Hoặc do ở nơi ở của Thích Ca Văn Phật, tu bổ Chùa cũ, sẽ tới nơi ở của Ta. Hoặc do ở nơi ở của Thích Ca Văn Phật, nhận tám Trai giới, sẽ tới nơi ở của Ta. Hoặc do ở nơi ở của Thích Ca Văn Phật, cúng dưỡng hương hoa, sẽ tới nơi này. Hoặc lại ở nơi đó nghe Pháp Bi tâm rơi lệ, sẽ tới nơi ở của Ta. Hoặc lại do ở nơi ở của Thích Ca Văn Phật, chuyên ý nghe nhận Pháp, sẽ tới nơi ở của Ta. Hoặc lại suốt cuộc đời hay tu hạnh Phạm, sẽ tới nơi ở của Ta. Hoặc lại có ghi chép đọc ca tụng, sẽ tới nơi ở của Ta. Hoặc lại dựa vào việc cúng dưỡng, sẽ tới nơi ở của Ta. Khi đó Di Lặc liền đọc bài kệ này nói rằng :

Nghe Đức tăng ích Giới. Thiền và suy nghĩ Nghiệp. Dễ tu được hạnh Phạm. Mà tới nơi ở của Ta. Khuyên Cho phát tâm vui. Tu hành tâm nguồn gốc. Ý không có nhớ nhiều. Đều tới nơi ở của Ta. Hoặc phát tâm Bình Đẳng. Làm việc nơi các Phật. Tặng cơm cho chúng Thánh. Đều tới nơi ở của Ta. Hoặc tụng Giới Khiết Kinh. Hay luyện vì người nói. Sáng tỏ được gốc Pháp. Nay tới nơi ở của Ta. Giống Thích dễ hay hóa. Cúng dưỡng các Xá Lợi. Theo việc cúng dưỡng Pháp. Nay tới nơi ở của Ta. Nếu có viết chép Kinh. Ca ngợi việc trong sạch. Nếu có cúng dưỡng Kinh. Đều tới nơi ở của Ta. Tăng lụa và các vật. Cúng dưỡng nơi Chùa Đình. Tự nói Nam mô Phật. Đều tới nơi ở của Ta. Cúng dưỡng với Hiện tại. Các Phật thời Quá khứ. Thiền Định và Bình Đẳng. Cũng không có tăng giảm. Vì thế với Pháp Phật. Nhận việc nơi chúng Thánh. Chuyên tâm việc Tam Bảo. Ắt tới nơi Không làm.

A Nan ! Nên biết Di Lặc Như Lai ở trong Chúng đó đang nói bài kệ này. Khi đó trong chúng kia các Trời Nhân dân suy nghĩ mười tưởng nhớ này. Mười một vạn vạn người, các Phiền não hết, được mắt Pháp Thanh tịnh. Di Lặc Như Lai trong nghìn năm, các Tăng không có thiếu sót. Thời đó thường dùng một bài kệ để làm Giới cấm.

Miệng ý không làm ác. Thân cũng không được phạm. Cần bỏ ba việc đó. Nhanh thoát ải sinh chết.

Qua một nghìn năm sau đang có người phạm Giới, bèn lại lập dựng Giới. Di Lặc Như Lai đang thọ tám vạn bốn nghìn tuổi. Sau khi nhập Niết Bàn, Pháp đang để lại tám vạn bốn nghìn năm.

Sở dĩ như thế. Thời đó chúng sinh đều là Căn tốt. Nếu có người nam thiện, người nữ thiện. Muốn được thấy Phật Di Lặc và chúng Thanh Văn ba hội, cùng với thành Sí Đầu. Và thấy Vua Tương Khư, tất cả bốn kho châu báu lớn, muốn ăn cơm gạo lốc do tự nhiên sinh. Muốn mặc áo quần tự nhiên sinh ra, khi chết thân hỏng, sinh lên trên Trời. Người nam thiện người nữ thiện đó, nên siêng Tinh Tiến, không được lười nhác. Cũng nên nhận việc cúng dưỡng các Thầy Pháp. Hòa hợp hương hoa quý, đủ loại cúng dưỡng, không làm cho tan mất.

A Nan nên làm học tập như thế. Khi đó A Nan và các hội lớn, nghe được Phật nói vui vẻ kính thực hành.

Phật nói Kinh Quan sát Di Lặc xuống sinh.